Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

skkn phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động và sức mạnh tập thể trong một số tiết học lý thuyết môn GDQP – AN bằng phương pháp thảo luận nhóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (30.77 MB, 35 trang )

MỤC LỤC
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ.........................................................................................2
1.1. Lý do chọn đề tài....................................................................................2
1.2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài....................................................3
Phần II: NỘI DUNG...........................................................................................5
2.1. Phương pháp thảo luận nhóm.................................................................5
2.1.1. Khái niệm............................................................................................5
2.1.2. Ưu điểm - nhược điểm khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm.....5
2.1.3. Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ thảo luận nhóm..........6
2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn phương pháp thảo luận nhóm....................7
2.2.1. Cơ sở lý luận.......................................................................................7
2.2.2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................9
2.3. Thực trạng dạy và học môn GDQP – AN tại trường THPT Sở tại hiện
nay...................................................................................................................10
2.3.1. Thuận lợi:..........................................................................................10
2.3.2. Khó khăn:..........................................................................................11
2.4. Tổ chức thực hiện các giải pháp............................................................14
2.4.1. Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm..........................................14
2.4.2. Tổ chức nhóm....................................................................................15
2.4.3. Giao nội dung thảo luận cho nhóm...................................................17
2.4.4. Nhóm thảo luận và thuyết trình.........................................................21
2.4.5. Giáo viên tổng kết các ý kiến và đưa nội dung cần đạt được............27
2.5. Kết quả thực hiện đề tài.........................................................................29
Phần III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ................................................................33
3.1. Kết luận....................................................................................................33
3.2. Kiến nghị..................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................35

1



Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục quốc phòng – an ninh cho học sinh, sinh viên là một trong
những nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện.
Qua đó tạo điều kiện cho thế hệ trẻ có điều kiện tu dưỡng phẩm chất đạo đức và
rèn luyện năng lực thực tế để sẵn sàng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Môn Giáo dục quốc phòng – an ninh đã được xác định trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật của nhà nước và gần đây nhất Bộ chính trị đã có chỉ thị số 12CT/TW ngày 03 - 5 - 2007 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Công
tác Giáo dục quốc phịng, an ninh trong tình hình mới, Chính phủ cũng có nghị
định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10 - 7 - 2007 về Giáo dục quốc phòng – an ninh.
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh
trong nhà trường, trường THPT Sở tại đã nghiêm túc thực hiện các văn bản, chỉ
thị trên bắt đầu từ việc xác định đúng đắn vai trị, vị trí của mơn học này trong
nhà trường.
Từ đó có những biện pháp tương ứng, phù hợp. Cần triển khai và tổ chức
thực hiện chương trình Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng và an ninh do Bộ
giáo dục và Đào tạo ban hành từ năm 2007, thực hiện hình thức dạy và học theo
phân phối chương trình thay hình thức dạy học tập trung trong một thời gian
ngắn. Tuy nhiên thực trạng hiện nay, đa số học sinh ngại học môn GDQP – AN,
nhất là phần học lý thuyết, vì các em coi đây là mơn phụ, không phục vụ cho
việc thi tốt nghiệp và Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó, nên các em học sinh
chỉ học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở
thành thực trạng chung hiện nay.
Qua những tiết giảng thực tế tôi nhận thấy môn học này cần được sự quan
tâm đầu tư của các cấp lãnh đạo và chính bản thân người giáo viên cần phải nắm
vững những mục đích yêu cầu của từng bài học, chú trọng thục luyện kỹ giáo án
từ đó có những phương pháp giảng dạy mới phù hợp với đối tượng học sinh.
Trãi qua hơn 10 năm công tác và giảng dạy môn học này, bản thân tơi cũng như
các đồng nghiệp đã có nhiều cố gắng ln tìm cách đổi mới về phương pháp

giảng dạy để cải thiện nhằm nâng cao chất lượng và kết quả học tập cho học
sinh như: Ứng dụng Công nghệ thông tin vào giảng dạy, sử dụng giáo án điện tử,
viết bài thu hoạch cá nhân, thảo luận nhóm….Trong các phương pháp kể trên,
qua một thời gian dài áp dụng tơi nhận thấy rằng phương pháp “Thảo luận
nhóm” khơng chỉ mang lại hiệu quả cao trong học tập, giúp các em có thể ghi
nhớ kiến thức ngay trên lớp mà cịn giúp các em phát huy được tính tự giác, tích
2


cực, chủ động tiếp thu kiến thức, nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng làm việc
cá nhân mà còn phát huy sức mạnh tập thể….đồng thời giảm bớt thời gian để
học bài cũ ở nhà. Từ đó, giúp các em có hứng thú với mơn học, mang lại kết quả
giáo dục cao hơn. Trên cơ sở đó , tơi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Phát huy
tính tự giác, tích cực, chủ động và sức mạnh tập thể trong một số tiết học lý
thuyết môn GDQP – AN bằng phương pháp thảo luận nhóm”.
1.2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài
1.2.1. Mục tiêu của đề tài
Giúp các em phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động tiếp thu kiến
thức, nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng làm việc cá nhân, phát huy sức
mạnh tập thể ….đồng thời giảm bớt thời gian để học bài cũ ở nhà. Từ đó, giúp
các em nâng cao hiệu quả học lý thuyết môn học GDQP - AN, mang lại kết quả
giáo dục cao hơn.
1.2.2. Đề tài có ý nghĩa/giá trị
Thơng qua phương pháp thảo luận nhóm các năng lực được hình thành và
phát triển như năng lực nhận thức, năng lực thực hành, năng lực hợp tác, năng
lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học, năng lực sáng tạo và
năng lực hành vi.
1.2.3. Tính mới của đề tài
Các em trong nhóm tự giải quyết vấn đề, từ đó giúp cho các em có sự tự
tin trong học tập. Vì học sinh học tập theo hình thức hợp tác và qua giao tiếp xã

hội - lớp học, cho nên các em sẽ mạnh dạn hơn, yêu mến bộ môn hơn, ham học
hỏi nhiều hơn và không sợ mắc phải những sai lầm. Các em cịn có được sự
đồn kết tương thân, tương ái giúp đỡ nhau trong học tập theo hướng tích cực.
Giáo viên hạn chế được phương pháp diễn giải thuyết trình, mang tính áp đặt
kiến thức, học sinh là trung tâm giáo viên chỉ là người tổ chức.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trường THPT Sở tại.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
“Phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động và sức mạnh tập thể trong một
số tiết học lý thuyết môn GDQP – AN bằng phương pháp thảo luận nhóm”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu khoa học chung.
3


- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp đối chiếu kết quả so sánh.

