Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.59 MB, 174 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>
ĐAI HỌC QUỐC GIA HA NỘI
<b>KHOA LUẬT</b>
Chu biên: <b>NGUYỄN ĐĂNG DUNG</b>
<i><b>(In lầ n t h ứ 3 )</b></i>
Chủ biên: PGS. TS Nguyễn Đăng Dung
1. PGS. TS Nguyễn Đăng Dung
Các chương: UII.V, VI, VII, VIII, IX, X và XI.
2. TS Bùi Xuân Đức
Các chương IV và XII.
3. T h.s Ngô Huy Cương
Chương II.
<b>• </b> <b>• </b> <b>I mn<í</b>
<b>M lle lục*</b>
L ờ i n ó i đ â u 7
<i><b>Ch ươn ị*</b></i><b> / II AI ỉlli ; \ ỈMI \l> - \1ƠỈ NCÌANỈỈ Ll AI, MỎ ỉ </b> <i><b>iị</b></i>
<b>KIỈOA HOC ỈM I \ p í ỉ VÀ MO I MÓN MỌC</b>
<b>I. Luật H iên pháp là một n g à n h lu ậ t tr o n g h t h ụ n ỗ</b>
p h a Ị) l u ạt c u a mỏi n u ớ e t ư b á n . 9
<b>II. Luật hiên pháp tu’ san là một khoa học pháp lí </b> <b>18</b>
<b>III. Các trường phái khoa học </b> <b>25</b>
<b>IV. Hiên pháp nước n^oài là một món học </b> <b>27</b>
<i><b>C h ư ơ n g ỉ ĩ</b></i> <b> NGUÓN CUA NGÀNH LUẬT HIÊN PHÁP </b> <b>29</b>
<b>I. Han vãn Hiên pháp hoặc tập hộp các văn kiện lịch sứ cỏ</b>
<b>chứa (lựng các nội dung cua H iên pháp </b> <b>30</b>
<b>II. Các dạo luật m ang tín h H iên pháp </b> <b>39</b>
<b>III. Cae giái thích cua tồ án vế H iến pháp </b> <b>41</b>
<b>ÍV. Các tập quán và các tiền ]ệ H iên pháp </b> <b>49</b>
<b>V. Đ iêu ước quốc tê có lien quan tối các v ấ n đê H iến pháp và</b>
<b>cấc án q u y ết của các toà án quốc tê vê n h â n qu yền </b> <b>50</b>
<b>VI. Các học th u y ế t về H iến pháp </b> <b>52</b>
<b>VII. Các loại nguồn khác </b> <b>53</b>
<i><b>C h ư ơ n g I ỉ í</b></i><b> HIRN PHÁP - N G U ồN c ơ BẢN </b><i><b>CÙA</b></i><b> NGÀNH</b>
<b>LUẬT HIÊN PHÁP</b>
<b>I. Sự ra đòi của H iến pháp </b> <b>54</b>
<b>II. Khái niệm Hiến pháp </b> <b>57</b>
<b>III. P h â n loại Hiên pháp </b> <b>59</b>
<b>IV. G iám sát việc thi h à n h H iến pháp và bảo vệ H iến p háp </b> <b>69</b>
<i><b>C h ư ơ n g IV</b></i><b> CHẾ ĐỔ KINH TẾ-XÀ HỘI CUA ( AC MÚC n H W</b>
<b>I. Đặc trung của chê độ kinh tê - xã hội của các nước tư bón</b>
<b>II. Chê đơ kinh tê cua Nhà nước tư bán</b>
<b>III. Có Cấu của xã hội tư bàn</b>
<b>IV. Một sô vấn đê vê chu nghĩa tư bán hiện đại</b>
<i><b>C h ư ơ n g V</b></i><b> CÁC ĐANG PHẢI CHÍNH TRỊ</b>
<b>I. Sự xuất hiện của các đáng phái chính trị</b>
<b>II. Khái niệm vê đán g phái chính trị</b>
<b>III. Vai trò của các đãng phái trong tô chức và hoạt cỉộntí</b>
<b>bộ máy N hà nước tư sán</b>
<b>IV. Phân loại các hệ thông đáng phái tư san</b>
<b>V. Cơ cấu tô chức các chính đáng</b>
<i><b>C h ư ơ n g VI</b></i><b> IIINH THÚC NHÀ NUỚC TUSAN</b>
<b>í. Khái niệm hình thức Nhà nước tư sản</b>
<b>II. Hì nh thức ch ín h thê cua Nhà nước tư sán</b>
<b>IĨI. Sự biên d ạn g của các chính thê hay quy luật của</b>
<b>các chính th ể</b>
<b>IV. Hình thức N h à nước theo cị cấu lãnh thơ</b>
<b>V. Hình thức N h à nước pháp quyên tư sản</b>
<i><b>C h ư ơ n g V II</b></i><b> CHẾ ĐỘ BAU c ử</b>
<b>I. Khái niệm, vị trí và vai trị của báu cử</b>
<b>II. Các quy định pháp luật về bau cứ cua các Nhà nưỏc tư sá n</b>
<b>III. Các loại bầu cứ</b>
<i><b>c 'h ươn ft VI ỉ ỉ</b></i><b> \ ( . ỉ l l \ I! \</b>
<b>I Sự Miat hiộn (‘UỈI Nghị viện tư sân v;ì vị til cùa Xiíhị viện</b>
<b>II Thâm (ỊUYÓn và ch rc nảniĩ rua nghị viện</b>
III ( Í) câu n i í h ị việ n
<b>1\ Trinh tụ hoạt (lộng lập pháp cua HỊíhị viện</b>
<i><b>( 'h ư ơ n g IX</b></i><b> M il Y Í \ I III Ql ò c (il \</b>
<b>ỉ VỊ trí phiìị) lí và vị trí thực* tẽ của nguyên thù quốc gia</b>
<b>II Quyến hạn của nguyén thủ qnơc £Ìa</b>
<b>ỉII. Thu tục lên nỉỊỏi hoàng dê và bau cư tơng thịng</b>
<i><b>C h ư ơ n g X</b></i><b> ( ỉ! INH PIỈL</b>
<b>I VỊ tri pháp ÜÍ và vị trí thực tẻ cua Chính phu</b>
<b>II. Thâm q u yến của Chính phủ</b>
<b>lỉỉ í ’hr đinh tín nhiệm cua Chính phu trước nghị viện và</b>
<b>Mọ lạt (lô Chính phú</b>
<b>JV. Cách thức th à n h lập và </b><i><b>cơ</b></i><b> cấu của Chính phu</b>
<b>V. Người đ ủng đầu Ch í </b>11<b> h ị}hu * Thủ t lí (in g</b>
<i><b>C h ư ơ n g X L</b></i><b> HÊ THốNG TU PHÁP CÁC NUỚC TƯ BÁN</b>
<b>1 Vị trí pháp lí của tồ án</b>
<b>II. Các loại hình tồ án</b>
<b>1(1. Tơ chức tồ án của một sô nước</b>
<i><b>C h ư ơ n g X II</b></i><b> CHÍNH QUYKN ĐỊA PHUONG Ỡ C ÁC NUỔC TU</b>
<b>RÁN</b>
<b>1 Khái niệm và đạc trưng cùa tố chức ch ín h .q u yền địa</b>
<b>phưrtng ỏ các nước tư bản</b>
<b>3. Tố chức </b><i><b>cơ</b></i><b> quan h àn h chính địa phương </b> <b>3 1 0 ) 0</b>
<b>4. Sụ kiêm soát cua chính quyên tr u n g ưdng đối vói </b><i><b>cơ</b></i><b> quan</b>
<b>(‘hình q uvền địa phương </b> <b>.3 1 6 </b> <b>></b>
<b>Phần phụ lục</b>
<b>Hiên pháp hợp c h ủ n g quốc Hoa Kì </b> <b>3188 8</b>
<b>Hiên pháp đệ </b><i><b>ngủ</b></i><b> Cộng hoà của P háp quốc </b> <b>3377 7</b>
<b>Hiến pháp N h ậ t Bản </b> <b>34SS s</b>
<b>Hiến pháp C H L B Đức </b> <b>3755 5</b>
<b>H iến pháp A nh </b> <b>4022 </b>
<i>Luật Nha nước tìưâv ngồi là một triq những bộ môn</i>
<i>dược Khoa luật. - Trưdììg Đại học ToniỊ hợp Ha Nội (nay lờ</i>
<i>Khoa lua/ - Dại học Quốc gia ỉ ỉa Nội) đưa vào chương</i>
<i>trình đao tạo cử nhàn luật. Cho đôn nay bộ môn na y đã</i>
<i>đưa vào giáng dạy được hơn 10 nám. Với sự cô găng cua</i>
<i>các giáng viên vờ cộng tác viên, bộ môn it nhiều đã gãy</i>
<i>đìtỢc những cảm tình và lí thú cho sinh viên.</i>
<i>Tuy rây, việc giáng dạy bộ môn nay củng cịn gập phải</i>
<i>/khơng ít những khó khăn như ré tài liệu tham khảo,</i>
<i>¡những nhận định tong quát vố thê giới trong điếu kiện đầy</i>
<i>thiến động chưa từng thấy hiện nay...</i>
<i>của một sô những mô hình có từ trước của các nước tư ban I </i> <i>I </i>
<i>phát triển. Đẽ tránh sự phức lạp, và dự đón trước sự đỏi ị </i> <i>I </i>
<i>tên ngành Luật Nhà nước</i>, <i>chúng tôi mạnh dạn giới hạn VỜI t</i>
<i>đặt tên cho giáo trinh là: "Giáo trinh Luật hiến pháp cua t </i> <i>I </i>
<i>các nước tư bản</i>
<i>Đây là lần tái bản thứ ba với tư cách là giáo trinh cùai I</i>
<i>Đại học Quốc gia Hà Nội, trong đó vẻ nội dung vù hin hì I</i>
<i>Tuy vậy, giáo trình này chắc sẽ không tránh khỏri i</i>
<i>những thiêu sót. Rất mong được sự góp ý, phê binh củcơ I</i>
<i>bạn đọc.</i>
<i>Hà Nội, tháng 10 năm 2001</i>
<i><b>Các tác g iả</b></i>
<b>I. LU ẬT HIẾN PHÁP LÀ MỘT NGÀNH LUẬT T R O N « HỆ</b>
<b>THỔN(Ỉ p h á p</b> <b>l u ậ t</b> <b>c ứ a</b> <b>m ỗ i</b> <b>n ư ớ c</b> <b>t ư</b> <b>b ả n</b>
Trong quá trình nghiên cứu và học tập pháp luật của
bất cứ quốc gia nào. ngoài việc nghiên cứu pháp luật của
đất nước đó cịn phải nghiên cứu tham khảo pháp luật của
các nước khác. Các quy phạm pháp luật điều chinh hoạt
'độntg của con người, bên cạnh những nét riêng phản ánh
»điều kiện kinh tê - xã hội của mỗi một nước, đều có những
.'yêu tô chung thê hiện hoạt động chung của mọi quốc gia,
Ikhôing phân biệt điều kiện kinh tê - văn hoá, xã hội của
Imỗi nhà nước, mỗi dân tộc.
Vì vậy. <i>ỏ</i> nưóc ta cùng với việc nghiên cứu giảng dạy
lu ậ t Hiến pháp Việt Nam. các trường đại học luật phải
nghiiên cứu luật Hiến pháp của các nhà nước khác. Việc
này có thê được tiến hành song song cùng một lúc với việc
gíiiimg dạy. nghiên cứu luật Hiến pháp Việt Nam. hoặc
c-ũngí có thể tách hiệt, sau khi đã kết thúc xong phẩn
nighiiên cứu luật Hiến pháp Việt Nam. làm thành một
chướng trình tham khảo nâng cao cho các lớp cuối cùngỉí íí
của chương trình đào tạo cử nhân luật.
Khi nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật các niíỏcc e
trên thê giới, sinh viên luật đã ít nhiều làm quen với Hiếm n
pháp của các nước trên thê giỏi, nhưng mổi chi được hiểiiu u
chung dưới góc độ nghiên cứu lịch sử nằm trong tông thêê ê
nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển nhà nước vàà à
pháp luật chung của nhân loại. Bộ môn luật Hiến phápp p
nưốc ngồi vỏi tính cách là bộ môn chuyên sâu nghiên cứiu J
nguồn gốc, đối tượng, sự phát triển của một ngành luật <i>ccơ ơ</i>
bản (đạo luật cơ hán) của các nhà nước.
Cơ sở của việc hình thành các ngành luật là đối tượnịg <i>Ị</i>
và phưdng pháp điều chỉnh của các quy phạm pháp luậtt. •
Đốì tượng điều chỉnh của luật Hiến pháp cũng như đố>i i
tượng điều chỉnh của các đạo luật khác là những mốì quain 1
hệ xã hội, những hoạt động cửa con người. Nhưng khác vớii i
các mối quan hệ khác, luật Hiến pháp tác động đến nhữnịg <i>ĩ</i>
mối quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản nhất của xã hộii. .
Việc nhà nước ban hành pháp luật điêu chỉnh hoạit t
động tố chức quyền lực nhà nước, cũng như việc nhà nướíc '
thơng qua các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt độnigí
khác của xã hội. thuộc thẩm quyền của mỗi nước, thể hịệm I
chủ quyển của nhà nưóc. Vì vậy, khơng thể có một văn bảm 1
nào quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước chung, bắ»t
buộc các nước phải tuân theo, có chăng chỉ là một sự thann
kháo nào (lay như nhữnjí quy luật chun,lĩ tiên hoá của
nhãn lo;)!.
Việc phân chia hộ thông pháp luật thành cáe ngành
luật là (tạc điếm của hộ thống pháp luật cua các nhà nước
Cháu Au lục địa. Còn các nước có hệ thơnịí pháp luật
Àn” lơ-Sắcxơng. thì lại khơng phân chia thành các ngành
lu ậ t1. Nhưng dẫu sao đi chăng nữa, dù chính thức hay
khơng chính thức, các quy phạm pháp luật cùng điều
chinh nhung môi quan hệ cùng loại vẫn dược tập hợp lại
voi nhau thành một cụm các quy phạm giông nhau được
gọi là các ngành luật.
L uật Hiến pháp là một ngành luật hao gồm tổng thê
Cùng với việc nhà nước ngày càng can thiệp sâu vào
(đời sông kinh tế. vãn hoá xã hội, đồng thời với việc cần
th iế t phái hảo vệ quyền lợi của công dân tránh mọi sự lạm
dụng quyên lực của nhà nước, đôi tượng điều chỉnh của
hiến pháp ngày càng được mở rộng, không những chỉ quy
dỉịnh việc tổ chức quyền lực nhà nước mà còn quy định
nihiểu vấn đê khác có liên quan. Ví dụ như vấn đề quyền
V'à nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đặc biệt là hiến pháp các
rnước xã hội chủ nghĩa sau này. đỗi <b>tượng </b>điều chỉnh của
hiión pháp được mỏ rộng ra nhiều lĩnh vực khác ngoài lĩnh
vực tỏ chức quyên lực Nhà nước như cơ sỏ kinh tế, cơ sở
<b>Việc không phân chia thành các ngành luật được giai thích rằng pháp</b>
<b>luật là một hệ thơng hồn chính, gắn bó chặt chè với nhau, không thế</b>
<b>chia tách ra được.</b>
văn hoá. cơ sở xã hội của Nhà nước xã hội chủ n g h ĩa'..
Chính vì vậy, nhiêu nhà khoa học cho ràng các hiên phátp»
xã hội chủ nghĩa không chỉ là hiến pháp của nhà nước nu à I
còn là hiến pháp của xã hội. Nhiều nhà khoa học xã h(ộii
chủ nghĩa trước đáy không những thừa nhận nhận địmhi
trên mà còn khẳng định đây là sự phàt triển cao hòn của»
hiến pháp xã hội chủ nghĩa so với các hiên pháp trước đã\v
của các nhà nước tư ban. Từ đó có nhiều quan điểm vê luậtt
Luật hiến pháp là tống thế các quy phạm pháp luậtt
được nhà nước thừa nhận hoặc ban hành, quy định <i>cơ</i> scớ
chính trị. cơ sơ kinh tế, văn hoá xã hội của nhà nước, hìnhi
thức chính thể, hình thức cơ cấu lãnh thổ của nhà nứơc;,
quy định các cơ quan nhà nước, những nguyên tắc. cácbi
thức thành lập, thẩm quyền và mối quan hệ của các ccơ
quan nhà nước, các quy định vê quyên và nghĩa vụ cơ bám
của công dân2.
Một sô" học giả cho ràng định nghĩa trên có tính chátt
miêu tả. Chính tính miêu tả này không làm cho luật hiếrtt
pháp được các tác giả gọi là một ngành luật. Lí giải nhậm
định trên nhiều nhà luật học cho rằng, việc phân biệt luậtt
hiến pháp là một ngành luật bên cạnh các ngành luậit
khác như dân sự, tơ tụng dân sự, hình sự, tố tụng hìnl+1
sự... là một việc làm vi phạm nguyên tắc phân chia cácC
quy phạm pháp luật thành các ngành luật dựa trên đố>i
tượng điều chỉnh các môi quan hệ xã hội chung nhất irùà
các quy phạm pháp luật tác động (điều chỉnh) đến. Và h(Ợ
kêt luận ràng, khơng thế có một ngành luật nào mà lại tá(C
<b>■ Xem, </b><i><b>Luật Nhò nước tư bán và các nước đang ph at tricn</b></i><b>, NXB Maxcơvai.</b>
<b>1989, tr.8, tiêng Nga.</b>
(ìọnti (tên nhiéu (da (huiti) mõi quan hệ xã hội (lỏn nhu' vạy.
c h o dù là CMC môi <b>l j ua i i </b> hộ xã hội quan trọn.tí nhát làm
<b>r i í ó n u cột </b> 1<b>‘h o m ọ i h o ạ t ( lô n ii c u a x ã h ộ i. </b> l <b>ililí t h u y ỏ t p h ụ c</b>
cua luận (lièm nêu trôn càiiỊí đúọe tăng lên khi gọi luật
hiên pháp là luật nhà nước. Vì mọi ngành luật đều có thê
¿M>i là luật cua nha nước, chi có nhà nước mới có thâm
quvển han hành các ván ban chúa đựng các quy phạm
pháp luật.
Việc phán chia các quy phạm pháp luật trong hệ thống
pháp luật thành các ngành luật cùng chi là một sự phân
chia một cách tương đỏi. không phai là quy định có tính
chat ép buộc, mà chi là một việc phàn tích mổ xé. sáp xếp
co tinh chût khoa học. Điểu này củng dễ dàng cho phép
chúng ta giái thích tại sao ó' nước ta có tỏi 13. 14 ngành
luật, ơ các nước theo hệ thông pháp luật Anglô-Sacxông
lại khơng hể có sự phân chia các quy phạm pháp luật
thành các ngành luật. Việc phân chia các sự kiện, sự vật
xã hội nhiều khi chi dựa trôn một tiêu chí nào đó. không
mây khi phản ánh hêt đặc điếm, củng như hán chất của sự
vật. sự kiện, mà muôn hieu hết cần phái nhìn nhận, phân
tích dưới nhiều tiêu chí (lăng kính) khác nhau.
Như định nghĩa được nêu trên, nếu như chúng ta khái
quát hoá luật hiên pháp là tổng thề các quv phạm pháp
luật điều chính các mơi quan hệ xã hội có liên quan đến
viíV tơ chức quyền lực nhà nước, thì càng dễ nhận thấy
lantí. luật hiên pháp cũng có một đôi tượng điều chinh đặc
hiệt. Đó là mơi quan hệ xả hội có liên quan đến việc tô
chức quyển lực nhà nước.
Còn về sau này, việc mỏ' rộng phạm vi điểu chinh của
luật hiến pháp từ các quan hệ xã hội có liên quan đến việc
tô’(‘hức quyên lực nhà nước (tô chức nhà nước) ra các lĩnh
vực quan hệ xã hội khác, là do nhu cầu Nhà nước rugày
càng thâm nhập vào các lĩnh vực khác của đời sông xã lhội;,
đồng thời cũng là địi hỏi của chính sự tiến bộ nhân hoai.,
nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân. tránh sự lợi chạng
quyền lực nhà nước mà vi phạm đến quyền con ngỊườii
trong xã hội. Những môi quan hệ có liên quan đến kinhi tê ,
văn hoá. xã hội tạo thành cơ sỏ chính trị, cơ sở kinh tế., và
cơ sở văn hoá của việc tố chức quyển lực nhà nước.
Phản đối việc phân biệt hay gọi luật hiến pháp là imột
ngành luật, các nhà khoa học còn cho rằng luật hiến pỉháp
chi là một đạo luật, chứ không thê lả một ngành l u ậ t 3. Ỹ
kiến này phần nào chưa có cơ sở chắc chắn. Bơi vì nằng,
như trên đã nêu, việc phân chia hệ thống pháp luật thtành
các ngành luật chỉ là tương đôi và một khi chúng tai gọi
luật đất đai với một đạo luật hoặc nhiều đạo luật nói về việc
sử dụng đất là trung tâm, xung quanh bố sung cho mó kì
các quy phạm dưới luật là một ngành luật, thì khơng (CĨ gì
là sai khi cho rằng luật hiến pháp với tổng thê các quy
phạm pháp luật xung quanh luật hiến pháp là một ngíành
luật.
Việc phân biệt luật hiến pháp là một ngành luật klhông
những bởi vì chúng có đối tượng điêu chỉnh riêng biệtt mầ
cịn bởi vì luật hiến pháp có phương pháp điều chỉnh riên g
biệt.
Phương pháp điều chỉnh riêng biệt của luật hiến ph áp
được tạo nên từ đặc thù của luật hiến pháp, một loại luật
nền tảng của hệ thông pháp luật. Xuất phát từ nền tảmg CƯ
<i>sở</i> này mà hệ thống pháp luật được xây nên <i>ở</i> mỗi mộtt đất
<b>:1 Xem, </b><i><b>Giáo trình lu ật Nhà nước Việt N am ,</b></i><b> Khoa Luật ĐHTH H;à Nội,</b>
<b>1993. tr.9.</b>
nước. Cho nôn so với các quy phạm pháp luật thuộc các
ngành luật khác, luật hiên pháp dùng rất nhiều các quy
phạm có tinh chất (tịnh nghía.
Nam trong hệ thông <b>c á c </b> ngành luật công pháp nên
luật hiến pháp cùng điều chinh bằng các hiện pháp đặc
thù chung của các ngành luật cơng pháp, đó là những biện
pháp áp đặt. Biện pháp áp đặt cưỡng hức được dùng rất
nhiều trong pháp luật hiên pháp và luật hành chính, hợp
<b>t h à n h </b> hộ thơng cóng pháp của mỗi một nhà nước, <i>sỏ</i> dĩ
chúng (lung hiện pháp này vì chủ thể tham gia vào các môi
quan hệ mà các quy phạm pháp luật trên tác động đến
không cân đối với nhau vê quyên hạn cũng như trách
nhiệm. Nguyên thủ quốc gia khơng có cùng một nhiệm vụ
và trách nhiệm như mọi cơng dân hình thường khác.
Nói tóm lại. luật hiên pháp của mỗi một đất nước là
một ngành luật nằm trong hệ thống pháp luật của mỗi
Trước đây. các quy định về việc tổ chức quyền lực nhà
nước của các chê độ chiếm hữu nô lệ. cũng như của chế độ
phong kiến không được quy định thành văn. Lẽ đương
nhiên lúc bấy giờ hiến pháp chưa thê là một ngành luật.
Các quy định thành văn này chỉ có được trong chê độ trư
hán và chê độ xã hội xã hội chu nghĩa. Việc tổ chức quyền
lực nhà nước được quy định thành văn là một bước tiến bộ
lớn của nền dân chủ. Sự hiện diện của hiên pháp thàmh
văn là một bằng chứng chấm dứt cá một thịi kì lịch sử lâu
dài của chế độ thần quyên, quyền lực nhà nước được xe m
như từ cõi thièn đình. Dùng sự thần bí này. các giai cấp
thông trị giải thích sự thê tập "truyền ngơi" của họ.
Các quy phạm pháp luật điều chinh các môi quan h ệ
xã hội có liên quan đến việc tô chức quyền lực nhà nước
Tiếp theo là những đạo luật mang tính hiến pháp, tức
là những đạo luật tiếp theo hiến pháp, thay hiến pháp cụ
thê hoá việc tố chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước ở trung ương và quyền và nghĩa vụ của công dân. Đó
là các đạo luật về nghị viện, vê chính phủ, vê quyển tự dơ
báo chí của cơng dân, luật bầu cử...
Là một ngành luật độc lập, luật hiến pháp khơng chí
được tạo nên bởi đối tượng và phương pháp điều chỉnh đặ(í
biệt mà cịn được tạo nên bởi nguồn đặc biệt. Nguồn củít
luật hiến pháp là những văn bản pháp luật có hiệu lực
pháp lí cao nhất. Cùng là những đạo luật được <i>cơ</i> quan
nghị viện làm luật ban hành nhưng đạo luật của luật hiến
pháp vẫn có hiệu lực pháp lí cao hơn. Sở dĩ có hiện tượnịĩ
như vậy hởi vì đơi tượng điều chỉnh của Ịuật hiến pháp là
đặc hiệt, bao gồm các môi quan hệ xã hội có tính chất rườnịí
cột ( lio mọi hoạt động xã hội noi chung, cũng như mọi hoạt
độnu rua nhà nưỏc noi riêng. Mọi hoạt động cua xã hội kế
cá hoạt động của các quan chức cao cấp nhất cua nhà nước
(lêu phái xuất phát, đểu phái tuân thủ các quy định của
luật hiến pháp, kế Cíi hoạt động ban hành luật của cơ quan
lạp pháp. Đây cũng là lí do cho việc nhận định rang luật
hiên pháp là cờ sơ cho mọi ngành luật khác. Ví dụ. quy
định mọi công (lán đều có quyền bình đẳng trước pháp luật
là quy định của luật hiến pháp, đồng thời cũng có một
Luật hiến pháp liên quan nhiêu đến luât hành chính
va rất khó phân biệt giữa chúng. Cùng nằm trong hệ
thông công pháp nhưng luật hành chinh và luật hiên pháp
van có sự phân biệt khác nhau tạo nên hai ngành luật độc
lạp. Nêu như luật hiến pháp điều chinh các quan hệ xã hội
có liên quan đến tổ chức công quyển ỏ tầm vĩ mô thì luật
hành chính lại ở tầm vi mô. Hoạt động điều chinh các môi
quan hệ xã hội của luật hành chính là sự tiếp nôi liên tục
của các quy phạm luật hiến pháp. Nếu xem hoạt động của
nhà nước tác động đến hoạt động của công dân là một
chuỗi dài liên tiếp thì dễ nhận thấy rằng các quy phạm mà
luật hiến pháp vê cơ bán điều chỉnh đến phạm vi hoạt
động của các C(< quan nhà nước mà đại diện là các quan
chức cao cấp, còn luật hành chính điều chĩnh tiếp theo
hoạt động của các quan chức nhà nước đến công dân.
Khác với các quy phạm pháp luật của các ngành luật
khác, trong luật hiên pháp quy phạm (quy định) thướng
khơng có cơ cấu ba thành phần: giả định, quy định và chê
tài mà thường chi có phần quy định.
pháp của các nước trên th ế giới được chia thành các chê
định. Mỗi một chê định bao gồm nhiều quy định điều chin h
một loại các mối quan hệ xã hội chung. Dựa trên các chương,
điều được phân định trong hiến pháp, mỗi một chương của
hiến pháp là một chê định pháp luật. Mỗi một chế định là
Tất cả các chê định hợp thành hệ thống ngành lu ật
hiến pháp: chê định vê cơ sở chính trị, kinh tế, văn hoá -
xã hội của nhà nưốe; chê định vê quyên và nghĩa vụ co
bản của công dân; chê định về các đảng phái chính trị; chê
định về bầu cử; chê định nguyên thủ quốc gia: chê định vê
nghị viện - cơ quan lập pháp; chê định vê chính phủ - cơ
quan hành pháp; chế định về toà án - cơ quan tư pháp xét
xử; các chê định về biểu tượng của nhà nước.
II. LUẬT HIẾN PHÁP TƯ SẢN LÀ MỘT KHOA HỌC
PHÁP LÍ
Trước đây, trong xã hội phong kiến và trước nữa của
chế độ chiếm hữu nô lệ, việc tổ chức quyền lực nhà nước
không được quy định bằng các văn bản pháp luật. Mọi
hoạt động tố chức quyền lực nhà nước đều CỈO giai cấp
phong kiến mà người đại diện là nhà nước định đoạt, theo»
các quy định truyền tục không thành văn. Việc nghiên cứu
những quy định bất thành văn ấy gặp rất nhiều khó khăn,
buộc phải bằng phương pháp gián tiếp, kề cả việc nghiên
cứu qua sách vở của đời sau ghi chép lại.
Cùng với việc không tồn tại các quy định thành văn.
không tồn tại một ngành luật của các chê độ trước đây.
vệt' nghiên cứu nó cu nu khơng được nâng thành một
ruành khoa học. Vì vậy, <i>có</i> thẻ nói rằng khoa học pháp lí
cua luật hiến pháp chí có và phát triển (lược sau cách
ir.ạmịĩ tư san trong ché độ tư hán chủ nghĩa và trong chê độ
xa hội chú nghĩa.
Khoa học luật hiến pháp được phát triển tương đôi rực
r< ỎI các nước Tây Au. Những tác phẩm của các nhà luật
hoc M.Prelo, Vedel (Pháp), Ueid. Philip (Anh) được công bô
mật cách rộng rãi không những ỏ Pháp. Anh mà còn được
dịch ra tiếng các nước khác.
'Trong chê độ Sài Gòn trước đây cũng có một sơ" tác giả
liật học biên soạn giáo trình giảng vê luật hiên pháp cho
T>u'óng dại học Luật khoa Sài Gòn và Học viện hành chính
qiơc gia. Dó là giáo trình của Nguyễn Độ - <i>Luật hiến</i>
<i>pháp.</i> Nhà xuất hán Sài Gòn, 1975, quyển 1 và quyển 2;
<i>Liậit hiên pháp và chính trị học</i> của Nguyễn Văn Bông,
I.lục sĩ công pháp, Viện quốc gia hành chính, Sài Gịn,
năm 1967; 1969; 1972; <i>Luật hiến pháp và các thiết chế</i>
<i>vh.nh trị</i> của Lê Đình Chân, Sài Gòn, năm 1967; 1969;
1970); 1974.
Các tác phẩm nêu trên phần lớn không phân biệt luật
lúcn pháp của chê độ Sài Gịn vói luật hiến pháp của các
nhì tư bản nước ngoài. Cùng với việc phân tích hiến pháp,
các t hiết chê Nhà nước của chính quyển Việt Nam Cộng
hoì, các tác giả đều dành những chương riêng nói về việc
Khi phân tích các quy định của hiên pháp, các tác giả
ngườti Pháp cũng như các tác giá Sài Gòn theo trường phái
củ; P h áp thường gắn các quy định của hiến pháp vói hoạt
độrg thực tế của chúng trong xã hội. Ngay bản thân tên
gọi cua các giáo trình nêu trên đã thê hiện sự kết hợp giữa
luật hiên pháp với hoạt động đòi thường các thiết ichê
chính trị. Hoạt động đời thường của các thiết chê chínhi t rị
được nhiều người định nghĩa là khoa học vê chính tirị -
chính trị học.
Ngược lại với quan điểm trên, chính trị học là mộtt bộ
niốn khoa học độc lập với khoa học luật hiến pháp. Đâ'y là
quan điểm của các nhà khoa học Mĩ. Sở dĩ có hiện tưiựng
như vậy là vì <i>ở</i> Mĩ việc xây dựng khoa học chính trị điược
tiếp cận từ giác độ xã hội học. Ngoài việc nghiên cứu các
thiết chê chính trị xã hội, chính trị học ỏ Mĩ còn nghiên
cứu các vấn đê khác không đơn thuần từ các quy phiạm
pháp luật, như tâm lí lãnh đạo. các đảng phái chính trị,
tính cách của nguyên thủ quốc gia, các chính khách...
ở Pháp, chính trị học được tiếp cận dưới giác độ p-háp
luật, cho nên bộ môn nà}' được phát triển gắn liền với Hiiến
pháp. Hiến pháp là luật thực định quy định các thiết ché
chính trị tạo nên mơ hình nhà nước. Cịn chính trị họ»c là
bộ môn nghiên cứu hoạt động thực tê của các thiết chế
chính trị.
Điều này có nghĩa là ỏ hiến pháp, các thiết chế chính
trị xã hội được nhà nước quy định <i>ở</i> dạng tĩnh thơng qt
các quy phạm pháp luật. Cịn <i>ở</i> chính trị học, các thiếít xá
hội được nghiên cứu dưới dạng động, thoát ly các quy (định
cứng nhắc của pháp luật. Nhưng việc nghiên cứu haũ bọ
môn này muôn hay không phải gắn chặt với n h a u Víà bỏ
sung cho nhau. Đây cũng là lí do giải thích quan điểm của
giáo sư Nguyễn Độ, nguyên Trương Khoa Luật, đại học
Luật khoa Sài Gòn (chê độ cũ) khi ông cho rằng không nên
tách rời hai khoa học này, không ai nghiên cứu các quy
định của hiến pháp mà lại tách rời chúng ra khỏi đời ¡sống
thực tế. Việc các tác giả tách chún^ĩ ra đồng thời lại viết
chúng tronịí một Êíiáo trinh chỉ làm cho phúc tạp hố đơi
tiíọing phải nghiên cứu của hộ môn khoa học'. Đây cũng là
việ'C lí giái tại sao tít áo trình cua ỏng khác với các giáo
trình khác có tên gọi phức tạp như của Lê Đình Chân và
Nguyễn Văn Bông.
Cùng với sự phát triển còn non kém của khoa học pháp
lí xã hội chủ nghĩa trước đây nói chung và của miền bắc
xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, khoa học pháp lí vê
tỏ chức-quyền lực nhà nước (tô chức nhà nước) nước ngoài,
nliâit là của các nước trong hệ thống tư bản chủ nghĩa
khô ng được nghiên cứu một cách đầy đú. Việc nghiên cứu
tô chức nhà nước phần nhiều chỉ được dành cho các nước
Iiíun trong hệ thơng xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô.
Hơn nữa, việc nghiên cứu này chi được dùng trong phạm
Hiện nay, với tinh thần đổi mới việc nghiên cứu tố chức
Nhà nưốc các nước tư bản ngày càng được đẩy mạnh,
nhiề u ấn phẩm nói về nhà nước tư bản đã ra đời. Ví dụ
như tổng th u ậ t "Thuyết tam quyền phân lập và bộ máy
Nhà nước tư sản hiện đại" (Hà Nội 1992) của PTS luật học
ỉ)inbi Ngọc Vượng, Chuyên đê vê hiến pháp (phần tô chức
bộ iniáv Nhà nước) của Viện nghiên cứu khoa học pháp lí,
Hộ tư pháp (Hà Nội năm 1992). "Những vấn cỉề cơ bản của
<b>Xt m Nguyền Độ: </b><i><b>L uật hiến ph áp</b></i><b> quyên 1. Nxl) Sài Gòn, 1975, tr.4</b>
hiến pháp các nước trên thê giới" của tập thê các nhà khoa
học Nguyễn Đăng Dung, Bùi Xuân Đức, Đinh Ngọc Vượng,
Phạm Hữu Nghị, do tiến sĩ Đào Trí ú c chủ biên (Nxb Sự
thật, H, 1992). "Bộ máy Nhà nước Pháp, bộ máy Nhà nước
Malaixia" của Trường Hành chính Quốíc gia (Nxb Sự thật,
1992) và nhiều bài tiếu luận khác có tính chất giới thiệu
về việc tố chức nhà nước nước ngồi được cơng bơ' trên các
tạp chí nghiên cứu chuyên ngành, như Nhà nưốc và pháp
luật, Người đại biểu nhân dân, Dân chủ và pháp luật...
Bên cạnh đó cịn có xu hướng khi nghiên cứu tô chức
Sở dĩ luật hiến pháp nước ngoài là ngành khoa học
nằm trong hệ thống các khoa học pháp lí bởi vì nó có đơi
tượng nghiên cứu riêng. Đó là các quy phạm pháp luật
được nhà nưóc ban hành quy định các mối quan hệ xã hội
có liên quan đến việc tố chức quyền lực nhà nưóc.
Ngồi việc nghiên cứu các quy phạm nói trên, ngành
khoa học này còn nghiên cứu các quan điểm tư tưởng nói
vê tố chức nhà nước, tìm ra cách thức vận dụng các tư tương
quan điểm vào việc tố’ chức nhà nưóc của từng nưóc.
Trên cơ sở phân tích các quy phạm pháp luật, cũng
như các quan điểm khoa học, khoa học luật hiến pháp tìm
ra những quy luật vận động phát triển của việc tố chức
nhà nước, môi quan hệ qua lại giữa cơ cấu tổ chức nhà
nước với cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của mỗi nước. Đồng
thời luật hiến pháp phải tìm thấy những đặc điểm đặc thù
cua việc tố chức quyển lực nhà nước, tìm ra lí do, hí quyết
thanh cóng làm cho đất nước phát triển của mơ hình tô
chức nhà nước náy. hay lí do việc khơng thành công đưa
đên chỗ đất nước lâm vào tình trạng kém phát triển, thậm
chí khung hoảng của mó hình tơ chức quyên lực nhà nước
khác.
Khoa học luật hiên pháp các nước ngồi khơng những
chi được tạo nên bởi đối tượng nghiên cứu đặc biệt mà còn
Đỏ là phương pháp nghiên cứu hiện chứng duy vật.
Nghiên cứu tô chức quyền lực nhà nước của các nước ngoài
phái để c húng vào thê động luôn phát triền, không chỉ đơn
thuần nghiên cứu các quy phạm trong các văn bản pháp
luật, tức la phải xem xét chúng được áp dụng trong thực
tế, thấy được những tác dụng tích cực, cùng những tác
dụng tiêu cực của chúng, nhất là phải đặt chúng trong môi
quan hệ với các tô chức thiết chê khác của xã hội.
Phương pháp so sánh là một phương pháp đặc thù của
khoa học luật hiên pháp của nước ngồi. Mn hiểu được
một cách cặn kẽ cụ thê các quy phạm pháp luật vê tố chức
hộ máy nhà nước các nước ngoài, cần thiết phải có sự so
sanh chúng với nhau, tìm ra những điếm chung nhất, trở
'thành những quy luật chung của mọi nhà nước, đồng thịi
Itìm thấv những đặc điểm riêng đặc thù của việc tổ chức
•quyền lực nhà nước phù hợp với điểu kiện cụ thê của từng
mhà nước.
khi nghiên cứu tô chức nhà nước các nước trên thẻ gĩiới.
chúng ta cần phai nghiên cứu một số nước điển h ìn h cớ
tính chất khn mẫu cho các nước khác.
Việc lập khuôn mẫu điển hình trước hết phụ thuộc vào
bản chất của các nhà nước. Nếu là Nhà nước xã hội chủ
nghĩa thì cơ bản được tồ chức và hoạt động theo mô hùnh
của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Xô Viêt trước
đây. Mặc dù ở các Nhà nước tu bản, hình thức tổ chứtc và
Đôi với các nước đang phát triển vừa mới được giải
phóng khỏi ách thống trị của Nhà nước tư bản thì việc <i>tổ</i>
chức quyền lực của các Nhà nước: này ít nhiều đêu <b>Ịphải</b>
mang dấu ấn của các Nhà nước bảo hộ trước đó. Trong thời
kì q độ, khơng ít các Nhà nước này còn sử dụng nhiữnịỉ
văn bản cũ, kê cả các tô chức bộ máy nhà nước CÜ.