4


Phần II: NỘI DUNG
2.1. Phương pháp thảo luận nhóm
2.1.1. Khái niệm
Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học xuất hiện từ những năm 70
của thế kỷ XX, ở trường Đại học Sư phạm của một số nước tiên tiến, bắt đầu từ
môn học “Năng động tập thể” (Group dynanies) - một môn học dạy cho sinh
viên kỹ năng làm việc tập thể. Dần dần, môn học này chuyên rèn luyện kỹ năng

làm việc theo nhóm, từ đó hình thành nên phương pháp thảo luận trong dạy học
ở tất cả các cấp học. Ở Việt Nam, phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong
dạy học từ những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
Theo tác giả Nguyễn Văn Cường “Dạy học nhóm là một hình thức xã hội
của dạy học, trong đó học sinh của lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong
khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hồn thành các nhiệm vụ học tập
trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc, kết quả làm việc của nhóm sau đó
được trình bày và đánh giá trước toàn lớp”. Tác giả Phan Trọng Ngọ cũng cho
rằng: “Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia
thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc và
thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề
đó”.
Thống nhất với các quan điểm trên, Nguyễn Trọng Sửu trong cơng trình
“Dạy học nhóm – phương pháp dạy học tích cực” viết: “Dạy học nhóm là một
hình thức của xã hội học tập, trong đó học sinh của một lớp được chia thành các
nhóm nhỏ trong khoảng thời gian nhất định, mỗi nhóm tự lực hồn thành các
nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc, kết quả làm việc của
nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước lớp”.
Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: Thảo luận nhóm là
một phương pháp dạy học hiện đại, lấy người học làm trung tâm.Với phương
pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một
thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ học
tập trong một khoảng thời gian nhất định dưới sự hướng dẫn, lãnh đạo của giáo
viên.
2.1.2. Ưu điểm - nhược điểm khi sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm
* Ưu điểm:

5



Phương pháp tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm có một số ưu điểm
so với các phương pháp giảng dạy truyền thống.
Việc ứng dụng phương pháp này đã tích cực hóa người học. Qua đó, giúp
họ chủ động tìm tịi, khám phá kiến thức nên tạo được sự thích thú, khơi dậy
niềm đam mê trong việc tìm kiến thức và từ đó học sinh sẽ hiểu biết nhiều hơn.
Thơng qua việc chủ động tìm tịi và khám phá kiến thức mới giúp học sinh
tư duy chủ động thay vì tư duy thụ động lối cũ chỉ nghe thầy giảng, lĩnh hội kiến
thức một chiều.
Trong quá trình làm việc nhóm giúp học sinh rèn luyện tính tự chủ trong
cơng việc (nhóm phân cơng) và biết cách phối hợp với các thành viên khác trong
nhóm (tổng hợp thành cơng việc chung), từ đó giúp học sinh nâng cao kỹ năng
làm việc nhóm, một kỹ năng mềm cần thiết cho cơng việc sau này.
Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng trình bày(kỹ năng thuyết trình) trước
đám đơng thơng qua thuyết trình bài thảo luận của nhóm.
* Nhược điểm của phương pháp:
Mặc dù có nhiều ưu điểm, song phương pháp này cũng có những nhược
điểm.
Vẫn cịn tạo kẽ hở cho một số học sinh lười học, thiếu ý thức tự chủ trong
học tập, chờ hưởng lợi từ thành tích của nhóm.
Việc đánh giá khó có sự cơng bằng tuyệt đối giữa các thành viên trong
nhóm, vì giáo viên khơng thể biết hết mức độ đóng góp của từng học sinh, mặc
dù nhóm đưa ra tỷ trọng điểm mỗi thành viên được hưởng.
2.1.3. Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ thảo luận nhóm
* Nhiệm vụ của giáo viên:
Trước khi tiến hành thảo luận nhóm, giáo viên trước hết cần chuẩn bị vấn
đề thảo luận. Vấn đề phù hợp với phương pháp thảo luận nhóm là vấn đề có tính
chất tranh luận. Một vấn đề có tính tranh luận là vấn đề có nhiều cách lí giải, suy
tưởng, đơi khi có mâu thuẫn. Sự thành cơng của thảo luận nhóm là giáo viên đưa
ra được các vấn đề thú vị, thách thức học sinh trả lời, buộc học sinh cùng nhau

hợp tác để tìm ra câu trả lời. Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm và đọc
tài liệu liên quan đến vấn đề thảo luận, tài liệu bao gồm Sách giáo khoa và các
tài liệu khác sách tham khảo, phim ảnh… Sau cùng, giáo viên tiến hành phân
nhóm. Việc thành lập nhóm (số lượng nhóm và thành viên trong nhóm) dựa trên
số lượng học sinh trong lớp và nội dung bài học. Số lượng thành viên trong
6


nhóm tối ưu là từ 4 đến 7 người. Cách chia nhóm có thể hồn tồn ngẫu nhiên,
hoặc tùy theo tiêu chuẩn của giáo viên.
Khi học sinh thảo luận nhóm, giáo viên di chuyển chung quanh các nhóm,
im lặng quan sát các nhóm làm việc. Khi học sinh gặp khó khăn, bế tắc hay
tranh luận ngoài đề, giáo viên kịp thời can thiệp, hướng dẫn nhóm ra khỏi bế tắc
hoặc quay lại vấn đề đang thảo luận. Hướng dẫn ở đây là đưa ra vài chi tiết liên
quan đến giải pháp, đặt lại câu hỏi cho sáng rõ hơn chứ khơng đưa ra giải pháp.
Nếu nhóm im lặng q lâu do hết ý hay khơng ai có ý kiến, giáo viên tìm hiểu lí
do và đặt câu hỏi cho học sinh trả lời. Trường hợp trong nhóm có thành viên
“ngơi sao” hoặc có thành viên quá nhút nhát, giáo viên khéo léo giải quyết vấn
đề bằng cách cho rằng ý kiến của thành viên nổi trội là đáng ghi nhận nhưng
giáo viên muốn nghe ý kiến của học sinh nhút nhát.
Cuối buổi thảo luận, nhiệm vụ của giáo viên là nhận xét, bổ sung, định
hướng đúng vấn đề, ghi nhận đóng góp của nhóm, cho điểm.
* Nhiệm vụ của học sinh:
Học sinh phải chuẩn bị ý kiến cho vấn đề thảo luận, tham gia thảo luận.
Nếu ý kiến trùng với ý kiến của bạn đã đề cập trước thì học sinh cần phải bổ túc
thêm hay đưa ra một ý khác. Học sinh bảo vệ ý kiến của mình bằng những dẫn
chứng thuyết phục nếu ý kiến của bản thân khác với ý kiến của cả nhóm và phải
chấp nhận ý kiến đúng đắn. Trong khi thảo luận, học sinh cần ghi chép những ý
kiến thảo luận trên vở nháp. Cuối buổi thảo luận, nhóm trưởng có trách nhiệm
trình bày ý kiến của nhóm hoặc cử một thành viên trong nhóm trình bày trước

lớp.
2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn phương pháp thảo luận nhóm
2.2.1. Cơ sở lý luận
Từ lâu các nhà sư phạm tiền bối đã từng tâm đắc: Tri thức của tuổi trẻ là
diện mạo của đất nước trong tương lai.Từ những năm 60 của thế kỷ trước đồng
chí Phạm Văn Đồng đã từng căn dặn thầy giáo phải: “ gõ vào trí thơng minh”
của học sinh, giáo dục là đào tạo học sinh thành những thế hệ thông minh sáng
tạo. Sự thông minh sáng tạo phải xuất phát từ những hiểu biết rộng lớn, nó tạo
cho nền tảng tư duy được vững vàng hơn. Phải hiểu rộng, biết nhiều mới có thể
chuyên sâu, mới “làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học
vấn”. Muốn được như vậy, thì ngay hơm nay, những người thầy giáo phải tích
cực, chủ động vận dụng những thành tựu dạy học tiên tiến của loài người vào
giảng dạy cho học sinh, trong đó sơ đồ tư duy là một cách dạy học mới dựa trên
cơ sở sơ đồ hóa kiến thức mà từ trước đến nay chúng ta vẫn vận dụng để phân
7


tầng kiến thức, hệ thống chuỗi sự kiện hoặc thiết lập biểu bảng ôn tập tổng
kết….
Sự thành công của việc giảng dạy phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp
dạy học được giáo viên lựa chọn. Cùng một nội dung nhưng tùy thuộc vào
phương pháp sử dụng thì sẽ có những kết quả khác nhau. Làm việc theo nhóm là
một trong những phương pháp dạy học được áp dụng trong đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay nhằm phát huy được tính tích cực của người học, dạy học
hướng về người học.
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì u cầu làm việc
theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc sống khơng có ai là
hồn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của
từng người và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu, hơn nữa nó cịn
tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập. Vì vậy chúng ta cần phải

thấy được những ưu điểm của hình thức dạy học theo nhóm để phát huy được
những điểm mạnh của nó.
Thứ nhất, việc giảng dạy theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân,
phù hợp với việc học tập hướng tới người học, khuyến khích sự độc lập tự chủ,
người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó.
Nếu trong phương pháp thuyết trình, người học chỉ có thể trao đổi với nhau
được rất ít thì trong làm việc theo nhóm các thành viên tham gia có cơ hội đưa
ra quan điểm của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt khác nó nâng cao được tính
tương tác giữa các thành viên nhằm tác động tích cực đến người học như: Tăng
cường động cơ học tập, nảy sinh những hứng thú mới, kích thích sự giao tiếp,
chia sẻ tư tưởng và cách giải quyết vấn đề, khích lệ mọi thành viên tham gia học
hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển được các mối quan hệ và quan tâm đến
nhau.
Thứ hai, các thành viên trong nhóm biết được sự phụ thuộc lẫn nhau.
Làm việc theo nhóm là cách học cho phép tất cả các thành viên trong
nhóm giải quyết một cam kết làm việc được mô tả rõ ràng, không được giáo
viên dẫn dắt trực tiếp mà chỉ nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ và sự phân cơng cơng
việc trong nhóm, vì vậy mỗi thành viên trong nhóm tự ý thức được phải cố gắng
hết mình khơng phải chỉ vì thành tích cá nhân mà cịn vì thành cơng của cả
nhóm.
Thứ ba, Giảng dạy dựa trên phương pháp làm việc theo nhóm nâng cao
được tính trách nhiệm của từng thành viên trong nhóm.

8


Do mỗi thành viên trong nhóm được phân cơng thực hiện một vai trị nhất
định, một cơng việc và trách nhiệm cụ thể. Các thành viên trong nhóm khơng
thể trốn tránh trách nhiệm hoặc dựa vào công việc của người khác. Trách nhiệm
của mỗi thành viên là yếu tố quyết định việc thành cơng hay thất bại của nhóm.