<b>III. í Ác </b> 1<b> KIONC; PHAI KHOA HOC</b>
<b>Việc hièn pháp các tư han IHÍỎC ngồi trớ thành một</b>
ntíi'mh khoa hoe pháp lí khơng những chi vì nó có đơi
<b>tiíỢng n^hiẽn cúu va phương pháp nghiên cứu </b> 1<b>’iêng mà</b>
ron () chồ nó có một hộ thông các tri thức khoa học. Hộ
thơnịí tri thức này được tích luỹ qua nhiều thập ký. Tiêu
biêu cho hộ thống này lá các trường phái khoa học.
Trong quá trinh nghiên cứu và phát trien, khoa học tô
¡chức Nhà nước của các nước tư hán dã hình thành nhiều
trường phái hót sức khác nhau.
<i>a. Hoc th u y ế t "Nhà nước th ịn h vượng c h u n g ”.</i> Các
Itác giã của học thuyẻt nay cho rằng: Nhà nước tư sản hiện
«đại khơng thể hiện ý chí của một giai cấp nào đó trong xã
Ihội. mà thô hiện ý chí của cả xã hội và ý chí của mọi công
(dán trong cộng đồng quốc gia. Đê thực hiện chương trình
lphát triển kinh tê của mình. Nhà nước tư sản phải phát
ttriên sỏ hữu Nhà nước, tiến hành chương trình xã hội giúp
(đõ bảo trợ người nghèo, những người thất nghiệp...
Học thuyết này lẽ đương nhiên cũng có những hạt
inhân hợp lí của nó. Bởi vì bên cạnh việc thực hiện chức
măng đàn áp, thế hiện ý chí của giai cấp bóc lột, Nhà nước
ttư sản cịn có chức năng giữ gìn trậ t tự trị an, an ninh
cquốc phòng, nhất là vai trò điều hồ lợi ích giữa các giai
(nấp. Dựa trên học thuyết <i>Nhà nước thịnh ưƯỢng chung,</i>
mhiều tác giả tư sản còn cho rằng Nhà nước phải có chức
măng bảo vệ quyền lợi của thiêu sô trưốc sự áp bức của
đỉám đông.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mac. thì những tư tương của học thuyết <i>Nhà nước thịnh</i>
<i><b>VìƯỢng </b></i> <i>chung</i> đã lị đi bản chất giai cấp của Nhà nước
t hòng trị tư sán.
<i>b. Học th u y ế t "Dàn ch ủ đa nguyên".</i> Học thuyết này
cho rằng trong xã hội có nhiều tầng lớp, nhiều giai cáp
khác nhau, có quyền lợi khác nhau, đấu tran h lẫn nhau.
Nhưng cuộc đấu tranh ấy khơng mang tính chất mâu
thuẫn đôi kháng, mà nó cho phép đi đến những ý chí
thống nhất chung. <i>Dân chủ đa nguyên</i> trỏ thành một. cơ
chê chung giải quyết mọi mâu thuẫn giữa các giai càp
trong xã hội tư sản. Họ cho rằng trong xã hội phải có đa
nguyên, đa đảng mới là xã hội dân chủ, họ phủ nhận sụ
độc đảng trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Theo họ chê độ của
Nhà nước độc đảng là chê độ độc tài. Luận thuyết trên có
tính chất bao che cho chế độ đa nguyên của CNTB. Họ đã
lờ đi những khó khăn hiện nay của chê độ đa đảng của các
nước tư bản.
<i>c. Học th u y ế t "Dân ch ủ tỉn h anh".</i> Tư tưởng của họe
thuyết này cho rằng, việc tố chức nhà nước là một công
việc phức tạp, những người dân bình thường khơng có hiểu
biết không thế tham gia được. Vì vậy, việc tổ chức nhà
nước là công việc của một sơ" ít người thuộc vào nhóm
thượng lưu của giai cấp giàu có trong xã hội. Thậm chí
trong nhiều trường hợp việc tổ chức nhà nước chỉ do một
sô" người tố chức thực hiện, trở thành những nhà độc tài
chuyên chế. Chính phủ chuyên chê độc tài ở một chừng
mực nhất định là rất cần thiết để bảo đảm ổn định chính
trị, tạo tiền đê cho việc đấy nhanh phát triển kinh tê của
các nước tư bản mới phát triển. Dựa trên quan điểm của
<i>d. Hoc th u y ế t kỹ tri.</i> Hiện nay với sự phát triển rực
rỡ của khoa học kỷ th u ật - công nghệ, việc áp dụng những
<b>th à n h tựu này có tác độníĩ rát lớn đên quy trình quán lí</b>
<b>N h à nước: giám các độníí tác, đỡ tơn kinh phí n h ư n g lại</b>
cho hiệu qua quán lí rát cao... Vì vậy. vai trò cua các nhà
khoa học kỹ thuật ngày càng quan trọng trong công việc
Nhà nước. Quyền lực nhà nước càng ngày càng mất dần
tính chất giai cấp. chính trị của nó.
<b>IV. HIẾN PHÁP NƯỚC NGỒI LÀ MỘT MƠN HOC</b>
Như phần mổ đầu đã nêu việc nghiên cứu hiến pháp
rủa một nhà nước phái gắn liên với việc nghiên cứu hiến
pháp của các nước ngồi. Vì vậy có hai cách thức giảng dạy
bô môn ỏ các trường đại học luật:
a. Song song với việc giảng clạy hiên pháp quốc gia cần
thiết phải so sánh với hiến pháp của các nước ngoài.
b. Sau khi giáng (lạy xong hiến pháp quốc gia sẽ
chuyển sang giảng dạy hiến pháp tư bản nước ngoài.
Mỗi một cách thức đều có những mặt ưu và mặt khuyết.
Nêu như việc giảng dạy hiến pháp nước nhà gắn chặt với
với nhau. Ngược lại ỏ chê độ Xơ Viết cũ thì việc giáng dạy
hai hộ môn này được tách ra.
Chưa thế biết phương pháp (cách thức) nào tôt hờn.
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội sử dụng cách íỉiàng r
dạy thứ hai.
Hệ thông bộ môn Hiên pháp của các nước tư hán gồm I
có: 1, Những vấn đế cơ hán xung quanh việc xác định Hiên <b>i</b>
pháp của các nước tư bản là một ngành luật, bộ mòn khoa I
học pháp lí. 2. Các chê định cơ hán của Hiến pháp tư san:
Đáng phái chính trị: chẻ độ bầu cử; Qc hội (Nghị viện)::
Chính phủ; Nguyên thủ quốc gia; Tư pháp...
với nhau. Ngược lại ỏ chê độ Xô Viết cũ thì việc giáng dạy
hai hộ môn này được tách ra.
Chưa thế biết phương pháp (cách thức) nào tôt hờn.
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội sử dụng cách íỉiàng r
dạy thứ hai.
Hệ thông bộ môn Hiên pháp của các nước tư hán gồm I
có: 1, Những vấn đế cơ hán xung quanh việc xác định Hiên <b>i</b>
pháp của các nước tư bản là một ngành luật, bộ mòn khoa I
học pháp lí. 2. Các chê định cơ hán của Hiến pháp tư san:
Đáng phái chính trị: chẻ độ bầu cử; Quôc hội (Nghị viện)::
Chính phủ; Nguyên thủ quốc gia; Tư pháp...
Luật Hiên pháp, theo quan niệm của các luật gia ỏ các
nuVic tư ban. là một ngành luật liên quan tới vai trò và
quyền lục của cac đinh chê nhà nước và liên quan tỏi mối
quan hệ giữa công dân và nhà nước7. Cụ thê hơn, Luật
Hiến pháp được coi là một ngành luật tập hợp các nguyên
tắc chính trị căn bản chi phôi chủ yêu tới vị trí và sự phân
chia quyên lực của chính quyền: hình thức và chức nàng
của các tổ chức chính quyền; và quan hệ giữa các cá nhân
và Nhà nước*.
Từ quan niệm rõ ràng như vậy vê luật hiến pháp, so
vói quan niệm về Hiến pháp của các nước XHCN, người ta
<b>Xem Hilaire Barnett - </b> <i><b>"Constitutional and Adm inistrative Law "</b></i><b> </b>
<b>Lawman (India) Private Limited Cavendish Publishing Limited </b>
<b>-1996 - P. l.</b>
<b>Xem Hiram Miller Stout * </b><i><b>“British Governm ent</b></i><b>”* New York * Oxford</b>
<b>University Press - 1953 - P. 19.</b>
<b>29</b>
Thứ nhất là Bản văn Hiến pháp hoặc tập họp các văn
kiện lịch sử có chứa đựng các nội dung của Hiến pháp;
Thứ hai là các đạo luật mang tính Hiến pháp;
Thứ ba là các giải thích của tồ án vê Hiến pháp:
Thứ tư là các tập quán và các tiền lệ Hiến pháp:
Thứ năm là các điều ước quôc tê có liên quan tới các
vấn đê hiến pháp và các án quyết của các toà án QUỐC tê về
nhân quyền;
Thứ sáu là các học thuyết vê Hiến pháp.
Việc xác định và sắp xếp thứ tự ưu tiên các loại nguồn
của luật hiến pháp ở các nước tư bản có ý nghĩa rát quan
tính hợp hiến của các hành vi của chính quyền. Các định
chế này có thế là Toà án tối cao hoặc Toà án hiến pháp
hoặc Hội đồng bảo hiến. Điều đó có nghla là các tranh
chấp liên quan tới hiến pháp được giải quyết thông qua
việc xét xử, và Hiến pháp thật sự được coi là một dạo luật
và được áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên ở những nước có
Hiến pháp không thành văn thì việc xác định nguồn và
thứ tự ưu tiên của các loại nguồn không phải là công việc
dễ dàng.
Xem xét cụ thể các loại nguồn của luật hiến pháp sẻ
làm sáng tỏ hơn về Hiến pháp thành văn và Hiến pháp
không thành văn; về vấn để tìm nguồn; về giá trị của các
loại nguồn của luật hiến pháp.
<b>I. BẢN VẢN HIÊN PHÁP HOẬC TẬP HỢP CÁC VĂN KIỆN</b>
<b>LỊCH SỬ CÓ CHỨA ĐỤNG CÁC NỘI DƯNG CỦA HIÊN PHÁP</b>
Sự phân biệt Hiến pháp thành văn (Written
Constitution) và Hiến pháp bất thành văn (Unwritten
Constitution) là cách phân loại cơ bản trong khơa học luật
hiên pháp mà chúng ta thường nhắc tới. Cách phân loại
này dựa vào phần chính yêu của Hiến pháp hay của luật
hiên pháp, hay nói cách khác, dựa vào nguồn căn bản nhất
của luật hiến pháp. Nêu phán chính yếu của Hiến pháp là
một văn hán được thông qua vào một thời điểm cụ thể, thì
người ta gọi nó là Hiên pháp thành văn và văn bản đó
Hoa Kì có một Bản văn Hiến pháp được soạn thảo và
ký kết tại Philadelphia năm 1787. Và Bản văn này có đủ
hai phần ba số’ Tiệu bang thành viên phê chuẩn vào tháng
7/1788 và được vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kì là
•George Washington cho thi hành vào tháng 4/1789. Vì vậy
người ta nói Hoa Kì có Hiến pháp thành văn và trở thành
nước có Bản văn Hiến pháp đầu tiên trên thê giới. Trong
khi đó Hiến pháp bất thành văn của Đại Anh Quốc có một
phần chính yếu là một tập hđp các văn kiện lịch sử có
(Chứa đựng các quy tắc của luật hiến pháp hay các trật tự
lhiến pháp. Các văn kiện đó bao gồm: Hiến chương vĩ đại
IMagna Carta năm 1215; the Petition of Right (Tc) quyền về
¡sỏ hữu) 1628; the Habeas Corpus Act (Đạo luật vê bảo hộ
mhân thân) 1679; the Bill of Rights (Tuyên ngôn nhân
quyền) năm 1689; the Act of Settlement (Đạo luật về kế vị
và thấm phán) 1701; the Act of Union with Scotland (Đ'ạ< IO
luật về hợp nhất) 1707; the Great Reform Act (Đạo luật v<về
cải cách lỏn) 1832: the Parliament Act (Đạo luật vê NịghhỊ
viện) 1911; và the Statute of Westminster (Luật V(vể
kiện lịch sử nêu trên đều được coi là những phần khô npg
thể tách rời của Bản văn hay tập hợp đó.
Bản văn Hiến pháp Hoa Kì đã chịu sự ảnh hưởng củaa
những quan niệm rằng: chủ quyền thuộc về nhân díìnn;
chính quyền của dân được xây dựng trên cơ sỏ của mộột
“khế ước xã hội” (mà có thể tìm thấy dấu tích của khê UOÜC
này tại “Lời nói đầu”của Bản văn Hiến pháp và các qtụy
định tại các thoả ước thông qua Bản văn Hiến pháp); Ví^à
quyền lực được giao cho chính quyền trung ương chứ chínầh
quyền trung ương khơng tự có quyền lực đó. Vì vậy, tiừ
thuở mới ra đời, Bản văn Hiến pháp này chỉ giải quyết mộọt
số vấn đề nhằm giới hạn các quyền lực của chính quyềrn
trong các lĩnh vực như: thu thuế; chiến tranh; điều chỉnlh
quan hệ giữa các tiểu bang và quan hệ thương mại vóới
nước ngồi, cũng như thiết lập các điểu ước qc tế. Có t.htể
nói Bản văn Hiến pháp này là một Bản văn phân chua
quyền lực theo chiểu dọc và chiều ngang mà chưa bao gồrm
trong nó các bảo đảm quan trọng đốỉ với các quyền cơ bảin
của con người. Bơi thế, ngay sau đó, vào nãm 1789, QnôVc
<b>■' Xem H. M. Stout - Sđd - p. 20. Niên đại của các văn kiện có thê ghi khátc</b>
<b>nhau tuỳ theo từng tác giả căn cứ vào năm ban hành hay năm có hiệiu</b>
<b>lực của văn kiện, cùng giông như ỏ Việt Nam có người gọi Hiến pháip</b>
<b>1959, nhưng có ngưòi gọi là Hiến pháp 1960.</b>
hội Hoa Kì lập tức khuyên nghị 10 sửa đổi đầu tiên cho
Bản văn Hiến pháp 'lày mà chúng được xem là Tuyên
í ngón nhân qun Uie Bill of Rights). Việc phê chuân các
: sửa đối này được Iioàn thành vào năm 17911". Cho đến nay
Bản văn Hiên pháp Hoa Kì đã có tới 27 sửa đổi tạo thành
những phần không thê tách rịi của nó.
Vậy là suốt các thê kỷ XVIII và XVIX cho tới đầu thê
kỷ XX, các nước thường xây dựng cho mình hai văn kiện
hết sức trọng đại. Đó là Tuyên ngôn vê quyên con người và
Bản văn Hiến pháp mà hai văn kiện này có thể được xem
như các thành tô" của một <i>ukhê ước xã hội''.</i> Vì thê mà
Barry M. Hager cho rằng: “Hiến pháp là một tuyên bô" cơ
sở vê những gì mà một tập đoàn người hợp lại cùng nhau
như những công dân của một quốc gia cụ thể xem như các
quy tắc và các giá trị cơ bản mà họ chia sẻ và với chúng
mà họ tự mình tuân thủ”11. Đây lả các tư tương chính trị -
pháp lí thừa hưởng từ các tư tưởng của các nhân vật lịch
sử vĩ đại đã đặt nên móng cho một kỷ nguyên Hiến pháp
’.thành văn như: John Locke, Jean - Jacques Rousseau,
Thomas Paine và Count Montesquieu.
Bản văn Hiến pháp thường được thiết lập bởi Quốc hội
lập hiến và được thông qua bởi trưng cầu dân ý (một hình
ithức dân chủ trực tiếp). Nó là nơi thể hiện ý chí của nhân
idân, nơi chứa đựng các nguyên lí chính trị cơ bản vì lợi ích
<b>10 Xem E. Allan Farnsworth - </b><i><b>“An Introduction to the Legal System o f the</b></i>
<i><b>U nited S t a t e s</b></i><b>Second Edition Oceana Publications, INC * London </b>
chung của cộng đồng. Và nó cũng được xem là nơi cung C íấ p p
các phương tiện căn bản nhất đê bảo đâm thi hành ý <b>c t h h í</b>
của nhân dân và các nguyên lí chính trị cơ bản đó. Do Víậyy
Bán văn Hiến pháp trở thành mục tiêu quan trọng nhiâất
được gìn giữ đê bảo đảm cho trậ t tự chính trị và pháp Mí
của một quốc gia. Các định chê như Tồ án tơi cao, Tồ <i>iả</i>nn
hiên pháp hay Hội đồng bảo hiến thường lấy đó làm clhẫỗ
dựa đáng tin cậy nhất và không thể xa rời để giải quy/ếết
các tranh chấp giữa các định chế chính trị hay các địmhh
chê hiến pháp, và các tranh chấp giữa công dân và Nỉhàà
nước trong các vấn đê liên quan đến quyên con người hoíặoc
các quyển hiến định của công dân. Cách hiểu như vậy có lổẽ
được dẫn dắt bởi các nhà tư tưởng lập hiến nêu trên. Tromgg
cuốn sách “Các <i>quyền của con ngườĩ'</i> (1791- 1792), Thom;aas
Paine viết: “Hiến pháp không phải là một đạo luật ciủaa
chính quyền, nhưng là của nhân dân tạo dựng nên chíttứh
quyền và một chính quyển khơng có Hiến pháp là <b>q u y t ề m</b>
lực khơng có quyền... Hiến pháp là một vấn đê đứng trưíốtíc
chính quyền và chính quyền chỉ là tay sai của Hi<ếm
pháp”1*
Sau Đại chiến thê giới lần thứ hai, các nước tư bản wài
các nước mới giành được độc lập thường xây dựng cho)
mình một Bản văn Hiến pháp, trong đó thể hiện các quyểni
con người mà được xem là những giới hạn mà chính quyềm
<b>'■ Xem Hilaire Barnett - Sđd - p.5,6.</b>
quyền, nguyên tắc phân chia quvền lực theo chiếu dọc và
chiều ngang11...
ở trên đã cho thay Bản văn Hiên pháp thường được
xây (lựng tại nhũng thời điểm lịch sử có tính chất hước
ngoặt hay thịnh vượng nhất của một đất nước. Trong khi
đó Hiên pháp bất thành văn được xây dựng một cách từ tù
trong cả một giai đoạn rất dài của lịch sử với những sửa
đối và bô sung trên nền tảng truyền thông và có tính cách
tích luỹ.
Khi so sánh giữa học thuyết nhà nước pháp quyền
(Rechtsstaat) của Đức và học thuyết nhà nước pháp quyền
(the Rule of Law) của hệ thống Anh • Mỹ, Tiến sĩ Neil Mac
Cormick cho rằng nhà nước pháp quyền có một sự gắn bó
mật thiết vối luật hiến pháp; và Hiến pháp của nước Anh
mang đặc tính của hàng loạt các cuộc đấu tranh giữa uy
quyền tối cao (nhà vua) và sự thoá hiệp của các tô chức
quyền lực nhà nước khác nhau; cơ cấu của học thuyết hiến
pháp của nước này, vì thê, có một phần thơng qua phương
tiện chiến tran h và một phần thông qua phương tiện hồ
bình và đi song song với cơ cấu của các quy tắc về nội dung
và giới hạn quyền lực, trách nhiệm của các tố chức nhà
Hiến chương vĩ đại - Magna Carta - năm 1215 đả thể
hiện sự thoả hiệp chính thức giữa nhà vua và các nam
<b>Xem thêm Ngô Huy Cương - </b><i><b>"Luật hiên ph áp với văn hố chinh trị"-</b></i><b> Tạp</b>
<b>chí Nghiên cứu Lập pháp- Đặc san sô 1 tháng 4/2001, tr.29-52; </b><i><b>"Nha nước</b></i>
<i><b>pháp quyền với việc xảy dựng chính quyền"-</b></i><b> Tạp chí Nghiên cứu Lạp</b>
<b>pháp sô 6 tháng 7/2001 (tr.21 -31) và số 7 tháng 8/2001 (tr. 11-18).</b>
tước, sự dàn xếp giữa nỗi oán thán của dân chúng vớ'ới
quyền lực vô hạn định của nhà vua. Trong văn kiệm nà>ày
cịn có các quy định về quyền tự do của các nhà thờ., cũnpg
như quyền của các thương gia không phải gánh chịu th uúê
khoá nặng nề. Ngày nay văn kiện này được coi nhiư mộột
tuyên ngôn thừa nhận các quyền tự do của con người và sựự
bảo hộ cho tương lai của họ. Có nghĩa là văn kiệm nàjiy
mang một giá trị biểu trưng từ rất sóm khang định sự giởới
hạn quyền lực của chính quyền và khẳng định các »quyềrni
của cá n h ân 15. Văn kiện này có đoạn viết: “Khơng ngườời
nào có thể bị bắt hoặc bị bỏ tù, hoặc bị tước bỏ các <quyềnn
hay tài sản, hoặc bị đặt ngồi vịng pháp luật hoặc Ibị đàyy
ải, hoặc bị tước đoạt địa vị theo bất kì một cách nàơ kháac <sub>/ </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub>
và chúng tơi cũng không hành động bạo lực chống lạ i arihh
ta hoặc cử người khác tới làm việc đó, trừ khi có một sụự
phán quyết hợp pháp ngang bằng với anh ta hoặc bởi luậtit
pháp địa phương”16.
The Petition of Right 1628 ra đòi là kết quả ciủí vụạ
nguyên tắc cấm các khoản nợ, th u ế hay các nhu cầut khác:
về tiền mà không được sự đồng ý của Nghị viện.
Các quy tắc được chứa đựng ở đây bị Tuyên ngôn nhân 1
quyển (the Bill of Rights) năm 1689 thay thế. Tuyên ngôn
này bắt nguồn từ mốĩ quan hệ căng thẳng giữa Toà tthinh
ở Rome và Vua Henry VIIL Đạo luật về kê vị 'the
<b>15 Xem Hilaire Barnett - Sđd - p. 19.</b>
<b>16 Điều 39 của Văn kiện Magna Carta.</b>
Tuyên ngôn vê các quyền đã cơ gắng tìm kiếm cách thiứức
giải quyết mối quan hệ căng thẳng tiềm tàng và thực t(tê
giữa nhà vua và Nghị viện; giữa nhà thò và Nhà nước. lD()o
đó Tun ngơn nhân quyền đã đánh dấu sự thay đơi Síâuu
sắc trong việc cân bằng quyền lực giữa nhà vua và Ngíhhị
viện dưới sự ủng hộ của Nghị viện17.
Nội dung của Tuyên ngôn nhân quyền có những điểìrrm
chính sau: Nha vua cho thi hành pháp iuật mà không đưíỌỢe
sự đồng ý của Nghị viện là bất hợp pháp; việc thu th u ế (đđể
nhà vua chi tiêu theo những đặc quyền mà khơng có ísụự
nhất trí của Nghị viện là bất hợp pháp; phát triển và diuyy
trì quân đội trong thời bình rriă khơng-được sự đồng ý ciủaa
Nghị viện là bất hợp pháp; tuyển cử Nghị viện tự dloo;
quyền tự do phát biểu và tranh luận trong các phiên hcọpp
của Nghị viện không bị luận tội và xét hỏi bởi bất kì tồ áínn
nào hoặc bất kì nơi nào khác ngoài Nghị viện; không đư(Ợơc
yêu cầu các khoản bảo lãnh quá mức; không được ấn địnihh
khoản phạt quá mức; và không được đưa ra những hìmhh
phạt tàn ác hoặc bất thường; việc xét xử phải có bồi thẩrmn
đoàn tham dự; và Nghị viện phải có sự sửa đối thườrng?
xuyên tránh sự bâ't bình của dân chúng.
The Act of Settlement 1700 đã đặt ra các nguyên tểắcc
chấm dứt việc cách chức thẩm phán tuỳ tiện và buệồcc
truyền ngôi vua cho những người kê vị theo Đạo Tin lành..
Hiệp ưốc về hợp nhất 1706 (Treaty of Union) đã thiể?
hiện ý chí hợp nhất giữa England và Scotland để có chumg:
một Nghị viện là Nghị viện của Đại Anh Quốic (Parliamemt
of Great Britain).
<b>17 Xem Hilaire Barnett - Sđd - p. 20, 22.</b>
Hiện nay các học giả <i>ỏ</i> các nước tư hán phát triển cho
rrằng Hiến pháp ở các nước đi theo con đường tư bản chủ
I nghĩa được chia ra thanh mấy loại: <i>Thứ nhấtx</i> Hiến pháp
1 là một cd cấu niểi 1 của chính quyền mà các chi tiết phát
ttriển thông qua tập quán và được bố sung thêm như Hiến
tpháp Hoa Kì cần được giải thích nhiều bởi toà án; <i>Thứ halt</i>
1H iến pháp là một bộ luật vê nhà nước mà trong đó quyên
Đây là một nguồn quan trọng của luật hiến <b>pháp </b> được
>xác định một cách tương đôi theo quan niệm vê hiên pháp
\và cách thức lặp hiến của từng nước. Chắng hạn: ỏ nước
-íAnh, trong khi giải thích và phân loại pháp luật, các tồ
¿án thường tun bơ những gì là Hiến pháp19; ỏ Phần Lan,
lluật hiến pháp được thể hiện ỏ nhiêu đạo luật khác nhau
mhư: Hình thức chính thể (1919), Luật hiến pháp vê Quốc
lhội (1928), Luật vê giám sát của Hạ viện đôi với các hành
\vi của các thành viên chính phủ và Bộ trưởng Bộ tư pháp,
ccũng như Luật về trách nhiệm của nội các, có nghĩa là về
ccác hành vi hợp pháp của Thanh tra Quốc hội (1922) và
lLuật vê Toà án tối cao (1922)2().
<b>118 Xem Rod Hague, Martin Harrop and Shaun Breslin - “</b><i><b>Poỉitical Science - A</b></i>
<i><b>Com parative Introduction</b></i><b> ’ - St. Martin’s Press* New York - p. 262-305.</b>
<b>119 Xem JH. M. Stout - Sđd - P.2L</b>
<b>Xem M. Tiitinen * “La </b> <i><b>Révision Constitutionnelle en F i n l a n d e</b></i><b>trong</b>
<b>Tạp chí “</b><i><b>Inform ations Constitutionnelles en P a r l e m e n t a i r e s</b></i><b>2000 của</b>
<b>Hiệp hội Tổng thư ký Nghị Viện - P.109.</b>
Các đạo luật mang tính hiến pháp phụ thuộc vào vviíệc
tính chất hiến pháp quy định về các vấn đề liên quaji ttới
sách báo khiêu dâm, trong khi đó ỏ Hoa Kì vấn đề mềày
được đề cập đến từ lần sửa đổi đầu tiên của Bản văn Híiêên
pháp 1787 và được xem như một vấn đề hiến pháp; <i>ở</i> Ainlh,
quyền nạo thai được xác định trong Đạo luật vê nạo tlhmi
năm 1967 (the Abortion Act 1967), nhưng ở Hoa Kì, qu\yển
nạo, phá thai được xem là quyền hiến định liên quan tiới
các quy định <i>về</i> bí mật địi tư, cịn <i>ở</i> Cộng hồ Ireland tlhì
việc cấm nạo, phá thai được tìm thấy trong các quy địịmh
hiến pháp về quyền sông21.
Các dẫn chứng trên cho thấy khi tìm kiếm các đạo huệật
mang tính hiến pháp cần phải dựa vào quan niệm vê hiếm
pháp của từng nước. Đôi khi trong Bản văn Hiến ph áp <i><só</i>
các quy định chỉ rõ vấn đề hiến pháp nào được quy địịnth
bằng đạo luật, bởi Bản văn Hiến pháp không thê bao qiuát
hết được mọi vấn đề hiến pháp. Chẳng hạn Hiến pháip
Thuỵ Sĩ có quy định:
‘Điều 189: Thẩm quyền xét xử của tồ án tơi cao liên b a n g
1) Tồ án tối cao liên bang có thẩm quyền xét <b>x ử </b>đôi với:
a) Các vụ kiện về việc vi phạm các quyền hiến định;
b) Các vụ kiện vê việc vi phạm tính tự trị của các
thành phô" và những bảo đảm khác của các tổng (bang) đơi
với các đồn thể theo luật công;
c) Các vụ kiện về việc vi phạm các điều ước quốc tê và
các điều ước giữa các tổng;
d) Các tranh chấp có tính chất luật cơng giữa liên bang
vvà các tổng, hoặc giữr các tổng với nhau.
2) Các thẩm q> yến xét xử của Toà án tôi cao liên bang
ccỏ thê được bổ sung bởi đạo luật”.
Sau khi thông qua Bản văn Hiến pháp, năm 1789,
(Quốc hội Hoa Kì đã thơng qua Đạo luật vê tư pháp (the
1 First Judiciary Act), trong đó dự liệu thẩm quyền xét xử ỏ
ccấp liên bang đối với các quyết định của toà án tiêu bang
ttrong một sô vụ việc. Đạo luật này nhằm thi hành điều
Vkhoản vê tư pháp của Bản văn Hiến pháp Hoa Kì bằng
(cách thiết lập các toà án liên bang cấp thấp hơn và xác
(định thẩm quyền xét xử của chúng theo sau thẩm quyền
>xét xử của Tồ án Tơi cao liên bang. Đạo luật này có thể
( được coi là một nguồn của luật hiến pháp ở Hoa Kì.
1III. CÁC GIẢI THÍCH CỦA TỊA ÁN VỂ HIÊN PHÁP
Hiram Miller Stout cho rằng các giải thích của tồ án
'về Hiến pháp là thành tơ thứ ba hay có thê hiểu là đứng ỏ
'vị trí thứ ba trong phân loại nguồn của luật hiến pháp22,
ỉ Muôn hiểu rõ hơn vê loại nguồn này, chúng ta phải tìm
lhiểu một cách khái lược về vấn để bảo đảm tính hợp hiến
'và một sơ đặc tính cơ bản của Bản văn Hiến pháp, cũng
inhư vai trò của tồ án trong các lĩnh vực này.
Có ba vấn đê cốt yếu của Hiến pháp mà làm phát sinh
ra rấ t nhiều hệ quả lôgich nằm trong luật hiến pháp. Đó
là: (1) Hiến pháp là một đạo luật của nhân dân chứ không
phải là đạo luật của chính quyển; (2) Bản chất của Hiến
pháp là cơ sở tạo dựng và là giới hạn quyền lực của chính
quyển nhằm bảo vệ tự do của con người; (3) Hiến pháp là
một đạo luật tối cao trên tất cả các đạo luật khác Vià tirêên
tấ t cả các hành vi của chính quyền. Vậy bảo đảm tímh HiọỢp
hiến là một công việc hết sức trọng đại, đứng <i>ở</i> vị trí í-số’
một trong một cộng đồng chính trị nhất định. Người ta icbho
rằng sự thừa nhận nguyên tắc tốỉ cao của Hiến p h á p cũimg
đồng nghĩa với việc chấp thuận chê độ Hiến pháp cươĩmg
tính23. Từ đó, cùng với việc xem xét đến tính nhâm diâìn
cũng <b>như </b>bản chất <b>của </b> Hiến pháp, việc <b>tổ </b>chức <b>kiểrm S(0áát</b>
hay xem xét tính hợp hiến và áp dụng chế tài được coil llà
một tấ t yếu. Tuy vậy, việc tổ chức và thủ tục kiểnn scốít
hay xem xét tính hợp hiến ở các nước rấ t khác nhíaiu.
Nhưng có thể khái qt ba cách thức tổ chức kiểrm S(0áit
hay xem xét tính hợp hiến như: giao chức năng nàiy c^hio
Toà án Tốỉ cao, hoặc Toà án hiến pháp hoặc Hội đồmg b>ảio
hiến. Cách tổ chức thứ nhất có thể tìm thấy ở Hcoa IKÌÌ,
Thụy Sĩ...Cách tổ chức thứ hai, hiện nay, đang là klhuyinlh
hướng lớn của thế giới, có thể thấy ở Đức, Áo, Ý, và nhiiê'iu
nước xã hội chủ nghĩa cũ, cũng như nhiều nước khác: ở c’ácc
châu lục. Cách tổ chức thứ ba có thể tìm thấy ở Pháp.... C'átc
<b>nguyên tắc hợp hiến và áp dụng chế tài huỷ bỏ hay lỉàm 'VƠ</b>
hiệu hố các hành vi bất hợp hiến. Tuy nhiên, thteo K.
Zweigert và H. Koetz thì các nước giao việc kiểm sốit h.-ay
xem xét tính hợp hiến cho Toà án Tối cao hoặc Toà ám hiíến
pháp (như: Đức, Ý, Hoa Kì...) mối thực sự được coi là kiếm
sốt tính hợp hiến bằng toà án hay bằng tư pháp. V à các
ơng cho rằng đó là những đặc điểm nổi bật của hệ tthôKig
<b>23 Xem GS Lê Đình Chân - </b><i><b>“L u ật hiển p h á p và các định c h ế chính Itrị ■ L í</b></i>
<i><b>thuyết tổng quát về quốc gia, Hiến p h á p và các chánh thể'-</b></i><b> Tủ sáich Đ*ại</b>
<b>học - Sài Gòn • 1971 - Tr 88.</b>
hhien phap. Cach thifc kiem soat nhii vay khac han vdi cach
t tlnjfc cua Phap va Anh '.
Cac phan tich tren cho thay, phan cao nhat cua ta t ca
ccac luat le hay cac hoat dong phap li, Ban van Hien phap
ddudc ap dung trong thuc te de danh gia cac luat le khac va
ccac hanh vi cua chinh quyen xem chung co phu hdp hay
kkhong vdi Ban van Hien phap ve cac phUdng dien nhU: noi
ddung vat chat, hinh thiic, thu tuc. Vay la, khi xem xet tinh
1 hdp hien, Toa an phai hieu va giai thich rat rong cac dieu
kkhoan cua Ban van Hien phap de danh gia luat dUdc cd
cquan lap phap lam ra hoac cac hanh vi cua chinh quyen co
F phu hdp vdi cac dieu khoan do hay khong. Nhieu khi sU
ggiai thich co the dUdc xem nhii tao ra cac quy tac mdi hoac
Tu chinh an nay du lieu r^ng kiiung mot Tieu bang
r nao diidc tii choi hay khong chiu thiia nhan cho mot cong
cd:\n song tren lanh tho cua minh, sU bao ve dong deu cua
<i>\</i> phap luiit. Cac dii lieu nay dUdc toa an Toi cao Hoa Ki giai
t thich theo hai hudng khac nhau: (1) tru6c nam 1954, Toa
¿an nay giai thich tu chinh an 14 khong cam cac Tieu bang
Iban hanh nhCing luat buoc cac chung toe (da den va da
t trang) phai tach biet nhau, song xa nhau tai cac cong vien,
ttruiJng hoc, xe buyt..., mien la cac Tieu bang cung cap cho
i moi chung toe nhOng tien nghi ngang nhau. Dieu do dUdc
>xem nhu sU bao ve dong deu cua phap luat dUdc thoa man.
((2) Sau nam 1954, Toa an Toi cao nay cho rang phap luat
<b>Xem Konrad Zweigert and Hein Koetz • </b><i><b>"An Introduction to C om parative</b></i>
<i><b>L a u -</b></i><b> Clarendon Press * Oxford - Second Revised Edition - P.66.</b>
của Tiểu bang cấm trẻ em da đen đến trường học của tr<rẻ
em da trắng (mặc dù tiện nghi và các yếu tô khác của cáác
trường này là đồng đều) là không thế chấp nhận được, 1. là
trái với Hiến pháp, vì Tịa án này cho rằng, ngày nay,mộột
đứa trẻ không được hưởng thụ giáo dục, khó mà thànhh
công trong đời; việc tách biệt những đứa trẻ da màu khônpg
cho đụng chạm đến những đứa trẻ da trắng làm cho chúnag
tự ti, mặc cảm về địa vị của chúng trong xã hội và vì thnế
xúc phạm đến tâm hồn chúng25.
Qua ví dụ trên, chúng ta thấy rằng các giải thích củaa
Tịa án về hiến pháp dường như tạo ra các qui tắc hết aứức
khác nhau. Không đi sâu vào nội dung của sự giải thíehh,
chúng ta có thể thấy các giải thích này phải là một phầr.n
quan trọng của luật hiến pháp.
Trong thời đại ngày nay, việc giải thích Hiến pháp lạại
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết vì sự phát triêrn
ngày càng phức tạp của các quan hệ xã hội trong nước vèà
quốc tế, hơn nữa, người dân ngày càng ý thức được và đòài
hỏi nhiều hơn các quyền của họ. Một Bản văn Hiến phápp
dường như không thể bao quát được hết các vấn để củaa
luật hiến pháp và kỹ th u ậ t lập hiến lại càng đòi hỏi phảii
chú trọng đến việc giải thích của tịa án.
Bản văn Hiến pháp thường có những đặc tính sau: Thúi
nhất là tính tốỉ cao, được ưu tiên trên tấ t cả những phổm
khác của các hoạt động pháp lí; Thứ hai là có khuyiihi
hướng khác với các đạo luật khác ở tính cứng rắn vả cáchi
thức bao quát trong việc diễn đạt. Nó khó thay đổi hơn SO)
với các đạo luật khác (thông thường là đa sô' tuyệt đối hoặc;
đa sô" phức hợp chấp nhận); Thứ ba là thường được viết vào»
<i><b>r‘</b></i><b> Xem GS. Lê Đình Chân - Sđd. Tr. 93,94.</b>
1 những thòi điếm gáy cám hửng nhất hoặc thịnh vượng
1 nhát của đất nước. Nôn các vấn đê được diễn đạt một cách
ttran g trọng, hao cuát, khoa trương, do đó dễ dẫn đên tình
t trạng tranh luận, nhất là các vấn đê tự do, bình đáng.... Vì
Bản văn Hiên pháp rất ít khi giúp được cho chính
(quyền dàn xếp các tranh chấp phát sinh trong địi sơng
tthường nhật. Các nhóm quyền lợi thường lợi dụng các
(điếm được thê hiện trang trọng, cao siêu hay khoa trương
(để làm lợi cho họ. Chính vì vậy mà người ta thường ví:
“Hiến pháp dường như nói tấ t cá và cũng dường như
1 khơng nói gì cả”.
Nếu Bản văn Hiên pháp viêt trang trọng và cao siêu
tthì khó có khả năng giải quyết các vấn đê thực của cuộc
í-scmg, nhưng nếu viết cụ thể, chi tiết và ít nhường chỗ cho
xviệc giải thích thì khơng tạo ra được sự ôn định, vững chắc
\và phù hợp với đạo đức một nhà nước27.
Tóm lại, giải thích Hiến pháp là một nguồn quan trọng
ccủa luật hiến pháp và luôn luôn gắn với hoạt động của tòa
<b>c á n </b> ổ các nước tư bản. Các chuyên gia về chính trị học và
ccác chuyên gia luật hiến pháp quan niệm rằng: ‘Tư pháp
llả một nhánh của chính quyền, được giao quyền lực quyết
(định các tranh chấp pháp lí. Vì th ế chức năng trung tâm
(của các thám phán là phân xử ý nghĩa của pháp luật (to
{adjudicate the meaning of law) với nghĩa rằng họ giải
<b>‘ Xem David Beatty * </b> <i><b>“C onstitutional Law in Theory a n d Practice</b></i><b>”</b>
thích hay làm dễ hiểu luật”28.
Chúng ta có thể lấy ví dụ ở tịa án Tối cao và Hiiếm
pháp của Hoa Kì - nước đầu tiên làm xuất hiện V íấ n iđíề
kiểm sốt hay xem xét tính hợp hiên theo nghĩa hiệin đíạii.
0 cổng lớn của trụ sở tòa án Tốỉ cao Hoa Kì có dịng chiũí:
“Equal Justice Under Law” (tạm dịch là <i>thực thi công llí</i>
<i>binh đẳng theo pháp luật).</i> Điểu này đã chứng tỏ tráiclh
nhiệm tối cao của toà án Tối cao Hoa Kì. Nó được x<em lfà
nơi phân xử cuối cùng các vụ việc liên quan tới Hiến phíáp
và pháp luật, thực hành chức năng của người bảo vệ wềà
người giải thích cuốỉ cùng đối với Hiến pháp vì lợi ícìh crủía
cơng dân Hoa Kì29. Cơng việc này là hết sức quan trọing 'Vàì
xảy ra thường xuyên ở Hoa Kì - một nước được coi là (Cố
Hiến pháp thành văn, cương tính đầu tiên trên t h ế giiới..
Nhưng các học giả Hoa Kì vẫn cho rằng Hiến pháp Hioa ]K3
là một văn kiện thông luật (Common Law Document) wà
nó khơng thể được hiểu, giải thích và áp dụng trừ khii đưiỢc
đặt trong thông luật (Common Law). Vì vậy cách gitảá
thích Bản văn Hiến pháp Hoa Kì được thể hiện như s.au:
“Khơng bao giị được quên rằng trong việc giải thíich liời
văn của Hiến pháp, chúng ta phải đặt bản thân mìnlh g ầ n
nhất với điểu kiện của những người sáng lập ra văni kiện
đó” (Ex Parte Bain., 12 Ư.S.l.,7s, Ct.781) và “Nớ nhất thiiết
phải được giải thích trong quan niệm của Commom Lauv,
<b>28 Xem Andrew Heywood - </b> <i><b>hiKey Concepts P o l i t i c s</b></i><b>Mamillan Study</b>
<b>Guides - 2000 - P. 117.</b>
<i><b>**</b></i><b> Xem T</b><i><b>he Court a n d C onstitutional Interpretation</b></i><b>” was taken jfrcm a</b>
<b>booklet prepared by Supreme Court of the United Stat<e, </b> <b>a r id</b>
<b>1 không thê </b> được <b>hiếu mà không đề </b> cập <b>tới Common Law”</b>
( (lj. S. Won Kim Ark... 169 u.
Các kháo sát ngày càng cho thấy khơng chí sự cần
tthiêt phải có giải ihích Hiên pháp, mà cả phương pháp giải
t thích Hiến pháp hay cách thức tiếp cận tới ý chí th ật của
I những nhà lập hiên. Vậy các giải thích của toà án về Hiến
ipháp tạo thành một hộ phận hay một thành tô quan trọng
(của Hiến pháp.
Đối với những người nghiên cứu luật hiến pháp không
t thể không nhắc tới vụ án nối tiếng mà sinh ra hay đặt nền
I móng cho vấn để kiểm soát hay xem xét tính hợp hiến theo
1 nghĩa hiện đại. Đó là vụ Marbury V. Madison (1803). Sau
Tống thống của Đảng chê độ liên bang10 John Adams
((1738 - 1826), Thomas Jefferson (1743 - 1826) - người của
IĐáng Cộng hoà Dân chủ (Democratic - Republican Party) "
-- đắc cử và kê nhiệm. Trước khi Tông thông mới đắc cử
<b>Federalists là đảng của John Adams và Alexander Hamilton, ủng hộ</b>
<b>cho quyền lực tập trung ỏ trung ương. Xem “Marbury V. Madison:</b>
<i><b>Background a n d Explanation"</b></i><b> by Melvin I. Vrofsky (www.google.com).</b>
<b>41 Đâv là Đảng Thomas Jefferson và James Madison.</b>
đòi hỏi thi hành nhiệm vụ (writte of mandamus) đê yêu
cầu Madison thực thi nhiệm vụ và giao chức vụ cho
Marbury. Và Đạo luật vê tư pháp (Judiciary Act) 1789 đã
chỉ rõ rằng tòa án Tối cao có quyên phát một lệnh trong
hoàn cảnh như vậy. Chánh án John Marshall đã đưa ra
một quyết định có sự nhất trí cao của các thâm phán đều
là những người theo Đảng chê độ liên bang như ông. Tại
đây ông thừa nhận rằng: Marbury đã được bố nhiệm phù
hợp với luật; Marbury có quyền nhậm chức; và Tống thông
cũng như Bộ trưởng quốc vụ của Tổng thông không được
can dự tuỳ ý vào việc giao quyết định như vậy. Đồng thời
ơng cịn quyết định rằng, bản thân Tòa án TỔ1 cao khơng
có thẩm quyền đưa ra một phương thức cứu chữa hay bù
đắp (remedy) như vậy bởi vì Hiến pháp quy định rằng,
ngoài một <i>số</i> trường hợp ngoại lệ, Tòa án này chỉ là một
toà phúc thấm; Đạo luật vê tư pháp 1789 quy định Tòa án
Tốỉ cao có thế xem xét trực tiếp để phát ra một lệnh như
đã nói gửi cho chính phủ là trái với Hiến pháp, do vậy Tòa
án Tối cao phải từ chối làm cho nó có hiệu lực.
Việc kiểm soát hay giám sát hay xem xét tính hợp hiến
của đạo luật bằng toà án hay bằng tư pháp được thiết lập
bằng cách thức như vậy ở Hoa Kì.
Nếu xem Hiến pháp của Indonesia, chúng ta thấy cả
phần chú giải mà trong đó bao gồm cả việc trình bày
những tư tưởng căn bản cho việc thiết lập nên Hiến pháp.
Ngưòi Indonesia cho rằng chúng ta không thể hiểu được
Hiến pháp của một đất nước bất kể nào, nếu chúng ta chỉ
xem Bản văn Hiến pháp đơn lẻ’2.
<b>32 Xem Department of Information of Republic of Indonesia 1989 * </b><i><b>kJThe</b></i>
<i><b>1945 Constitution o f the Republic o f Indonesia \</b></i>
<b>IV. CÁC TẬP QUÁN VA CÁC TIỀN LỆ HIẾN PHÁP</b>
Các tập quán dóng vai trị quan trọng trong hệ thống
nguồn của luật hiến pháp ó các nước tư bán, nhất là ỏ
<b>n h ữ n g </b>nước có hiên pháp bất thành văn.
Người ta có một nhận xét rằng các <b>định </b> chê <b>chính </b> trị
hay các nhân viên công quyền, trong hoạt động của mình,
ngày càng khơi sâu thêm, làm đậm thêm những lối mòn
của các tập quán hiến pháp. Các lôi đi nàv ngày một
nhiều thêm cùng vối các quy tắc bất thành văn. Ví dụ ở
Hoa Kì: Nội các của Tổng thông là một định chế được tơ
chức và duy trì phù hợp với tập quán; vai trị của các đảng
phái chính trị trong quy trình của chính quyền được xác
đinh bởi các tập quán.
H. M. Stout cho rằng các tạp quán và tiền lệ là một
trong những yếu tố quan trọng nhất của Hiến pháp Anh -
một Hiến pháp bất thành văn. Mọi người chỉ có thể có một
khái niệm hời hợt vê Hiến pháp Anh, trừ khi họ có một sự
hiểu biết tương đối nhiều vê các tập quán và tiền lệ điều
chỉnh việc tố chức và hoạt động của chính quyền Anh33. Các
tập quán này bắt nguồn từ thực tiễn hoạt động hay từ
nhũng thoả ước, hoặc ngấm ngầm hoặc công khai, mà
chúng được giữ vững và phát triển không phải bởi các tòa
án cưỡng chê thi hành mà chính bởi lợi ích chính trị và sự
tơn trọng truyền thơng. Có rất nhiều qui tắc điều chỉnh
môi quan hệ giữa lập pháp và hành pháp là các quy tăc
tập quán. Có the nêu một so vỉ dụ sau đây. Nội các đựợc
hình thành hồn tồn bởi tập qn, khơng có văn bản luật
nào tạo dựng nó. Nhà vua không tham dự những phiên họp
của nội các đã được khởi đầu khi một sự kiện lịch sử xảy
ra và đã trở thành tập qn; từ đó khơng vị Vua nào đòi
quyển tham dự các phiên họp của nội các. Có một tập quán
Qua đây chúng ta có thể nói mơ hình chính thể Anh hay
Westminster Model được góp phần tạo nên bởi nhiều tập quán.
<b>V. ĐIỂU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ LIÊN QUAN TỚI CÁC VÂN</b>
<b>ĐỂ HIẾN PHÁP VÀ CÁC ÁN QUYẾT CỦA CÁC TÒA ÁN</b>
<b>QUỐC TÊ VỂ NHÂN QUYỂN</b>
Trong thế giới ngày nay nhân phẩm của một con người
không đơn thuần là một vấn đề cá nhân, mà còn là một
vấn đề của xã hội và có tính chất toàn cầu.
<b>14 Xem Philip S. Jame - </b><i><b>“Introduction to English Law</b></i><b>” * Tewlfth Edition </b>
Đôi với các nước tu hán Công ước châu Âu vể quyền con
người và các phán xử của Tịa án cơng lí của Cộng đồng
châu Au dẫn theo một sô hậu qua hiến pháp. Những hậu
quả này được một sô Bản văn Hiến pháp ghi nhận. Luật cơ
sơ (Hiến pháp) của <b>Cộng </b>hoà Liên bang Đức quy định điều
ước quốc tê là một phần của pháp luật liên hang, nhưng
được ưu tiên hơn và thiết lcập trực tiếp quyền và nghĩa vụ
cho công dân Đức (Điểu 25). Và Hiến pháp này còn quy
định việc sửa đối Hiên pháp không được loại trừ hay làm
vô hiệu hoá các quy tắc của điều ước quốc tê (Điểu 79).
Sau chiến tranh thê giới lần thứ hai đã phát sinh sự
cần thiết hợp nhất kinh tế, xã hội và chính trị ở châu Au.
Do đó một Cơng ước nhất thể hố cần được thiết lập nhằm
<b>bảo trợ các quyền con người và các </b> quyền <b>tự do cơ </b> bản.
Năm 1949, Hội đồng châu Âu thành lập và Công ước về
quyền con người được các quốc gia thành viên phê chuẩn
năm 1951, có hiệu lực năm 1953. Nhưng nước Anh đã bảo
lưu Cơng ước, nên có ảnh hưởng tới luật hiến pháp của
Anh. Cho đến năm 1965, nước Anh đã cho các cá nhân
được quyền thực hiện tô quyền theo Công ước này. Nước
Anh quan niệm điều ước là một phần của luật quốc tế, nên
không có vị trí trong trật tự pháp lí nội địa, trừ khi và cho
tới khi được hợp nhất vào pháp luật. Các tịa án chỉ coi
Cơng ước này là một sự trợ giúp cho việc xét xử, chứ khơng
Hiến pháp năm 2000 của Thụy Sĩ có quy định việc sửa
đơi toàn bộ hay một phần của Hiến pháp không được vi
pham cac nguyen tac chung cua dieu Udc quoc te (Dieu 193
va Dieu 194).
Vay co the noi, cf mot mtic do nhat dinh hay phu thuoc
vao quan niem cua moi quoc gia, dieu Ucic quoc te la mot
nguon cua luat hien phap.
Tit nam 1975 den 1990, Toa an chau Au ve Nhan quyen
da quyet dinh 30 vu co lien quan toi nu'6c Anh, trong do co
21 vu la hau qua cua viec vi pham Cong Udc ve nhan
quyen da noi36. Cong Udc tuyen bo" quyet dinh cua Toa an
nay la cuoi cung; viec boi thUdng co the dUdc an dinh; cac
quoc gia thanh vien cam ket tuan thu quyet dinh cua
Toa an nay.
<b>VI. CAC HOC THUYET </b> <b>HI^N PHAP</b>
Khi xet xii, th^m phan thUdng tim kiem cac tu lieu de
giup cho viec dUa ra cac quyet dinh. Vi vay tham phan
luon xem tdi cac cong trinh nghien c\iu hay cac hoc thuyet
ve Hien phap. TrUdc kia dudng nhu co mot qui t^c la cac
tham phan khong bao gid de cap den sach hay cac bai bao,
t^p chi cua cac tac gia dang con song. Nhiing hien nay qui
Cac hoc thuyet giup cho cac tham phan hieu sau hdn,
chinh xac hdn cac vain de hien phap. Chung con chi ro dude
<b>*fi Xem H. Barnett - Sdd - P.638.</b>
<b>37 Xem Ronald I. Cheffins, Q.C va Patricia A. Johnon - </b> <i><b>"The Rivised</b></i>
<i><b>Canadian Constitution ■ Politics as Law" -</b></i><b> Macgraw - Hit </b> <b>R y e r s o n</b>
<b>Limited - P.22.</b>
các cơ sờ xác lộp và các tư tướng chính thông hay các căn
cứ khoa học cho việc giải quyết các vấn đê hiến pháp. Hơn
nữa các học thuyết cịn có thê làm rõ sự phù hợp trong việc
giải thích các điều khoản của Hiến pháp trong một xã hội
đã biến đổi V .V ....
Bói tính khơng thê bao quát hoàn toàn của Hiến pháp
và của các đạo luật mang tính hiến pháp và sự đòi hỏi
phải đáp ứng ngay các vấn đẻ của cuộc sống hiện tại, nên
các học thuyết vê Hiến pháp đóng vai trị thiết thực trong
hệ thơng nguồn của luật hiến pháp.
<b>VII. CÁC LOẠÍ NGUỔN KHÁC</b>
Ngồi những loại nguồn cơ bản nói trên, người ta cịn
tìm thấy các loại nguồn khác. Chẳng hạn các qui tắc tôn
giáo là một loại nguồn quan trọng ở các nước có hệ thống
Đặc quyền của hoàng gia cùng là một loại nguồn của
luật hiến pháp ở các nước như: Canada, Australia... thuộc
Anh.
Vậy có thế nói, nguồn của luật hiến pháp ỏ các nước
theo con đường tư bản chủ nghĩa rất phong phú. Song, tùy
từng hoàn cảnh, truyền thống, văn hố, tơn giáo lịch sử và
mức độ phát triển..., ở các nước khác nhau có thể có sự khác
nhau đơi chút trong quan niệm về nguồn của luật hiến
pháp.
<b>I. S ự RA ĐỜI CỦA HIÊN PHÁP</b>
Theo lịch sử, xã hội loài người đã tồn tại hơn 50 nghìn
năm, nhà nước và pháp luật cũng đã có gần 3 nghìn năm.
Trong khi đó, hiến pháp - đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia
mới ra đời hơn 200 năm, kể từ khi có hiến pháp của nước
Mĩ năm 1787. Sự xuất hiện của hiến pháp gắn liền sự
khẳng định của chế độ tư bản, cùng với việc chấm dứt
hàng nghìn năm thống trị của chế độ phong kiến. Trước
đó, nhà nước của chê độ chiếm hữu nô lệ và của chê độ
phong kiến không hề biết tới hiến pháp.
Thuật ngữ "hiến pháp" có gốc la tinh là "Constitutio"
có nghĩa là xác định, quy định. Thuật ngữ này có từ thời
rấ t xa xưa. Nhà nưốc cổ La Mã dùng thuật ngữ này để gọi
các văn bản quy định của nhà nước. Nhưng, vói ý nghĩa
như ngày nay là một đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lí
cao nhất so vói các đạo luật khác thì "hiến pháp" chỉ được
dùng trong cách mạng tư sản, trong cuộc đấu tranh giữa
hai giai cấp tư sản đang lên và nắm vị trí thống trị cả lĩnh
vực chính trị với giai cấp phong kiến đang suy tàn vẫn còn
cố giữ sự thống trị chính trị của mình trong xã hội từ thê
kỷ thứ 13, 14 đến thê kỷ 18, 19.
Dưới chế độ phong kiến, vua là coa trời được phép
quyết định 4át cả. Lẽ đương nhiên trong chê độ này vẫn
tốn tại một hệ thống pháp luật. Nhưng hẹ thông này chì
quy định trách nhiệm và nghĩa vu của các thắn dân mà
khơng hề có quy định trách nhiệm của nhà vua. Giai cấp
thống trị trước chủ nghĩa tư bản không bị ràng buộc bởi
b ất cứ một quy định pháp luật nào. Nó khơng quan tâm
đến việc cải cách hệ thông pháp luật đế đi đến chỗ hạn chê
quyền lực của chính bản thân nó. Vì vậy, tư tưởng có một
đao luật đứng trên các đạo luật khác lại hạn chế quyền lực
cùa chính giai cấp thống trị thời bấy giờ là không phù hợp
vtíi hệ thơng chun chế của giai cấp thống trị phong kiến.
Nhằm mục đích hạn chê quyền lực vô hạn định của
giai cấp phong kiến mà đại diện là nhà vua, giai cấp tư
sản đê xuất một loạt những khấu hiệu vì tự do, dân chủ, vì
Sự áp bức phong kiến nặng nề là một động lực thúc
đẩy nảy sinh những học thuyết phản kháng chế độ đó.
Chống phong kiến là khẩu hiệu số một. Do đó, có thể nói
ràng, giai đoạn đầu của cách mạng tư sản chính là giai
đoạn của chủ nghĩa lập hiến chống chuyên chế. Điểu đó
thể hiện ở các yêu cầu tổ chức một chê độ chính trị, trorig
đó quyền lực của nhà chuyên chê bị hạn chế, hoặc bị "ức
chế" và các cơ cấu đó được bảo đảm hoạt động bằng sức
mạnh và uy quyền của pháp luật38.
Giai đoạn quan trọng nhất, nội dung chủ yếu nhất của
chủ nghĩa lập hiến là đặt vấn đề chế độ đại nghị thay cho
chế độ quân chủ chuyên chế.
Hình thức lập hiến ở Pháp giữ một vai trò rất quan
trọng và có ảnh hưỏng rất lớn đến sự phát triển của quá
trình lập hiến thế giới, vì cuộc Đại cách mạng Pháp 1789
đã cho thê giới một cơ sỏ tồn tại của nền dân chủ tư sản có
ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều nước. Còn cách mạng tư
Vì vậy, có thể nói rằng hiến pháp và sự phát triển của
hiến pháp trên thế giới là một hiện tượng chính trị - xã hội
trong thời kì cách mạng tư sản, khẳng định sự xuất hiện
chế độ tư bản và sự rút lui khỏi vũ đài chính trị của giai
cấp phong kiến, ở đâu cách mạng tư sản giành được thắng
lợi hoàn toàn thì ở đó quyển lực chính trị được chuyển giao
toàn bộ cho giai cấp tư sản mà hiến pháp là một văn bản
ghi nhận. Và ở chỗ nào, giai cấp tư sản chưa đủ sức đánh
bại hoàn toàn chê độ phong kiến thì ở đó quyền lực chính
<b>'w Xem: </b><i><b>Những vấn đ ề cơ bản của Hiến p h á p các nước trên th ế giới,</b></i><b> NXB</b>
<b>Sự thật, Hà Nội, 1992, tr.6.</b>
<b>39 Sd, tr.9.</b>
<i>ã iv0\ặ</i> : - ■ '■* ■’ *
trị được chia sẻ giữa hai giai cấp thông trị mà hiến pháp
cũng là mót,vãn bản ghi nhận.
<b>II. KHÁI NIỆM HIẾN PHÁP</b>
Ngày nay ta có thể tìm thấy nhiêu định nghĩa thê nào
là một hiến pháp tuỳ thuộc vào góc độ nhìn nhận của các
nhà nghiên cứu.
Vối góc độ là một sự kiện chính trị pháp lí, hav cịn có
thê nói chức năng chính trị thì hiến pháp như trên đã nêu
<b>là văn bản ghi nhận môi tương quan lực lượng chính trị</b>
trong xã hội khi hiến pháp mới được han hành. Thdi_kì
đầu của chủ nghĩa tư_ bản, hiến pháp lả văn bản ghi nhận
mối tuơng quan lực lượng chính trị giữa giai cấp tư sản và
giai cấp phong k iến. Càng về sau này vị trí vai trò cúa giai
cấp phong kiến mà đại diện là nhà vua càng suy yếu thì
mơi tương quan lực lượng chính trị ấy chuyên sang giữa
giai cấp tư sản thông trị và nhân dân lao động.
Stécnơ, giáo sư Cộng hoà liên bang Đức coi hiến pháp
là những quy định có tầm cao nhất nhằm điều chỉnh việc
tố chức nhà nước, các nguyên tắc tố chức và hoạt động của
nhà nước, hình thức, cơ cấu và môi quan hệ của nhà nước
với công dân.
Cũng theo quan điểm về tính trội hơn hết và cao hơn
hết của hiến pháp các nhà nghiên cứu Pháp, giáo sư
G.I.VeldeỊ P.Devơnvơ cho rằng hiến pháp có các quy phạm
có tính cơ bản. Do đó, những quy phạm khác được ban
hành trái với hiến pháp thiếu những hình thức mà hiến
pháp đã chỉ ra thì sẽ khơng có giá trị. Theo hai ơng, hiến
pháp có mục đích quy định tính trội hơn của "quyền lập
quyền" so với "quyền được lập ra", tức là quyền lập hiến với
quyền lập pháp. Quyền lập hiến có tính cách ngun
Xét về mặt nội dung, hiến pháp là tấ t cả các quy tắc
pháp lí quan trọng nhất của quốc gia, ấn định hình thể
quốc gia, ấn định các cơ quan điểu khiển quốíc gia cùng
những thẩm quyền của các cơ quan ấy. Hiến pháp là văn
bản phản ánh tổ chức chính trị của quốc gia4'.
Thông qua hiến pháp cho phép chúng ta vẽ nên mơ
hình của nhà nước, nguồn gốc quyền lực nhà nước.
Ban đầu đơì tượng điểu chỉnh của hiến pháp chỉ bó hẹp
trong khuôn khổ quy định những vấn đê có liên quan đên
tổ chức chính quyền nhà nước ở cấp trung ương thế hiện ở
nguyên tắc phân chia quyển lực. Tuy nhiên, càng về sau
này, phù hợp với sự phát triển của dân chủ, đối tượng điều
chỉnh của hiến pháp ngày càng được mở rộng. Không những
hiến pháp chỉ quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước
mà còn quy định cả quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Không những thế, hiến pháp của các nước xã hội chủ
nghĩa còn quy định cả về chế độ kinh tế, chế độ văn hoá,
giáo dục, an ninh quốc phòng. Với sự ảnh hưởng ít nhiều
của hiến pháp xã hội chủ nghĩa, một sô" hiến pháp tư bản
mói được thơng qua, đối tượng điều chỉnh của chúng cũng
được mở rộng sang một số lĩnh vực khác. Nhưng dù mở
rộng đôl tượng điều chỉnh đến đâu đi chăng nữa, phần cơ
<b>40 Nguyễn Văn Bơng: </b><i><b>Luật hiên ph áp và chính trị học,</b></i><b> Sài Gòn, 1967, tr. 53.</b>
<b>41 Sđd, tr.44.</b>
bán là tố chức quyền lực nhà nước vẫn được giữ lại trong
bất cứ một hiến pháp tư sản nào.
Nói tóm lại, hiến pháp tư sản là một đạo luật cơ bản do
cơ quan quyển lực nhà nước cao nhất han hành quy định
viộc tố chức nhà nước, cơ cấu thẩm quyền các cơ quan nhà
nước trung ương và quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân.
<b>III. PHẢN LOẠI HIẾN PHÁP</b>
Tính đến nay trên thê giới có khoảng hơn 100 nước có
hiến pháp. Theo các nguyên tắc khác nhau, hiến pháp có
thế chia thành nhiêu loại.
<i>Theo hình thức th ì hiến pháp được phân thành hai</i>
<i>'toại: hiến pháp thành văn và không thành văn.</i> Tuyệt đại
(ỉa sô hiến pháp của các nước trên thê giới là hiến pháp
<b>thành </b>văn tức là các quy định hiến pháp được viết thành
văn bân nh ất định, thường là một văn bản hết sức ngắn
gọn, dễ đọc và dễ hiểu, có thề "đút vào túi" được hoặc có
thế trong nhiều trường hợp, hiến pháp bao gồm nhiều văn
bản. <i>Nhưng cho dừ một hay nhiều văn bản thi nó nhất</i>
<i>thiết phải được nhà nước tuyên bô, hoặc ghi nhận là đạo</i>
<i>luật cơ bản của nhà nước.</i>
Hiến pháp không thành văn là tổng thể các văn bản
pháp luật, các quy phạm pháp luật được hình thành theo
tập tục truyền thống, các án lệ của Tồ án tối cao có liên
quan tới việc tố chức quyển lực nhà nước, <i>nhưng không</i>
<i>dược nhà nước tuyên bô hoặc ghi nhận là luật cơ bản của</i>
<i>nhà nước.</i> Hiện nay chỉ có ba nước trên thế giới có hiến
pháp khơng thành văn. Đó là Anh, Niu-di-lân và Ixraen,
tức là những nước thuộc địa của Anh trước đây.
Việc nhà nước Anh khơng có hiến pháp thành văn được
nhiều học giả cho rằng đó là sự thế hiện quyển lực tôi cao
của Nghị viện Anh. Hôm nay, Nghị viện thông qua luật
này nhưng ngày mai Nghị viện có thế thay đổi bằng một
văn bản luật khác. Đấy là quyên của Nghị viện. Nói như
vậy khơng có nghĩa hiến pháp không thành văn của nhà
nước Anh ít hiệu lực pháp lí. Chính việc vi phạm nhừng
quy định không thành văn lại càng rất khó. Những gì đã
trỏ thành các quy định ăn sâu vào nhận thức con người thì
khơng mấy khi có thể vi phạm được.
Theo quan điểm của tiến sĩ luật học I.u-Tumanov, việc
phân chia hiến pháp thành văn và bất thành văn không
mang một ý nghĩa khoa học nào của thời kì hiện nay. Ơng
cho rằng đây là cách chia của cuối thê kỷ thứ 18 để phán
biệt giữa hai hiến pháp lúc bấy giò của nhà nước Anh và
nhà nước Mĩ vừa>thoát khỏi thuộc địa của chính nhà nước
Anh. Hơn nữa ơng cịn lí giải rằng chính những quy phạm
hiến pháp thành văn của nhà nước Mĩ là bản chép 1 ại
Nhằm mục đích khắc phục những khuyết điểm do
chính ơng chỉ ra, nhà khoa học này đề xuất một phương
pháp phân chia khác hơn dựa theo tính chất nội dung của
các quy định chứa đựng trong hiến pháp.
<i><b>Dựa theo tiêu chuẩn nêu trên hiến pháp của các nước</b></i>
<i><b>trên thế giới </b></i> <i>được <b>ông chia thành hiến pháp cổ điển và</b></i>
<i><b>hiến pháp hiện đại43.</b></i>
<b>42 Xem: I.U-Tumanov: </b><i><b>Hiến ph áp tư sản hiện đ ạ i,</b></i><b> trong cuốn: </b><i><b>Luật N h á</b></i>
<i><b>nước tư sản hiện đại.</b></i><b> Mátscơva 1987, tr.40 (tiêng Nga).</b>
<i><b>43</b></i><b> Sđd, tr.41.</b>
Hiến pháp cố điển là những hiến pháp được thông qua
(ban hành) từ lâu trong những điều kiện khác xa ngày
nay, cuối thê ký 18 và đầu thế kỷ thứ 19. Những hiến
pháp này vãn còn hiệu lực pháp lí cho đến ngày nay nhờ có
thèm những chỉnh lí, những tập tục truyền thông hiện đại.
Khuôn mẫu điển hình của hiến pháp này là Hiến pháp Mĩ,
với sức sống hơn 200 năm, Hiến pháp của Vương quốc Na
Uy được thông qua năm 1814, có sức sống hơn 100 năm,
của Vương quôc Bỉ 1831, của Đại công quốc Lúc-xăm-bua
năm 1868, của Liên bang Thuỵ Sĩ năm 1874 và cả hiến
pháp không thành văn của Liên hiệp vương quốc Anh.
Về m ặt nội dung, nhóm hiến pháp này không phản
Hiến pháp Mĩ là hiến pháp đặc trứng cho hiến pháp <i>cổ</i>
điển. Nội dung của hiến pháp chỉ có 7 điểu, tập trung xào
việc quy định trình tự thành lập và thẩm quyển của các cơ
quan Trung ương - Quốc hội, Tổng thống và Toà án tối cao;
mối quan hệ giữa liên bang với các bang và trình tự thay
đổi hiến pháp. Hiến pháp Mĩ không hề có điều nào nói vê
các đảng phái chính trị, mặc dù các đảng phái chính trị
chiếm mơt vị trí cực kì quan trọng trong đời sơng chính trị
của Hợp cRủng quốc Hoa Kì.
Xét trên bình diện nội dung dân chủ của các hiến pháp
thì hiến pháp cổ điển không chỉ bao gồm những hiến pháp
được ban hành từ các thế kỷ trước mà còn bao gồm cả
những hiến pháp được thông qua trong thời gian gẩn dây.
Ví dụ Hiến pháp Áo năm 1920, Hiến pháp Phần Lan gồm
Luật về chính thể Phần Lan 1919; Hiến pháp của Vưiing
quốc Ai-Len 1937; Hiến pháp của Thụy Điển 1974 và Hiến
pháp của Canađa 1982... Mặc dù những hiến pháp này
được thông qua đầu th ế kỷ 20 hoặc cuối thê kỷ 20 nhưng
về nội dung khơng có gì gọi là tiến bộ hơn những hiến
pháp cổ điển được thông qua cách đây 100, 200 năm.
Hiến pháp hiện đại là những hiến pháp phần lớn được
thông qua sau Chiến tranh th ế giới lần thứ nhất và lần
thứ hai. Chức năng chính trị chủ yếu của những hiên pháp
này là củng cố địa vị thống trị của giai cấp tư sản. Đó là
các Hiến pháp Nam Tư, Áo, Balan, Tiệp Khắc, Đức, Bỉ...,
được thông qua sau Chiến tranh th ế giới lần thứ nhất. Sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, một loại hiến pháp được
thông qua, cùng với việc khẳng định sự độc lập chủ quyền
của nhiều dân tộc thoát khỏi ách thông trị (lệ thuộc) vào
các nhà nước đê quốc thực dân. Phần nhiều các hiến pháp
này vẫn còn hiệu lực pháp lí cho đến ngày nay. Trước cuộc
đấu tranh giành quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân
lao động trên phạm vi toàn thê giới và cùng với ánh hưởng
ít nhiều của nội dung dân chú của các hiến pháp xã hội
chu nghĩa, hiến pháp hiện đại chứa đựng nhiều điều
khoản có nội dung dân chủ hơn, phản ánh sự nhượng bộ
nào đó của giai cấp tư sản thống trị trước cuộc đấu tranh
<b>của nhân loại (Hiến pháp Pháp năm 1946, của N h ậ t năm</b>
1947, của Cộng hoà liên bang Đức năm 1949).
Nhận định trên được minh chứng bằng việc mở rộng
phạm vi điều chỉnh các hiến pháp, bằng các quy định thêm
một số quyền lợi của nhân dân mà chúng ta khơng thể tìm
thấy trong những hiến pháp cổ điển trước đây. Ví dụ:
quydn tự do bầu cử, quyển có việc làm, bình đẳng nam,
nữ... Xa hơn nữa, một sơ hiến pháp cịn quy định: "Nhân
dân tham gia vào việc quản lí Nhà nưóc. Xây dựng một
nhà nước phi giai cấp" (Điều 1 và 2 của Hiến pháp Bồ Đào
Nha năm 1982)44.
Xét dưới bình diện là văn bản ghi nhận mối tương
quan lực lượng xã hội tồn tại thời điểm thông qua hiến
pháp, thì hiến pháp cổ điên là hiến pháp ghi nhận mối
tưdng quan lực lượng chính trị - xã hội của giai cấp tư sản
và giai cấp phong kiến; còn hiến pháp hiện đại là văn bản
pháp lí ghi nhận mối tương quan lực lượng xã hội giữa giai
cấp t hòng trị tư sản với một bên là nhân dân lao động, sỏ
dĩ nhu vậy vì hiện nay về <i>cơ</i> bản vai trò lịch sử của giai
cấp địa chủ phong kiến đã gần như chấm dứt.
<i>Căn cứ vào thủ tục thông qua, thay đổi hiến pháp, tác</i>
<i>giả Nguyễn Văn Bông và nhiều học giả các nước tư sản chia</i>
11 Xem <b>Nguyễn Đảng Dung: </b><i><b>Nhừng vấn để cơ bản về hiến ph áp </b>tư <b>bản</b></i>
<i><b>ph át triển.</b></i><b> T/c Nhà nước và pháp luật </b><i><b>số</b></i><b> 4.1991, tr.55.</b>
<i>hiến pháp thành hiến pháp nhu tính và hiến pháp cương</i>
<i>tính.</i>
Hiến pháp nhu tính là hiến pháp có thể sửa đổi hay
được sửa đổi bởi chính cơ quan lập pháp, theo thủ tục
thông qua các đạo luật bình thường. Nói như thế có nghĩa
là hiến pháp khơng có tính ưu thế, khơng có sự phân biệt
đẳng cấp giữa hiến pháp và các đạo luật khác, mặc dù đốỉ
tượng điều chỉnh của chúng có tầm đặc biệt khác nhau.
Chúng ta có thể nói rằng một quốc gia có hiến pháp nhu
tính như Anh quốc làm một ví dụ là một quốc gia khơng có
hiến pháp về mặt hình thức45.
Hiến pháp cương tính là hiến pháp có những ưu thê
đặc biệt được phân biệt giữa quyền lập hiến, quyền
nguyên thuỷ, với quyền lập pháp, quyền được thiết lập từ
quyền nguyên thuỷ. Hiến pháp với ưu thê của mình phải
được một cơ quan đặc biệt thông qua, thường được gọi là
quốc hội lập hiến. Các văn bản luật pháp khác được một
quồííc hội khác - quốc hội lập pháp thông qua. Quốc hội lập
pháp phải tuân thủ những quy định của hiến pháp đã
được quốc hội lập hiến ban hành (thông qua). Trong quá
trình đảm nhiệm việc soạn thảo và thông qua hiến pháp,
do nhu cầu cấp bách quốc hội lập hiến có thể ban hành
luật trước khi ban hành hiến pháp cho đến khi quốc hội
lập pháp được thành lập. Trên thực tế rấ t ít trường hợp có
quổc hội lập hiến. Có thể lấy Hợp chủng quốc Hoa Kì làm
ví dụ. Những người tham gia thông qua hiến pháp đại diện
cho 13 bang lúc bấy giờ, được gọi là những người khai quôc
<b>4S Xem Nguyễn Văn Bông: </b><i><b>L u ật hiến p h á p và chinh trị học</b></i><b>, Sài Gòn 1967.</b>
<b>tr.48.</b>
qua hiến pháp rất ít phơ hiên trên thê giới. Bơi vì việc
<b>t h à n h lập (bầu cứ) ra hai </b> quốc <b>hội với thời gian </b> rất <b>gần</b>
nhau thường là p’iức tạp. Hơn nữa, nếu chúng ta xem xét
kêt quá bầu cử là sự thê hiện mối tương quan lực lượng xã
hội thì trong một khống thời gian ngắn, không mấy khi
có những biến cơ lịch sử có tính cách mạng xẩy ra. Vì vậy,
việc tơ chức bầu lại một quốc hội lập pháp khác với quốc
hội lập hiến nhiều khi không thê cho kết quả như mong
muốn. Cho nên nhiều nước dùng ln quốíc hội lập hiến
làm quốc hội lập pháp và ngược lại lấy quốc hội lập pháp
làm quốc hội lập hiến. Nhàm tạo nên tính ưu thê của hiến
pháp, các nước thường quy định thủ tục thông qua, sửa dổi
hiên pháp một cách ngặt nghèo hơn. Ví dụ như nếu luật
thường việc biểu quyết thông qua chỉ cần có quá bán tống
sô đại biểu Quốc hội đồng ý là đủ thì hiến pháp là phải
2/3, hoặc 3/4 tổng sô đại biểu quốc hội, hoặc hơn thê nữa
sau khi đã <b>được </b>quốc hội thơng qua thì dự <b>án </b> phải <b>được</b>
nhân dân bỏ phiếu phúc quyết...
<i>%</i> Theo bản chất, hiến pháp có thể được phân chia thành
hiến pháp tư bản chủ nghĩa và hiến pháp xã hội chủ
nghĩa.
Hiến pháp tư bản chủ nghĩa là những hiến pháp của
các nước tư bản hay của các nước phát triển theo chê độ tư
bản chủ nghĩa. Đặc điểm của những hiến pháp này là trực
<b>tiép </b>h:iy gián tiếp đều tuyên bô bảo vệ quyền <b>tư </b>hữu vê <b>tư</b>
liệu sản xuất, quyền sở hữu tư nhân là thiêng liêng bất
khả xâm phạm. Hiến pháp 1956 và 1967 của chê độ cũ Sài
Gòn còn tun bơ "chủ trương hữu sản hố tồn dân".
Hiến pháp <b>tư </b>sản thứịng tập trung nói về ba cơ quan
Nhà nước trung ương - quốc hội (lập pháp), chính phủ
(hành pháp) và Toà án (xét xử), theo xu hướng công nhận
việc áp dụng học thuyết "Tam quyền phân lập". Theo
thông lệ, các hiến pháp tư bản đều trực tiếp hoặc gián tiếp
tuyên bô" nghị viện, cd quan do nhân dân trực tiếp bầu ra
là cơ quan có quyền lực nhà nước tối cao. Nhưng trên thực
tê khơng có một cơ chê thực tê nào phản ánh đúng tư
tưởng này. Hiến pháp của Cộng hoà liên bang Đức tuyên
bố Nghị viện Đức là tốì cao, sau đó đến Tổng thơng và cuối
cùng là Chính phủ. Nhưng thực tê khơng hồn tồn như
vậy. Chính phủ đứng đầu là Thủ tướng bao giò cũng có
quyền lực nhiều hơn. Do vậy, người ta gọi Cộng hoà liên
bang Đức là "Cộng hoà thủ tướng".
Nhiều tác giả cho rằng cơ chê thực hiện chính quyền
nhà nước tư sản trên thực tê khác xa với cơ chê ohính<sub>♦</sub>
Về cơ bản, hiến pháp của các nước tư bản theo chính
thể cộng hồ nghị viện có mức độ giả hiệu nhiều hơn chính
thể cộng hoà tổng thống.
Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa ra đời muộn
hơn hiến pháp tư sản, đã tiếp thụ những hạt nhân dân
chủ của hiế,n pháp tư sản. Nhưng hiến pháp xã hội chủ
nghĩa có một sơ" đặc điểm khác với hiến pháp tư sản.
Đó là việc trong tổ chức bộ máy nhà nước, các nước xã
hội chủ nghĩa phủ nhận học thuyết "tam quyền phân lập",
thay cho phân quyền là việc áp dụng nguyên tắc tập quyền
xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực nhà nước tập trung
thống nhất vào quốc hội. Trong công cuộc đổi mới, nhận
<b>,K Xem: </b><i><b>Tum anov.lu.</b></i><b> Sđd, tr.78.</b>
thức lại chủ nghĩa xã hội, nhiều nhà luật học. chính trị học
xã hội chủ nghĩa thừa nhận tư tướng dân chú của học
thuyêt phân quyển. Trong các văn bản chính thức của các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn tuyên bô việc tuân thủ
nguyên tắc tập quyên nhưng trong tố chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước XHCN phải có sự phân công, phân
nhiệm rạch ròi với nhau tránh chồng chéo lên nhau. "Hệ
thõng kìm chế đơi trọng" của Hiến pháp Mĩ cho đến nay
vẫn chưa <b>được </b>các 1HÍỚC xã hội chủ nghĩa trước đây và hiện
nay t hừa nhận.
Đặc điểm thứ hai, nếu như hiến pháp của các nước tư
'bản khơng quy định vai trị của các đảng phái chính trị,
trong khi chúng có vị trí rất quan trọng trong cơ chê quyền
lực nhà nước tư sản. thì trong hiến pháp của các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây và còn lại hiện nay ghi nhận (quy
định) vai trò lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của đảng
Cộng sản.