Hay nói cách khác, việc tổ chức dạy học theo nhóm khơng phải là hình thức
nhằm thay thế học tập cá nhân mà là để giúp cá nhân thực hiện nhiệm vụ học tập
của mình thơng qua trao đổi, thảo luận với các thành viên cùng học.
Cùng với việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì những ưu điểm cơ bản
trên sẽ phần nào nhấn mạnh được vai trò quan trọng của phương pháp giảng dạy
theo nhóm. Vai trị của người dạy là điều khiển hoạt động của người học, còn
người học là trung tâm của hoạt động đó. Kết quả của hoạt động này là những
yêu cầu cụ thể và nhiệm vụ của bài học.
Trên đây là những điểm mạnh cần quan tâm giúp giáo viên tìm ra được
những thơng tin có ích để áp dụng có hiệu quả phương pháp làm việc theo nhóm
trong giảng dạy.
2.2.2. Cơ sở thực tiễn
Để hội nhập xu thế phát triển chung của thế giới, của thời đại, yêu cầu cấp
bách đang đặt ra đối với nền giáo dục nước ta là: Phải không ngừng đổi mới,
hiện đại hóa nội dung và phương pháp giảng dạy. Như vậy, đổi mới phương
pháp giảng dạy là nhiệm vụ thường xuyên đối với mỗi cán bộ giảng dạy. Để
thực hiện tốt điều này, vấn đề đặt ra là làm sao ngày càng có nhiều phương pháp
giảng dạy mới nhằm tích cực hóa người học để tự họ khám phá kiến thức thông
qua sự tổ chức của người thầy. Có như thế thì tránh được cách học thụ động mà
bấy lâu nay đã tồn tại trong bao thế hệ thầy trị của người Việt Nam.
Thay đổi thói quen học tập này khơng phải dễ dàng nhưng chúng ta hồn
tồn có thể làm được. Chính chúng ta, những người thầy phải là người khởi
xướng sự thay đổi đó. Người thầy trong thời đại mới phải ln tìm ra phương
pháp mới, phương pháp giảng dạy tích cực.
Phương pháp giảng dạy tích cực là phương pháp giảng dạy phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp tích cực hướng tới
việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập
trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ khơng phải của người dạy.
Hiện nay, có rất nhiều phương pháp giảng dạy tích cực: Phương pháp
nghiên cứu trường hợp; phương pháp dạy học dựa trên vấn đề; phương pháp

đóng vai; phương pháp học tập theo nhóm… Phương pháp giảng dạy tích cực
thực chất là tích cực hóa học sinh trong giờ học. Kết quả tùy thuộc công tác
9


chuẩn bị của giáo viên, trình độ năng lực của giáo viên, mức độ hợp tác của học
sinh, thói quen học tập của học sinh.
2.3. Thực trạng dạy và học môn GDQP – AN tại trường THPT Sở tại
hiện nay
2.3.1. Thuận lợi
* Đối với giáo viên:
Giáo viên giảng dạy môn GDQP – AN của nhà trường đều đã qua các lớp
đào tạo chính quy. Được sự quan tâm của lãnh đạo Sở giáo dục, hàng năm đều tổ
chức các đợt tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên mơn cho giáo
viên.
Các giáo viên đều đã có những nhận thức tích cực, ln muốn tìm tịi học
hỏi để làm sao giờ dạy của mình đạt hiệu quả cao. Chính vì thế, trong thời gian
vừa qua các giáo viên giảng dạy nói chung và giáo viên giảng dạy bơ mơn
GDQP – AN nói riêng đã áp dụng rất nhiều phương pháp mới vào giảng dạy để
nâng cao hứng thú và kết quả học tập cho học sinh. Cụ thể như: Ứng dụng Công
nghệ thông tin vào giảng dạy, thiết kế bài giảng bằng giáo án điện tử, phương
pháp trình chiếu phim ảnh sống động, kết hợp nhuần nhuyễn và sử dụng hiệu
quả các thiết bị vào giảng dạy, kết hợp phương pháp truyền thống với ứng dụng
CNTT, hướng dẫn cho học sinh “thảo luận nhóm” một cách tích cực mang đã lại
kết quả khả quan.
* Đối với học sinh:
So với trước đây, việc áp dụng phương pháp tổ chức cho học sinh học tập
theo nhóm hiện nay có nhiều thuận lợi.
Tài liệu học tập và tài liệu tham khảo phong phú và đa dạng giúp học sinh
tìm kiếm dễ dàng hơn.

Các kênh thông tin và truyền thông phát triển nhanh chóng, tiện lợi hơn
trong việc thu thập, thậm chí học sinh ngồi tại lớp vẫn có thể thu thập thơng tin
qua Internet một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Điều kiện cơ sở vật chất của trường ngày nay cũng tốt hơn rất nhiều so
với trước đây, giúp học sinh có nhiều phương tiện để học tập, để thuyết trình …
Kỹ năng của học sinh trong việc sử dụng các phương tiện, trình độ cơng
nghệ thơng tin, kỹ năng thuyết trình… của học sinh tốt hơn trước nên thuận lợi
trong việc áp dụng phương pháp này vào giảng dạy.
10


Đa số học sinh đều có thái độ tích cực, tham gia thảo luận nhóm đã mang
lại hiệu quả cao trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
Những học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng
tâm cơ bản thông qua hoạt động thảo luận nhóm, các em đã mạnh dạn hơn khi
tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, hòa đồng và đoàn kết hơn với các bạn
trong lớp, phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao khả năng giao tiếp, khả
năng làm việc của cá nhân…
2.3.2. Khó khăn
* Đối với giáo viên:
Giáo viên chưa gây được hứng thú cho học sinh khi bắt đầu tiết học mới,
chưa có phần dẫn dắt vào bài hoặc chưa gây được sự tập trung chú ý bài học của
học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên.
Giáo viên chỉ nêu ra câu hỏi mà chưa định hướng cho học sinh cách trả lời
câu hỏi như thế nào.
Khi giáo viên đặt câu hỏi thì phần lớn các em học sinh khá giỏi dơ tay trả
lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng yếu kém. Cho nên học sinh yếu kém ít
được chú ý và khơng được tham gia hoạt động. Từ đó, làm cho các em càng
thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán môn học.
* Đối với học sinh:

Hiện nay có nhiều thuận lợi so với trước kia nhưng thực tế vẫn cịn một số
khó khăn nhất định trong việc áp dụng phương pháp tổ chức cho học sinh học
tập theo nhóm.
Mặt bằng về điều kiện và kỹ năng của học sinh khơng đồng đều. Nhiều
học sinh cịn thiếu thốn nhiều thứ, khơng có phương tiện để truy cập, thu thập
kiến thức. Hơn nữa, nhiều em cũng chưa thành thạo trong một số kỹ năng liên
quan đến phương pháp này nên việc học của các em gặp khó khăn.
Thông tin trên các phương tiện truyền thông được đăng tải từ nhiều nguồn
khác nhau nên có mức độ chính xác và tin cậy khác nhau làm cho người học khó
phân biệt sự chính xác của kiến thức thu thập được….
Học sinh cịn lười và chưa có sự say mê đối với môn học, một số bộ phận
học sinh không học bài cũ và đọc bài mới trước khi đến lớp, trên lớp học thì
thiếu tập trung khơng chú ý, khơng có tinh thần phát biểu xây dựng bài.
Học sinh chỉ có thể trả lời những câu hỏi dễ, đơn giản qua việc nhìn và
đọc trong sách giáo khoa chưa có sự độc lập về tư duy. Đối với những câu hỏi
11


mang tính suy luận, giải thích, phân tích… thì học sinh trả lời chung chung chưa
sát với nội dung yêu cầu của câu hỏi.
Với những ưu điểm, nhược điểm, thuận lợi cũng như những khó khăn cịn
tồn tại, việc áp dụng phương pháp tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm địi
hỏi người thầy phải nỗ lực nhiều hơn để không ngừng nâng cao chất lượng giảng
dạy nhằm giúp các em học sinh học tập tốt hơn. Mặt khác, góp phần đưa nền
giáo dục đại học ở Việt Nam phát triển, hội nhập cùng các nước trong khu vực
và thế giới.
* Điều tra cụ thể:
Bản thân đảm nhận dạy môn học GDQP – AN cho học sinh cả 3 khối lớp
10,11,12. Qua q trình cơng tác đến nay đã hơn 10 năm tôi đã không ngừng học
tập nâng cao trình độ chun mơn, tìm ra các phương pháp mới để giúp các em

học tốt hơn và rút ra kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy. Việc điều tra thông qua các
câu hỏi khảo sát nhận thức; câu hỏi kiểm tra 15 phút và 45 phút. Kết quả điều
tra như sau:
Điều tra hứng thú học tập của các em đối với
môn GDQP – AN trước khi thực nghiệm
Rất thích
Khối
lớp

Lớp

Thích

Hơi thích

Bình
thường

Khơng
thích

SL
HS

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

Khối 10D2
10

44

3

6,8

6

13,
6

10


22,
7

20

45,
5

5

11,4

Khối 11A3
11

43

5

11,6

7

16,
3

12

27,
9


13

30,
2

6

14

Khối 12A4
12

44

4

9,1

5

11,4

11

25

17

38,

6

7

15,
9

Tổng

131

12

9,2

18

13,
7

33

25,
2

50

38,
2


18

13,
7

12


Điều tra mức độ học bài cũ và đọc bài trước khi đến lớp
của học sinh trước khi thực nghiệm
Học kĩ
Khối
lớp

Lớp

SL
HS

Học
thuộc

bài

Có học
bài

Có đọc
qua


Khơng
học

bài
SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

Khối 10D2
10

44

4


9,1

9

20,
5

10

22,
7

12

27,
2

9

20,
5

Khối 11A3
11

43

6


14

7

16,
3

12

27,
9

11

25,
5

7

16,
3

Khối 12A4
12

44

3

6,8


5

11,3

9

20,
5

15

34,
1

12

27,
3

Tổng

131

13

9,9

21


16

31

23,
7

38

29

28

21,
4

Điều tra về kết quả học tập trước khi thực nghiệm
Giỏi
Khối
lớp

Khá

Trung bình

Yếu

Lớp

SL

HS

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

Khối 10D2
10

44

6

13,6

20

45,5


16

36,4

2

4,5

Khối 11A3
11

43

8

18,6

19

44,2

15

34,8

1

2,3


13


Khối 12A4
12

44

5

11,4

22

50

17

38,6

0

0

Tổng

131

19


14,5

61

46,6

48

36,6

3

2,3

Nhận xét: Kết quả điều tra 131 học sinh đại diện cho 3 khối lớp 10,11, 12
cho thấy trước khi thực nghiệm nhìn chung đa số học sinh cảm thấy học lý
thuyết mơn học GDQP- AN bình thường, khơng có hứng thú, chỉ là mơn học phụ
và thậm chí nhiều học sinh không quan tâm, mà chỉ học đối phó, chỉ có một số ít
học sinh cảm thấy thích và u thích mơn học. Chính vì vậy số học sinh học bài
cũ và đọc trước bài ở nhà trước khi lên lớp rất hạn chế, dẫn đến kết quả kiểm
tra nhận thức, kiểm tra 15 phút hay kiểm tra 45 phút đạt kết quả không cao.Tỷ
lệ học sinh đạt loại giỏi rất ít; đa số xếp loại trung bình; thậm chí cịn có học
sinh xếp loại yếu, kém.
2.4. Tổ chức thực hiện các giải pháp
Từ những điều tra trên để đánh giá nhận thức và kết quả học tập của các
em, tôi đã tiến hành một số phương pháp nhằm nâng cao hứng thú và kết quả
học tập như: Ứng dụng Cơng nghệ thơng tin đưa hình ảnh vào bài giảng, phương
pháp trình chiếu, viết bài thu hoạch, thảo luận nhóm … Trong các phương pháp
nêu trên tơi nhận thấy phương pháp “Thảo luận nhóm” mang lại hiệu quả giáo
dục toàn diện hơn so với các phương pháp khác. Với những câu hỏi khó, những