Đặc điểm thứ ba, so với hiến pháp của các nưốc xã hội
chủ nghĩa, hiến pháp của các nước tư sản có đối tượng điều
chỉnh hẹp hơn và thường khơng có quy định mang tính
cương lĩnh. Đối tượng điêu chỉnh của hiến pháp xã hội chủ
nghĩa không chỉ hạn hẹp như của hiến pháp tư bản chủ
nghĩa. Ngoài việc quy định các mối quan hệ có liên quan
đến việc tổ chức quyền lực nhà nước, hiến pháp các nước
XHCN còn quy định các mốì quan hệ xã hội khác liên
quan đến việc tố chức xã hội: chê độ kinh tế, văn hố, an
ninh, qc phịng.... Chính vì vậy, khơng ít học giả cho
rằng hiến pháp xã hội chủ nghĩa là hiến pháp của xã hội.
Khác với hiến pháp tư sản, hiến pháp xã hội chủ nghĩa
còn quy định nhiều mục tiêu phấn đấu của toàn xã hội,
làm cho hiến pháp mang tính cương lĩnh. Tính cương lĩnh
trong hiến pháp XHCN là tính chất được nhiều người thừa
nhận. Chính việc mỏ rộng đối tượng điểu chỉnh của hiến
pháp xã hội chủ nghĩa, tính cưdng lĩnh đã làm cho tính
bên vững và hiệu lực pháp lí của hiến pháp suy giảm.
Ngồi việc phân chia theo những nguyên tắc nêu trên
hiến pháp còn được phân chia thành hiến pháp của các
nước phát triển và hiến pháp của các nưỏc đang phát
triển. Hiến pháp của các nước đang phát triển khác với
hiến pháp của các nước phát triển ở chỗ cũng giống như
hiến pháp xã hội chủ nghĩa, hiến pháp các nước này có đối
tượng điều chỉnh rộng và có đê ra những cương lĩnh phát
triển. Ngồi ra cịn có đặc điểm nữa là hiến pháp các nước
đang phát triển thường nhấn mạnh độc lập và chủ quyền
dân tộc. Sở dĩ như vậy vì các nước chậm phát triển trước
đây đều là những nước thuộc địa của các nước phát triển.
Trong thòi gian chưa kịp thông qua hiến pháp của chính
mình, các nước mới giải phóng khỏi sự lệ thuộc của các
nước phát triển còn dùng tạm thời hiến pháp của các nước
phát triển với cơ cấu chính quyền của các nước bảo hộ đế
lại sau khi đã tước bỏ những quy định khơng cịn phù hợp.
Đặc điểm thứ tư, khác với hiến pháp của các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây và của các nước chậm phát triển
hiện nay, hiến pháp của các nước tư bản phát triển thường
trù liệu trước sự lợi dụng quyền lực mà vi phạm đến quyền
tự do dân chủ của nhân dân. Nhằm hạn chê việc lợi dụng
này, hiếp pháp tư sản thường quy định một sơ" quy định
kìm hãm được gọi là một hệ thơng kìm chê và đối trọng
quyền lực, tức là hiến pháp không giao trọn vẹn một thứ
quyền lực cho bất cứ một cơ quan nhà nước nào, đặt ra
một số quy định đê cơ quan nhà nước này có thê kiêm tra
được hoạt động của cơ quan nhà nước kia. Ví dụ quyền ban
hành các (tạo luật khi đã <b>được </b> nghị viện thông qua của
nguyên thu quốc gia. Quốc hội có quyền thơng qua dự án
luật nhưng khơnị.' có quyền ban hành (công bõ) đạo luật.
Đặc (liếm thứ nám, hiên pháp tư sản thường có một sô
quy định nhằm bảo đảm cho hiến pháp được thực hiện.
Trung tâm của những bảo đảm này là hoạt động của Toà
án hiến pháp hay Hội đồng hiến pháp.
IV. GIÁM SÁT VIỆC THI HÀNH HIẾN PHÁP VÀ BÁO VỆ
HIÍÍN PHÁP
Đê hiến pháp có hiệu lưc trên thực tế, nhiều nước quv
<b>định việc giám sát hiến pháp và việc bảo vệ hiến pháp.</b>
Theo quan niệm chung của nhiều nước trên thê giới, giám
sát việc thi hành hiến pháp cũng như việc bảo vệ hiến
pháp là kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật. Có hai
cách kiểm tra: kiểm tra trước và kiểm tra sau. Kiểm tra
trước là loại kiểm tra được áp dụng khi các dự án luật
trước khi thông qua phải được cơ quan chuyên môn kiểm
tra tính hdp kiến của đạo luật đó.
Kiếm tra sau là loại kiểm tra tiến hành khi có sự đặt<sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub>
vấn đê đạo luật trái hiến pháp. Ví dụ, khi tồ án xét xử
một vụ kiện nào đó, đương sự yêu cầu trước khi xem xét
giải quyết vụ việc, toà án phải xem xét tính hợp hiến mà
pháp lí trên thực tế.
Có hai hình thức tố chức kiểm tra tính hợp hiến của
đạo luật: một là, thành lập cơ quan chuyên trách bao gồm
những người có hiểu biết, có kinh nghiệm và uy tín trong
lĩnh vực lập hiến và lập pháp, thường được gọi là Hội đồng
hiến pháp, Toà án hiến pháp, Hội đồng bảo hiến. Hai là,
không thành lập cơ quan chuyên trách riêng mà giao luôn
cho cơ quan thường trực của cơ quan lập pháp và cho
chính cơ quan lập pháp (quốic hội), hoặc giao ngay cho Toà
án tối cao đảm nhiệm (Mĩ quôc).
<b>I. » Ặ C TRUNG CỦA CHÊ ĐỘ KINH TÊ - XÃ HỘI CỦA</b>
<b>C A C NƯỚC T ư BẢN</b>
Mỗi một quôc gia (hay hệ thống các quốc gia) đều đặc
tru n g bởi một che độ kinh tê - xã hội nhất định. Chê độ
kinh tế - xã hội phản ánh những quan hệ kinh tê (như
quian hệ sở hữu, sản xuất tiêu dùng, quản lí kinh tê v.v...),
cơ câu giai cấp, mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp, tầng
lớp hình thành trong xã hội đó và có ảnh hưởng đến việc tổ
chức chế độ nhà nước của qiíc gia đó.
Khoa học luật nhà nước (hay luật Hiến pháp) đê cập
ch ế độ kinh tế - xã hội các nhà nước tư bản dưới hai giác
độ. Một mặt, nó nghiên cứu những quan hệ kinh tê - xã hội
với tính cách là cơ sở của quyền lực nhà nước tư bản, quyết
định cách thức tổ chức và hoạt động của nhà nước; mặt
khác, nó nghiên cứu những quan hệ kinh tê - xã hội hiện
thực được phản ánh trong các qui phạm luật nhà nước.
Chính mặt thứ hai này chiếm vị trí trọng tâm vì qua đó có
thể biết được chê độ kinh tê - xã hội của nhà nước tư bản.• • •
Nói chê độ kinh tê của các nước tư bản là nói tới chê độ
kinh tê - xã hội của một hệ thống các nước có hình thối
kinh tê - xã hội tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên giữa các nước
tư bản cũng có trình độ phát triển khác nhau:
Hầu hết các nước Tây Âu, Bắc Mĩ và một sô nước khác
như Nhật Bản, Nam Phi, Ôxtrâylia, Niu Dilân đã đạt tới
giai đoạn phát triển tột cùng của chủ nghĩa tư bản, trd
thành chủ nghĩa tư bản độc quyển hay chủ nghĩa đê quốc.
Ồ các nưốc đó đã xác lập nền công nghiệp phát triển cao,
mức độ tập trung tư bản lớn, xoá bỏ hầu hết các tàn tích
phong kiến trong nơng nghiệp, hoàn toàn chuyển sang
Một nhóm lớn các nước tư bản khác <i>ở</i> Châu Mi - la
tinh, Châu Á, Châu Phi mới đạt được trình độ phát ;ríên
trung bình. 0 đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ióng
vai trị chủ đạo trong nền kinh tế, nhất là trong công
nghiệp. Nơng nghiệp vẫn cịn tồn tại quan hệ sản xuất
phong kiến. Kinh tê các nước này nói chung cịn chịu ảnh
hưởng lớn của đầu tư tư bản nước ngồi.
Nhóm thứ ba là các nước tư bản chưa phát triển, gổm
các nước Châu Phi xích đạo và các quốc gia quần đảo. Nền
kinh tê ở đó chủ yếu là nơng nghiệp cịn lạc hậu; quan hệ
sản xuất phong kiến vẫn còn chiếm địa vị chủ đạo chỉ
mới xuất hiện những yếu tố của nền sản xuất tư b ả n
chủ nghĩa.
Những năm gần đây trong khoa học pháp lí bắt đầu sử
dụng phô hiên cụm từ "các nước đang phát trien" đê chi
một hệ t hông các núỏc (híọe giai phóng từ sau Chiên tranh
the giới lán thứ 11. tiên lên con đường phát trien độc lập.
Tuy những nước này mang những đặc diêm giông nhau
song xét vê mặt hán chất thi chúng theo những khuynh
hưóng khác nhau: Có nước phát triền theo con đường tư
bản chủ nghĩa, có nước chọn đi lên theo hướng xã hội chú
Nhìn chung đặc điểm lớn nhất của chê độ xã hội tư bản
chủ nghĩa là ỏ đó xác lập và thông trị một chế độ sỏ hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
là cơ sỏ kinh tê của nhà nước tư bản. Điều này không chi
tồn tại ỏ những nước tư bản phát triển mà còn phố hiên ở
các nước tư bản nói chung, kê cả các nước tư bản lạc hậu,
chậm phát triển. Sự thông trị về chính trị của giai cấp tư
sán hoặc liên minh giai cấp bóc lột trong nhà nước tư bản
đều dựa trên loại hình sỏ hữu tư nhân này.
Đặc điểm thứ hai của chê độ xã hội tư bản chủ nghĩa là
có sự phân chia xã hội ra các giai cấp, tầng lớp đỗi kháng
và mối quan hệ của các giai cấp, tầng lớp đó đơi với tư liệu
r-án xuất và vai trò của chúng trong việc thực hiện quyền
lực nhà nước là rất khác nhau thậm chí đơi lập nhau. Giai
(ấp nắm quyên thống trị về kinh tê đồng thời là giai cấp
nam quyên lãnh đạo vê chính trị đối với xã hội. Đó là giai
<b>Xem: </b><i><b>Luật hiến ph áp các nước dang ph á t triển.</b></i><b> Viện Nhà nước và pháp</b>
<b>luật. Viện hàn lâm khoa học Nga. M. "Khoa học” 1992, tr.352.</b>
cấp tư sản. Song bản thân giai cấp này cũng có sự phân
hoá sâu sắc. Các giai cấp, tầng lớp khác được tham gia vào
quyền lực chính trị ở các mức độ khác nhau.
Đặc điểm thứ ba là cơ chê chính trị xã hội tư bản chứa• • •
đựng tính chất phức tạp và đầy mâu thuẫn. Trong cơ cấu
hệ thống chính trị của xã hội tư bản có tổ chức thiết chế
thực liiện nền chuyên chính của giai cấp ¿hống trị (như
nhà nước tư bản, đảng chính trị cầm quyên v.v...) (lồng
thời tồn tại các tổ chức trung gian (như các đảng dân chủ -
xã hội) và các đảng phái chính trị độc lập (các đảng cộng
sản và công nhân, các phong trào xã hội, tố chức quần
chúng tiến bộ). Điều đó một mặt thể hiện tính phức tạp,
mâu thuẫn trong nền chính trị tư bản, những mặt khác
cũng cho thấy khả năng phản ánh các lợi ích khác r.hau
của các giai cấp trùng lặp trong hoạt động của nhà nước
tư bản: các tố chức, thiết chê trong hệ thống chính tỉị tư
bản được tham gia nhất định vào việc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước.
Nói điều này khơng có nghĩa là thừa nhận có sự trùng
hợp giữa quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội như nuột
sơ" học thuyết chính trị tư sản rêu rao; hoặc coi tấ t cả c ác
mâu thuẫn chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội tư bản
là "dung hợp khách quan" mà chỉ muôn vạch ra rằng nlhà
nước tư bản hiện đại đang trong chừng mực nhất định vẫn
còn kết hợp được sứ mạng thông trị giai cấp và sứ rrạmg
thống quản xã hội, đại diện hợp pháp cho quyền lực củi scã
hội. Ngược lại nó sẽ bị đánh đổ.
Sau đây phân tích cụ thế về chê độ kinh tê và cơ si scã
hội của các nước tư bản.
<b>II. CHẾ Đ ộ KINH TẾ CI A NHÀ NƯỚC T ư BẢN</b>
<b>Cơ sỏ kinh t ế của N h à nước tư bản là sỏ hữu tư bản tư</b>
nh ân vê tư liệu án xuất xã hội. Khi chê độ tư hữu về tư
liệu sản xuất chiếm địa vị thông trị thì quan hệ sở hữu tư
bản tư nhân cũng quyết định tính chất của các quan hệ
kinih tê trong xã hội tư bản.
Điều này không chi đúng với các nước tư bản phát
triển cao mà còn đúng với cả những nước tư bán phát
triển trung bình và những nước mới được giải phóng đi
theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa, mặc dù ở đó vẫn cịn
tồn tại các quan hệ kinh tê phong kiến và nửa phong kiến.
Với việc phố biến phương thức sản xuất tư bẩn chủ nghĩa
thì sỏ hữu tư bản tư nhân, trong đó có tư bản nước ngồi
ln ln là co' sỏ kinh tê của thông trị chính trị của giai
cấp tư sản, chi phơi tồn bộ đời sông Nhà nước của xã hội
tư bản.
Chê độ kinh tế của Nhà nước tư bản được đặc trưng
chủ yếu bởi chê độ sỏ hữu và chê độ quản lí Nhà nước đối
với kinh tế.
<b>1. Chê đô sở hữu củ a các nước tư bản</b>
Trong các nước tư bản tồn tại nhiều loại hình sở hữu
khác nhau đôi vối tư liệu sản xuất. Phố biến là sở hữu tư
hin tư nhân. Ngoài ra cịn có các loại <i>sở</i> hừu khác như sở
từng loại là khơng giông nhau.
<i><b>1.1. Sở hửu tư bản tư nhân</b></i>
Hiến pháp và luật pháp nhà nước của các nước tư bản
đểu thê hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Thê
nhưng, nhìn chung Hiến pháp và các văn bản luật Nhà
nước tư bản đểu quv định sự thông trị của các quan hộ
kinh tê tư bản, tính thiêng liêng của tư hữu và tự do kinh
doanh v.v... Đơn cử như Hiến pháp Hoa Kì qui định những
vấn đê trên chỉ "trong nửa lòi" hoặc im lặng18.
Ta hãy xem hiến pháp tư bản quy định vê sở hữu tư
bản tư nhân như thê nào. Hầu hết hiến pháp tư sản ít
nhiều đều nói đến quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khu
xâm phạm, quyền tự do kinh doanh cá nhân được bảo
đảm. Hiến pháp Italia 1947 qui định: "Sở hữu tư nhân
được pháp luật công nhận và bảo đảm". Ngay sự im lặng
của Hiến pháp Mĩ đôi với sự tồn tại của chê độ nô lệ cũng
là một sự thừa nhận về mặt pháp lí đơi với thực trạng hiện
- hành có lợi cho quan hệ kinh tế tư bản. Việc trưng mua
hoặc trưng dụng tài sản tư hữu vì lợi ích xã hội hoặc lợi ích
quốc gia thường là không quy định mà nếu có đê cập trong
một sơ hiến pháp thì đều kèm theo điều kiện tiên quyết: là
Các hiến pháp tư sản hiện đại vói mục đích che dấu
bản chất bóc lột của tư hữu tư bản đã long trọng tuyên bố
rằng sỏ hữu tư hản tư nhân thực hiện "chức năng xã hội",
tồn tại vì "lợi ích xã hội" (Hiến pháp Italia 1947), rằng "sở
hữu có nghĩa vụ, việc sử dụng nó cần phải đồng thời phục
vụ lợi ích xã hội" (Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức
1949); rằng "quyển sở hữu được pháp luật quy định phù
<b>1,1 Hiến pháp tư sản trong giai đoạn hiện đại M. Khoa hục" 1983, tr.37.</b>
hợp với sự phồn vinh xã hội" (Hiên pháp An Độ 1950). Một
sỏ hiên pháp cịn có những qui định vê sự phân phôi công
bang sỏ hữu tu nhân.
Những qui định trên đây là điển hình cho nhà nước tư
sản hiện đại, được coi là "Nhà nước pháp quyển", "Nhà
nước phúc lợi chung" và là một trong những phương sách
giáo huấn tư tưởng cho nhân dân.
<i>Sở hữu tư nhản tồn tại dưới ba hình thức</i>: sở hữu tư
bản độc quyển, sỏ hữu tư bản nhà nước và sở hữu tư bản
tư nhân khơng mang tính độc quyền.
<i>Sở hữu tư bản tư nhân độc quyển</i> sỏ hữu tư bản tư
nhún độc quyên chiếm địa vị thông trị hoàn toàn trong
nên kinh tê các nước đê quôc. Những công ty, Tơ-rớt tư
bản được so sánh với những còn bạch tuộc khống lồ, vươn
Tại các nước kém phát triển, tư bản độc quyền ngoại
quốc đã chèn ép sự phát triển của tư bản công nghiệp địa
phương, hình thành một nền kinh tê què quặt ở các nước
dó, chiếm đoạt tài sản quốc gia sỏ tại. Cuộc đấu tranh địi
xố nỢ nước ngoài của các nước thuộc thê giới thứ ba đang
t;ến hành mạnh mẽ lấy cớ phải phân chia lại sản phẩm đã
bị cướp bóc bởi tư bản nước ngồi, khơng phải là khơng có
<i><b>c i HỞ.</b></i>
Chủ thể sở hữu tư bản tư nhân độc quyền vê hình thức
la hiệp hội cố đông. Nhưng thực chất do các nhà tư bản độc
quyền thống trị, bởi họ nắm quyền kiêm sốt các cơ đông.
Các đại hội cơ đơng khơng có vai trị thực tê gì cả; ngay
việc triệu tập đại hội cũng rấ t khó khăn. Ban quản trị hiệp
hội cố đơng cũng chỉ đóng vai trị khơng lớn. Trong khi đó
giám đốc hiệp hội là các nhà tư bản độc quyền hoặc người
thừa kê của họ đã định đoạt sở hữu của hiệp hội mà rất ít
khi bị kiểm soát.. <i>ẹ</i>
Các học giả tư sản thường biện hộ rằng ngày nay <i>ở</i> các
nước tư bản đang diễn ra quá trình "khuếch tán sở hữu"
do có sự tăng sô" lượng cổ đông. Họ khảng định vê sự xuất
Ngoài ra thực tiễn các nước tư bản cho thấy, khơng
phải ngưịi dân nào cũng có cổ phần. Sô" lượng người là cổ
đông chỉ chiếm một sô" lượng rấ t nhỏ trong dân cư. Ví dụ ở
Mĩ đến 90% dân cư không có cổ phần nhưng 1% sơ' gia
đình giầu có lại chiếm tối 80% cổ phần cơng nghiệp. Ở
cộng hồ liên bang Đức 1% gia đình nắm tới 90% cổ phần
và tín phiếu v.v... Khẩu hiệu "dân chủ hoá tư bản" chỉ là
sự che dấu việc "tập trung hoá tư bản" do sử dụng von
liếng của các nhà tư bản độc quyền, tiểu tư sản và một bộ
phận công nhân, viên chức.
Đối tượng của sở hữu tư bản tư nhân độc quyền là hầu
như toàn bộ các lĩnh vực sản xuất cơ bản.
<i>S â hữu tư bản Nhà nước:</i> Bên cạnh sở hữu tư nhân của
các nhà tư bản độc quyền, ỏ các nước tư bản cịn phơ biến
một loại hình sỏ hữu khác là sỏ hữu tư bản nhà nước. Đối
tượng cúa sở hữu tư bản nhà nước là những ngành nghể
kinh doanh quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực công
nghiệp, năng lượng, công nghiệp khai thác, chê biến và
Sỏ hữu nhà nước trong các nước tư bản không phải là
sỏ hữu của tồn quốc (tồn dàn). Đó là sở hữu chung của
những kẻ bóc lột nắm giữ quyền lực nhà nước. Trong các
nưốc đế quốc sở hữu này thuộc về giai cấp tư sản độc
quyền đang nắm giữ chính quyền, là sở "hữu độc quyền
chung". Còn trong các nước tư bản khác đó là sở hữu của
toàn bộ giai cấp tư sản: "sở hữu tư sản chung". Người dân
trên thực tê khơng có một quyền lợi gì đối với các loại hình
sở hữu này. Ai nắm giữ quyền lực nhà nước, người đó định
đoạt sở hữu nhà nước.
Sở hữu tư bản nhà nước được tạo ra bằng nhiều con
đường. Thường thì do nhà nước đầu tư ngân sách đê xây
dựng những cơng trình kinh tê quan trọng (ví dụ ngành
công nghiệp quân sự ở Mĩ). 0 một sô" nước Tây Âu (như
Anh, Pháp, Italia, Áo, Bỉ v.v...) thì sở hữu nhà nước chủ
yếu là do quốc hữu hoá tư bản tư nhân mang lại.
Trong giai đoạn hiện đại, giai cấp thống trị (cầm
quyền) muôn thông qua con đường quốc hữu hoá tư bản tư
nhân đê hạn chế bớt quyển sở hữu của tư bản tư nhân,
nhị đó có thê bảo đảm lợi ích chung của giai cấp tư bản
độc quyền. Song việc này lại đụng chạm đến quyển tư hữu
thiêng liêng đã được hiến pháp tuyên bố và bị coi là biện
ở các nước đang phát triển sở hữu tư bản nhà nước
cũng tương đốỉ phổ biến. Các nhà nước tư bản độc lập thừa
kế tài sản của nhà nước thực dân cũ và tài sản của tư bân
độc quyền nước ngoài bị quốc hũu hoá và chuyển chúng
thành sở hữu nhà nước. Nhưng cũng có nước lại khơng chủ
trương xây dựng sở hữu nhà nưóc mà cho rằng kinh doanh
tư nhân là phương thức phát triển có hiệu quả hơn cả. (Ví
dụ một sơ" nước châu Phi).
<i>Sở hữu tư bản tư nhân khơng mang tính độc quyền</i>
Đó là sở hữu của những nhà tư bản riêng lẻ, một gia
đình tư bản, một nhóm tư bản hoặc một hiệp hội cổ phần.
Đối tượng của loại hình sở hữu này là các xí nghiệp, công
ty tư doanh nhỏ và vừa. Loại hình sở hữu này rất phơ biến
ỏ các nước tư bản đang phát triển.
ở một sô nưốc tương đối phát triển (như Ấn Độ, (các
nước tư bản châu Mĩ La Tinh) thì tư bản tư nhân ruày
chiếm vị trí tương đối mạnh và là loại hình tư bản chủ yếui.
Tuy nhiên sở hữu tư bản tư nhân không mang tính độc
quyển ln ln chịu sự chèn ép của tư bản độc quyển mội,
ngoại quốc. Ó một <i>số</i> nước chậm phát triển thì tư bản độc
<i><b>1.2. Sở hữu </b>cá <b>thê</b></i>
Sơ hữu cá thể tồn tại ỏ tấ t cả các nước tư bản kê cả
p h át triển và đang phát triển. Loại hình sở hữu này chiêm
ti trọng khá lớn trong nền kinh tế. Đó là các loại sở hữu là
kinh tê cá thê của nông dân, thợ thủ công.
Khác với sỏ hữu tư bản tư nhân sở hữu cá nhân khơng
dựa trên bóc lột làm thuê mà do chính lao động của người
chủ sở hữu và thành viên gia đình của họ tạo ra (vì thê còn
gọi là sớ hữu lao động cá thê). Chủ thể của sỏ hữu này là
người lao động riêng lẻ cùng với gia đình họ. Đối tượng của
<b>sỏ </b> hữu cá thể là đất đai nông nghiệp đang sử dụng, gia
súc, cơng trình xây dựng nhỏ, máy móc nông nghiệp,
nguyên, nhiên liệu dùng trong tiêu thủ cơng nghiệp.
Chính sách của nhà nước tư bản đối với loại hình sở
hữu này rất khác nhau. Có nước thì chủ trương xố bỏ hết
kinh tê tiểu nông "không có sức sơng" (dưới 16 ha) như ở
Pháp. Các nước khác chủ yếu ở Châu Á, châu Phi lại
khuyên khích phát triển loại hình sở hữu này.
<i><b>1.3. Sở hữu phon g kiến và các loại hình sở hữu</b></i>
<i><b>tiền tư bản khác</b></i>
ỏ các nước tư bản đang phát triển vẫn còn lưu giữ
hình thức sỏ hữu phong kiến (sở hữu địa chủ) đối với đất
đai và các tư liệu sản xuât khác như gia súc. Trong nhiều
nước châu Á, châu Phi, châu Mĩ La Tinh, hình thức sở hữu
này cịn có vị trí khá lớn.
ỏ một sô nước thuộc châu Phi xích đạo và một sơ" vùng
dân tộc <i>ở</i> các quốc gia châu Á, Ôxtrâylia, Mĩ La Tinh cịn
tồn tại hình thức sở hữu công xã. v ề danh nghĩa đây là
hình thức sở hữu cộng đồng sắc tộc. Song thực tế là do các
thủ lĩnh cai quản, trong điều kiện như vậy, sỏ hữu công >,ã
mang đặc điểm của sở hữu phong kiến.
<b>2. Quản lí Nhà nước đối với kinh tế</b>
Bản thân nền kinh tê tư bản chứa đựng yếu tô' cạnh
tranh và tình trạng tự do vơ chính phủ. Kinh tế học tư bản
cổ điển cổ vũ cho thực trạng đó. Theo đó mọi cá nhân đểu
được tự do kinh doanh, nhà nưốc không can thiệp sâu vào
nền kinh tế, chỉ đóng vai trò "người gác đêm" cho các hoạt
động kinh tế.
Với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà
nưốc đã liên kết sức mạnh của tư bản độc quyển vói sức
mạnh của Nhà nước thành một cơ chê thống nhất áp đặt
vào nền kinh tế. Mặt khác, do yêu cầu quản lí các vấn (ỉề
kinh tế ngày càng đa dạng các mốỉ liên kết toàn cầu vấn
đề năng lượng, bảo vệ môi sinh v.v... mà một thời gian dài
Thòi gian từ sau Chiến tranh th ế giới thứ II ở các nước
tư bản bắt đầu áp dụng rộng rãi lí luận "kinh tế thị trường
xã hội". Lí luận này bắt nguồn từ tư tưởng của chủ nghĩa
tự do kinh tê mối. Chủ nghĩa này chông lại kinh tế tập
trung, chông lại sự can thiệp thô bạo của nhà nước vào
kinh tế, nhưng khơng địi quay lại hoàn toàn với tự do
kinh doanh trước đây. Lí luận kinh tê thị trường xã hội
vừa phê phán lối quản lí tập trung, vừa khơng tán thành
mơ hình kinh tế thị trường tự do vơ chính phủ mà chủ
trương: Nhà nước có trách nhiệm thiết lập một nền kinh tế
hoạt động tự do nhưng có trật tự.
Thực chất của kinh tê thị trường xã hội là thị trường
tư bản chủ nghĩa có sự điêu hành của nhà nước. Nó khác
mõ hình kinh tê thị trường tự do ở chỗ là <i>ở</i> đó nhà nước chỉ
can thiệp ở mức thấp nhất, thậm chí để cho kinh tê tự vận
động. Còn trong kinh tê thị trường xã hội tuy cơ chế thị
trường vẫn điều tiết các hoạt động kinh tê nhưng nhà nước
nắm lấy cơ chê này, làm cho cơ chế kinh tê vận hành theo
quy luật thị trường. Mục đích của sự điều hành kinh tê
của nhà nước là nhằm bảo đảm hoạt động bình thường cho
cơ chê kinh tê tư bản và thu nhiều lợi nhuận.
Sự quản lí của nhà nước tập trung ở các mặt sau:
1- Đê ra kê hoạch phát triển kinh tê hàng năm, năm
Tuy nhiên, kê hoạch hoá tư bản chủ nghĩa chủ yếu
mang tính định hướng. Thông thường kê hoạch gồm hai
phần: a/ Chương trình đầu tư cơ bản của nhà nước; b/
Chương trình gợi ý khuyên khích đầu tư tư nhân tập
trung vào ngành kinh tế nhất định.
2- Ban hành các văn bản pháp luật kinh tê trong đó
chủ vếu xác định những quy tắc về kinh doanh, cạnh tranh,
đôn đốc các chủ thế kinh tê tuân theo pháp luật, xử lí vi
phạm kinh tế. Ví dụ luật pháp Cộng hoà liên bang Đức
quy định: ai nắm 25% cổ phần trở lên, có quyền phủ quyết
trong đại hội cô đông. Ai nắm từ 51% trở lên thì giám đốc
xí nghiệp phải trình báo với ngưịi đó mọi quyết định quan
trọng của xí nghiệp. Ai nắm 75% cổ phần thì có toàn
quyền quyết định vể sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
3- Điều chỉnh các chính sách kinh tê như chính sách
thuế, tín dụng để tác động đến các hoạt động đến các hoạt
động kinh tế của xí nghiệp, cơng ty và cá nhân.
4- Trực tiếp đầu tư và quản lí các cơng trình cơng cộng,
cơng trình <i>cơ</i> sở; góp cổ phần vào những xí nghiệp có tầm
quan trọng đốì với quốc tế dân sinh, ở lĩnh vực này nhà
nước khuyến khích người dân đầu tư kinh doanh vào tất
cả các lĩnh vực kinh tế có lợi, cịn mình đóng "vai trò bảo
5- Quản lí giá cả một số mặt hàng quan trọng và bảo
đảm ổn định. Ví dụ luật giá cả của Bỉ cấm bán hàng hoá
cao hơn giá được pháp luật quy định, hay các nước EC đều
chỉ đạo bán các sản phẩm sữa và lương thực theo giá đã
bàn định.
6- Thực hiện chế độ bảo đảm xã hội, điều chỉnh những
hậu quả tiêu cực trong cạnh tranh như điều chỉnh thu
nhập qua chênh lệch, bảo trợ xã hội, bảo trợ th ất nghiệp.
7- Can thiệp vào lĩnh vực quan hệ lao động như qui
định giò làm Việc, tuổi lao động, quyền bãi công, điều kiện
sa thải lao động.
8- Có chính sáoh chống khủng hoảng, lạm phát.
9- Thành lập các tổ chức, cơ quan thích hợp để quản lí.
Ngồi những cơ quan nhà nước thực hiện chức năng kê
hoạch hoá, còn thành lập nhiều hội các nhà kinh doanh và
cả các quan chức nhà nước làm chức năng định hướng đầu
<b>tư </b> và <b>đỡ </b> đầu cho <b>tư </b>nhân; thành lập các <b>cơ </b> quan quản <b>lí</b>
kinh tè liên hộ (i các địa phương, các Hội đồng kinh tê gồm
các kv sư. các nhà khoa học và kinh tê học có uy tín.
Hoạt động quán lí của nhà nước tư sản qua thực tiễn tỏ
rõ có kết quá nhất định. Các học giả tư sán nói rằng nhà
nước tư sán giò đây đã trỏ thành phương tiện khắc phục
các máu thuẫn của hệ thơng tư bản. tính tự do vơ chính
phủ trong sản xuất kinh doanh và đã chuyên thành "chủ
nghĩa tư bản mới". Nhưng cũng có người cho rằng với sự
thống trị của tư hứu tư nhân tư bản, nhà nước tư bản chỉ
có thê làm giảm đi những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản chứ không thê xoá bỏ chúng. Thực tế vẫn sờ sị ra đó:
nạn lạm phát, sụ lùng đoạn trong cạnh tranh tư bản, ìạm
cỉụng khai thác tài nguyên, phân cực thái quá trong xã hội
và nạn tham nhũng vẫn tiếp tục hoành hành. Tính bất ổn
định của kinh tê tư bán và của cả chủ nghĩa tư bản là một
tất yếu. Tuy nhiên những gì mà nhà nước tư bản đang làm
đối với nền kinh tê cũng có những điều đáng đê chúng ta
nghiên cứu, học tập. Đó là sự kết hợp thống trị giai cấp vối
chức năng xã hội. "Chức năng thống trị giai cấp chỉ có thê
duy trì chừng nào nó làm được chức năng xã hội"
(F.Enghen). Nhà nước tư sản một mặt bảo vệ lợi ích của
giai cấp thông trị, mặt khác cũng phải bảo đảm lợi ích tối
thiểu của các thành viên xã hội mà trước hết là trong lĩnh
vực kinh tế.
<b>III. </b><i><b>CÚ</b></i><b> CẤU CỦA XÃ HỘI TƯ BẢN</b>
Xét vê m ặt bản chất nhà nước tư bản dựa vào giai cấp
tư san đề tồ chức hoạt động. Nói cách khác cơ sở xã hội của
nhà nước tư bản là giai cấp tư sản.
Tuy nhiên, cơ cấu giai cấp của xã hội tư bản - được quy
(tịnh bời cơ cấu kinh tê bao gồm nhiều giai cấp tầng lớp mà
quan hệ của các giai tầng đó đối vối tư liệu sản xuất 'Và vai
trò của họ trong việc thực hiện quyền lực nhà nước là rất
khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Sự phát triển củia chủ
nghĩa tư bản đã làm hình thành trong xã hội hai gi;ai cấp
chủ yếu nhưng đối lập nhau là tư sản và vô sản. Bêni cạnh
đó các tầng lớp trung gian khác cũng có vị trí v;ai trị
khơng kém phần quan trọng.
Nhà nước tư bản, một mặt thể hiện và bảo vệ ltỢi ích<i><sub>' </sub></i> <i><sub>•</sub></i> <sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>• </sub>
của giai cấp tư sản, mặt khác không thể không chú ý lợi
ích của các giai cấp, t.ầng lớp khác trong xã hội Điềm này
như các nhà kinh điển Mác - Lê nin đã vạch rõ - chánh là
vì lợi ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, cơ cấu kirah tế -
xã hội của xã hội tư bản quyết định tính chất của nhà
nước tư bản và ngược lại, vì lợi ích của chính mìnhi, nhà
nước tư bản phải thừa nhận và quy định địa lí pháp lí của
các giai cấp, tầng lớp khác trong việc thực hiện quyển lực
nhà nước. Tính phức tạp của cơ sở xã hội của nhà nước tư
bản là ở chỗ đó. Sau đây xem xét cụ thể địa vị của từng
giai cấp, tầng lớp trong Nhà nưóc tư bản.
<b>1. Giai cấp tư sản</b>
Giai cấp tư sản là giai cấp cơ bản của xã bội tư bản.
Giai cấp này nắm trong tay mình quyền thống trị kimh tế
và thực hiện sự lãnh đạo chính trị xã hội đối với xã hội
thông qua nhà nước. Thành phần giai cấp tư sản trong các
<i>Tư sản độc quyền</i> là bộ phận nắm quyền lực Nhà nước,
tuy điều đó khơng bao giờ được tuyên bô và cùng không
ghi nhận trong bất kì văn bản pháp luật nào. Các nhà tư
san- cùng vậy, tuy không ở đáu quy định họ có các đặc
quyển đặc lợi có quyền lực công như các lãnh chúa phong
kiên trước đây nhưng quyền lực thực tê của họ còn lớn hdn
nhiều. Quyền thông trị của tư bản độc quyền khơng mang
tính pháp lí mà mang tính thực tế.
Cờ sỏ cúa quyền lực chính trị (quyên lực nhà nước) của
tư sản độc quyền là chính ở sự thơng trị tuyệt đôi vê kinh
tê của họ. Do nắm trong tay những phương tiện sản xuất
quan trọng, tư sản độc quyền quyết định toàn bộ chính
sách nhà nước. Trong điều kiện hiện đại, nhà nước tư bản
đa trớ thanh "Uỳ ban quản lí các cơng việc" của giai cấp tư
sán độc quyển.
Trước đây, tư bản độc quyền thực hiện áp bức đối với
xã hội (kê cả chính quốc và thuộc địa). Việc này thúc đẩy sự
gia tăng các giai cấp, lực lượng chống đối của giai cấp vô
san và các tầng lớp dân cư khác. Cơ sở xã hội của nhà nước
tu bản độc quyền một mặt vẫn áp dụng các phương thức
cũ như đàn áp, bóc lột chống lại nhân dân đê bảo vệ địa vị
Tư sản <i>không độc quyền</i> là bộ phận trong giai cấp tư
sản gồm những nhà kinh doanh trung bình trong một sô
ngành sản xuất khơng mang tính chủ đạo. Trong sơ này
cịn có giai cấp tư sản nông thôn, địa chủ mới v.v... Trong
quy (In lực nhà nước, lực lượng này bị đẩy xuống hàng thứ
hai, thậm chí khơng được tham gia thực tê vào quyền lực.
<i>Tư sản mại bản</i> là một bộ phận khá lớn trong giai cấp
tu sản ỏ các nưỏc tư bản kém phát triển, ơ một sô nước.
lực lượng này hình thành khi còn là thuộc địa của các niiớc'
đê quôc (các nước Á Phi - Mĩ la tinh). Tư sán mại bán lúc
đầu phát triển đông đảo trong lĩnh vực thương nghiép,
dịch vụ, sau bao quát cả nền sản xuất. Họ đóng vai trị là
"người trung gian" của tư bản ngoại quốc và tích cực góp
cố phần với họ, hợp tác chặt chẽ với tư bản nước ngồi. Đó
là tư sản mại bản.
<i><b>Tư </b>sản dân tộc</i> phát triển ở một sô nước tư bản kém
phát triển. Họ là bộ phận tư bản "địa phương" - "nội địa",
thường xuyên bị sự cạnh tranh của tư bản ngoại quốc và
cả các thê lực phong kiến - địa chủ chèn ép. Trong điều
kiện hiện đại tư bản tư sản dân tộc là lực lượng chống đê
quỗíc và phong kiến. Chính vì vậy chúng mang ý nghĩa tích
cực và thường đóng vai trị quan trọng trong nhà nước mới
<i>Tiêu <b>tư </b>sản</i> chiếm tỉ trọng khá lớn trong nhiều nước tư
bản. Đó là các tiểu chủ trong công nghiệp, nông nghiệp,
thợ thủ công, người buôn bán nhỏ. Họ là chủ sở hữu tư liệu
sản xuất không lớn lắm và tự mình cùng gia đình tiến
hành sản xuất - kinh doanh. Có th mướn một sơ lượng
công nhân không lớn.
Đặc thù của bộ phận giai cấp tư sản này là ơ chỗ họ
vừa là ngưòi chủ sơ hữu vừa là người lao động. Là ngưòi
chủ <i>sở</i> hữu họ gần với tư sản, nhưng kinh tê của họ nhỏ
mang tính lao động cá nhản nên họ gần với công nhân.
Nhà nước tư bản chấp nhận, đơi khi khun khích họ.
Song vị trí của lực lượng này không lớn.
ở một sô nước tư bản chậm phát triển còn tồn tại <i>giai</i>
<i>cấp phong kiên - địa chủ.</i> Họ có vai trò khá lớn trong nến
chính trị và kinh tế. Cơ sỏ tồn tại của giai cấp này là còn
cl uy t ri sỏ hữu của giai cấp phong kiên - địa chủ đôi với đất
đai, gia súc. Cùng với sự phát triển của phương thức sản
xuàt tư bản chủ nghĩa lực lượng này sẽ chuyên dần thành
các nhà kinh doanh tư bản.
Giai cấp phong kiến - địa chủ này (nhất là ỏ các nước
đang phát triển châu Á, Phi, Mĩ la tinh) cịn có vai trị to lớn
trong bộ máy quyền lực nhà nưốc. Thường là họ tham gia,
2. Giai c ấ p vô sả n
Giai cấp vô sản là lực lượng lao động chu yếu trong xã
hội tư bản. Về mặt xã hội đây là mặt đối lập trong cái
thống nhất tư sản và vô sản. Khi nhà nước thuộc về tư bản
thê hiện và bảo vệ lợi ích của tư bản thì giai cấp vô sản
đương nhiên bị tước mất quyền lực dó.
Trong các nước tư bản tỷ trọng giai cấp vô sản rất khác
nhau. Ớ các nưốc tư bản phát triển, giai cấp vô sản chiếm
đa số, còn trong các nước tư bản kém phát triển tỷ lệ này
còn rất thấp, ơ một sô nước Châu Phi xích đạo, giai câ'p
công nhân chỉ chiếm 2-3% dân cư.
Giai cấp vô sản được phân chia thành hai bộ phận: vô '
sản thành thị và vô sản nông thôn. Vô sản thành thị là
giai cấp công nhân. Vô sản nông thôn là các cô nông, công
nhân nông nghiệp. Bản thân giai cấp công nhân cũng có
thê chia ra công nhân lao động nội địa, công nhân thất
nghiệp. Đặc biệt hiện nay có một bộ phận giai cấp công
nhân được hương ưu đãi, được tiền lương cao biến thành
tầng lớp công nhân thượng lưu. Đó là những cơng nhân có
trình độ tay nghề cao, những chuyên gia về kỹ thuật, lãnh
tụ cúc công đoàn cơ hội, viên chức trong bộ máy nhà nước,
giám định viên trong các xí nghiệp tư bản. Tầng lớp này
dễ thoả hiệp với giai cấp tư sản.
Giai cấp công nhân ở các nước tư bản là lực lượng dấu
tranh chống lại sự bóc lột của tư bản, đòi dân chủ, cải
thiện điểu kiện sống.
Giai cấp thống trị tư bản đã dùng mọi thủ đoạn để xoa
dịu các máu thuẫn giữa tư bản và vô sản. Bên cạnh các
biện pháp đàn áp, các đạo luật chống công nhân, giai cấp
thống trị dùng các biện pháp mua chuộc và thường có
những nhượng bộ nhất định, ó Nhật Bản, Italia chủ xí
nghiệp có những hình thức ưu tiên, ưu đãi và phẩn thương
lớn đốì với cơng nhân làm việc tận tuỵ. 0 Mĩ áp dụng
phương pháp "quan hệ con người", theo đó tất cả đều là
thành viên bình đẳng, cùng tham gia quản lí xí nghiệp và
cùng phân phối lợi nhuận. Một sô" nơi còn áp dụng phương
pháp "dân chủ kinh doanh" cho phép đại diện công nhân
tham gia các Hội đồng kinh doanh, Hội đồng này chỉ là cơ
<b>quan tư vấn. Mặt khác các đại diện công nhân này phần</b>
nhiều là những phần tử cơ hội, cải lương không phải là đại
diện thực sự cho giai cấp công nhân và người lao động.
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư bản ở các
nước tư bản vẫn là một thực tế khách quan.
<b>3. Các tầng lớp xã hội khác</b>
Bên cạnh việc vơ sản hố dân cư trong các nước tư bản
xuất hiện một hiện tượng mới: sự tăng trưởng của các tầng
lớp trung gian. Đó là những người làm nghề tự do (nghệ sĩ,
c;â|> cơ ban, hao quát tất cả các giai cấp kê cả giai cấp vô
s;ảh. Những đại diện của "giai cấp trung gian" hiện tại
nam giữ những vị trí quan trọng trong đời sống chính trị
kirih tê. Và như vậy đã xảy ra cuộc "cách mạng quản lí"
một cách hồ bình mà kết quả là chủ nghĩa tư bản cũ bị
xoa l)ó, thay vào đó là một chê độ xã hội mới: xã hội công
nghệ.
Trên thực tê do kết quả của cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật, tỷ trọng tầng lớp trí thức và vai trò của họ trong
xã hội có tăng lên, nhưng họ không thê và không bao giờ
trỏ thành một giai cấp, họ vẫn chỉ là một tầng lớp xã hội.
nguy trong tầng lớp trí thức này cũng có sự phân biệt. Một
sơ ít trong sơ họ có được vị trí lãnh đạo và trở thành nhà
tư sản lớn. Sơ cịn lại bán sức lao động như công nhân viên
chức. Họ gần gũi với giai cấp vô sản.
<b>IV. MỘT SỐ VẤN ĐỂ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI</b>
Rải rác ở những phần trên khi phân tích chê độ kinh tế
xã hội của chủ nghĩa tư bản nói chung ít nhiều đã đê cập
đến những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại. 0
phẩn này tập trung vào việc phân tích một cách sâu sắc
hrtn các dấu hiệu đặc biệt của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Thuật ngữ chủ nghĩa tư bản hiện đại được dùng hiện nay
Hơn hai chục năm gần đây, chủ nghĩa tư bản có rất
nhiều thay đối. Chính những sự thay đổi này đã góp phần
khắc phục được những khuyết tậ t của chính chủ nghĩa tư
bản do Mác, Ảnghen và Lênin vạch ra, làm cho chủ nghĩa
tư bản không những không "giẫy chết" mà còn tồn tại và
phát triển hơn. Vì vậy việc nhìn nhận và nghiên cứu về
chủ nghĩa tư bản nói chung và về cơ cấu tô chức bộ máy
nhà nưóc tư sản nói riêng buộc chúng ta phải có những cơ
sở nhận thức mới.
Chủ nghĩa tư bản cũng vẫn là cbủ nghĩa tư bán nhưng
có sự biến đổi khơng ngừng của nó. Trước đây, sự biến dổi
này đã được Mác, Ảnghen và Lênin đề cập tới. Trong lí
thuyết Mácxít, nếu khơng kể đến sự điều chỉnh qaan điểm
của chính Mác và Ảnghen khi hai ơng cịn sống, thì nhưng
luận điếm của V.I Lênin vê sự tiêu vong của chủ nghĩa tư
sản ít ra cũng đã có hai lần điều chỉnh.
Lần thứ nhất, liên quan đến việc chuyển thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền ở đầu th ế kỷ này; lần thứ hai, với
sự hình thành hệ thông xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư
bản chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền lũng đoạn
<b>nhà nước. Chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước là sự kết</b>
hợp bộ máy nhà nước với các công ty lũng đoạn trong kinh
tế, lập ra các khu vực kinh tê nhà nước, phân phối lại một
bộ phận đáng kế thu nhập quốc dân thông qua ngân sách
nhà nước; xây dựng hệ thông thu nhập và xử lí thơng tin
làm chỗ dựa cho các hoạt động kinh doanh của các công ty
tư bản49. Cách hiểu này khá vững chắc trong các sách báo
và giáo trình của chúng ta cho đến tận ngày nay.
Nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn không dừng lại <i>ở</i> chủ
nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Đã có sự thay đồi quá rõ
ràng về vai trò nhà nước tư bản, đến mức khái niệm "chủ
<b>49 Xem, Vũ Oanh, Phạm Quốc Sư - </b><i><b>Một sô ván đê về chủ nghĩa tư bản hiện</b></i>
<i><b>đại.</b></i><b> T/c Thơng tin lí luận, số 7, 1993, tr.42.</b>
nghĩa tư bản lùng đoạn nhà nước" cần phải xem xét lại. Từ
đẩu những năm 80, phần lớn các nước tư bán chủ nghĩa đã
diễn ra quá trình tư nhân hố, chấm dứt thời kì của chủ
nghĩa tư bần lùng đoạn nhà nước với sở hữu nhà nước làm
trọng, tức là quá trình chuyển những đơn vị kinh tê sở hữu
nhà nước thành sở hữu hỗn hợp lấy sở hữu tư nhân làm
đáu. ơ Mĩ, chương trình tư nhân hố được coi như bắt đầu
từ năm 1980, khi Rigân trúng cử tống thống, ở Anh
chương trình tư nhân hố gắn liền với tên tuổi của vị thủ
tướng nữ giới có ý chí sắt thép - Thátchơ. Chương trình
này được mệnh danh là "Chủ nghĩa Thátchơ". Chính
chương trình này đã đua bà Thátchơ lên hàng các vị lãnh
tụ đứng hàng đầu nước Anh
Nhật, Pháp bắt đầu tư nhân hoá tư liệu sản xuất chậm
hđn vào khoảng cuối những năm 80. Nêu như đầu những
năm 80, tư nhân hoá chỉ là những cuộc thí nghiệm ỏ một
sơ nước, thì cuối những năm 80 tư nhân hoá trở thành
những chương trình hành động bắt buộc ỏ nhiều nước tư
bản và trở thành một làn sóng mạnh mẽ. <i>Tư nhân hoá </i>
<i>-một bộ phận cấu thành quan trọng của quá trình cải tổ</i>
<i>kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.</i>
Đồng thời với việc tư nhân hoá tư liệu sản xuất, nhà
nước tư sản tiến hành xoá bỏ hàng loạt những đạo luật
kiêm soát, hạn chê phạm vi hoạt động của kinh doanh tư
nhân, giảm bớt một sô"chức năng kinh tê do nhà nưóc đảm
nhiệm, phi tập trung hoá quyền lực kinh tế trong khu vực
nhà nước. Vai trò điều tiết của thị trường tăng lên. Nhà
nước giảm bớt những "tham vọng" đặt các chính sách lên
trên các quy luật thị trưòng và thực sự coi thị trường là
"nhân vật tài phán cuối cùng", c ả i tổ sự điều tiết ở đây thể
hiện trước hết là nhà nước chuyển cho thị trường một loạt
những chức năng điều tiết với khả năng cạnh tranh ngày
càng tăng của nó. Những thay đổi này tối ưu hố, hợp lí
hố hệ thống kinh tế, nâng cao tính linh hoạt và khả náng
thích nghi của nó đáp ứng được sự phát triển của cách
mạng khoa học - kỹ thuật hiện nay.
Sự thay đổi của chủ nghĩa tư bản hết sức gắn liền với
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, chủ nghĩa tư bin đã
lợi dụng được cuộc cách mạng này mà đẩy xã hội tư bản
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã tao ra một
bước ngoặt lớn trong sự phát triển lực lượng sản xuất,
trong hệ thống công nghệ của xã hội tư bản. Với tác dụng
của khoa học kỹ thuật khoảng hai chục năm gần đây,
trong xã hội tư bản xuất hiện nhiều ngành công nghệ mới
với đặc trưng tiêu thụ ít năng lượng. Nền sản xuất thơng
cịn vấp phải giới hạn về nguồn tài nguyên và thị trường
trong nước mà địi hỏi cần phải có những thuộc địa như
trước đây50. Cái cốt lõi của cách mạng khoa học - kỹ thuật
mà chủ nghĩa tư bản lợi dụng được là "tin học". Sự tin học
hố tồn bộ đòi sống xã hội làm cho năng suất lao động
trong xã hội tư bản tăng lên nhiều lần so vói sản xuất cơ
khí trước đây, số lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm
<b>được </b>tăng lên rất nhanh.
Sự thay đổi trong sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện
đại đưa đến khả năng tăng không ngừng tỷ trọng cua các
ngành sản xuất phi vật chất.
Hiện nay, 60 - 70 <i>%</i> giá trị tổng sản phẩm xã kội và
nhân khẩu lao động nằm trong lĩnh vực sản xuất pii vật
<b>50 Xem </b><i><b>Chủ nghĩa tư bản ngày nay,</b></i><b> NXB KHXH 1991, tr.9.</b>
chat"1. Nhiều dự đoán cho rằng vào đầu thê ký XXI, nhân
lực trong lĩnh vực sản xuất chỉ còn chiếm 15 đến ‘20% tông
nhân khẩu <b>lao </b>động’2.
Cùng với sự thay đối mơ hình sản xuất, thành phần
giai <b>cáp </b> công nhân cơ điên ngày càng ít đi, hiện chiếm
chưa đầy một nửa trong toàn bộ giai cấp công nhân. Từ
con sơ nàv khơng ít ý kiến cho rằng hạt nhân của giai cấp
công nhân đã được mở rộng, nó bao gồm cả đội ngũ lao
động trong các ngành sản xuất vật chất và phi vật chất.
Trong xã hội tư bản, các tầng lớp trung lưu chiếm vị trí
đáng kể. Trong những thập kỷ 70 và 80 một bộ phận ngày
càng tăng dân lao động trở thành những chủ sở hữu hoặc
<b>cùng </b> sở hữu vói nhũng nhà tư bản lớn, nhỏ khác nhau.
Trong tầng lớp thông trị tư bản cũng có những thay đổi
kết cấu sâu sắc. Nó khơng chỉ gồm giai cấp tư sản độc
quyến, mà còn bao gồm nhiều tầng lớp quan lại nhà nước,
kỹ trị, những viên chức quản lí cấp cao thuộc nhiều dạng
công ty khác nhau từ những tổ chức công nghiệp đến các
tổ chức khoa học và hoạt động xã hội.
Hệ thống quản lí nhà nước của chủ nghĩa tư bản hiện
nay đã cho phép nhiều người dân lao động tham gia vào
quá trình phân chia lợi nhuận, trực tiếp tham gia vào
quán lí và thậm chí như trên đã nêu, khơng ít người dân
lao dộng đã trở thành chủ sở hữu. Hệ thông này cho phép
khai thác cao hơn khả năng lao động sáng tạo của con người
và điều hoà ở mức độ nhất định mâu thuẫn giai cấp trong
xã hội tư bản.
<i><b>']</b></i><b> Xem Vũ Oanh và Phạm Quốc Sư, Sđd, tr41.</b>
<b>N iư trèn</b>
Chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn hiện nay có nơi
quan hệ quốic tê mới. Mối quan hệ quốc tê này đạt điỢc
trình độ cao hơn và mang lại nhiều chất lượng mới. Nêu
như trước đây, những mối liên hệ quốc tế tư bản chỉ thể
hiện ở sự trao đổi sản phẩm dưới dạng hoàn chỉnh, thì
ngày nay, điểu đó được thực hiện chủ yếu <b>ở </b>việc cùng <b>nhau</b>
sản xuất nhiều sản phẩm, chất lượng cao và hiện đại, với
sự tham gia của hầu hết các công ty thuộc mọi quy mô -ớn,
vừa và nhỏ cả các nưốc tư bản chủ nghĩa. Nhưng trong sự
hợp tác quốc tế đó, vai trò hảng đầu thuộc về các côn£ ty
liên quốc gia.
Chúng trỏ thành nhân vật trung tâm qui định sự phân
chia th ế giới các nước. ĐỐI tượng phân chia thế giới về
kinh tế không chỉ giới hạn ở các vùng kém phát triển,
phần tài nguyên chưa khai thác mà cả vùng phát triển và
trưóc hết là các nưóc tư bản phát triển khác. Cái khác của
quá trình tái sản xuất của các công ty liên quốc gia có tính
quốc tế rộng rãi. Hoạt động của chúng không chỉ động
chạm đến chủ quyền quốc gia của các nước kém phát triển
mà cả các nước tư bản phát triển. Sự phân chia lãnh thổ
thê giới như trước kia khơng cịn nữa. Hệ thống chủ nghĩa
thực dân mới tồn tại nhiều thập niên qua, thay thê cho
chủ nghĩa thực dân cũ, cũng phải thay đổi mang nhiều
hình thức hơn. Sự chia cắt giữa các hệ thống thuộc địa đã
Chủ nghĩa tư bản hiện đại không phải là một khôi
thống nhất, mà mỗi nưốc tuỳ theo đặc điểm và điều kiện
cụ thể, thậm chí tuỳ theo tư tưởng của đảng cầm quyền
mà có một mơ hình phát triển. Giới nghiên cứu Mácxít gần
đây thường nói đện hai mơ hình chính của chủ nghĩa tư
bản: "chủ nghĩa <b>tư </b>bản <b>tự </b>do" của Mĩ và "chủ nghĩa <b>tư </b>bán
xã hội" của Nhật và Đức. Nhà kinh tê học Pháp nổi tiêng
Misen Aphơ trong cuốn: "chủ nghĩa tư bản chống lại chủ
nghía tư bản" cù ig khang định thê giới đang tồn tại hai
mơ hình chinh "vừa là bạn vừa là thù": Mỏ hình thứ nhất
là Mĩ. mỏ hình thứ hai là Đức, Nhật. M.Apbơ cho rằng: lí
tương của mơ hình Mĩ là hạn chê đến mức tối thiếu vai trò
của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Trong mơ hình thứ
hai, thì nhà nước lại quan tâm đến các vấn đề bảo hiểm xã
hội. nạn th ất nghiệp, trợ cấp... ơ mơ hình thứ nhất thị
trường chứng khốn đóng vai trò quyết định, còn mơ hình
thứ hai là ngân hàng.
<b>I. s ự XUẤT HIỆN CỦA ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ</b>• • •
Hiện nay, trong đời sống chính trị của các nước tư bản,
các đảng phái chính trị đóng một vai trị hết sức quan
trọng. Việc nghiên cứu các đảng phái có ý nghĩa rất lớn
Có thể nói một cách chắc chắn rằng các đảng phái chính
trị chỉ được xuất hiện trong cách mạng tư sản, trong xã hội
tư bản chủ nghĩa. Lẽ đương nhiên sự xuất hiện đó phải có
mầm mống trong xã hội'phong kiến. Sự xuất hiện các đảng
phái chính trị được nhiều học giả giải thích như sau:
Trong điều kiện lịch sử mới, quyền lực nhà nước không
cịn nằm trong tay vua chúa và khơng được truyền cho con,
cháu theo nguyên tắc thế tập, mà quyền lực đó được
chuyển giao cho cả một giai tầng. Việc thành lập các cơ
quan quyển lực nhà nước được tiến hành bằng phương
pháp bầu cử, dân chủ.
Một giai cấp hay một giai tầng nào đó muốn cầm
quyền thì giai cấp hay giai tầng đó phải bằng một cách
thức- nào đó tập trung ý chí của mình lại. Việc tập trung
tất yêu dần đến sự ra địi các tơ chức của những người tiên
tiên (đội tiên pho Ìg) nhất, đại diện cho giai cấp hay giai
tầng. Đó là các đảng phái chính trị.
Việc thành lập các đảng phái chính trị của các nước tư
bản thường gắn liền với các hoạt động trong nghị viện.
Nhằm mục đích tập <b>hợp </b> ý chí chung của các nghị sĩ, để
biên những ý chí chung này thành các quyết định của nghị
viện, các nghị sĩ đã tập hợp nhau thành các nhóm. Chính
Tác giả <b>G.s. </b> Duveger đã gắn liền sự xuất hiện và phát
triển của các chính đảng ở phương Táy với sự xuất hiện và
phát triển của quốc hội và quyền phố thông đầu phiếu.
TrƯtìc hết là sự thành lập các khôi những nghị viện có
chung một ý chí ỏ Quốc hội, sau đấy là các uỷ ban vận
độagỊ trong các cuộc bầu cử. Và sau đó, ơng cho rằng việc
liên kết giữa hai lực lượng trên trở thành các chính đảng
hiên nay. Duverger phân biệt chính đảng thành lập bên
ngồi quốíc hội có ý thức hệ vững chắc hơn53.
Đáng thành lập bên trong quôc hội là một đảng xuất
phát từ những khối ở quốc hội. Những đảng thành lập ở
bén ngồi qc hội là những đảng xuất hiện từ sự đấu
trirbh của những thành phần xã hội để có được đại diện
trong quốc hội và để ảnh hưởng đến những quyết định
trong quốc hội.
<b>’* G.s Puverger: </b><i><b>Les p a rtis poliliques</b></i><b> A."Colen, Paris, 1951.</b>
Khơng ít người khác lại cho rằng, sự khủng hoàng ịch
sử trầm trọng dẫn đến sự xuất hiện các đảng phái chính
trị, tức là các đảng phái xuất hiện trong một điều kiện ịch
sử cụ thể. Sự khủng hoảng của đảng này lại làm tiền cìể
cho sự xuất hiện các đảng khác. Những sự khủng hồng
chính trị của phần đông các quốc gia thường đưa đến sự
Một sô người lại cho rằng, sự phát triển và xuất hiện
của các đảng phái là thể hiện trình độ phát triển của xã
hội. Họ cho rằng, trình độ phát triển xã hội địi hỏi phai có
những lực lượng cải cách xã hội. Chính những địi hỏi đó là
tiền đê cho việc xuất hiện các đảng phái chính trị. Đấy là
hậu quả của những thay đổi kinh tê xã hội sáu rộng. Sự
bành trướng của các hệ thống thông tin đại chúng, sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và lưu thông, ảnh hương xã
hội của sự đô thị hố là những yếu tơ" cần thiết cho sự
thành lập các tố chức chính trị rộng lớn54.
<b>II. KHÁI NIỆM VỂ ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ</b>
Có rất nhiều định nghĩa vê các đảng phái. B.Konstan
đại diện cho các trường phái bảo thủ ở Anh quốc cho rằng,
đảng phái là tập hợp những ngưòi theo những học thuyết
chính trị giơng nhau35.
Nhà triết học chính trị Xơ viết Anatơli Butenkơ đưa ra
định nghla: "Chính đảng là tổ chức chính trị đoàn kết
những đại diện tích cực nhất của các giai cấp xã hội nhất
định (hay một nhóm xã hội) và thể hiện (trong văn kiện
<b>;>í Trần Thị Hồi Trân: </b><i><b>Lực lượng chính trị.</b></i><b> ql: Các chính đàng Sài Gịn.</b>
<b>1972, tr.55.</b>
<b>” Xem, </b><i><b>Chính trị học,</b></i><b> 1, NXB Thông tin Khoa học Xà hội, H.1992, tr.43.</b>
ctKing lĩnh và các văn kiện khác) những lợi ích cơ bản của
giai càp dó.
Chức năng quan trọng nhất của đảng là tìm ra những
phương hướng <b>v à </b> phương tiện thực hiện những lợi ích đó,
là người tó chức những hoạt động của giai cấp và của các
đồng minh của 11Ĩ"".
Đáng là một tó chức chính trị thể hiện lợi ích cả giai
cấp xã hội nhất định (các đang công nhân, tư sán, nông
dân. dân chủ cách mạng v.v..). Sự tồn tại của một đảng
gắn bó với cuộc đấu tranh đê giành chính quyền, thoả mãn
những lợi ích giai cấp và đạt tới mục tiêu cuối cùng của nó
là tro thành giai cấp cầm quyền. Có thê nói một cách chắc
chán rằng khơng có một đảng phái nào không co mục tiêu
trổ thành đảng cầm quyển. Khi trỏ thành đảng cầm
quyền, đáng đứng ra thành lập Chính phủ đê thê hiện ý
chí thống trị xã hội của giai cấp mình.
Vì vậy. chức năng duy nhất của đảng phái chính trị là
tập hợp lực lượng đê trở thành đảng cầm quyền. Nếu
khơng có mong mn giành chính quyền thì khơng thê là
đảng phái chính trị.
Mn trở thành một đảng phái chính trị, thì đảng đó
phái đạt được một sô tiêu chuấn nhất định. J.LaPalombara,
người Mĩ, một trong những c h u y ê n gia có uy tín nhất về
đảng phái về bán chất là người đại diện cho hệ tư tưởng
một tố chức, nghĩa là có một sự liên kết con người tương
đốỉ lâu dài theo thời gian thành các thành viên (đảng viên)
<b>Xem Butenkô Anatôli, </b><i><b>Đảng trong hệ thông chinh trị của xã hội XHCN.</b></i>
<b>NXB APN, Maưcơva, 1987. tr.19.</b>
hợp thành, là một thiết chê mà nhờ đó đảng khác với các
tập hợp người khác. Thứ ba, mục tiêu của đảng là giành và
thực hiện quyền lực nhà nước. Trong hệ thống (ta đảng tự
thân đảng khó có thể trở thành đảng cầm quyền. Muốn trỏ
thành đảng cầm quyền, đảng đó phải có chương trình vận
động tranh cử, phải <b>được </b>I\hân dân tính nhiệm. <b>Vì </b>vậy yếu
tố thứ tư là, mỗi đảng phải cô gắng bảo đảm cho mình một
sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân57.
Dựa trên cơ sở các yếu tô" xác định các đảng phái của
giáo sư LaPaLombara, Quaerrnonne đưa ra định nghĩa vê
các đảng phái như sau: "Các đảng là lực lượng chính trị có
tố chức, liên kết công dân có cùng khuynh hướng chính trị
nhằm động viên ý kiến vê một sô mục tiêu nhất định và đê
tham gia vào các cơ quan quyền lực đê hướng quyên <b>lực</b>
đến chỗ đạt được những yêu cầu đó"58.
Trong thực tế, nhiều khi thuật ngữ "chính đảng" bị
lạm dụng khi dùng nó chỉ những nhóm khơng có tổ chức,
khơng có hậu thuẫn. Nhưng thực ra như những dấu hiệu
<b>III. VAI TRÒ CỦA CÁC ĐẢNG PHÁI TRONG T ổ CHỨC VÀ</b>
<b>HOẠT ĐỘNG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TƯ SẢN</b>
Trong phần I, II nói vê sự xuất hiện và định nghĩa các
đảng phái ít nhiều đã để cập đến vị trí, vai trị của các
đảng phái chính trị trong xã hội. Phần này chi tập trung
<b>’ Xem, </b><i><b>Chính tri học</b></i><b> Sđd, tr.44.</b>
<b>Xem, </b><i><b>Chinh trị học</b></i><b> tr.44.</b>
phân tích vị trí, vai trị các đáng phái trong tô chức và
hoạt cíộntí của hộ máy nhà nước tư sán.
Có thẻ nói rằng, trong đời sống chính trị hiện nay của
nhòt nuỏc tư sán. hoạt động của các đáng phái chính trị
đón g một vai trị hết sức quan trọng. Hoạt động của đáng
phái đã làm cho các cơ quan nhà nước hoạt động không
the<0 quy dinh của pháp luật và trở nên hình thức. Đây
cũiiiỊ là nguyên nhân làm cho hién pháp, pháp luật của
nhà nước tư bản mang tính giả tưởng, khơng có hiệu lực
pháp lí trên thực tê.
Theo quy định của pháp luật nhà nước Anh, Nữ hồng
điíỢic quyển bố nhiệm Thủ tướng Anh - Người đứng đầu hộ
Tại Anh một khuôn mẫu của loại hình chính thế quân
chủ đại nghị, theo quy định pháp luật: Chính phủ phải
chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Bởi vì Chính phủ được
thành lập dựa trên cơ sỏ Nghị viện. Nhưng trên thực tê
kiông phải như vậy. Đảng cầm quyền (Đảng bảo thủ),
đing chiếm (ta sô ghê ỏ Hạ viện có quyền đứng ra thành
lập Chính phủ. Chính đảng này với đa sơ ghê của Hạ Viện
Anh đã thao túng toàn bộ việc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước tư sản Anh, trước hết là thao túng hoạt
động của Hạ nghị viện.
ở Anh, Mĩ và những nơi có hệ thơng lưỡng <b>đáng, </b> một
trong hai đảng này thay nhau cầm quyền. Cịn <i>ở</i> nhũng
nước có hệ thống đa đảng, khơng có đảng nào chiếm đa <i>số</i>
ghê trong quốc hội, thì buộc phải thành lập chính phủ liên
Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của các đảng phái chính trị
là phấn đấu trỏ thành đảng cầm quyền. Và muốn trở
thành một đảng cầm quyền, thì trước hết chính đảng phải
có vai trị tổ chức để vạch ra "ý chí chung", tiên hành một
cuộc đấu tranh bằng nhiều biện pháp đê giành được chinh
quyền nhà nưốc. Tất cả những vai trò khác sẽ đi từ vai trò
này một cách tự nhiên.
Đời sống chính trị địi hỏi những khuynh hướng, những
lập trường chính trị khác nhau phải được kết thành những
ý chí nhất định. Các chính đảng phải hành động như
những cơ quan xúc tác phối hợp những nguyện vọng tiềm
tàng, hệ thống hoá những tiềm vọng, những ý kiến khác
nhau, thậm chí có nhiều khi còn mâu thuẫn lẫn nhau,
thành một chương trình hành động cụ thể, thành một
chính sách nhất định.
Vạch ra một chương trình chung giành chính quyền là
một chức năng quan trọng nhất của các đảng phái chính
trị. Ngồi ra, các đảng phái chính trị cịn một sô chức năng
nữa như giáo dục tư tưởng, tuyên truyền phơ biến tư
tưởng của mình cho quần chúng. Nhưng, cũng chỉ là
những chức năng phụ cho chức năng cơ bản nêu trên.
Các đáng phái chính trị tư sản trò thảnh đảng cầm
quyến thông qua các cuộc bầu cứ nghị viện. Trong thê giới
tư hán, bầu cử là cuộc đấu tranh giành giật rất gay gắt
giữa các đáng phái chính trị. Thông qua bầu cử, xác định
Mặc dù được quy định hay không được quy định thì
việc giới thiệu ứng cử viên vào nghị viện, vào các vị trí cao
nhất của nhà nước tư san thực tê đều là thẩm quyền riêng
của các đảng phái chính trị. Lịch sử đã cho thấy không
m ấ y người ứng cử tự do mà trỏ thành đắc cử. Việc các nước
rư sản áp dụng phương pháp báu cử đại diện tỷ lệ, bầu cử
theo thể thức liên danh chính là bầu cử theo đảng pháifi0.
Sau khi đã trỏ thành đảng cầm quyền - đảng chiếm đa
sỏ ghê trong nghị viện, đảng mà ứng cử viên của mình
thắng cử trong cuộc hầu cử tống thơng có quyền đứng ra
thành lập Chính phủ. Mọi hoạt động của Chính phủ này
đều phải thể hiện ý chí của đảng cầm quyền thơng qua ý
chí của ngưịi thủ lĩnh.
Việc nhân dân Mĩ lựa chọn bầu tống thông cũng như
nhân dân Anh lựa chọn bầu hạ nghị sĩ vảo Hạ viện chính
là việc nhân dân các nước này lựa chọn một đảng phái
chính trị làm đại diện cho họ.
<b>>5‘ Xem. Nguyễn Đăng Dung: </b><i><b>Quốc hội nước cộng hoà XH CN Việt N am</b></i><b>, NXB</b>
<b>Pháp lí, </b>Hà <b>Nội 1992, tr.40.</b>
<b>w,Xem, phấn </b><i><b>tìẩu cứ</b></i><b> chương VII của giáo trình này.</b>
Một trong những vai trò không phấn khởi lấm của các
đảng phái chính trị tư sản, nhưng rất quan trọng, lả vai
trò đối lập của các đảng phái chính trị không cầm quyển.
Đây là một vai trò tê nhị vê sự đôi lập trung thành thật
cần thiết cho một chính thể độc tài*1. Sự đối lập nà) thê
hiện rất lõ trong hoạt động các đảng phái chính trị của
nhà nước Anh, Mĩ, nơi điển hình của hệ thống lưỡng đảng.
Ngồi Chính phủ đang cầm quyển, pháp luật Anh còr cho
phép thành lập "Nội các trong bóng tối" của đảng phái clôi
lập. Thủ tướng cả "nội các trong bóng tối" này được nhà
nước trả lương. Nhiệm vụ cụ thể thê hiện chức năng đôi
lập của đảng đốì lập là tìm ra những khiếm khuyết trong
chính sách của đảng đang cầm quyền, canh chừng cẩn '.hận
những người đang thi hành nhiệm vụ cai trị đất nước dưới
sự hướng dẫn của đảng đa sơ" đang cầm quyền. Chính sự
đối lập này đã có tác dụng nhất định trong việc thận trọng
hơn khi nhà nước tư sản đưa ra những quyết định của
mình. Sự đối lập này được gọi là sự đối lập có trách nh ệm.
Đánh giá vị trí vai trò của các đảng phái chính trị tư
sản, thạc sĩ công pháp Nguyễn Văn Bơng viết: "Kinh
nghiệm chính trị cho chúng ta thấy rằng hệ thống các
chính đảng rấ t mật thiết ảnh hưởng đến cuộc sơng c.iính
trị của quốc gia. Một chính thể độc tài thường được dựa
trên một chính đảng duy nhất. Trái lại sự hiện hữu của
<b>61 Clinton Rossiter: </b> <i><b>Đ ảng ph á i và chinh trị ở Hoa Kiy</b></i><b> tủ sách Kirr» Víăn</b>
<b>1972, tr.109.</b>
<b>62 Xem, Nguyễn Văn Bông: </b><i><b>Hiên ph áp và chính trị học.</b></i><b> Sđd tr.184.</b>
IV. PH AN LOẠI CÁC II ị: THỐNCỈ ĐẢNG PHÁI T ư SẢN
Các hệ thống đ: ng phái ỏ các nước tư sản hiện nay rất
đíì dạng phụ thuộc vào (tiều kiện lịch sử, kinh tế. xã hội.
Đê có hiểu biêt sâu sắc các đảng phái chính trị nhà nước
tư sản cần phải có sự phân biệt giữa các đảng phái với
nhan, theo các tiêu chuẩn khác nhau.
Cách phân loại được áp dụng rộng rãi nhất hiện nay là
phán thành các nhà nước có hệ thơng đa đảng và các nhà
nước có hệ thống lưỡng đảng. Hệ thông đa đáng là hệ
thõng của các nước có nhiều đảng phái tồn tại, các đảng
phái này buộc phải liên minh với nhau đê thành lập Chính
phủ. khơng có đảng nào chiếm đa sô tuyệt đối trong nghị
viện. Đây ỉà trường hợp của Pháp, Italia, Cộng hoà liên
bang Đức. Hệ thông lưỡng đảng là hệ thơng ỏ các nước có
hai đảng thay phiên nhau cầm quyền. Một đảng cầm
quyền và một đảng đôi trọng với đảng cầm quyền. Đó là hệ
thơng đảng của nhà nước Anh, nhà nước Mĩ.
Bẽn cạnh việc hình thành hệ thống đa đảng và lưỡng
đảng, cịn có hệ thơng một đảng độc quyền lãnh đạo chính
quyền.
Giải thích nguyên nhân có hiện tượng đa đảng, lưỡng
đáng, độc đảng,
ở nơi nào mà việc bầu cử áp dụng nguyên tắc (chê độ)
đại diện tỷ lệ thì ở đó sẽ phát sinh các đảng nhiều hơn và
sẽ có đa đảng. Đó là ở Cộng hồ liên bang Đức, Cộng hoà
Pháp... Bỏi vì sơ ghê trúng cử được phân tỉ lệ theo sô phiếu
thuận mà các đảng phái nhận được. Đảng nhận được
<b>lỉ.x Puverựer: </b><i><b>Les p a rtis politiques.</b></i>
nhiều phiếu thuận sẽ thu được nhiều ghế, đảng ít phiếu sẽ
thu được ít ghê hơn6'. Một sơ" người khác còn cho ràng, <b>n ộ t</b>
chế độ đại nghị dành nhiều quyền hành cho quốc hội dã
giúp cho hệ thống đa đảng bành trướng65.
ở nơi lào mà việc bầu cử áp dụng nguyên tắc bầu hai
vòng: Vòng đầu những ứng cử viên nào thu được (ta sô
tuyệt đối phiếu thuận sẽ trúng cử. Vòng hai người trung
cử là đa số phiếu tương đối. Do đó, trong vòng đầu <b>các</b>
đảng ra ứng cử đế cầu may, nếu khơng được thì <b>sẽ </b> liên
minh với nhau đê tranh cử ỏ vòng hai (Pháp).
ở nơi nào mà xác định kết quả bầu cử theo nguyên tắc
đa số tương đối một vịng thì dê dẫn đến chê độ lưỡng
đảng. Vì theo chê độ (nguyên tắc) này, người trúng cử chỉ
cần nhiều phiếu hơn không cần phải quá bán tuyệt đối.
Làm như vậy những đảng phái thu được ít phiếu hơn dễ
tập hợp, liên minh với nhau để chống lại đảng có sô phiêu
thuận nhiều hơn.
<b>Ngược lại với </b>quan điểm <b>trên, G.Lavau cho rằng </b>chê độ
<b>đầu phiếu chỉ là một yếu tô' nhỏ so với nhiều yếu tô </b> khác
<b>ảnh hưỏng. </b> Để <b>minh chứng, G.Lavau nêu ra hai trường</b>
<b>hợp sau đây: trường hợp lưỡng đảng đã có ở Bỉ, mặc dù ở</b>
<b>đây áp dụng nguyên tắc (chế độ) đầu phiếu hai vòng;</b>
<b>trường hợp Canada ngược lại, ỏ đây áp dụng chê độ đầu</b>
<b>phiếu đa sô một vịng nhưng tình trạng đa đảng ở đây vẫn</b>
<b>là một hiện thực66.</b>
<b>Trong một nước đa đảng, Chính phủ được thành lập là</b>
<b>một Chính phủ liên hiệp vì khơng có một đảng nào chiếm</b>
<b>64 Xem phần </b><i><b>Bầu cử</b></i><b> của giáo trình này.</b>
<b>88 Xem Trần Thị Hồi Trân, </b><i><b>Chính đ ả n g</b></i><b>, Sài Gòn, 1972, tr. 176.</b>
<b>68 G. Lavau </b><i><b>P artis poliliqu es et realite's so cia ls</b></i><b>, Paris, 1953.</b>
dược đa sỏ mlìê trong quốc hội. Chính phủ (nội các) khó thi
hành được những chính sách có chương trình quy mô và
<b>liên rục. dễ xay ra những trường hợp bất ôn định chinh trị.</b>
Sự cạnh tranh khơng ngừng chốn hết. tâm trí và thời gian
của các nhà cầm quyền. Họ phải mất nhiều thời giò đê đơi
phó <b>với </b> sự cơng kích liên tục của nhiều đáng đôi <b>lập. </b> Sô
đáng quá nhiều là một trỏ ngại cho việc điêu hành Chính
phủ. Chính cuộc chính biến 13-5-1958 đưa đến việc thành
lập Đệ ngũ cộng hoà đê chống lại "chê độ đa đảng phái"
của Đệ tứ cộng hồ Pháp'17.
Chính vì những khuyết điểm trên cho nên có rất nhiều
quan điểm cho rằng, đa đảng đến mức độ nhiều q sẽ khó
khăn cho địi sống chính trị ỏ mỗi nước. Ngược lại một
đáng cầm quvền, tức là chê độ một đảng, thì họ lại cho
rằng sẽ dễ quan liêu, dễ trở thành độc tài chuyên chế. Vì
vậy, có nhiều khuynh hướng cho rằng nên chăng là chê độ
lưỡng đảng như của Anh và của Mĩ là tốt nhất.
Trong xã hội Anh, người Anh quan niệm hết sức giản
đơn sự hoạt động và hình thành chê độ lưỡng đảng. Chính
trị cũng như một trò chơi thể thao vậy, cần phải có một
bên thắng và bên bại. Còn ở Mĩ (Hợp chủng quốc Hoa Kì)
<b>trong tiềm thức của nhân dân Mĩ, chỉ muốn có hai đảng,</b>
khơng bao giị người ta mn có một đảng thứ ba hoặc độc
<b>đảng. Đã hơn 200 năm nay kề từ khi thành lập Hợp chủng</b>
<b>quốc Hoa Kì, nếu có nguy cơ là ba đảng thì người ta lại tìm</b>
cách loại trừ đi một đảng, hoặc tìm cách nhập chúng lại tại
r.hững nơi đầu phiếu. Khi mà có nguy cơ một đảng, thì họ
lại khơi dậy một khả năng sinh ra một đảng khác.
<b>" Trần Thị Hồn Trân, </b><i><b>Chính đảng,</b></i><b> Sđd, trl77.</b>
Mậc dù cùng nằm trong hệ thông lưỡng đáng, nhưng
cách thức tố chức hai đảng của Anh cũng có những điếm
khác của Mĩ. Nếu như đảng Bảo thú và Công đảng ỏ Anh
có một tổ chức chặt chẽ, thì ở Ml đảng Cộng hoà và đáng
Dân chủ lại không phải như vậy. Nếu như <i>ở</i> Anh, Thủ
tướng Anh bao giò cũng yên tâm rằng các đảng viên thuộc
đảng của mình ln ln ủng hộ (bỏ phiếu) cho chính sach
của mình, thì ở Mĩ Tổng thống - người đứng đầu bộ máy
hành pháp - lại chưa thể có được sự an tâm đó. Nếu như ở
Anh, đảng viên phải sinh hoạt trong một tô chức đáng
nhất định, thì ở Mĩ điều này không cần thiết: chi cần
tuyên bô ràng trong đợt bầu cử tới sẽ bỏ phiêu cho úng cử
viên của đảng nào thì được tính là đảng viên của đảng đó.