tình huống chưa giải quyết, cá nhân các em có thể đưa ra thảo luận trong nhóm
để thống nhất ý kiến. Thảo luận nhóm là phương pháp thể hiện rõ nhất sự đổi
mới trong phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm. Giúp cho học sinh
mở rộng kiến thức, phát triển được tư duy khoa học, phát triển kĩ năng nói, giao
tiếp tranh luận...
Để áp dụng tốt phương pháp này tôi mạnh dạn xây dựng và thực hiện một
số giải pháp sau.
2.4.1. Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm
Để giúp học sinh làm quen với cách học mới, giúp các em chủ động, tự
tin, dám nêu ra quan điểm của mình chúng ta cần phải trải qua một thời gian để
các em thích ứng.
Với phương pháp tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm có thể áp dụng
trong suốt quá trình học tập hoặc cũng có thể áp dụng một phần trong quá trình
học tập theo từng nội dung học tập, chẳng hạn giải quyết nội dung của từng bài
hay bài tập của từng bài, từng chủ đề.
14


Giáo viên tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm
2.4.2. Tổ chức nhóm
Ngay buổi đầu của mơn học giáo viên nên thông báo cho học sinh biết
cách tổ chức nhóm và nội dung hoạt động học tập của nhóm. Việc tổ chức nhóm
sao cho giáo viên có thể bao quát được nhóm. Số lượng thành viên trong nhóm
vừa đủ để làm việc được và đồng thời phải phát huy được tính tích cực của mỗi
thành viên trong nhóm.
Khi phân chia nhóm để thảo luận. Giáo viên phải phân chia như thế nào
cho hợp lí, chọn cử ai là thủ lĩnh nhóm để nhóm học tập có hiệu quả.
Thơng thường nhóm khoảng từ 4 - 6 học sinh trong đó có 1 nhóm trưởng.
Giáo viên có thể phân nhóm ngẫu nhiên hoặc theo sự sắp xếp của mình. Cũng có
khi để học sinh lựa chọn và tự kết nhóm (do có thể đã có sẵn nhóm làm việc ăn

ý với nhau). Việc phân nhóm có thể có nhiều cách khác nhau nhưng miễn sao
đạt được mục đích học sinh có sự hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong học tập,
tránh tình trạng trong nhóm chỉ có 1 vài người làm việc cịn những người khác
khơng làm gì cả.
15


* Cơ cấu tổ chức nhóm: Một nhóm có hoạt động hiệu quả cần có cơ cấu tổ
chức:
Nhóm trưởng có trách nhiệm tổ chức, điều hành mọi hoạt động của nhóm,
nhóm trưởng có thể do các thành viên trong nhóm bầu hoặc do giáo viên chỉ
định.
Có thể có nhóm phó nếu quy mơ nhóm lớn để thay thế nhóm trưởng khi
nhóm trưởng vắng mặt hoặc hỗ trợ nhóm trưởng trong một số việc.
Cử thư ký để ghi chép các diễn biến cơng việc, thảo luận của nhóm, thư
ký có thể được thay đổi theo từng công việc hoặc cố định từ đầu đến cuối.
Phải quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng vị trí của thành viên trong
nhóm (học sinh trong nhóm tự phân cơng cơng việc).
* Trưởng nhóm phải có năng lực, nhiệt tình và có uy tín: Trưởng nhóm sẽ
góp phần quyết định thành cơng của một nhóm học tập. Trong hoạt động của
một nhóm, trưởng nhóm đóng vai trị quan trọng, là người chịu trách nhiệm
trước thầy cơ, tập thể lớp về hoạt động của nhóm, là người điều hành và tổ chức
cơng việc của nhóm, đảm bảo cho nhóm đi đúng hướng, là người động viên thôi
thúc mọi người học tập (làm việc) và tháo gỡ khó khăn khi cần thiết ... Chính vì
vậy, trưởng nhóm có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng học tập của cả nhóm.
Theo tơi chúng ta nên sử dụng phương pháp sau để chọn ra thủ lĩnh (nhóm
trưởng) đạt yêu cầu: Chúng ta chia lớp học thành 4 nhóm theo 4 tổ của lớp, mỗi
tổ có 3 bàn học, giáo viên đưa ra một câu hỏi về kiến thức môn học hoặc kiến
thức xã hội, yêu cầu mỗi bàn học thảo luận để tìm ra đáp án, giáo viên cho thời
gian đủ để quan sát hoạt động của các em. Từ hoạt động này chúng ta sẽ chọn ra

một em nổi trội trong bàn có khả năng lãnh đạo, thuyết trình. Như thế mỗi bàn
chúng ta sẽ chọn được một em học sinh. Mỗi tổ ta sẽ có 3 học sinh để tiếp tục
lựa chọn nhóm trưởng bằng cách vừa nêu trên. Tiếp tục cho 3 em trong tổ vừa
chọn ngồi lại cùng một bàn và giáo viên đặt câu hỏi để các em trao đổi thảo luận
trả lời đáp án. Trong 3 em này chúng ta sẽ chọn một em được nhóm bầu lên để
thuyết trình nội dung hoặc em nào có tinh thần xung phong để bầu làm nhóm
trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ điều hành, phân cơng nhiệm vụ cho các thành
viên trong nhóm.
Đây là một khâu quan trọng để thay đổi phương pháp trong dạy và học.
Nó cung cấp những kiến thức cơ bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp trong nhóm,
là những viên gạch đầu tiên để thực hiện thành công phương pháp “ thảo luận
nhóm”.
16


Giáo viên tổ chức phân chia lớp thành 4 nhóm học tập – Thảo luận
2.4.3. Giao nội dung thảo luận cho nhóm
Có thể giao cùng một nội dung cơng việc/đề tài chung cho các nhóm hoặc
mỗi nhóm một đề tài khác nhau nhưng mức độ khó khăn tương đương nhau. Đề
tài thảo luận phải thuộc nội dung mơn học, có thể có nhiều hướng khai thác khác
nhau, phải đặt câu hỏi cụ thể rõ ràng, hướng dẫn cụ thể và định hướng cách thức
làm việc. Lựa chọn vấn đề thảo luận phải hấp dẫn, có tính chất kích thích tính
tích cực chủ động làm việc của học sinh, nội dung nên gắn liền với thực tế để
học sinh tìm hiểu và tìm cách giải quyết vấn đề.
Có thể cho các nhóm về nhà chuẩn bị, hoặc cũng có thể thảo luận ngay tại
lớp tùy theo chủ đề và yêu cầu. Nếu thảo luận tại chỗ, thời gian thảo luận phải
phù hợp với nội dung và yêu cầu của vấn đề thảo luận.
Làm cách nào để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có tinh thần
trách nhiệm trong cơng việc, tránh trường hợp ỷ lại vào nhóm.
Để làm tốt điều này, cần có sự phối hợp tốt giữa trưởng nhóm, cán sự lớp

và giáo viên. Đánh giá trực tiếp vào kết quả, ý thức của từng nhóm là điều thực
sự cần trong giai đoạn đầu. Ở đây ta áp dụng chính sách thưởng phạt trong thảo
17


luận. Chúng ta thưởng cho những học sinh tham gia sơi nổi, nhiệt tình, có ý thức
cao trong hoạt động của nhóm và trong q trình học tập bằng cách cộng điểm
ưu tiên. Phạt những em mất trật tự, không tham gia thảo luận, làm việc hoặc nói
chuyện riêng…. bằng cách nhắc nhở, cảnh cáo hoặc trừ điểm….
Ví dụ: Ở lớp 10
Bài 5: Thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai
Phần II. Tác hại của thiên tai và một số biện pháp phòng tránh
Trong tiết học này tơi nêu ra mục đích, u cầu của tiết học và định hướng
cho các em tìm hiểu các loại hình thiên tai, tác hại, nguyên nhân gây ra thiên tai
và đưa ra các biện pháp phòng tránh thiên tai.
Câu hỏi: Các em hãy kể tên một số loại hình thiên tai thường gặp trên thế
giới nói chung và Việt Nan nói riêng, nguyên nhân gây ra thiên tai, tác hại của
thiên tai và một số biện pháp phòng tránh?
Tiến hành hoạt động: Cho mỗi em tự nghiên cứu nội dung trong Sách giáo
khoa kết hợp với hiểu biết của cá nhân yêu cầu các em lập dàn ý. Sau đó chia
lớp thành 4 nhóm yêu cầu các em trao đổi, thảo luận, thống nhất ý kiến và cử
một thành viên trong nhóm đứng lên trình bày lần lượt từng nhóm. Giáo viên
nhận xét, đánh giá kết quả bài làm của từng nhóm(trong các hoạt động này giáo
viên phân chia thời gian cho hợp lí).
Ví dụ: Ở lớp 11
Bài 2: Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh.
Phần II, mục 3: Trách nhiệm của học sinh.
Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy trình bày trách nhiệm của học sinh trong
việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự.
Giáo viên định hướng cho các em về trách nhiệm của bản thân đối với

việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự. Cho các em trao đổi thảo luận và trình bày
kết quả.
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.
Giáo viên nêu câu hỏi: Là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bản thân em có trách nhiệm như thế nào trong xây dựng và quản lí,
bảo vệ biên giới quốc gia. Cho các em thảo luận rồi trình bày.
Ví dụ: Ở lớp 12
Bài 2: “Một số hiểu biết về nền Quốc phịng tồn dân và an ninh nhân
dân”.
18


Giáo viên cho các em thảo luận về những biện pháp chủ yếu để xây dựng
nền Quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân vững mạnh trong giai đoạn hiện nay
và trách nhiệm của học sinh trong xây dựng nền Quốc phịng tồn dân, an ninh
nhân dân.
Đối với bài 3: “Tổ chức Quân đội và Công an nhân dân Việt Nam” –
Chương trình GDQP – AN lớp 12 trước khi giảng bài giáo viên yêu cầu tổ
thuyết trình tìm kiếm các thông tin về các tổ chức của Quân đội và Cơng an (ai
đứng đầu, tên họ gì, nhận chức năm bao nhiêu, được thành lập vào thời gian nào,
nước ta gồm bao nhiêu Quân khu, bao nhiêu Quân đoàn, vị trí của các Qn
khu, Qn đồn…), bên cạnh đó giáo viên yêu cầu học sinh tìm những phù hiệu,
quân hàm cụ thể của một số binh chủng (nếu có thể).
Đối với bài 4: “Nhà trường Quân đội, Công an và tuyển sinh đào tạo” –
Chương trình GDQP – AN lớp 12 trước khi giảng bài giáo viên phân công cho
tổ thuyết trình thiết kế bài học trên phần mềm PowerPoint, tìm kiếm địa chỉ, các
hình ảnh cụ thể của các trường Quân đội và Công an mà trong Sách giáo khoa
đã đề cập đồng thời cũng kiếm thêm tỷ lệ chọi đầu vào của một số trường trong
năm vừa qua cho cả lớp tham khảo.
Đối với bài 5: “ Luật sĩ quan Quân đội và luật Công an nhân dân Việt