Điểm giơng nhau giữa hai hệ thông lường đảng của hai
nước tư bản phát triển này, đồng thời cùng là đặc điểm
của hệ thông đảng phái chính trị tư sản là chúng 1 hòng
dựa trên một nền tảng tư tương nào nhất định. Đảng Cộng
hoà gần giống như đáng Bảo thủ thường đại diện cho
<b>quyên lợi của dòng dõi tư sản quý tộc gắn liền với tầng lớp</b>
phong kiến, tầng lớp thượng lưu của giai cấp tư sản. Bảo thủ
Công đảng và đảng Dân chủ đại diện cho tầng lớp tư
sản mới và đồng thời hai đảng này đều mệnh danh bảo vệ
quyền lợi cho quần chúng nhân dân lao động. Nhưng nhìn
chu 11Ị.Ĩ các (lang trên đều (lạt lợi ích cua giai cấp tư sán lên
hàn ự đáu. cho nén chính sách cua các đáng nhiều khi khó
phá 11 biệt. Mặc dù qua mỗi lần hầu cứ, các đáng câm
quyến có thê thav đơi nhưng nhìn chung chính sách thì lại
khóiụí thay đơi. Chăng hạn ngày 20-1-1993 chính quyền
( ’linitón cua đáng Dân chú thay chính quyền Bush của
đảng (’ơng hồ, nhưng chính quyền Clintdn tuyên hố van
tiêp tục chính sách ngoại giao trước đây của chính quyền
Bush.
Nhạn định về sự gióng nhau của hai đáng cẩm quyền
Mĩ. tác giá David Cusman Coyle viết: "Đến nay, hai đảng
(Đảmg I’ộng hoà va đảng Dán chu) giông nhau <i>ở</i> rất nhiều
điếm đến nỗi đôi khi hai đảng được gọi là hai anh em sinh
đôi. Cứ hai năm một lần hai đảng lọi thoả thuận so tài
một trận, mà trong đó cả hai đều được háo vệ vừa đủ đê
Hệ thông lưỡng đảng của Anh vì có tổ chức chặt chẽ và
có kỷ luật, khác hệ thơng lưỡng đảng Hoa Kì.
Ĩ Anh, hệ thông lưỡng đảng đã đưa đến một chính
quy«ền đảng trị, sự lãnh đạo quổíc gia của một đảng cầm
quyển. Hành pháp và lập pháp đều được tập trung cho
đảnịg cầm quyền. Chính phủ (nội các) của Anh chẳng khác
gì rnột Ban chấp hành trung ương của đảng cầm quyên.
Trọng tâm của các quyết định quan trọng được Quốc hội
Anh thông qua là hợp lí hố các dự án của chính phủ.
Nhưrng chỉ có một điểu khác làm cho nền chính trị Anh ổn
định là ở Quốc hội có tồn tại một đảng đốỉ lập.
<i><b>"9</b></i><b> David Cusman Coyle; </b><i><b>Cách thức tổ chức và sự điều hành của nền chính</b></i>
<i><b>t rị Hoa Kì,</b></i><b> Sài Gịn, 1972, tr.27.</b>
ở Hoa Kì, thì ngược lại, khơng có một chinh qu>ền
đảng trị. Các cuộc bầu cử Quốc hội Mĩ và bầu cử tơng
thống khơng được tiến hành đồng thịi (lệch nhau), cho nên
có thể có trường hợp Tống thông và đa số nghị sĩ không
cùng một đảng. Trong trường hợp này nếu như đảng phái
có tổ chức chặt chẽ như kiểu của Anh, thì chính quyền sẽ
dễ. đi đến chỗ mâu thuẫn giữa hành pháp và lập ph.tp.
Nhưng ở Mĩ khơng có tổ chức đảng chặt chẽ cho nên giữa
lập pháp và hành pháp rất dễ dàng hợp tác với nhau để
quản lí Nhà nước.
Ngoài những cách phân loại trên, nhiều học giả còn
<b>tiến thường được gọi là đảng cánh tả đế phân biệt giữa</b>
<b>trường phái không cách mạng và cách mạng. Cho đến hiện</b>
<b>nay đảng theo khuynh hướng bảo thủ thường là đảng giữ</b>
<b>chính quyền. Đảng Bảo thủ ở Anh, đảng Cộng hoà ỏ Mĩ,</b>
Đảng Dân chủ tự do ở Nhật là những đảng hiện nay đang
<b>cầm quyền thường có khuynh hướng bảo thủ. G iải thích</b>
<b>hiện tượng này, nhiều người cho rằng bảo thủ là sự thể</b>
hiện tính cẩn trọng, chậm chắc, bình tĩnh để suy đốn
<b>từng vấn đề. ít nhiều chính những tính cách này (phương</b>
<b>pháp chủ đạo này) đã tạo nên thế ổn định cho sự phát</b>
<b>triển của xã hội, góp phần đưa đất nước đi lên. Đó là sự</b>
<b>nhận định của thời kì sau Chiến tranh thê giới thứ II, thịi</b>
<b>kì thê giới hình thành hai cực. Sau khi Liên xô tan rã và</b>
hệ thông các nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu bị sụp đổ, thì
uv tin của các đánỊỊ thuộc khuynh hướng bảo thú ỏ một sô
nước đang giám sút như ở Anh và nhát là ở Nhặt Bản.
<b>D â n </b> chủ tự do đưựe hình thành từ năm 1955 do <b>việc </b> hợp
nhát hai đáng bảo thủ. hiện nay đang bị khủng hoảng.
Trước đây cục diện thế giới gồm hai cực đôi đầu đã khiến
Nhụt Bản vốn nằm giữa hai thê cực đó, ln ln có cảm
giác căng thang. Chính vì vậy, khuynh hướng bảo thủ vê
<b>chính trị đã chiêm ưu thế. Người ta cho rằng, nền chính trị</b>
ổn định tương đôi của Nhật Bán đã giúp nước này tồn tại
va phát triển trong hai thê cực đo. Cùng với sự tan vỡ của
hai thế cực, Nhật Bán không ngừng tăng cường ảnh hưởng
của mình. Những thành công về mặt kinh tê đã giúp Nhật
trở thành những thành viên bình đang với các nước
phương Tây chủ chốt. Chính thực tê đó, nhiều người cảm
thấy nền chính trị của Nhật Bản quá lạc hậu, từ đó nảy
sinh ra những ý muôn cải cách. Đấy là nguyên nhân gây
nơn tình trạng khủng hoảng chính trị Nhật Bản tháng 6
năm 1993, kết quả là Chính phủ của Đảng dân chủ tự do
do Thủ tướng Miyazawa cầm đầu bị mất tín nhiệm và Hạ
nghị viện phải giải tán.
<b>V. C ơ CẤU T ổ CHỨC CÁC CHÍNH ĐẢNG</b>
<b>1. Cơ cấu tổ chứ c đ ản g tro n g các nghị viện</b>
ở các nước tư bản, hoạt động của các nghị sĩ mang tính
đảng phái hết sức rõ rệt. Các nghị sĩ trực thuộc một đảng
thường được tập hợp thành một nhóm gọi là nhóm đảng
phái nghị viện. Hoạt động của nhóm đảng phái này ảnh
hưởng rất lớn đến nghị viện. Thông qua các đảng viên nghị
sĩ mà đảng phải thực hiện sự ảnh hưỏng của mình đối với
Nhà nước và đối vối xã hội. Đôi với đảng cầm quyển, thông
qua nghị sĩ mà lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội.
Theo quy định của quy chê nhiều nghị viện, mn
thành lập nhóm đảng phái trong nghị viện, thì ít rhất
đảng nhái đó phải có một sô lưdng đảng viên - nghị sĩ rhất
định, tuỳ theo quy định của mỗi nước. Ớ Cộng hoà liên
bang Đức là 15, Thuỵ Điển - 5. Nếu đảng nào không đi sô
lượng mà quy chế nghị viện quy định thì có thể liên kêt với
các đảng phái khác (Italia).
Trong thành phần của mỗi nhóm đảng phái có Chủ
tịch, có thế có Phó Chủ tịch, Thư ký và các nghị sĩ - đảng
viên. Chủ tịch, Phó chủ tịch thưịng có trách nhiệm lĩnh
đạo và giữ gìn kỷ luật đảng đốì với đảng viên. Đê cho
quyết định của các nhóm đảng viên - nghị sĩ không náu
thuẫn với cơ quan lãnh đạo toàn đảng, ở đa sơ các nưóc tư
<b>bản Chủ tịch đảng phái nghị viện thường là ngưòi lĩnh</b>
<b>đạo cơ quan trung ương của đảng.</b>
ở nghị viện Anh 70 có hai nhóm đảng phái chính: rủóm
<b>Cơng đảng và nhóm đảng Bảo thủ. Nhóm Cơng đảng bao</b>
<b>gồm tất cả các nghị sĩ là đảng viên Công áảng. Những</b>
<b>nghị sĩ đảng viên này bầu Chủ tịch. Vị Chủ tịch này dồng</b>
<b>thời là thủ lĩnh toàn bộ Công đảng. Nếu đảng này giìràh</b>
<b>được chính quyền thì vị chủ tịch đương nhiên sẽ là rh ủ</b>
<b>tướng nước Anh. Bên cạnh Chủ tịch, các đảng nghị sĩ Cơng</b>
đảng cịn bầu ra Phó Chủ tịch, Phó Chủ tịch có nhiện v ụ
<b>thay mặt Chủ tịch giải quyết các cơng việc có liên qaam</b>
<b>70 Các nhóm đảng phái thường chỉ được tổ chức ỏ Hạ nghị viện.</b>
(tên đáng viên là dại biểu và cá công việc khác của đảng
viên ngoài nghị viện. Ngoài hai chức sắc quan trọng trên,
các đáng viên nghị sì Cơng đáng cịn bầu Chief Whip (cái
roi chính) có nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ ký luật đảng
của các đáng viên nghị sĩ trong việc tham dự và biêu quyêt
<i>ở</i> các phiên họp theo sự chỉ dẫn của đảng. Nghị sĩ nào biểu
quyết trái với chi dẫn của đang, thì phải tuyên bơ từ bỏ
đảng mà mình trực thuộc.
So với các Công <b>đảng </b>việc tơ chức các nhóm đảng viên
nghị sĩ của đảng Báo thủ còn tập trung hơn. Thủ lĩnh đảng
Bảo thủ không cần phái bầu lại thường xuyên hàng năm
như Còng đảng. Sau lán bầu, thủ lĩnh có nhiệm kì suốt
đời, trừ trường hợp tự nguyện từ chức hoặc mệnh chung <i>71.</i>
Trường họp khuyết, thì hạ nghị sĩ thường nhóm họp lại
Việc tố chức các nhóm đảng phái nghị sĩ trong Quốc
hội Mĩ vê cờ bản giống của Anh. Hình thức hoạt động chủ
yếu là các cuộc họp chung nghị sĩ là đảng viên hai viện của
mỗi (lảng. Trên các cuộc họp này các đảng viên - nghị sĩ
của đảng <b>Cộng </b>hoà, đảng Dân chủ sẽ bầu ra Chủ tịch, Thư
<b>ký và giới thiệu ứng cử viên vào các chức danh quan trọng</b>
của Thượng. Hạ viện. Chủ tịch được bầu ra là thủ lĩnh
<b>1 Trường hợp bà Thatcher đã từ chức thủ lĩnh đảng Bảo thủ và nhường vị</b>
<b>tri đó cho thủ tướng của Anh là Giôn Ma </b><i><b>Ziơ.</b></i>
đảng tương ứng trong nghị viện. Đến trước năm 1910, thì
theo thơng lệ thủ lĩnh đảng chiếm đa sô ghê trong Hạ Viện
Mĩ đồng thòi là Chủ tịch Hạ viện. Sau này, xét việc '.ộp
trung hai chức danh này vào một người là điều bất lợi, Hạ
viện Mĩ quy định bầu đại diện của đảng chiếm đa sô trong
Hạ viện làm Chủ tịch Hạ viện. Đế theo dõi đảng viên, các
nhóm đảng phái cũng bầu ra các Chief Whip. Các nhóm
đảng viên thường thành lập ra Ưỷ ban tay lái (Steering
committees) bao gồm thủ lĩnh đảng và 7 đảng viên - nghị
Nếu là đảng chiếm đa sô trong Hạ, Thượng viện thì
đảng viên của đảng đó được bơ trí làm Chu tịch các Uý ban
quan trọng của viện. Đây là trung tâm lãnh đạo hoạt động
của Nghị viện Mĩ.
Đánh giá vai trò của các nhóm đảng phái trong nghị
viện tư sản, giáo sư tiến sĩ B.A.Staruđubxki viết: "Sự
thống nhất <b>các </b> đảng viên <b>- </b> nghị sĩ thành <b>các </b> nhóm đàng
phái trong nghị viện tư sản có ý nghĩa rấ t lớn, <i>ưì tất cả các</i>
<i>hoạt động của nghị viện tư sản là cuộc đấu tranh công</i>
<i>khai giữa các đảng phái"12</i> (Tôi nhấn mạnh - NĐD).
<b>2. Cơ câ*u tổ chức đảng ngoài nghị viện</b>
Như trên đã nêu, các đảng phái chính trị tư sản không
<b>những chỉ được tổ chức trong nghị viện, mà cịn được tổ</b>
<b>chức ngồi nghị viện. Thông qua hoạt động của đảng viên</b>
trong nghị viện ảnh hưởng đến các đảng viên ngoài nghị
<b>viện hoặc ngược lại, thông qua các đảng viên ngoài nghị</b>
<b>72 </b><i><b>L u ật N hà nước tư sản hiện đ ại.</b></i><b> Tập 2. </b><i><b>Những chê định cơ bản.</b></i><b> Nxb</b>
<b>khoa học Mátxcơva 1987, tr.229 (tiếng Nga).</b>
V1Ộ11 mà ánh huí) 11” đên các đảng viên là nghị sĩ.
Và nhiều đang phái tơ chức đáng ngồi nghị viện và
trontí nghị viện là một tô chức thống nhất ý chí hoạt động
<b>của đáng.</b>
Tô chức của các đáng phái thường được phân làm các
<b>tỏ <'hức </b><i>c ơ</i><b> quan đang </b><i>ở</i><b> trung ương và các tố chức cơ quan</b>
đáng () địa phương. C(i sơ tổ chức đảng là các đàng bộ được
tó <b>chức </b> theo <b>các </b> đơn vị hành chính nhà nước. Cơ quan
đảng của đơn vị hành chính cấp trên có quyên lãnh đạo cơ
quan đáng của đơn vị hành chính cấp trực thuộc. Tồn bộ
hoạt động của các co' quan đảng địa phương phải đặt dưới
sự lãnh đạo của cơ quan đảng trung ương.
Điếm đặc biệt ỏ đây là cơ câu tố chức cơ sở đảng không
những chỉ bao gồm các đảng viên cá nhân mà còn cả các
đảng viên tập thê. Đê hoàn thành chức năng tranh cử của
mình nhiều đảng phái tô chức theo lãnh thô của các đơn vị
bầu cử.
ở Anh danh hiệu đảng Bảo thủ thực ra chỉ áp dụng
cho các nghị sĩ Hạ nghị viện và Thượng nghị viện. Tuy
nhiên, bên cạnh các đảng viên - nghị sĩ, đảng Bảo thủ còn
bao bồm các tổ chức của các quần chúng ủng hộ đảng. Tố
chức quần chúng này gọi là "Liên hiệp các hiệp hội bảo
thủ". Tố chức cơ sở của đảng Bảo thủ là các hiệp hội cấp
quận. Đế lãnh đạo hoạt động, hiệp hội đảng cấp quận bầu
<b>diện các hiệp hội cấp quận, một uỷ ban chấp hành và một</b>
số uý ban chuyên môn. Nhiệm vụ của các liên hiệp múm là
phổi hợp hoạt động giữa các hiệp hội cấp quận trong chung
một miền.
Cơ quan lãnh đạo đảng Bảo thủ trung ương gồm có:
Hội nghị hàng năm, Hội đồng trung ương và Uỷ ban chấp
hành. Hội nghị hàng năm thường được tổ chức mỗi nám
một lần gồm đại biểu đại diện tổ chức đảng từ cơ sỏ trỏ
lên. Vị lãnh tụ (thủ lĩnh) của đảng thường không tham gia
hoạt động của Hội nghị, chỉ có mặt ở buổi bê mạc đê đọc
bài diễn văn về chương trình chính sách của đảng.
Ảnh hưởng của hội nghị hàng năm đối với chính sách
của đảng không sâu rộng lắm. Tuy nhiên, hội nghị cũng là
dịp để các đại biểu phê bình, chỉ trích hoạt động của Chính
phủ hay chơng đối với các nhà lãnh đạo đảng.
Hội đồng trung ương là cơ quan chỉ đạo chính thức của
đảng. Thành phần của hội đồng rất phức tạp: Đại diện các
hiệp hội cấp quận, đại diện các liên hiệp cấp miền, các vị
nghị sĩ, các ứng cử viên tương lai, các nhân viên của Uy
ban chấp hành và vị lãnh tụ đảng. Hội đồng trung ương có
ủ y ban chấp hành là cơ quan thường trực của Hội đồng
trung ương, ú y ban chấp hành gồm một vị lãnh tụ (thủ
lĩnh), các nhân vật lãnh đạo khác của đảng và một sô' đại
diện cấp miền, ú y ban chấp hành nhóm họp mỗi tháng
một lần. Nhiệm vụ chính thức của Uy ban chấp hành là
giai (ịiiyèt các vân (lồ gia nhập hoặc loại các hiệp hội cấp
quận, bầu nhân viên Uy han <b>tư vấn </b> và dự tháo các dự án
<b>vổ hoạt động của đ áng cho Hội đồng trung ương và Hội</b>
nghị thường niên. Tát cả các nhiệm vụ quan trọng của
(tnn.Ịĩ thực ra do Uy ban chấp hành đảm nhiệm.
Song song vói <b>các </b> cơ quan tố chức đảng nêu trên, cịn
có C;.U' tố chức bao gồm các nhân viên đứng ngoài hệ thống
tô cỉhùc trực thuộc trực tiếp vị lãnh đạo đảng. Và chính cơ
quam hay nhân viên này mới đóng vai trò tối quan trọng
tron g việc điều khiên chung của đảng.
Trước hết phái nói đến Văn phịng Trung ương. Chính
Văn phịng này có nhiệm vụ hướng dẫn, phổi hợp mọi công
tác của đảng trong toàn quốc. Các nhân viên của Vàn
i <i>'?' X ị</i> ' ■ ' 1 , <i>^ '</i>
I. KHÁI NIỆM HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC T ư SẢN
Nội dung và hình thức là một cặp phạm trù triết học
quan trọng giúp chúng ta hiểu biết được sâu sắc sự vặt,
hiện tượng. Nghiên cứu nhà nước tư sản cũng như nghiên
cứu các sự vật, hiện tượng khác, đòi hỏi chúng ta phải hiểu
được nội dung và hình thức của nó.
Vậy hình thức nhà nước là gì?
<i>Hình thức nhà nước là thuật ngữ chuyên ngành luật</i>
<i>hiến pháp nhằm khái qt hố mơ hình nhà nước thông</i>
<i>qua những đặc điêrn thể hiện nội dung bên trong của cơ câu</i>
<i>tô chức và mối quan hệ các tổ chức cấu thành nhà nước.</i>
Chủ nghĩa Mác phân tích lịch sử hình thành và phát
triển xã hội loài người thành năm hình thái kinh tế - xã
hội nhưng chỉ có bốn hình thái có nhà nước: chê độ chiêm
hữu nô lệ, chê độ phong kiến, chê độ tư bản và chê độ xã
hội chủ nghĩa, ứ n g với mỗi hình thái này là một kiểu nhà
/
/
<b>hiện Imn chất tư san nhuiiỊí hình thức tố chức nhà nước lại</b>
<b>rát khác nhau, phụ thuộc vào từn<í hồn cánh lịch sứ xã</b>
<b>hội cụ the. dặc điếm dán tộc... khác nhau.</b>
Hình thức nhà nước tư sán hiện nay thương (ỉúỢc phân
<b>til'll thành hai (lạn^: Hình thức chính thể, và hình thức cơ</b>
<b>câu lãnh thơ.</b>
Hình t hức nhà nước là một vấn đề quan trọng của việc
tô chức nhà nước. Việc cớ câu tỏ chức các cơ quan nhà
<b>nước, quyền, nghĩa vụ của từng cơ quan, môi quan hệ giữa</b>
chúng vói nhau, n g u ồ n gôc quyền lực nhà nước đểu phụ
<b>thuộc vào vấn để chính th ế va cơ cấu lãnh thố nhà nước.</b>
<b>Ngược lại, chính vấn để chính thế. cơ cấu lãnh thơ nhà</b>
nước lại có tác động đến co câu, quyền hạn và môi quan hệ
<b>giữa </b>các cơ quan nhà nưoc với nhau.
Với tầm quan trọng như vậy, cho nên chính thê cũng
như <i>cổ</i> cấu lãnh thố nhà nước hao giò cũng được quy định
trong văn hán có hiệu lực pháp lí cao nhất của nhà nước, đó
là hiến pháp. Hiến pháp có thê dành một chương riêng nói
về chính thế. cũng như cơ cấu lãnh thơ Nhà nước. Hoặc có thể
trong hiến pháp khơng có chương riêng, nhưng qua các quy
định của hiến pháp <i>đặ</i> toát lên cho chúng ta vấn đê chính
thè và cơ cấu lãnh thố của Nhà nước. Vì vậy, vân đê chính
thể, và cơ cấu lãnh thố là vấn đê thuộc nội dung cơ hân của
hiên pháp thực định. Nhiêu khi thực tê và hiến pháp thực
định lai rát xa nhau. Lí do việc xa rời đó là sự khác nhau
giữa chính thế được quy định trong hiến pháp và sự biến
dạng của nó trong đời sống chính trị của mỗi nước.
<b>II. h ì n h</b> <b>t h ứ c</b> <b>c h í n h</b> <b>t h ể</b> <b>c i j a</b> <b>n h à</b> <b>n ư ớ c</b> <b>t ư</b> <b>s ẩ n</b>
Hình thức chính thể là một hình thức rất quan trọng
trcng các dạng hình thức nhà nước.
<i>Hình thức chính thê là sự biểu hiện bề ngồi thành mỏ</i>
<i>hình, hình dáng của nhà nước thông qua cách thức cơ câu</i>
<i>bên trong của việc tổ chức, vị trí, quyền hạn trách nhiệm,</i>
<i>môi .quan hệ của các cơ quan nhà nước câu tạo nên nhà</i>
<i>nước tư sản và bản chất nguồn gốc của quyển lực nhà</i>
<i>nước.</i>
Khi xét mơ hình này, ngưịi ta tập trung xem xét các cơ
quan nhà nước ỏ trung ương: nguyên thủ quốc gia, lập
pháp, hành pháp, trước hết là nguyên thủ quốc gia sau
Hiện nay, trong thê giới tư bản có hai loại hình thức
chính thể cơ bản. Đó là chính thê quân chủ và chím thế
cộng hồ. Chính thể qn chủ là chính thế mà ở đó n^uvên
^ I thủ quôc gia do thê tập mà ra, quyền lực nhà nuỡc có
nguồn gơc từ cõi "hư vô" do thiên định định đoạt. Chính
1 thể cộng hồ là chính thế mà ở đó nguyên thủ quốc ịia do
bầu cử lập lên và quyển lực nhà nưóc có nguồn p c từ
nhân dân.
<b>1. Hình thức chính th ể qn chủ</b>
Hình thức chính thể xét vê mặt lịch sử được hình
thành do tương quan lực lượng giai cấp trong xã hói khi
tiến hành cách mạng dân chủ tư sản. Ớ những n ư a nào
cách mạng tư sản giành được thắng lợi triệt để thì ở đó
4 \chính thể cịng Kõẫ đữỢ(Tthiết lập (5”Pháp, Mĩ...)- Ngược
lại, ổ những nước cách mạng tư sản kHống đủ sức đáth bại
được giai cấp phong kiến đại diện là các vị hoàng đê, mặc
dù đả lỗi thời, nhưng vẫn còn đủ mạnh, thì ở đó quytn lực
nhà nước buộc phải chia sẻ giữa hai giai cấp thông trị là tư
sản và phong kiến. 0 đó tồn tại chính thể quân chủ. Nhiều
học giả còn cho rằng đây là biểu hiện của sự thoả hiệp giữa
<b>199</b>
các 1¿ỉ í cap thơng trị. Sự thoa hiệp là một trong những
chúc năng quan trọn.u của nhà nước thông trị tư sản.
N^ượe lại, sự tồn tại của loại hình chính thê này lại
đưọc nhiều học giả cho rằng, đây là mong muôn của giai cấp
tư sàn. họ muốn giai cấp thơng trị cũ thích ứng vói phương
thức cai trị mới. Bàng việc sử dụng chính thể này họ muôn
chặn lại phong trào cách mạng quần chúng do chính phong
trào cách mạng tư sản dấy lên. Mặc dù chính thể này khơng
được thừa nhận là chính thê dân chủ tiên tiến nhưng ngược
lại nó lại rất phổ biên trong thé giới tư sán. Có thể nói
ràr sơ lượng các nước tư sản giữa chính thể quân chủ hiệp,
nay còn rất nhiều, trỏ thành một loại hình phơ biến của tố
chức nhà nước hiện nay trong thê giới tư bản.
Sự tồn tại cho đến ngày nay của chính thê quán chủ có
ngay cá các nước tư bản phát triển, thê hiện sức sống
mãnh liệt đã tồn tại nhiều thê kỷ của chê độ phong kiến.
Một chê độ đã ăn sâu vào tiêm thức của nhiêu dân tộc.
Hình thức này là tàn dư của chê độ phong kiến, được
giai cấp tư sản sử dụng như một cơng cụ tiêm tàng phịng
chống những biến đôi xã hội to lớn. Nhà Vua được dựng lên
như mọt nhân vật siêu phàm đứng trên giai cáp, các đảng
phái, tượng trưng cho sự vĩnh hằng của chê độ xã hội.
Hình thức chính thê quân chủ hiện nay có hai loại cơ
hin: Quân chu tuyệt đối, quân chủ hạn chế. ÌQuân chu
tuvẽt đôi 11 à loai hình tơ’ chức qun lực nhà nước thuộc về
có hiến pháp, thì nhà vua khơng có quyển lực tuyết đối
như trong chê độ phong kiến nữa. Lúc ban đẩu, những
nguvên tắc cơ bán của quân chủ lập hiến là dựa trên cò sò
của học thuyết phân quyền của Môngtécxkiư: láp |)hijj du
nghị viện cỏ cơ cấu hai viện, một viện thứ dân và một viện
quý tộcTnamTĩãnh pháp lầ hoạt động chỉ huy thực hiện
bao giờ cũng phảrn h an h nhạy nên do một ông vua tét hơn
là nhiều người đảm nhiệm. Nguyên tắc phân chia quyền
lực của Môngtécxkiơ được quy định thành sự kiềm chế. đối
trọng lẫn nhau. Người đứng đầu bộ máy hành pháp có
quyền phủ quyết các ’đạõTuật củá NgEỊ vtện và Nghi viện
có quyền luận tội các vị quấrTvửơrigTva các vị có hàm Bộ
trưởng. Ngày nay khi nói đến những~nha nước vừa có vua
vừa có hiến pháp, ngưòi ta gọi là những "ông Vua lập
hiến", tức là có hàm ý chỉ những ơng vua hình thức, thơng
có thực quyền theo công thức "Nhà Vua trị vì nhưng không
cai trị"7!. Quyền lực nhà nước chủ yếu nằm trong tay hộ
máy hành pháp và người đứng đầu hành pháp.
Quần chủ láp hiếnỉ có hai loại: Thứ nhất, quân chủ nhị
nguyên là loại hình tổ chức nhà nước, trong đó quyển lực
nhà nước được chia đều cho hai cơ quan cơ bản của cấu
trúc nhà nước - Quyền lực của nhà vua và quyên lực của
nghị viện. Đây là loại hình tồn tại khơng lâu ở thời kì đầu
trưởng do nhà vua bổ nhiệm, vừa chịu trách nhiệm trước
nhà vua, vừa chịu trách nhiệm trước nghị viện.
s Loại thứ hai, quân chủ dại n ghị. Đâv là loại quân chủ
phổ biến hiện nay ỏ các nước tư bản kế cả các nước tư bản
<b>71 Xem: Chương IX </b><i><b>Ngu vén thú quốc g ia</b></i><b> của giáo trình này.</b>
phát triển (Anh. Nhât, Tây Ban Nha...). Ở chính thê này
ngu vôn thu quôc gia là các vị Hoàng đế được truyền ngôi
cho con và Chính phủ, bộ máy hành pháp được thành lập
và i.lƯỢc hoạt động khi nào vẫn cịn sự tín nhiệm của Hạ
<b>n g h ị viện. Các hộ trưởng và người đứng đầu hành pháp</b>
phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện (Hạ viện). Trên
thựic tê việc thành lập.và hoạt động của các Chính phủ đều
nằm trong tay đảng chiếm đa sô ghê trong hạ viện. Nhà
vua hầu như không tham gia vào giải quvết các công việc
của nhà nước. ■/
Trong hiến pháp của nhiêu nước theo chính thê này
quy định Nghị viện có quyền luận tội các quan chức có
hàm bộ trưởng (Hiến pháp Đan Mạch, Hiến pháp Na Uy,
Hiêin pháp Bỉ....). Thủ tục luận tội được pháp luật tư sản
gọi là thủ tục đàn hạch. Mặc dù thủ tục đàn hạch có khác
nha u nhưng nói chung buộc tội thuộc quyền Hạ viện, luận
Cơ chê thực hiện quyền lực Nhà nước của chính thế quân
chủ lập hiến không phải ở chỗ có chê độ trách nhiệm hình
sụ của từng vị bộ trưởng trước nghị viện mà là chê độ chịu
tracỉh nhiệm chính trị của tồn bộ Chính phủ trước nghị viện.
Theo thơng lệ, chính phủ ở các nước theo chính thể này
chỉ chịu trách nhiệm trước Hạ nghị viện và được thành lập
tù cơ sở của thành phần Hạ nghị viện. Giải thích hiện
tưímg này, nhiều học giả viện lí do nguồn <i>gốc</i> của hiện
tưírug xuất phát từ nước Anh. Vì rằng, nước Anh là nước
không những hình thành chê độ quân chủ lập hiến sớm
nhất mà còn là nơi thử nghiệm chê độ quân chủ nghị viện,
một hình thức cao của quân chủ lập hiến, ỏ đó thực hiện
một quyền lực nhà nước đầy đủ của giai cấp tư sản. Trong
khi đó Nghị viện Anh được cơ cấu hai viện, chỉ có Hạ viện
mới được nhân dân trực tiếp bầu ra, thể hiện ý chí của giai
<b>cấp </b>tư sản. <b>Vì </b>vậy, <b>Chính phủ dưđc thành lảp dưa </b>trên <i><b>cơ </b></i>
sở của Ha viện và chỉ chịu trách nhiệm trước Hạ viện.
Đây là những quy định của chính thể được quy định
trong hiến pháp, nhưng trên thực tê giông như ở các nước
<b>2. Hình thức chính th ể cộn g hồ</b>
Hình thức chính thể cộng hồ có hai loại chủ yếu là chính
thể cộng hồ đại nghị và chính thể cộng hồ tổng thơng.
tr Chính thể cộng hồ đại nghị là chính thể mà ở đó
<b>, nguyên thủ quốc gia không được hình thành bằng phương</b>
pháp th ế tập mà bằng phương pháp bầu cử.
Phân tích dấu hiẻu chính thể cơng hồ đai nghi, mơt <i>số</i>
nhà luật học cho rằng chính thể cộng hồ đại nghị là chính
thể được tổ chức <i>ở</i> những nhà nước có nguyên thủ quốc gia
do nghị viện bầu ra, chính phủ do thủ tướng đứng đầu
<i>'ì</i> khơng chịu trách nhiệm trước nguyên thủ quốc gia, mà
chiu_t£ách nhiệm tr ưổc nghi viên 74. Bên cạnh việc đồng ý
<b>74 Xem: </b><i><b>L uật Nhà nước các nước tư sản</b></i><b> (B.X.Krưlov chủ biên), Matxcơva,</b>
<b>1962, tr.48 (tiếng Nga).</b>
với những dấu hiệu trên, có tác giả còn cho rằng một sô
yiẻc báu nguyên thủ quốc gia dựa trên cơ sở của nghị
viện, mà <b>không </b> do nhân dân trực tiếp bầu ra. Chính việc
khơng do nhân dàn trực tiếp bầu ra tông thông., theo quan
điếm của các nhà luật học là nguyên nhân không cho phép
nguyên thủ quốc gia có thực quyền76. Ớ tất cả các nước theo
chinh thê này, hiến pháp hoặc nếu khơng thì tục lệ không
quy định nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu hành
pháp và cũng không là thành viên của hành pháp. Hoặc có
quy 'định đi chăng nữa, thì nguyên thủ quốc gia khơng bao
giị t hực hiện được một cách đích thực quyền này.
Xuất phát từ nguyên tắc chính phủ phải chịu trách
nhiệim trước nghị viện đã làm cơ sở chi việc nghị viện có
thé Hật đơ chính phủ và người đứng đầu chính phủ có
quỵền hoặc yêu cầu nguyên thủ quốc gia giải tán nghị
viện7'7.
Ve cơ bản các nước theo chính thể cộng hoà đại nghị
giông như các nước theo chính thể quân chủ đại nghị đều
<b>7;’ Xím </b> <i><b>Luật N hà nước các nước ngoài</b></i><b> Matxcơva, 1976, tr.129 (tiếng Nga).</b>
<b>' x?m Chương IX, </b><i><b>Nguyên thù quốc gia</b></i><b> của giáo trình này.</b>
<b>Xím Chương X </b><i><b>Chính phù</b></i><b> của giáo trình này.</b>
tuyên bô"nguyên tắc: nguyên thủ quốc gia "vô trách nhiêm'',
Điều 90 của Hiến pháp Italia tuyên bổ: "Tổng thông nước
cộng hồ khơng chịu trách nhiệm các hoạt động của mình
trong thịi gian đảm nhiệm chức vụ, trừ trường hợp phản
bội Tổ quốc hoặc hành động xâm phạm tới Hiến pháp".
Hiến pháp của Hy Lạp cũng quy định một điều khoản
tương tự (khoản 1 điều 49). Bên cạnh thơng lệ này, cịn có
nước vẫn quy định việc chịu trách nhiệm của nguyên thủ
quốc gia. Ví dụ, Hiến pháp của nước cộng hoà Áo quy định:
"Tổng thống liên bang chịu trách nhiệm việc thực hiện
chức năng của mình trước Quốc Hội liên bang" (Điều 142).
Nói chung vê nhiệm vụ, quyền hạn của nguyên thủ
quôc <b>gia </b> <i>ỏ</i> chính <b>thể </b>cộng hồ đại nghị <b>đều </b> được các nhà
luật học tư sản thừa nhận rằng, thực chất nguyên thủ
quốc gia không tham gia vào việc lãnh đạo quốc gia, khơng
có quyền đích thực ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, và cũng khơng có những quyền hạn đặc biệt nào.
Trong tác phẩm của mình Bayme viết: "Chức danh Tổng
thống Liên bang cộng hoà Đức gắn liền với nhiệm vụ có
tính cách đại diện hơn là các thẩm quyển quyết định các
công việc của nhà nước"78.
Một sô" hiến pháp quy định tính trung lập khơng đảng
phái của nguyên thủ quốc gia ở loại hình chính thể, để tỏ
Khi được bầu làm tổng thống thì phải từ bỏ đảng phái
(CHLB Đức, Italia). Nhưng trên thực tế quy định này rất
khó thực hiện. Bởi vì việc được bầu vào chức danh tổng
thống, trước hết bắt đầu bằng việc được giới thiệu ra ứng
<b>Bayme K.V: </b><i><b>D as politische System der BR.D. München,</b></i><b> 1980, S. 182.</b>
cu tịng thống hoặc CỈ1Í ít phái đưực sự ủng hộ của đang khi
ra tranh cứ. Đặc biột khi chúng ta phân tích chê (lịnh "phó
<b>thự", thì lại càn g </b> noi <b>hạt tính khơng thê hoạt động trung</b>
lập <b>của </b> nguyên thủ <]UỎ(' gia. Mọi vãn <b>bản </b>của Tông thông
chi cỏ hiệu lực thực thi trên thực tê khi có chữ ký "phó
thự" của rác hàm bộ trưỏng hoặc trên bộ trương (thủ tướng
- người dứng đầu hộ máy hành pháp). Với quy định này đã
tước han quyển quyẻt dinh đích thực của Tơng thơng. Và
cũnjf chính vi vậy. Tơng thống mới có cơ sỏ "là vô trách
nhiệm", chính người ký phó thự mới là người chịu trách
nhiệm văn ban do Tông thông ban h àn h 7!l.
Vê môi quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia vỏi Chính
phủ, (ỉa sỏ các nước tư sản theo loại hình chính thê cộng
hoà đại nghị đều quy định tống thơng có quyền bơ nhiệm
ngươi đứng đầu Chính phủ. Nhưng quy định bố nhiệm và
Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, vai trị của
ngun thủ qc gia của những chính thể cộng hồ đại
nghị chi có thè được đánh giá cao trong những trường
<b>7M Xem Chương IX: </b><i><b>Nguyên thủ quốc gia</b></i><b> của giáo trình này.</b>
<b>Xem chương IX: </b><i><b>Nguyên thủ quốc gia</b></i><b> của giáo trình này.</b>
hợp đất nước bị khủng hoang. Điêu này có nghĩa là trong
tình trạng khủng hoảng thì tổng thống mới có điều kiện
độc lập hành động mà không phụ thuộc vào các đáng phái
chính trị*1.
Theo cuy định của Hiến pháp Cộng hoà liên-ham; Đức,
Tổng thống liên bang có quyên đề nghị ứng cử viên <b>Thủ</b>
tướng đé Hạ nghị viện bỏ phiếu. Trong vòng 14 ngày nếu
ứng cử viên của Tổng thống không nhận được đa số tuyệt
đối sô phiếu thuận, thì hạ nghị viện có quyền bầu úng cử
viên của mình. Trong trường hợp vẫn khơng bầu đượ' Thủ
tướng, thì Tổng thơng có quyền bố nhiệm Thủ tướng iheo ý
Nói tóm lại, ỏ loại hình chính thề cộng hoà đại nghị,
<b>n g u y ê n t h ủ q u ố c g i a do n g h ị v i ệ n h o ặ c d ự a t r ê n cơ Stí n g h ị</b>
viện bầu ra, mặc dù được hiến pháp quy định là một quyền
hạn hết sức rộng rãi nhưng mọi hoạt động của nguyên thủ
đều có sự đề nghị, yêu cầu từ phía hành p h á p . Hành pháp
vối người đứng đầu hành pháp càng ngày <i>càng</i> trở hành
cơ quan trung tâm thực hiện chủ yếu quyền lực nhè nước
tư sản. Vê cơ bản loại hình nàj' có nhiều điểm tưcng tự
như chế độ của chính thế quân chủ đại nghị.
<i><b>1.2. Chính thê cộng hồ tổng thống</b></i>
Hình thức chính thế cộng hồ tổng thơng là hìnl thức
tố chức nhà nước mà <i>ở</i> đó tổng thống vừa là nguyên thủ
<i>i</i> quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành phip. do
Ịnhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Mọi thành viên
<i>S ỉ</i>
<b>Xem Grinberg A.I. </b> <i><b>Tohg thông trong cơ c h ế quyển lực Cộng hoe Italia.</b></i>
<b>Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 1978, tr.121 (tiếng Nga).</b>
<b>cua chinh phu đếu (lo tóng thông bô nhiệm và chịu trách</b>
nhit‘111 trước tống ' hơiiịí. khơntí chịu trách nhiệm trước
ngliị viện, khôn** co chức danh thu tướng. Người ta gọi đây
là <b>chính </b> phủ một đầu. Khơng phai là chính phủ lưỡng đau
<b>nhu ó loại hình quân chủ, cộng hoà đại nghị, hỏn cạnh</b>
nguyên thu quốc gia cun có thủ tướng người đứng đầu bộ
<b>máy h àn h pháp, ó n h ữ n g nước này áp dụ n g triệt đê học</b>
<b>thu vêt phán chia q u yển lực nhà nước một cách tuyệt đơi.</b>
<b>hay cịn gọi là cách phân qu yền cứng rắn và tá n g cường</b>
<b>quyến lực của cá nh ân tông thông. Loại hình này được áp</b>
<b>dụng một cách tương đôi phố hiến ớ các nước tư bán châu Mĩ</b>
La Tinh, ma khuôn mẫu của nó là Họp chủng quốc Hoa Kì.
Vì hai chức danh nguyên thủ quôc gia và người đứng <i>Ị</i>
điUi hành pháp tập trung vào một người - tổng thơng, cho
nõn tỏng thơng có toàn quyền trong việc quyết định nhân
sự chính phủ. Ong tự mình lựa chọn, tự mình bơ nhiệm và
tụ mình bãi nhiễm vào bất cứ thời gian nào. về nguyên
tắc, cốc bộ trưởng không hợp thành một cơ quan bàn bạc
chịu trách nhiệm tập thể trước nghị viện, mà chỉ chịu
trách nhiệm trước tổng thống. Các bộ trưởng chỉ là những
người giúp việc cho tổng thông, thực hiện những chính
sách của tơng thông, không được mâu thuẫn với đường lơi
chính sách của tống thông.
Khác với tổng thông ở chính thế cộng hồ nghị viện,
tồng thống ở chính thê cộng hồ có thế được nhân dân trực
tiép bầu ra, hoặc gián tiếp bầu ra, tức là với lượng tuyên
<b>ỉem : Chương IX: </b><i><b>Nguyên thú quốc gia</b></i><b> của giáo trình này.</b>
Chính sự tân phong này của nhân dân là cơ sớ cho vi<c tập
trung quyển lực vào trong tay Tổng thông nước Mĩ.
Đặc điểm quan trọng của chính thể cộng hồ tơng hống
* là việc áp dụng tuyệt đối nguyên tắc phân chia quyéi lực
'nhà nước Chính việc áp dụng này là cơ sở cho việc Hiông
chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và hành >háp.
Thay cho cơ chế chịu trách nhiêm lẫn nhau giữa lập pháp
và hành pháp là cờ chẻ kìm chế và dơi trọng. Lập phip và
hành pháp kìm chê và đối trọng lẫn nhau đê khơng có cơ
quan nào lợi dụng quyền lực. Tống thông và các bộ tniởng
toàn quyền trong lĩnh vực làm luật. Nghị viện khơig có
quyển lật đổ Chính phủ. Và ngược lại Tống thông - nịun
thủ quốc gia cũng khơng có quyền giải tán Nghị viện trước
thời hạn. Theo quy định của Hiến pháp Hoa Kì tổng hống
khơng có quyền sáng kiến pháp luật. Nhưng trên thíc tế,
Tổng thống Mĩ bằng nhiều biện pháp khác nhau can [hiệp
rất sâu vào hoạt động lập pháp của Quổíc hội Mĩ.
ở chính thể này, nếu tống thông và đa sô nghị nện ở
cùng một đảng thì quyền lực nhà nước tập trung tuy»t đốì
<i>ị</i> vào trong tay tổng thông. Trong trường hợp tống thỗig và
đa số nghị viện không cùng một đảng rất dễ dẫn đm sự
mâu thuẫn giữa hành pháp và lập pháp. Tuy nhiêi lu ậ t
Trên thực tê ở Mì khơng hiếm những trường hỢf t(ồng
thống và đa số nghị viện ở hai đảng khác nhau. Niiứng
vẫn may cho lịch sử nước Mĩ, sự mâu thuẫn trên chm Ibao
giờ gây hậu quả nghiêm trọng. Giải thích vấn đế mày,
nhiều tác giả cho rằng <i><b>ó</b></i> Mĩ các đảng phái không đtỢ(C tố
chức một cách chặt chẽ như ỏ các nước tư bản khác Nếu
như ở Anh với kỷ luật chặt chẽ của đảng, Thủ tướn? Anh
<b>hao giờ CŨ11ÍÍ nắm chac những quyêt định sẽ được n gh ị viện</b>
quyèt (tịnh t hon Lí (1L1:1 các đang viên của mình thì ỏ Mĩ.
Tó 11” thông Mĩ khôiiịỊ thế nắm chác được con số chính xác
những người ung hộ mình, mặc dù họ là đảng viên thuộc
đáng phái của mình. Chính vì vậy đê tranh thủ mọi lực
lượng, trong tuần "trăng mật", ngoài việc bô nhiệm các
đáng viên của mình vào các chức vụ quan trọng, Tống
thông Mĩ cịn dành một sơ khơng ít các chức danh cho
người của đảng đối lập. Hiện tượng này biến thành câu
ngạn ngữ của người Mĩ: "Cái trục nào kêu chút chít, phải
cho nó ăn mỡ".
Theo quan điểm của khơng ít nhà luật học, <i>ở</i> chính thê
cộn^ hồ tổng thơng, phương tiện kiểm tra hoạt động hành
pháp của nghị viện không đa dạng bằng <i>ở</i> chính thê đại
Nói tóm lại, nguyên thủ quốc gia ở chính thể này có
nhiều quyền lực trong việc lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo lực
lượng vũ trang, cũng như bộ máy hành chính dân sự.
Ngoài ra tổng thống còn can thiệp sâu vào hoạt động
lập pháp của nghị viện.
Việc thiết lập một chính thế cộng hồ tổng thơng được
khơng ít các nhà luật học tư sản ca ngợi là phù hợp với
<b>s;í Kem Nguyễn Đăng Dung: </b> <i><b>Quỏc hội nước CHXHCN Việt N a m</b></i><b>, NXB</b>
<b>Pháp lí Hà Nội 1992, tr. 103.</b>
<b>s1 Xem: </b><i><b>Luật Nhà nước tư sán hiện đại</b></i><b> NXB khoa học, Matxcơva 1989, tr.74.</b>
ýio thời cuộc hiện nay. Giải thích hiện tượng này họ cho rằng
với một thể chê như vậy sẽ cho phép quyền lực nhà núớc
tập trung vào bộ máy hành pháp, mà người đứng đầu bộ
máy là tổng thống. Với việc tập trung quyền lực nhà nước
vào trong tay một người đã tạo điều kiện khách quan cho
việc giải quyết nhanh nhạy nhiều tình huống xẩy ra tron^
1 thời đại của khoa học - kỹ th u ậ t - cơng nghệ, góp phần
khơng nhỏ đẩy đất nước tiến lên. Nói như vậy, khơng có
nghĩa cứ nhà nước tư sản nào được tô chức theo loại hình
(chính thể này đều )à những nước có nền kinh tê phát
itriển. Trên thực tế việc áp dụng chính thể này có nhiều
thành công ở Hựp chủng quốc Hoa Kì. Nhưng, cũng ở châu
Mĩ La Tinh, loại hình này không thu được kết quả <i>ở</i> nhiều
nưóc. Với sự khủng hoảng chính trị ở Braxin mới đây (năm
1993), nhiều người đã đề nghị thay chính thế cộng hồ
tổng thống đang hiện hành ở nưóc này bằng một chính thể
quân chủ lập hiến.
Lịch sử lập hiến của Hợp chủng quốc Hoa Kì cho rằng
trong khi các nước châu Âu đang tiến hành xây dựng một
chính thể cộng hồ đại nghị thì các nhà lập hiến của Mĩ lại
đặt ra chính thể cộng hồ tống thơng, mà quyên lực của
tổng thống không khác nào một vị quân vương. Nhiều
người cho rằng đó là một bước lùi của nền lập hiến Mĩ.
Giải thích hiện tượng này có ba quan điểm không đồng
nhâ't. Một số người cho rằng vì nước Mĩ ỏ xa xơi cách biệt,
đường biển lúc bấy giờ đi lại cịn khó khăn, do vậy các nhà
lập hiến Mĩ không thể tiếp thu một cách kịp thời những gì
gọi là tiến bộ của châu Âu lục địa và của cả nước Anh. Một
sô" khơng ít người thì lại cho rằng vì mn ngăn chặn làn
sóng cách mạng dân chủ tư sản của nhân dân, để phòng
việc quần chúng cách mạng theo đà phát triển của cách
mạng sẽ tiến tới chỗ xoá bỏ sỏ hữu tư nhân và những đặc
quyến (lạc lọi của chính giai cáp tư sản. Nhằm mục đích
ngăn chận làn sónjí cách mạng của nhân dân các nhà lập
Nhưng lúc bấy giờ là bảo thú. còn hiện nay lại hết sức
phù hợp với điều kiện kinh tê xã hội của đất nước Hoa Kì.
<i>J.3. C h ín h th ê c ô n g ho à lưỡng tín h</i>
Chính thể cộng hồ lưỡng tính là chính thế mà ở đó việc
tổ chức nhà nước vừa có đặc điểm của cộng hoà đại nghị,
vừa có những đặc điểm của cộng hoà tổng thơng. Hình
mẫui của loại chính thể cộng hồ lưỡng tính là nước Pháp
nền cộng hoà thứ V của Hiến pháp 1958 đang hiện hành.
Theo nhận định của một sô nhà khoa học: Hiến pháp
năm 1958 của Pháp, bên cạnh việc tuyên bô một đặc trUng
của chê độ nghị viện, có thiết lập một chế độ chính quyển
cá nhân của tổng thông 8;\ Trung tâm của bộ máy chính
quyền là tổng thông. Tống thông không do nghị viện hoặc
dựa trên cơ sở nghị viện bầu ra như các nước theo chính
thế <cộng hoà đại nghị mà do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Thutỏ ban đầu của Hiến pháp này, tông thống do tuyển cử
đoàrn bầu ra; tuyển cử đoàn bao gồm các thành viên của
quốc hội. các hội đồng hàng tỉnh của các lãnh thố hải
ngoại. Đến năm 1962 thì Hiến pháp cỉược chỉnh lí lại, Tống
thịng Pháp do nhân dân trực tiếp bầu vói nhiệm kì là 7
năm . Tơng thống có nhiệm vụ quyền hạn rất lớn kế cả
<b>s" Xe </b>na <b>: </b><i><b>Luật N hà nước của các nước tư bản và các nưởc đang p h á t triển.</b></i>
<b>Mátxcơva 1989, tr. 145 (tiếng Nga).</b>
quyền giải tán nghị viện của cộng hoà đại nghị, lẫn tuyến
tự thành lập Chính phú của cộng hồ tổng thống. Hiên
phốp năm 1958 của Pháp tăng cường sự chịu trách nhiệm
của bộ trưởng trước tổng thông và giảm tính chịu trách
nhiệm của bộ trưởng trước nghị viện. Điều 23 của Hiến
pháp này quy định: "Chức năng của bộ trương khôn<j thể
trùng hợp với chức năng của nghị sĩ và với một chức nâng
chuyên nghiệp nào khác". Chính điều khoản này hạn chê
sự chịu trách nhiệm của bộ trưởng trước nghị viện.
Giống như chính thể cộng hồ đại nghị, Chính phủ
Pháp có thủ tướng đứng đầu. Nhưng thực ra chínl phủ
đật dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổng thống. Tống '.hống
chủ toạ các phiên họp Hội đồng bộ trưởng để quyết định
các chính sách quốic gia. Thủ tướng chỉ được quyền lãnh
đạo các phiên họp này khi tống thống cho phép. Thủ ',ướng
chỉ được quyền chủ toạ các phiên họp Nội cát để chuẩn bị
cho các phiên họp của Hội đồng bộ trưởrfg (Ohính plú) và
lãnh đạo Chính phủ thực thi các chính sách đã đưdc Tông
thông hoạch định và phải chịu trách nhiệm tKúớc Qííc hội
và Tống thống việc thực thi các chính sách này <i>**</i> Tổng
thống càng có nhiều quyền lực hơn trong trường hợp tổng
thông và đa sô" nghị viện cùng một đảng. Quyền hành của
Thủ tướng và của Chính phủ chỉ được gia tăng khi đa số
nghị viện không cùng một đảng với tổng thống. 7í dụ
Đảng xã hội của Tổng thơng Míttơrăng khơng giành được
thắng lợi, không chiếm được đa sô' ghế ở Quốc hội buộc
<b>'M; Xem Chương IX: </b><i><b>Nguyên thủ quốc g ia</b></i><b> của giáo trình này.</b>
III. s ự BIẾN DẠN(i (T A CÁC CHÍNH THE HAY QUY
LUẬT (T A CÁC CHINH THE
Ớ chính thể đại nghị, Chính phủ được thành lập dựa
vào cơ sỏ thành phan của nghị viện. Chính phủ phải chịu
trách nhiệm trước nghị viện. Nhưng, trên thực tế với đa sô
ghê trong nghị viện, đảng cầm quyền, đảng đứng ra thành
lập Chính phủ. đã chi phôi nghị viện và kiêm tra hoạt
động của các nghị viện.
Ở đây sự phân chia quyển lực nhà nước giữa lập pháp
và hành pháp, theo quy định của hiến pháp không còn nữa
mà cỏ chăng chi là sự phân chia giữa một đảng cầm quyền
và một đảng đơi lập có trách nhiệm.
Biến chuyến này là hậu quả của một hiện tượng chính
t rị quan trọng. Đó là sự hiện diện của một hệ thơng lưỡng
đáng hồn hảo. Sinh hoạt chính trị ở Anh dựa trên hai
chính đảng có tổ chức, kỷ luật, đủ khả năng đảm bảo một
hành động thông nhất của chính đảng trong Chính phủ
cũng như ở Quôc hội. Hệ thông lưỡng đảng này đã làm
thay đổi hẳn ý nghĩa của chê độ đại nghị.
Vấn đề giái tán nghị viện cũng diễn ra tương tự. Một
Chê độ ở Anh quốic là chê độ điện hình của loại hình
chính thể đại nghị. Mơi tương quan giữa lập pháp vả hành
pháp đã biến thành mốì tương quan giữa "hai cơ quan" của
một đảng cầm quyển. Nhiều người còn cho rằng đây là mối
quan hệ giữa Ban chấp hành trung ương (những thành
viên của Chính phủ) với các đảng viên, quần chúng (những
nghị sĩ trong Hạ nghị viện).
Chế độ tổng thông mà đại diện là nước Mĩ là chê độ áp
dụng tuyệt đốỉ học thuyết phân chia quyền lực nhà nước.
Theo quy định của Hiến pháp của các nước thuộc loại
chính thế này thì hành pháp khơng chịu trách nhiệm
<b>trước quốc hội, tổng thống khơng có quyền giải tán quốc</b>
<b>hội và quốc hội cũng khơng có quyền lật đổ tổng thơng.</b>
Nhưng trên thực tế, hành pháp và lập pháp buộc phải
kết hợp với nhau, bởi lẽ rất giản dị là họ buộc phải chung
sổng với nhau. Lập pháp không thể thực hiện được ý chí
<b>của mình nếu như hành pháp luôn luôn chống đối. Ngược</b>
<b>lại tổng thống không thể nào thống trị quốc dân nếu</b>
tổng thông rất ngắn: 2 năm một lần Hạ nghị viện, 1/3 tổng
sô thượng nghị sĩ được bầu lại, 4 năm một nhiệm kì tơng
thơng. Voi thịi gian này tỏng thông cùng như Quốc hội
đểu bị cu tri kiểm t' a chặt chẽ. Tổng thơng khơng thê liêu
lĩnh chóng quốc hội vì ơng cịn phải tranh cử, nêu không
thì lại cịn chính đảng của ông ta. Quốc hội cùng không thê
nào chong tống tông một cách vô ý thức.
Vì những lí do trên, nhiêu người đã đi đến một nhận
định, mặc dù hiến pháp quy định sự phân quyền cứng rắn
nhưng trên thực tê giữa các cơ quan quyền lực lập pháp và
hành pháp vẫn có sự thoả thuận, mặc cả, trao đôi thương
thuyết, chịu trách nhiệm lẫn nhau khơng khác gì trong
chê độ Nghị viện. Chính vì vậy, người ta thườnịí gọi đây là
"chê độ đại nghị hành lang".
Chê độ đại nghị "hành lang" tức là sự chịu trách nhiệm
hợp tác ngoài quy định của pháp luật.
Như vậy, chúng ta thấy giữa hai chính thể có những
quy định hiến pháp rất khác nhau, thê hiện sự khác nhau
giữa hai loại hình tố chức nhà nước. Nhưng giữa chúng có
những điểm chung. Đó là sự tập trung quyền lực nhà nước
vào bộ máy hành pháp, do một đảng, một người cầm
<b>IV. HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC THEO c ơ CÂU LẢNH THỔ</b>
Hình thức nhà nước theo cơ câu lãnh thổ ỉà hình thức
nhà nước được xem xét dưới giác độ cơ câu các lãnh thố
hợp thành nhà nưởc và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước trung ương vói các cơ quan nhà nước địa phương.
Hình thức nhà nước theo cơ cấu lãnh thổ của các nhà
nước tư sản hết sức đa dạng thể hiện đặc điểm lịch sử, văn
hoa, xã hội của mỗi một quốc gia. Trong khoa học luật
hiến pháp, hình thức nhà nước theo cơ cấu lãnh thố
thường được phân tích thành hai loại cơ bản: đơn n h ú và
liên bang.
1. Các nhà nước đơn nhất tức là nhà nước mà lãnh thổ
của nhà r ước được hình thành từ một lãnh thố duy nhất.
Lãnh thồ này được chia ra các đơn vị hành chính lãnh thổ
trực thuộc. Việc tổ chức nhà nước này có những đặc ĩiêm
như sau:
- Có một hiến pháp duy nhất. Các quy định của bản
hiến pháp này được thi hành trên toàn lãnh thổ;
- Có một hệ thống các cơ quân trung ương: Nguyên thủ
quốc gia, Chính phủ, nghị viện có thẩm quyền pháp lí trên
toàn vẹn lãnh thố đất nước;
- Có một quốc tịch, khơng một lãnh thổ trực thuộc nào
có quyền đặt ra một quốc tịch riêng;
- Có một hệ thống pháp luật. Các cơ quan nhà nuic và
tự quản địa phương phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện
các văn bản pháp luật do các cơ quan trung ương ban
hành. Các cơ quan nhà nước và tự quản địa phương có
quyền ban hành các văn bản quy phạm nhưng phải phù
hợp với văn bản pháp luật cấp trên.
Có một hệ thơng tồ án thực hiện hoạt động xet xử
trên toàn lãnh thố đất nước, độc lập xét xử và chi tuân
theo pháp luật.
- Lãnh thố của nhà nước đdn nhất được phân clhia
thành các đơn vị hành chính trực thuộc. Các đơn vị là nh
cỉýnh khơng có quyền độc lập chính trị. Đê tô chức thực
hiện những vấn đê về phát triển địa phương, các cỉín vị
hẶẬỉh chính theo quv định của pháp luật có quyền tiàmh
lập các hội đồng tự quán địa phương. Nhưng các cơ <b>quan</b>
tự quản này phái chịu sự kiêm tra của đại diện cớ quan
quyến lực nhà nước cấp trên, ở một số nước khác không tô
chức ra các <i>cơ</i> quan tự quản địa phương, mọi hoạt động
nhà nước ỏ địa phương do các cơ quan đại diện trung ưdng
trực tiếp thực hiện. Đa phần các nước đơn nh ất có một dân
tộc nhưng bên cạnh đó cũng có khơng ít các nước đơn nhất
có nhiêu dân tộc. Giải quyết vân đê dân tộc, các nước đơn
2. Hình thức tố chức nhà nước lièn bang là hình thức
nhà nước được hình thành từ nhiều nhà nước thành viên
co chủ quyền. Hiện nay hình thức này đang tồn tại <i>ở</i> nhiều
nước tư bản: Hợp chủng quốc Hoa Kì, Canađa, Cộng hoà
lièn bang Đức, Vương quốíc liên bang Thuỵ Sĩ, liên bang
Malaixia... Việc tố chức nhà nước của các nưóc liên bang
trước hết phải có sự phân biệt thẩm quyền giữa liên bang
vơi các nưốc thành viên. Các nưóc th àn h viên của liên
bang nhà nưóc tư sản không phải là nhà nước nói đúng
nghĩa của từ này, chúng khơng có chủ quyền vê m ặt đốì
nội và n h ất là về mặt đối ngoại. Hiến pháp liên bang
nghiêm cấm các nước thành viên ký kết hợp tác với nước
ngoài về những vấn đề chính trị. Trong việc tổ chức nhà
nước liên bang vấn đê rất quan trọng là phân chia quyền
lục giữa liên bang với các nước là thành viên, phân quyền
theo <b>chiều </b> dọc. Nhiều khi sự phân quyền này còn quan
trọng hơn việc phân chia quyền lực nhà nưóc giữa lập
piáp, hành pháp và tư pháp.
Việc phân chia quyển lực nhà nước theo chiều dọc giữa
liên bang và các nước thành viên thường có ha hình thức:
1/ Những thẩm quyển đặc biệt chi có <i>ở</i> liên bang; 2/ Những
thẩm quyền đặc biệt của các nưốc thành viên; 3/ Những
thấm quyền chung của liên bang và các nước thành vẻn.
Nhằm hạn chê quyền lực nhà nước các thành viêr hiên
pháp liên bang thường liệt kê những nhiệm vụ quyền hạn
của thành viên. Ngoài những nhiệm vụ quyền hạn được
liệt kê thì nhà nước thành viên không được giải tuyết.
Hoặc ngược lại, các nhà nước liên bang vẫn tôn trọn* chủ
quyền của các thành viên hợp thành thì lại có xu tướng
liệt kê các quyền hạn hữu hạn cho liên bang. Đối vá nhả
nước Mĩ, Hiến pháp vừa liệt kê thẩm quyền cho liên lang,
vừa liệt kê thẩm quyền cho tiểu bang. Vì vậy, người :a gọi
Mĩ là một "liên bang lưỡng tính". Hiến pháp Mĩ lệt kê
những quyền hạn của liên bang. Đó là: 1/ Những quy định
có liên quan đến việc buôn bán giữa liên bang với nước
ngoài, và giữa các tiểu bang với nhau; 2/ Quy định <i>về</i> bệ
thông tiền tệ; 3/ Tiêu chuẩn đo lương; 4/ Bưu điện, vận tải;
5/ Cấp bằng sáng chế, quyển tác giả; 6/ Các dâu hiệu /ề tội
phạm trên biển và hình phạm tội phạm trên biển; 7/ Tuyên
bố chiến tranh; 8/ Tuyển và huấn luyện quân nhìn; 9/
Thành lập và huấn luyện cảnh sát; 10/ quan hệ đổi Egoại;
11/ Quản lí các lãnh thố xâm chiếm 87. Tất cả những điểm
trên được Hiến pháp quy định cho quốc hội liên bang.
Theo quy định ở chỉnh lí Hiến pháp thứ X của Mĩ, Ìgồi
những điều qui định ở trên đều thuộc vào thẩm quyềa của
các tiểu bang. Đó là: 1/ Tô chức các cuộc bầu cử, 2/ Điều
chỉnh các mối quan hệ thương mại trong phạm vi tiểu
bang, 3/ Thành lập các cơ quan nhà nưốc ở địa phương, 4/
<b>*7 Xem Điểu 1 khoản 8 Hiên pháp Hợp chủng quôc Hoa Kì.</b>
Bao đảm sức khoẻ trật tự, an toàn xã hội và đạo đức xã
Pheo tinh thán nội dung các quy định của Hiến pháp
và thực tê nước Mĩ, có những vấn đê thuộc <b>v ê </b> thẩm <b>q u y ề n</b>
chung của cả liên bang lẫn tiểu bang. Đó là: 1/ Ban hành
các đạo luật và tô chức thực hiện các đạo luật; 2/ Đánh
thuế; 3/ Chi phí cho giáo dục; 4/ Phát hành công trái; 5/
Thành lập và điều chinh hoạt động của hệ thơng tồ án: 6/
Tơ chức thành lập và điều chỉnh hoạt động của các nhà
băn^; 7/ Nắm các tài sán đê phục vụ các mục đích chung.
Ngồi ra, Hiến pháp Mĩ còn nghiêm cấm một sô hoạt
động của liên bang lẫn tiêu bang. Liên bang khơng có
tham quyền quyết định các loại th u ế trực tiếp thuộc tiểu
bang; không được thay đổi biên giới tiểu bang nếu không
được sự đồng ý của tiểu bang; không được hạn chê quyển
và nghĩa vụ của công dân các tiểu bang; không được quy
định độc quyển thương mại một lĩnh vực nào đó đế gây lợi
cho t iểu bang này mà thiệt hại cho tiểu bang kia.
Đến lượt mình các tiểu bang không được quyền: 1/ Ký
kết các hiệp ước quốc tế; 2/ Ban hành các loại tiền; 3/
Thành lập quân đội và các chiến hạm ở thời bình; 4/ Thơng
qua các đạo luật chông lại liên bang; 5/ Tước quyển được
hảo vệ trước pháp luật của công dân; 6/ Đánh thuê nhập
khau hàng hoá; 7/ Tước quyền bỏ phiếu của công dân trên
cơ sở phân biệt mầu da, dân tộc; 8/ Vi phạm Hiến pháp và
luật pháp liên bang.
Hiện nay <i>ở</i> Mĩ đang có khuynh hướng tập trung quyền
lực nhà nước vào liên bang.
Hình thức nhà nước liên bang có những dấu hiệu:
- Khác với những nhà nước đơn nhất, lãnh tho nhà
nước liên bang được hình thành từ lãnh thố của các nhà
nước thành viên tự nguyện liên hiệp thành.
Các nhà nước khi đã trở thành thành viên của nhà
nước liên bang, thì khơng cịn là nhà nước đúng /ới ý
nghĩa là một nhà nưốc có chủ quyền nữa. Nhất là vê lĩnh
vực đối ngoại, nhà nước thành viên coi như bị hoàn tồn
tước chủ qun. Khơng được tự tiện rút ra khỏi liên hang.
- Là chủ thế của liên bang, các nhà nước thành vién
vẫn có quyền thành lập chính quyền của mình, có hiến
pháp, có hệ thống pháp luật và có hệ thơng các cơ quan
nhà nước trực thuộc. Nhưng hiến pháp và pháp luật các
nước thành viên không được mâu thuẫn với hiến phip và
pháp luật liên bang.
Điều 28, khoản I Hiến pháp Cộng hoà liên ban£ Đức
quy định: "Hiến pháp của các lãnh địa không được mâu
thuẫn với nguyên tắc dân chủ và pháp quyển của nhà nước
liên bang chứa trong Hiến pháp liên bang". Điều 75 của
Hiến pháp liên bang Malaixia quy định: "khi luật củi nhà
Trên thê giới hiện nay đang có xu hướng tách nhà n ước
liên bang thành các nhà nước đơn nhất đốì với các rước tư
bản chậm phát triển. Ngược lại ở các nước tư bản pihát
triển thì lại có xu hướng ngược lại xích lại gần nhai Ihơn
bằng cách thành lập các liên hiệp kinh tế, tạo nêí một
khơng gian rộng lớn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tê
của mình.
/
<b>V. HÌNH T l l ứ c NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỂN Tl) SẢN</b>
Nhà nước pháp quyền là học thuyết vê việc tố chức và
hoạt động tố chức được sinh ra trong phong trào đấu tranh
đế giái phóng nhân loại khỏi chê độ phong kiến chuyên
chế. Mặc dù được sinh ra trong cách mạng tư sản của châu
Âu nhưng phái khẳng định rằng các tác giả của học thuyết
đã tiếp thu các thành quả tư tương các lĩnh vực có liên
quan của nhân loại. Ví dụ như học thuyết pháp luật tự
nhiên, các học thuyết vê nhân quyền, tư tưởng pháp trị...
Cho đến nay nhà nước pháp quyền trở thành một giá
trị ván minh của nhân loại, mà mọi nhà nước muôn trỏ
thành dân chủ tư sản, muôn trở thành văn minh đều phải
hướng tới.
<b>- </b> Hình thức <b>n h à </b> nước <b>n à y có </b>cách <b>tố </b>chức <b>v à h o ạ t đ ộ n g</b>
đối nghịch với các nhà nước độc tài, chuyên chê 8H. Những
nhà nước của chê độ chính trị phong kiến, của chê độ
chính trị chiếm hừu nô lệ, của nhà nước của các chế độ
thuộc địa. Những chê độ chính trị (chê độ nhà nước) gắn
liền với sự bóc lột đa sơ nhân dân, cai trị nhân dân bằng
các biện pháp độc tài, bằng vũ khí, bằng các loại nhà tù,
nhà giam... Nhân dân không được quyền tham gia vào các
công việc của nhà nước, khơng có quyền, mà chỉ gánh chịu
các trách nhiệm nặng nề mà giai cấp thống trị ban hành.
- Hình thức nhà nước pháp quyền đôi nghịch với hình
thức nhà nước được tố chức theo phương pháp nhân trị
(quan điểm nhân trị). Theo nhân trị chủ nghĩa, pháp luật
<b>KS Xt»m Hoàng Văn Hảo: </b><i><b>N hững m ặ t đôi lập với quan niệm N hà nước ph áp</b></i>
<i><b>quyển; Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.</b></i><b> Nguyễn Văn Thảo chủ</b>
<b>biên của Viện Nghiên cửu Khoa học Bộ </b>tư <b>pháp </b>Hà <b>Nội 1995, tr.66.</b>
trong xã hội đáng lí ra khơng cần có, hoặc giả thứ có cần
chỉ là trường hợp bất đắc dĩ. T ất cả mọi vấn đê trong xã
hội đểu phải giải quyết "tu nhân tích đức đế giáo hoá con
người"89. Quan niệm này nổi hẳn địa vị rấ t quan trọng của
luân lí, đạo đức trong địa hạt pháp luật của phương
Đông90. Động lực chính yếu để duy trì trậ t tự xã hội không
phải bằng pháp luật như ở phương Tây mà là sự rèn luyện
nhân phẩm. Nền tảng của chủ nghĩa này là triết học của
Khổng Tử. Ông viết trong sách Đại học, một trong Tứ thư
của ông rằng: "Đời xưa muốn làm tỏ được đức sáng trong
- Hình thức nhà nước <b>pháp </b>quyền đối nghịch với hình
thức nhà nước được tổ chức theo pháp trị. Nội dung của tư
tưởng pháp trị do các tác giả Trung Quốc cổ đại, phái Pháp
gia (Hàn Phi Tử) đề xướng là chống lại tư tưởng nhân trị.
Bổn phận của nhà vua không phải là chú trọng đến đạo tu
thân, mà cốt ở chỗ ấn định các luật pháp cho minh bạch và
ban bô" cho mọi người biết để thi hành. Cũng không khác
quan niệm của nhân trị, pháp luật chủ yếu là hình phạt để
<b>Xem Vũ Văn Mẫu: </b><i><b>Dân luật lược giảng,</b></i><b> quyển thứ nhất. Sài Gòn 1968,</b>
<b>tr.28.</b>
<b>90 Xem Vù Văn Mẫu: Sđd, tr.28.</b>
trừiiịí trị. Nhưng khác nhân trị ở chỗ pháp luật được dùng
thường xuyên hơn. thay chỗ cho đạo đức của phép trị nước
bằng nhán trị. Nhưng pháp luật chi văn bản của nhà vua
điíỢc han hành theo ý chí độc tơn của nhà vua mà không
phải là ý chí của nhân dân. khơng có nhân quyền, khơng
có quyền nhân dân.
Khác với quan niệm phương Đông, pháp luật trong
quan niệm của các nhà triết học cơ đại phương Tây ngồi
việc tòn trọng pháp luật họ còn gắn với yêu cầu pháp luật
phải chứa đựng nội dung công bằng của sô" đông. Platon
cho rằng: "Chúng ta thừa nhận những nrii mà luật được
định ra vì lợi ích của một số người, thì ỏ đó khóng có chẻ
độ Nhà nước, chi có thế gọi là nhà nưóc khi có sự cơng
bàng". Aristốt cịn cho rằng nơi nào khơng có sức mạnh của
luật thì nơi đó khơng có hình thức nhà nước. Theo ồng
khái niệm công bằng gắn liền với quan niệm của nhà nước,
bôi vì pháp luật - tiêu chuẩn của sự công bằng là quy
phạm điều chỉnh của giao tiếp chính t r ị 91.
Trong cuốn từ điển Xã hội học dưới sự chủ biên của
Nguyễn Khắc Viện cho rằng:
"Nhà nước Pháp quyền - một loại hình nhà nước được
xây dựng dựa trên cơ sở dân chủ, đổi lập với nhà nước độc
tài, chuyên chê cai trị. Thuật ngữ "Nhà nước pháp quyền"
được: xác định trong luật học nước Đức vào đầu thê kỉ thứ
XIX (tiếng Đức là Rechtsstaat) và sau đó được sử dụng
ngày càng rộng rãi, đặc biệt trong trào lưu dân chủ hố có
tính phổ biến ngày nay".
<b>Xem </b><i><b>Viện Nhà nước và ph áp luật, Tìm hiếu về N hà nước p h á p quyền</b></i>
<b>NXB Pháp lí. 1992, tr.6,7.</b>
Nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với nhà nước
cai trị bằng pháp luật. Nhà nước độc tài. chuyên chê trong
pháp quyền là bảo đảm các quyền và tự do của công dân
bằng các quy định của pháp luật rành mạnh, không ai
được vi phạm. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là
thước đo (chuẩn mực) của tự do..., nhà nước pháp quyên
được xây dựng theo những nguyên tắc dân chủ. Các cơ
quan quyền lực nhà nước (về lập pháp, hành pháp và tư
pháp) được bầu cử một cách tự do với sự tham gia một
cách trực tiếp của mọi công dân đê có thể thê hiện một
cách đầy đủ nhất ý chí của họ. Kinh nghiệm lịch sử cho
thấy các quyền lực đó phải được tố chức như thê nào đế
mỗi quyền lực có tính độc lập thực sự. Tất cả những ngưòi
được cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước đều phải chịu
trách nhiệm trước nhân dân.
Nhà nước pháp quyền là loại hình nhà nước có nhiều
khả năng nhất trong việc chống lại xu hưống độc quyên về
quyền lực và xu hưống quan liêu hóa bộ máy quyền lực 92.
So với các hình thức nhà nưốc nêu ở trên, thì nhà nước
pháp quyền có những đặc tính sau đây:
- Tính tối cao của pháp luật: Pháp luật là cơ sớ của mọi
hình thức tố chức quyển lực công khai. Mọi đường lối,
chính sách và quyết định của nhà nước đều phải dựa vào
<b>92 Xem </b><i><b>Từ điên Xã hội học</b></i><b>, N guyền Khác Viện chủ biên - NXB Thê giòi Hà</b>
<b>Nội, 1994.</b>
luật, phục tùng luật và tất cá các môi quan hệ qua lại giữa
<b>nhà </b> nước và cá nhân cùng phải dựa trên cơ sở của pháp
luật'*'. Khác với nhà nước pháp trị. pháp luật cúa nhà nước
pháp quyền phái vu'ón tỏi sự đầy đủ toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực, vói phương châm: đối với "cá nhân thì cho
phé]) làm tất cá những gì mà pháp luật khơng cấm", cịn
đơi với "cớ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà
<b>pháp </b> luật quy định". Pháp luật <b>của </b> nhà nước pháp quyền
cịn có mục tiêu vì <b>con </b>người, vì quyển con người.
- Nhà nước pháp quyển có mục tiêu đảm bảo quyền tự
do của con người, đối lập với nhà nước bạo lực. Tính tối cao
của pháp luật chưa chác đã là đặc điểm riêng có của nhà
nước pháp quyền. Bói củng tính tơi cao có the cỏ và rất cần
có trong nhà nước cực quyên, bao gồm những đạo luật phản
nhân quyển, tước bỏ mọi quyền của công đârr". Điểu đó có
nghĩa là nhà nước thừa nhận và có nghĩa vụ đảm bảo tự do
của con người, không được can thiệp vô hạn vào đời sống cá
nhân của con người. Nhà nước được xây dựng trên nền tảng
của xã hội công dân. Một xã hội mà <i>ở</i> đó cơng dân là chủ thể,
nhà nước có trách nhiệm phải phục tùng lợi ích của cơng
dân, mà khơng có điều ngược lại. Pháp luật phải đứng trên
<b>Xem Bùi Xuân Đửc: </b><i><b>Phân tích Nhà nước pháp quyển </b>tư <b>sản và vận dụng</b></i>
<i><b>no :rong thực tẽ tỏ chức bộ m áy lập p h á p</b></i><b>, </b><i><b>hành ph á p</b></i><b>. </b><i><b>tư </b><b>ph áp của một</b></i>
<i><b>sò nước tư ban ph á t </b>trien </i> <i><b>và một sô nước Đông Nam A hiện nay; Xây</b></i>
<i><b>dựng Nhà nước pháp quyền</b></i><b>, chủ biên Nguyền Vãn Thao. Sđd, tr.424.</b>
<b>Xem </b><i><b>Nhà nước ph áp quyền</b></i><b>, NXB Pháp lí, 1992, tr.22.</b>
- Nhà nước pháp quyên tư sản cịn đặt ra tiêu chí n ía la
nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tác phân quyển Mọi
thiết chê quyền lực nhà nưốc phải được tổ chức và hoạt iộng
trong khuôn khổ của pháp luật. Không ai có thê lạm lụng
quyền lực. Muốn khơng có sự lạm dụng quyền lực thì phải
sắp xếp quyền lực sao cho quyền lực ngăn chặn quyên lực.
Trong khoa học luật hiến pháp cũng như Lí luận cầung
về Nhà nước và Pháp luật, chúng ta có thê gặp những
hình thức nhà nưốc khác rất phổ biến như là hình thức
nhà nước theo cấu trúc lãnh thổ của nhà nước liên lang,
đơn nhất; hoặc hình thức nhà nước được tố chức theo
chính thể cộng hồ đại nghị, cộng hồ tổng thơng... Vậy thì
thử đặt vấn đê giữa nhà nước pháp quyền - một hình thức
nhà nước với các hình thức nhà nước rất phố biến trtn có
quan hệ gì với nhau?
Trước hết cần phải khẳng định rằng cùng một cá nội
của nhãn dân và ngược lại. khi có sự tham gia của nhân
dán thì được gọi là (’ơng hồ (puhlic). Cịn mn biêt rõ
hớn. nhà nước: được tô chức theo chính thê đại nghị hay là
cộnjr hoà tổng thống thì buộc phải xem xét môi quan hệ
giữa lập pháp và hành pháp. Nếu chúng có sự phối hợp và
hành pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp thì đó là
hình thức nhà nước của chính thế đại nghị kê cả cộng hoà
lẫn quán chủ; điều ngược lại hành pháp không chịu trách
nhiộm t rước lập pháp thì đó là của chính thể tổng thơng
cộn^Ị hồ. Như vậy, cách phân tích trên vê cơ bản chỉ dựa
vào cơ cấu tỏ chức, chủ yếu là cơ cấu tô chức của các cơ
quan nhà nước trung ương, dựa trên cơ sở của môi quan hệ
giữa lập pháp và hành pháp. Điều cần phải thây rằng, sự
Từ những điểu phân tích trên chúng ta có thể hiểu
rằng Nhà nước pháp quyền tư sản là một hình thức nhà
nước được phân tích trong mốì tương quan giữa nhà nước và
pháp luật. Nhà nước pháp quyển thể hiện tính dân chủ
của nhân loại.