Nam” – Chương trình GDQP – AN lớp 12, trước khi giảng bài giáo viên phân
công cho tổ thuyết trình tìm kiếm Luật sĩ quan Quân đội nhân dân và Luật Công
an nhân dân đưa vào nội dung cụ thể của bài thuyết trình, các nội dung trong
Sách giáo khoa tương ứng vào các điều nào trong Luật.
Nhóm trưởng của từng nhóm sau khi nhận đầy đủ những yêu cầu từ giáo
viên sẽ phân chia nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên thực hiện các việc ở nhà
để chuẩn bị cho bài thuyết trình (Ví dụ: Với tổ có 12 thành viên , 4 thành viên sẽ
thực hiện kiếm các thông tin liên quan đến bài học thông qua các phương tiện
thông tin như: Báo, Đài, Ti vi, Internet tập hợp về chuyển cho 02 thành viên
khác có nhiệm vụ tổng hợp thông tin, sau khi thực hiện nhiệm vụ của mình 02
thành viên này sẽ chuyển cho 03 thành viên khác sẽ nhập dữ liệu lên máy vi
tính, 03 thành viên cịn lại sẽ thực hiện thiết kế thành bài giảng hồn chỉnh có
nội dung rõ ràng và phong phú.
Trong q trình thực hiện, nếu có vướng mắc tổ thuyết trình sẽ liên hệ
ngay với giáo viên để giải quyết.

19


Giáo viên giao nội dung thảo luận cho các nhóm
20


2.4.4. Nhóm thảo luận và thuyết trình
Giáo viên cơng bố cách thức thuyết trình bằng phương tiện gì? Người
thuyết trình được chỉ định ngẫu nhiên hay cho nhóm chọn và đề cử (nếu nhóm
đề cử thì mỗi lần thuyết trình sẽ phải thay người khác để mỗi cá nhân đều có cơ
hội thuyết trình). Ngồi ra, có thể chấp nhận cho cả nhóm cùng tham gia hỗ trợ
thuyết trình và trả lời câu hỏi phản biện. Dù thực hiện bằng cách nào nhưng yêu
cầu đặt ra là mỗi thành viên trong nhóm phải hiểu và nắm được nội dung bài

thuyết trình của nhóm mình (có thể u cầu bất kỳ thành viên nào trong nhóm
lên tóm tắt bài thuyết trình trước khi người khác thuyết trình).
Giáo viên chỉ định nhóm nhận xét và phản biện cụ thể hoặc mời ngẫu
nhiên bất kỳ một trong những nhóm khác cịn lại phản biện hoặc cũng có thể
phản biện tự do (cho học sinh xung phong). Nên để cho các nhóm được tự do
phản biện trước, nếu không ai nhận xét và phản biện thì giáo viên mới chỉ định.
Lúc này giáo viên nên đóng vai trị là người quan sát, qua đó ghi nhận đúng sai
và đánh giá các nhóm.
Giáo viên cũng có thể đặt câu hỏi cho nhóm thuyết trình và cũng có thể hỗ
trợ nhóm trả lời câu hỏi của các nhóm khác khi nhóm thuyết trình khơng trả lời
được hoặc đặt thêm câu hỏi gợi mở để nhóm có thể trả lời.
Trong q trình các nhóm thảo luận, giáo viên đi tới từng nhóm, lắng
nghe, gợi ý và thăm dị xem nhóm nào làm việc tích cực, hiệu quả hơn. Trong
điều kiện thời gian có hạn, có thể mời nhóm đó trình bày trước lớp.
Cụ thể:
Khi thực hiện trên lớp, tổ triển khai theo kế hoạch của giáo viên đã đề ra,
giáo viên bố trí cho tổ thuyết trình ngồi tập trung vào hai dãy bàn trên cùng,
cùng hỗ trợ cho nhau để tổ chức thuyết trình, tổ thuyết trình cử người đại diện
đứng ra thuyết trình bài giảng trước lớp (dưới sự giám sát của giáo viên).
Sau khi thuyết trình xong nếu cho học sinh vỗ tay tán thưởng và giáo viên
nhận xét bài thuyết trình thì giờ học sẽ trở nên nhàm chán, sáo rỗng, không
mang lại kết quả toàn diện của bài học và khả năng tiếp thu của các học sinh
trong lớp cũng rất hạn chế, thậm chí có học sinh khơng quan tâm tới bạn mình
đã thuyết trình những gì.
Để khắc phục được vấn đề này, người giáo viên đứng lớp phải khéo léo
khích lệ các em bằng biện pháp cụ thể, đó là: Tổ chức cho các tổ khác nêu các
câu hỏi phản biện và những câu hỏi có liên quan đến bài thuyết trình(Ví dụ:
Người có đạo Thiên chúa giáo có được thi vào các trường Qn đội và Cơng an
khơng? Hình thức đăng kí nguyện vọng vào các trường thuộc khối Quân đội và
21



Công an như thế nào? Lực lượng An ninh khác lực lượng cảnh sát ở chỗ nào?
Điểm giống và khác nhau giữa Học viện và Đại học? ...) mà tổ thuyết trình mới
thực hiện. Giáo viên khích lệ những học sinh đặt câu hỏi cho tổ thuyết trình
bằng những điểm cộng nhất định.
Tổ thuyết trình sẽ hội ý và đưa ra câu trả lời đúng nhất (dưới sự giám sát
của giáo viên).
Sau khi tổ thuyết trình trả lời thắc mắc cho bạn mình xong giáo viên sẽ
nhận xét câu trả lời.
Bên cạnh đó khi tổ thuyết trình khơng trả lời được thắc mắc của các tổ
khác, giáo viên sẽ đứng ra giải đáp các thắc mắc này cho học trò.
Tiếp tục như vậy cho đến khi hết thời gian quy định.
Cuối giờ giáo viên cùng với các tổ khác nhận xét về phần thực hiện của tổ
vừa thuyết trình từ đó đánh giá kết quả.

Các nhóm tiến hành thảo luận nội dung được giao

22


Các nhóm tiến hành thảo luận nội dung được giao
23


Đại diện các nhóm thuyết trình
24


Đại diện các nhóm thuyết trình

25


×