<b>I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA BẤU c ử</b>
Khi các giai cấp xuất hiện, nhà nước hình thành với tư
cách là một thiết chê đứng trên xã hội có chức năng thể
Hình thức dân chủ trực tiếp, nhân dân trực tiếp giải
quyết các công việc của nhà nước, hiện nay áp dụng rất
còn hạn chế. Hình thức dân chủ gián tiếp mà loại hình
biểu hiện của nó là dân chủ đại diện, hiện nay được áp
dụng hết sức rộng rãi.
Dân chủ đại diện là một thể thức dân chủ, trong đó
nhân dân thực hiện chủ quyền của mình qua khâu trung
gian của những đại diện được chọn bằng phương pháp bầu
cử. Phương pháp này được áp dụng rất rộng rãi trong chê
độ tư bản và trong chủ nghĩa xã hội. <i>Bầu cử trở thành một</i>
<i>chè độ bầu cứ. Chê (tộ nay dưực xác dinh bời tổng thê các</i>
<i>mòi quan hệ xã </i> <i>hội được hình thành trong quá trình tiến</i>
<i>han h các cuộc hàu cử, tư lúc lập clanh sách cử tri, chu đến</i>
<i>khi lĩ ốt thúc xác định </i> <i>dược danh sách những người trúng</i>
<i>cử. Qua những môi quan hệ xã hội đó cho phép khái quát</i>
<i>đưự/c chê độ bầu cử của một đát nước lả chè độ bầu cử dán</i>
<i>chủ không áp đặt, nhàn dàn tự nguyện thê hiện ý chí của</i>
<i>m ình tim ra được những người xứng đáng làm đại diện</i>
<i>cho họ, thay mặt họ quán lí và điều hành đất nước.</i>
Thực ra nguyên tắc hầu cu đã xuýt hiện từ rất lâu.
ngay từ thời chiêm hữu nơ lệ. Ngồi chính thê quân chủ là
phô hiến ngay từ thịi kì này đã tồn tại chính thê cộng
hoà . với Viện nguyên lão bao gồm đại diện của những chủ
nỏ quý tộc, đại diện nhân dân (Comita centuria), bao gồm
đại diện của những người cầm vũ khí
'Chế độ bầu cử dưới giác độ là một chê định pháp luật
của Nhà nước <b>tư </b> sản hao gồm những quy định <b>được </b>chứa
đựng trong văn bản có hiệu lực pháp lí cao nhất (Hiên
pháp), và trong các văn bản pháp luật khác nói về nguyên
tắc bầu cử, vê trình tự lập danh sách cử tri, trình tự giới
thiệu ứng cử viên, trình tự vận động bầu cử cho đến các
quy định nói về cách thức xác định kết quả bầu cử.
Khác với chê độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước tư sản
đượ<c tố chức và thành lập theo nguyên tắc phân chia
quyển lực. Vì vậy, đối tượng bẩu cử trong Nhà nước tư sản
đượ<c áp dụng rộng rãi hơn. Không những chi’ trực tiếp bầu
ra các nghị sĩ như trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, cử tri
của Nhà nưốc tư bản còn bầu ra các quan chức cao cấp
khátc như tổng thống, các thị trưởng...
ở một sô nước, mà Nghị viện có cơ cấu hai viện, thiờng
Hạ viện là viện do nhân dân trực tiếp bầu ra. Thượng viện
được thành lập bằng bầu cử gián tiếp hoặc do chỉ địm, do
truyền ngôi thê tập. Bên cạnh những nước có quy định như
trên, cũng có những nưóc có Thượng viện và Hạ việr đều
do nhân dân trực tiếp bầu ra. Bầu cử trực tiếp hoặc gián
tiếp là cơ sỏ xác định thẩm quyên của cd quan nhà iước.
TTổng thông Mĩ do cử tri gián tiếp nhưng đích thực là
trực tiếp bầu ra, có nhiều quyền lực thực tế hơn Tong
thơng của Cộng hồ liên bang Đức được bầu ra dựa tiên cơ
sở của nghị viện (không do dân trực tiếp hoặc giár tiêp
bầu ra)97. Sự tấn phong của nhân dân Mĩ đã làm cho tổng
thống có quyền lực ngang hàng với Nghị viện Mĩ. Thủ
tướng Anh do Nữ hoàng bố nhiệm. Nhưng nữ hồng khơng
thể bổ nhiệm người nào đó khác hơn là người thủ lĩnh của
đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện. Như vậy, qua
cuộc bầu cử trực tiếp nghị sĩ vào Hạ nghị viện, nhâu dân
nước Anh đã tự lựa chọn cho mình một vị thủ tướng.
Chính đây là điểm lí giải tại sao Thủ tướng Anh qiốc có
quyển năng hơn các cơ quan khác của Nhà nước Anh >8.
So với chế độ phong kiến và chê độ chiếm hữu nô lệ
trước đây, việc áp dụng phương pháp bầu cử đê thành lập
<i><b>m</b></i><b> Xem Chương VIII: </b><i><b>N ghị viện</b></i><b> của giáo trình này.</b>
<b>97 Xem Chương IX: </b><i><b>Nguyên thủ quốc gia</b></i><b> cúa giáo trình này.</b>
<b>** Xem, Chương X: </b><i><b>Chính phủ</b></i><b> của giáo trình này.</b>
ra các cò quan Nhà nước cua chê độ tư san là một phưring
pháị) (lân chu. Nó (là ííiúp cho nhân loại loại trừ khới quan
Che đậy bản chất của những hạn chế nêu trên, nhiều
học giả tư sản giải thích: Cơng việc bầu cử là công việc phức
tạp chỉ có những người có một trình độ hiểu biết và kinh
nghiệm cuộc sông nhất định mới đảm đương được. Lí giải
việc bầu cử Tông thống Mĩ gián tiếp, họ cho rằng, một người
dán bình thường khơng đủ khả năng nhận biết được cần
phải bỏ phiếu cho ai và cho ứng cử viên của dắng nào. Đây
cũnịí là một lí do cơ bản dẫn đến các nhà lập hiến Mĩ quy
Trong chế độ bầu cử của Nhà nước tư sản còn có cà
trình tự tiến hành các cuộc bỏ phiếu trứng cầu. tức là bó
phiếu phúc quyết. Nhân dân trực tiếp bỏ phiếu quyết định
những vấn đề quan trọng của quôc gia. Như vấn đê chiến
tranh hay hồ bình, vấn đề thành lập liên hang, hoặc
ngược lại vấn đề tách ra khỏi liên bang...
Nêu chúng ta hiểu bầu cử ở nghĩa rộng thì đây cũng là
một loại bỏ phiếu phúc quyết. Chỉ kKác hơn ở một điều:
cuộc bầu cử thì được tiến hành thường xuyên theo nhiệm
ki của cơ quan phải thành lập. thường được tổ chức thành
nhiều đơn vị bầu cử, ngược lại cuộc bỏ phiếú phúc quyết
hiện nay trên thực tê không được tiến hành một cách
thường kì và việc tổ chức chỉ được tiến hành trên một (ỉơn
vị bầu cử, tức là toàn lãnh thổ quốc gia là một đơn vị bỏ
phiếu, không chia cắt thành nhiều đơn vị.
<b>II. CÁC LOẠI HÌNH BẦU </b>♦ <b>c ử</b>
Căn cứ nhiều nguyên tắc khác nhau người ta có thế
phân chia các cuộc bầu cử của các nước tư bản thành
nhiều loại hình khác nhau:
- Theo các cơ quan, chức danh cần phải bầu cử, người
ta có thể phân chia thành các cuộc bầu cử cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp, hội đồng tự quản địa phương,
các thị trưởng địa phương...
- Theo mức độ tham gia của cử tri, các cuộc đầu phiếu
có thể <b>được </b>chia ra thành các cuộc đầu phiếu trực tiếp, đầu
phiếu gián tiếp, các cuộc đấu phiếu phố thông, các cuộc
đầu phiếu hạn chế...
- Theo cách thức ra tranh cử, người ta có thể chia bầu
cử thành: bầu cử đơn danh, bầu cử liên dạnh.
Hâu cử đơn danh la cuộc bầu cử mà mỗi đơn vị hầu cứ
chi «được hầu một đại biếu, các ứng cử viên ra tranh cử
không can phai liên kết vỏi nhau. Cuộc hầu cứ này thường
được- tô chức cho các cuộc hau Hạ nghị sĩ.
Cuộc bau cử liên danh là cuộc bầu cử mà mỗi một hạt
hầu cử được bầu nhiều ghế (từ 2 trỏ lên). Các ứng cử viên
ra tra n h cử phải liên kết với nhau trong một danh sách.
Cử tri bỏ phiếu cho từng danh sách liên danh. Cuộc bầu cử
này được sử dụng thường xuyên hơn ỏ các nước tư sản
trong các cuộc bầu cử nghị viện, rất phù hợp với việc các
đảng phái đưa clanh sách của mình ra tranh cử. Cử tri
thích danh sách nào thì bỏ cho danh sách đó.
- Theo cách tính kết quá trúng cử. người ta có thể chia
cáo cuộc bầu cử thành các cuộc bầu cử đa sô tương đôi, đa
số tuyệt đôi, đa số hai vịng, đa sơ tỷ lệ.
<b>111. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỂ BAU c ử CỦA CÁC</b>
<b>NHÀ. NƯỚC TƯ SẢN VÀ THỤC TẾ BẦU c ử CỦA CÁC</b>
<b>NƯỚC TU BẢN</b>
Như trên đã nêu, bầu cử là một chế định pháp luật
quan trọng của luật hiên pháp. Nó bao gồm tống thê các
quy định pháp luật về tiến trình bầu cử được quy định
bằng một đạo luật bầu cử. 0 Pháp, những quy định này
đuỢe điên hoá thành một Bộ luật vê bầu cử.
Hiện nay, hiên pháp của đa sô các nưốc tư bản đều
tuvêm bô nguyên tắc hầu cử phổ thông, tức là chê độ bầu
<i>cửđmợc</i> mỏ rộng cho tấ t cả mọi người dán đến tuổi trưởng
thmjh, nhứng trên thực tê pháp luật từng nước vẫn có
những hạn chê nhất định, gạt ra khỏi đời sống chính trị
mót luỢng những người dân lao động rất lớn. Trước hêt, đó
là hạn chê điều kiện vê tuổi. Pháp luật tư sản thưừng quy
định cơng dân có hạn từ 20 tuổi mới có quyền bầu cử Kèm
theo quy phạm này là quyền được bầu (bầu cử thụ ỉộng),
hao giờ cũng đòi hỏi ỏ độ tuổi cao hơn. Nhừng qu\ định
hạn chê này đã nghiêm cấm đa sô thanh niên than gia
vào địi sơng chính trị của nhà nước. Họ cho rằng, tầig lớp
thanh niên chưa có đủ trình độ chín chắn đê tham ga vào
các hoạt động chính trị. Con người cảng trẻ, càng có nhiều
khuynh hướng chính trị. Người nhiều tuổi bao giờ cíng có
khuynh hướng bảo thủ, ơn hồ, thận trọng. Thơng tờng
pháp luật bầu cử nghiêm câm các quân nhân tại ngũ tham
gia bầu cử. Qùân đội khơng tham gia chính trị.
Nhiều nưốc tư bản còn hạn chê bầu cử bằng thò gian
cư trú, tức là ngưịi có qun bầu cử phải cư trú tiưòng
xuyên ỏ đơn vị bầu cử một khoảng thời gian theo qu1 định
của từng nước.
Ngoài những hạn chê nêu trên, pháp luật tư sản còn
đặt ra nhiều hạn chê khác. Ví dụ như hạn chế vê tã sản,<sub>• </sub> <sub>• </sub> <sub>* </sub> <sub>* </sub>
mn tham gia bầu cử, người đi bỏ phiếu phải có nột tài
sản nhất định; hạn chê vê giới tính, chỉ có nam giới nới cớ
quyền tham gia bầu cử, chính trị là cơng việc của nan giới,
thậm chí có nơi bầu cử là hoạt động của những ngĩời da
trắng, pháp luật khơng cho những ngưịi da mầu thamgia...
Nói chung, những hạn chê bầu cử như nêu trên phản
ánh tính chất phản dân chủ của pháp luật bầu cử tí sản.
Với sự đấu tranh bền bỉ của nhân dân các nưóc my cho
đến nay sự hạn chế việc tham gia bầu cử của các tầìg lớp
nhân dân lao động đã bị giảm bớt. Sau chiến tranh tlế giới
thứ hai, mức tuổi đửợc bầu cử đã được hạ thấp từ 21, 25
xuống 18, 20 tuổi (Cộng hoà liên bang Đức, Mĩ, Pháp,
Anh...). Ỏ Mĩ. phụ nữ có quyền bầu cứ từ năm 1920; Pháp
- 19'11: () Italia - 1945. ỏ Thuỵ Sĩ mãi đến năm 1972. phụ
nữ moi được đi háu cứ như nam giới...
ơ cía sô các nước tư bản đêu tuyên bô quyền bầu cử là
hình đang: mỗi người có một lá phieu; đều được tham gia
bầu cử và đưọc bầu trên cơ sở bình đắng như nhau; sức
nặng lá phiếu của các cử tri là như nhau. Nhưng trên thực
tê quy định dân chủ này rất dễ bị vi phạm do sự vận dụng,
của các C(j quan phụ trách công việc bầu cử. Thậm chí việc
vi phạm ngun tắc này cịn có cá những quy định pháp
luật bầu cừ đang hiện hành, ơ Anh, những người có bất
động sán lon và những ngưịi đã tơt nghiệp các trường Đại
ậ^N hững người đạt được những tiêu chuẩn mà pháp luật
bầu cử quy định phải được lập danh sách cử tri. Người có
tên trong danh sách cử tri mới có quyền đi bỏ phiếu (bầu
cử). Pháp luật quy định hai cách thức lập danh sách cử tri.
Thứ nhất, danh sách cử tri lập thường xuyên, hàng năm
đều có sự chỉnh lí lại không phụ thuộc vào các cuộc bầu cử.
Thứ hai, danh sách cử tri được lập cho mỗi cuộc bầu eu,
tức là cứ đến trước cuộc bầu cử phải lập danh sách cử tri.
Sau cuộc bầu cử danh sách cử tri khơng cịn giá trị, đến
cuộc bầu cử mới phải lập danh sách cử tri mới.
<i><b>f \</b></i><b> Các cuộc bầu cử phải được tiến hành theo các đơn vị</b>
bầu cử. Đơn vị bầu cử là đơn vị được thành lập từ một
vùng lãnh thổ tương ứng với một lượng dân cư nhất định,
đượ: bầu ra một số lượng đại biểu <i>(số</i> ghế) nhất định theo
quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan
lãnh đạo bầu cử trung ương. Pháp luật tư sản qu\ định
hai cách thức thành lập dờn vi bau cử: 1, Lấy các «tơn vị
' hành chính trực thuộc làm đơn vị bau cử; 2, Thành lệp đơn
vị bầu cử riêng không phụ thuộc vào đdn vị hành chính
trực thuộc. Sư bình dạng trong các cuộc bầu củ trưíc hết
dược thệ hiên trg các cơng đoạn phân chia đơn vị bỉu'cử.
Đế đám bảo nguyên tắc bình đang nấy một sơ"nước thong
<b>phải một mà nhiều đại biểu. Hơn nữa những người ra ứng</b>
cử phải liên danh với nhau. Liên danh nào được nhiều
phiếu thì liên danh đó chiếm được tồn bộ sơ ghê cia đơn
vị bầu cử. Cách bầu cử này gọi là bầu cử liên danh, <i>và</i> đơn
vị bầu cử <b>được </b>gọi là đơn vị bầu cử liên danh.
Việc giới thiệu ứng cử viên là một công việc ỉế t sức
quan trọng trong mỗi một cuộc bầu cử. Kết quả cuộc đấu
tranh đòi quyền bầu cử của nhân dân các nước tư bản không
chỉ dừng lại ơ chỗ họ có quyền đi bỏ phiếu hay khúig mà
còn phải đạt được tới cái đích là trở thành những ngiời đại
điện cho chính hản thân mình trong cơ quan nhà nước.
Muôn ứng cử vào Hạ viện, công dân phải có độ tuổi từ
28 đến 25, thậm chí vào Thượng viện còn phải cao hơn, từ
30 đèn 40. Một sơ" nước cịn nghiêm cấm hàng loạt công
dấn không được bầu vào Nghị viện, tức là những cơng dân
có n^hề nghiệp, quan chức liên quan đến hoạt động của
Nghị viện. Thay vì quy định này, pháp luật mở ra khả nàng
muôn trở thành nghị sĩ thì phải từ bỏ chức sắc, nghê
nghiệp đang đảm nhiệm (Cộng hoà Pháp, Cộng hoà
Italia...). Bộ luật bầu cử Pháp nền cộng hoà thứ V đang
hiện hành quy định: tỉnh trưởng, thẩm phán, các thành
viên toà án hành chính, tổng thanh tra kinh tế, tống kỹ sư
vận tải. đại biểu hội đồng vùng, những quan chức do nhân
dân bầu, không thế được bầu vào đại biểu quốc hội (hạ
nghị viện) ở bất cứ đơn vị bầu cử nào mà đang thi thành
nhiệm vụ hoặc đã thi hành nhiệm vụ trong vòng 6 tháng
trước ngày bầu cử.
Ngoài những điều kiện trên, những người tự ứng cử
muốn được lập danh sách ứng cử viên thì phải lấy một số
lượng chữ ký ủng hộ của cử tri tuỳ theo quy định của từng
nưốe (Ví cỉụ: cao như ở Bỉ là 200 đến 500 chũ ký, thấp như
<b>ở Canada - 2 chữ ký), Ngoài chữ ký, người tự ứng cử phải</b>
nộp một khoản tiền cược trước vào ngân sách nhà nước, ơ
Anh là 150 đồng bảng; ở Pháp 1000 Frăng, ở N hật 100
nghĩn yên nếu ứng <i>àử</i> vào Hạ Nghị viện. Nếu như ứng cử
vào thượng viện hoặc tống thơng cịn phải nộp sơ íưựng
tiền nhiều hơn. Sô lượng tiền này chỉ được hoàn lú cho
ứng cử viên, nếu họ nhận được một lượng phần trim sô
phiếu thuận nhất định tuỳ theo quy định của từng nước,
như ở Pháp là 5%, ỏ Italia là 1,5% tống sô phiếu đ bầu.
Ngược lại không thu được số lượng quy định trên .hì sơ
tiền cược trước phải sung vào ngân sách nhà nước.
Nói chung, trong lịch sử bầu cử tư sản hãn bữu có
trường hợp ứng cử tự do mà thắng cử. Mặc dù rất í nước
tư sản pháp lu ật quy định các đảng phái được đặc 4uyển
giới thiệu ứng cử viên. Nhưng trên thực tê các đảnỊ phái
chính trị đóng vai trị rất lớn trong việc giới thiệu Vng cử
viên. Việc giới thiệu này đã trở thành một trong ìhững
chức năng chính trị lớn nhất của các đảng phái chínl trị
Trong th ế giới tư bản, bầu cử là cuộc đâu tran h -hít sức
gay gắt giữa các đảng piìái chmh trị.
Vấn đề đặt ra ở đây là đảng phái nào được quym giới
thiệu ứng cử viên theo pháp luật quy định và phầ được
thực tê chấp nhận, v ề nguyên tắc, nhà nước tư sảì thừa
nhận đảng phái nào giành được một số lượng ghí nhất
định trong cuộc bầu cử trước sẽ có quyền giới thiệu mg cử
<b>viên cuộc bầu cử tiếp theo hoặc thấp hơn là chỉ cầí nhận</b>
được một lượng số phiếu thuận nhất định trong cu)c bầu
cử lần trước.
Các đảng phái chính trị giới thiệu ứng cử vun vào
Quốc hội cũng như vào các chức danh quan trọng khác của
? nhà nước được tiến hành theo các thể thức hết sú' khác
nhau, tuỳ theo quy định hoặc theo thông lệ của từnr đảng
<i>Ị</i> phái và của từng nước.
<b>99 Xem Chưrtng V: </b><i><b>Các đ á n g p h á i chính trị</b></i><b> của giáo trình này.</b>
Cách thức giới thiệu cỏ điên nhất là thông qua một uỷ
bnn lựa chọn, Uy ban lựa chọn thông thường chi hao gồm
một thành phần rã . hẹp. từ 2 đến 3 người đáng viên cao
cấp, chính khách hữu danh của các đảng phái tham dự vào
cônjf việc lựa chọn ứng cử viên. Họ làm việc một cách bí
mật. Phương pháp này sau này gặp rất nhiêu chi trích, chỉ
cịn <b>đ ư ợ c </b>áp dụng ỏ những nước <b>t ư </b>bản chậm phát triển.
Cách thứ hai, tất cả các đảng viên của đảng, ít nhiều
đểu được tham gia vào việc giới thiệu ứng cử viên. Đảng
được tô chức thành các chi bộ. Qua các chi bộ. đáng viên cử
đại <b>diện </b> của mình. Các đại diện này họp thành hội nghị
đảng địa phương đê lựa chọn ứng cử viên. Các ứng củ viên
đượ<‘ (ỉƯa vê trung ương phê chuẩn (Anh quốc). Cách lựa
chọn này được gọi là cách lựa chọn bán trực tiếp.
Cách thứ ba, các đảng phái tố chức các Hội nghị đảng
đế lựa chọn ứng cử viên, gọi là các cuộc hầu cử sơ bộ.
Mỏi dáng cho in lá phiếu riêng của mình. Trên mỗi lá
phiếu có ghi tên ứng cử viên dự định ra tran h cử. c ử tri
nhận lá phiếu sẽ vạch một chữ thập trước ứng cử viên mà
mình ưa thích nhất, ữ n g cử viên nào có nhiều chữ thập
nhất sẽ được đảng đưa ra tranh cử cho đảng trong cuộc
tuyên cử chính thức.
ở Mĩ, đảng Cộng hoà, đảng Dân chủ giành độc quyển
trong việc giới thiệu ứng cử viên Tống thông và ứng cử
<b>viên vào </b>Quốc <b>hội Mĩ. </b> <i><b>Cấc</b></i><b> dáng phái khác chĩdược quyền</b>
giơi thiệu khi trong cuộc bầu cử trước giành được từ 3 đến
0% phiếu bầu trong mỗi bang; Các đẳng Cộng hoả và Dân.
chu thực hiện quyền đê cử của mình bằng cách tiến hành
cấc cuộc bỏ phiếu bầu ứng cử viên trong cae hội nghị ctañg
vién. Người ta gọi các cuộc bỏ phiếu này là cuộc bầu cử sơ
bộ Xcuộc bầu cử đầu tiên). Người được gọi là ứng C1Í viên
chính thức là người có nhiều phiếu hớn (đa sô tươỉg đối
hay đa sô tuyệt đối tuỳ theo quy định của mỗi hộ nghị
đảng). Nếu bầu không <b>được </b> ứng cử viên, thì tơ chúc bầu
vòng hai Vòng hai chỉ tổ chức cho những người có nhiều
phiếu nhất <i>ỏ</i> vịng đầu.
ở nước Anh, trước năm 1969, ứng cử viên đưcc giới
thiệu vào Hạ viện không cần phải đảng phái. Nhưtg sau
này thực tê đã chỉ ra rằng, việc giới thiệu cần phải th?o các
đảng phái chính trị. Hai đảng Bảo thủ và Công đảng về cơ
bản giữ độc quyên trong việc giới thiệu ứng cử viên Việc
giới thiệu này được tiến hành ở các tố chức đảrg địa
phường, dưới sự lãnh đạo tập trung của cơ quan đảng
trung ương. Trong nhiều trường hợp phải có sự đồngý của
Ban chấp hành trung ương thì ứng cử viên mới điỌc lập
danh sách.
Tại Cộng hoà liên bang Đức, việc giới thiệu ứng ci viên
là đặc quyền của các đảng phái chính trị. Những đmg có
từ 5 ghê trở lên trong Nghị viện mới được giới thiệu tng cử
viên bầu vào Nghị viện khoá tiếp theo. Những đảrg mới
được thành lập, muốn được giới thiệu phải trình cc quan
phụ trách bầu cử cấp liên bang những chứng từ (ó liên
quan đến hoạt động của đảng mình như: điều lệ, cương
lĩnh, sô* lượng đảng viên và các cơ quan cấu thành.
Cơ quan phụ trách công việc bầu cử liên bang kitm tra
các tài liệu, trong phiên hợp cơng khai có đại diện của
đảng xin được giới thiệu ứng cử viên, quyết định chí phép
đảng mới thành lập được quyền giới thiệu ứng củ viên.
Theo pháp luật bầu cử của Cộng hoà liên bang Đức.chậm
nhất 37 ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban trung ưcng (cơ
quan phụ trách cónií <b>việc </b>háu cứ cấp liên bang) phái cưng
câp cho cở quan hau cu cấp địa phương danh sách những
đảng phái nào là 11!,hiểm nhiên được quyền giới thiệu ứng
cử viên và những đáng nào mới được đăng ký cho phép giới
thiệu ứng cử viên.
Đê phụ trách mọi cơng việc có liên quan đến bầu cử, từ
việc lập danh sách cử tri cho đến việc xác định kết quả bầu
cử, pháp luật tư sản quy định việc thành lập các cơ quan
phụ trách bầu củ: các cơ quan phụ trách bầu cử <i>ở</i> các đơn
vị b.ìu cử, các cơ quan phụ trách bầu cử ở trung ưdng.... Có
hai cách thức thành lập các cơ quan này. Thứ nhất, cơ
quan bầu cử được thành lập thường xuyên cho các cuộc
bầu cứ bao gồm các quan chức bầu cử, Các cơ quan bầu cử
này thường trực thuộc Bộ Nội vụ. Thứ hai, các cơ quan bầu
cử được thành lộp theo các cuộc bầu cử, khi cuộc bầu cử kết
thúc thì các cơ quan bầu cử này hết nhiệm kì hoạt động.
Tất cả các ứng cử viên được các đảng phái <i>giới</i> thiệu
muôn được vào danh sách chính thức để các cử tri bỏ phiếu
thì phải được cơ quan phụ trách bầu cử lập danh sách ứng
cử viên. Các cơ quan phụ trách bầu cử khơng có quyền giới
thiệu ứng cử viên vào hghị viện, cũng như vào các chức
danh nhà nước khác. Nhưng các cơ quan này có trách
nhiệm kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật,
có trách nhiệm phải lập danh sách ứng cử viên cho những
ứng cử viên được giới thiệu đúng luật. Đồng thời, các cơ
quan phụ trách hầu cử có quyền gạt tên những ứng cử
viên được giới thiệu không theo quy định của pháp luật.
Hai công đoạn này pháp luật tư sản thường giao cho
hai loại chủ thể khác nhau, để chúng kiểm tra, đối trọng
lẫn nhau. Quyền giới thiệu thuộc về đảng phái chính trị.
Quyền lập danh sách ứng cử viên thì lại thuộc về các cơ
quan phụ trách bầu cử.
Sau công đoạn giới thiệu ứng cử viên và lập danh sách
ứng cử viên là công đoan vân động bầu cử. Pháp luật tư
sản quy định tương đối chi tiêt van tĩể này để đảm báo sự
bình đẳng giữa các ứng cử viên: thời gian bắt đầu. kết thúc
cuộc vận động, thời gian được phát biểu trên các phưđng
tiện thông tin đại chúng, cách thức và địa điểm dán áp
phích I0°.
Cì cùng là việc xác định kết quả bầu cử. Pháp luật
- tư sản quy định có hai phương pháp xác định kết quả bầu
cử: phường pháp đa số’và phương pháp đại diện tỷ lê.
<b>IV. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH KÊT </b>QUẢ <b>BẨU c ử</b>
<b>1. </b> <b>Phương pháp thứ nhất, xác định theo nguyên</b>
<b>tắc đa sô (Majority)</b>
Theo phương pháp này người trung cử là ứng cử viên
thu được đa sô" phiếu thuận. Có hai loại: đa sơ' tương tôi và
đa sô' tuyệt đốỉ. Đa sô' tương đối cho phép xác định kết quả
trúng cử không cần phải đạt tới trên 50% tống sô phiếu. Ai
được nhiều hơn thì người đó trúng cử. Phương pháp này
được áp dụng ở Anh. Ngưòi Anh gội là The first past - the
<b>được </b> phân một ghế, chỉ có một ứng cử viên A thì không
phải tố chức bỏ phiếu. Trong trường hợp ngoài A cịn có
<b>Xem: </b><i><b>Bộ lu ật bầu cứ Pháp.</b></i>
ứrug cứ viên B, c , 1) voi sô phiếu được phân A thu được 300
ph it'll thuận; B - 100; c - 200 và I) được 400, thì 1) là người
tr ú n g cu. Như vậy. trong trường hợp này chỉ có 400 người
hầu cho I) có đại diện còn lại 600 cử tri khơng có đại diện.
Cách háu cử này còn được gọi là đa sơ một vịng. Đây là
cách bau cử ủng hộ các đảng phái mạnh, là nguồn gôc sinh
ra lưỡng đảng.
Loại đa số thứ hai, đa sô tuyệt đôi. Người trúng cử theo
phư<đng pháp này phải nhận dược ít nhất 50% + 1 sô phiếu
th u ận . Phương pháp này khắc phục được nhược điểm các
phưdng pháp trên là người trúng cử là đại diện của đa sô
cử tíri đi bỏ phiếu. Nhưng phương pháp này lại có mặt tiêu
cực là nhiều khi khơng tìm ra được ngưòi trúng cử hoặc
nếu ở đơn vị bầu cử được bầu nhiều đại biểu (nhiêu ghế)
thì hầu một lần nhiều khi không đủ sô lượng ghê phải bầu.
Đế khắc phục tình hình này, ở Pháp ngưòi ta đã đưa
phưung pháp kết hợp cả hai nguyên tắc, đa số tương đôi và
đa S(ô tuyệt đôi, gọi là bầu cử hai vịng. Ĩ vòng đầu người
trún g cử phải đạt được đa sô phiếu tuyệt đối 50% + 1. Nếu
đơn vị bầu cử <i>ở</i> vòng đầu tiên khơng tìm được đủ sô" lượng
ghê phải bầu thì tiên hành bỏ phiếu bầu vòng hai. Vòng
thứ lhai, khi xác (tịnh kết quả bầu cử, không theo nguyên
tắc cfa sô tuyệt đối nữa mà theo nguyên tắc đa sô tương
đôi, ai được nhiều phiếu hơn, thì người đó trúng cử. Vói
cách thức bầu cử này người ta gọi là bầu cử hai vòng. Vòng
thứ hai chỉ tố chức cho những ứng cử viên khơng thắng cử
<i>ở</i> vịng đầu, cũng là vòng cuối cùng, không phải tố chức ỏ
vòng thứ b a101. Đây là cách thức hầu cử mà các nhỉ luật
học luận giải việc sinh ra hê t hống đa_đáng của cácnưóc
tư sản 1’02.
<b>2. </b> <b>Phương pháp thứ hai xác định theo phương</b>
<b>pháp đại diện tỷ lệ</b>
Phướng pháp này đưực áp dụng <i>ở</i> nhiều nước <i>ti</i> bản
phát triển hiện nay. Lợi thê của phương pháp này cho
phép các cử tri đều có đại diện của mình trong cơ quan dán
cử. Phương pháp này cho phép các đảng phái ra tranh cử,
cử tri bỏ phiếu bầu cho các đảng phái chứ không bểu cho
từng ứng cử viên cụ thể. Đây cũng là mặt tiêu CỊC của
Có hai cách xác định kết quả bầu cử theo phương pháp
đại diện tỷ lệ.
Cách thứ nhất là áp dụng công thức của nhà bic học
người Anh, T.Her. Theo phương pháp này, các đảnf phái
tranh cử nhận được một sơ ghế của mình bằng thư«ng sơ
của sơ" phiếu thuận mà đảng phái đó nhận được trêi định
mức bầu cử. Định mức bầu cử là thương số của tếng số
phiếu thu được của đơn vị bầu cử trên lượng sơ" ghỉ phải
bầu. Hay nói cách khác sô lượng ghế nhận được của một
đảng phái ra tranh cử sẽ bằng sô" lần của định mức bìu cử.
Thí dụ: ở đơn vị bầu cử sô" N nào đó được phâi một
lượng ghê nghị viện là 5 chẳng hạn. Số đảng phái ra tranh
<b>"" Xem </b><i><b>Bộ lu ật báu cử cùa Pháp.</b></i>
<b>Xem Chương V: </b><i><b>Các đ ả n g phái chinh trị</b></i><b> của giáo trình này.</b>
<b>1,11 Xem Chương V: </b><i><b>Các đản g ph ái chính trị</b></i><b> của giáo trình này.</b>
eu là 5. Số phiếu thuận thu được cho các đáng phái như
sau: Dáng A-27 nghìn phiếu; B-23 nghìn; C-15 nghìn; I)
thu được 7.600; lí tl u 7.400
Dịnh mức bầu cử sẽ là:
27.000 + 23.000 + 15.000 + 7.600 + 7.400
8 = ---= 16.000
5
Sô lượng ghế của đảng A bàng
27.000
— —— = 1 ghế dư 11.000
16.000
Tương tự như vậy, đảng B có 1 ghê dư 7.000. Các đảng
phái khác không thu ghê nào. Như vậy, mới chi’ xác định
được hai ghế của đảng A và B, còn lại 3 ghê chưa xác định
được. Khắc phục khuyết điểm này, nhà bác học đề nghị
chia số ghế còn lại cho các đảng có sơ dư lớn hơn, cho đến
khi hết thì thôi. Theo đê nghị này, mỗi đảng đều thu được
một ghê trừ đảng E. ơ đây có một mâu thuẫn cần phải
tính đến. Đó là sự chênh lệch quá lớn giữa đảng A thu
được 27.000 phiếu thuận được 1 ghê và đảng D thu được
7.600 cũng được 1 ghế, hơn th ế nữa đảng E không được
ghế nào mặc dù chỉ kém D có 200 phiếu.
Khắc phục thiếu sót này, một sô nước cho phép hạ thấp
định mức bầu cử £ xuống bằng cách thêm vào lượng ghê
một, hai sô tự nhiên vừa phải nào đấy.
Định mức bầu cử sẽ là:
(27000 + 23000 +15000 +7600 +7400)
6, = --- = 13000
<b>(5+1)</b>
Hoặc có thể hạ thấp nữa bằng cách cộng với 2 \ào sô
lượng ghê phải bầu:
(27000 + ‘23000 +15000 +7600 +7400)
e2 = ---= 11000
(5+2)
Theo định mức bầu cử này đảng A sẽ được 2 giê dư
<b>5000 phiếu, đảng B sẽ được 2 ghế dư 1000 phiếu và đing c</b>
<b>1 ghế.</b>
Mặc dù có những cơ gắng tỷ mỷ như vậy, nhưriĩ dẫu
sao đi chăng nữa công thức T.Her vẫn thế hiện những mặt
tiêu cực của nó. Sô nưốc tư bản hiện nay áp dụnf công
thức này rất ít.
Nhà tốn học Bỉ tên là V.D'Hont đê nghị một côn? thức
khác hơn. Ồng đề nghị đem <i>số</i> phiếu thuận nhận đuic của
mỗi đảng chia cho các sô tự nhiên 1; 2; 3; 4; 5.... Tníơng
nhận được xếp theo thứ tự giảm dần. Sô ghê nhậi được
theo thứ tự giảm dần này từ lớn cho đến nhỏ, bao ỊÌỜ (lủ
Đảng A B c D E
Chia cho 1 27.000 23.000
. - X - ' i <i>■ :ũ</i> <i> ị '</i> 15.000 7.600 7.400
Chia cho 2 13.500 11.500 7.500 3.800 3.700
Chia cho 3 9.000 7.666 5.000 2.533 2.466
Chia cho 4 6.750 5.750 3.750 1.900 1.850
Thương nhận được xếp theo thứ tự giảm dần:
27.000 ; 23.000 ; 15.000 ; 13.500 ; 1.500
9.000 7.666 7.500
Xhư vậy đang A được 2 ghê; B được 2 ghê và đảng c
<b>đưỢr . Êíhê.</b>
Theo cách xác đinh kết quả này, chúng ta thây ít nhiều
thê hiện tính khách quan. Tiến thêm một hước nữa. khắc
phục n ạ t khiêm khuyết của nó là cử tri chi biết hổ phiếu
cho <•; c đang phái, nhiều nước qui định khi ra tran h cử,
các đ: ng phái phải đệ trình danh sách ứng cử viên. Danh
sách này phải xếp thứ tự những người ra tranh cử theo
chức vụ trong đảng. Khi đảng nhận được sô lượng ghê thì
phải Ị hân cho các ứng cử viên theo th ứ tự này, người đứng
trước ỉược trước, người đứng thứ tự sau được sau. Hoặc có
thê chia ra một danh sách không phân biệt đang cấp trong
đảng, cử tri ứng bổ cho ai thì đánh dấu vào danh sách.
Người trúng cử sẽ là người nhận được nhiều dấu nhất.
Những phương pháp này xác định kết quả như nêu
trịn tnường khơng được quy định cụ thê trong pháp luật.
Cho nìn, lợi dụng kẽ hỏ này các đảng phái chính trị lúc thì
u cắu dùng phương pháp này, lúc thì lại yêu cầu dùng
phương pháp khác, tuỳ vào hoàn cảnh cụ thê để có lợi cho
mình. Ngược lại, nếu như lâm vào tình trạng bất lợi không
giành được ghê trong nghị trường cũng như trong các cuộc
bầu cứ khác, các đảng phái thỏa thuận liên kết với nhau
đế giành được ghế...
Giàng như vấn đề các đảng phái chính trị trình bày <i>ỏ</i>
chươní trước, các nhà luật học tư sản thường ủng hộ hệ
thông lưỡng đáng, ủng hộ phương pháp xác định kết quả
bầu cừ nảy sinh ra chế độ lưỡng đảng. Họ cho rằng, đầu
phiêu tỷ lệ là phương pháp bình đẳng và dân chủ nhất. Vì
theo phương pháp này cho phép thể hiện trong Quốc hội
mai xu hướng chính trị của xã hội lúc tiến hành bầu cử.
Nghị /iện bao gồm tất cả mọi nguồn dư luận, khuynh
hướng chính trị, tơn giáo trong nưóc là một Nghị viện
hồn tồn có tính chất đại diện. Nhưng ngược lại (tầu
phiếu theo đa sơ thì lại gạt bỏ một cách không thương úếc
thiểu sơ ra ngồi Nghị viện. Hơn thê nữa, có khứự ít
trường họp, chính đảng có đa số ghê trong Nghị vitn thì
Đứng trên phương diện đại diện cho từng nhóm từng
khuynh hướng chính trị trong xã hội đa dạng như ’ậy là
đúng. Nhưng khi Nghị viện quyết định chỉ dựa vào hai lực
lượng hình thành là đa số và thiểu <i>số,</i> không bao gií nghị
viện lại lấy quyết định theo phương pháp tỷ lệ cả. Vì vậy
tính chất đại diện tỷ lệ ỏ đây khơng có ý nghĩa nữa. ỉ^êu cả
đại diện tỷ lệ cứ khăng khăng giữ quan điểm của mììh thì
Nghị viện chỉ đi đến chỗ "cãi vã", "nói sng" khơn* đưa
đến quyết định nào. Bởi vậy, nhiều học giả cho rằn* đầu
phiếu một vòng theo nguyên tắc đa sô tương đối là thiết
thực hơn cả. Ở đây cho phép hình thành một hệ thống
lương đảng, có đảng cầm quyền và có đảng đối lập đê kiểm
tra, giám sát đảng cầm quyền - "một đối lập có trách
nhiệm’” 04.
<b>Xem Chương V: </b><i><b>Các đón g p h á i chính trị</b></i><b> cúa giáo trình này.</b>