Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.14 KB, 56 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN VĂN TỔNG

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CĨ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XX

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

HUẾ - 2019


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN VĂN TỔNG

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CĨ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XX

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 62.22.01.21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. TÔN THẤT DỤNG
TS. HÀ NGỌC HÕA



HUẾ - 2019


Cơng trình đƣợc hồn thành tại: ...............................................................
...........................................................................................................................

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: ..........................................................
...........................................................................................................
Phản biện 1: ...................................................................................................
...........................................................................................................................
Phản biện 2: .....................................................................................
...........................................................................................................
Phản biện 3: ......................................................................................
...........................................................................................................

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Đại học
Huế họp tại ........................................................................................
...........................................................................................................
Vào hồi: .... giờ ngày ... tháng .... năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại: ............................................................
...........................................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thuật ngữ tiểu thuyết tự truyện (tiếng Pháp gọi là autofiction,
tiếng Anh/ Mỹ gọi là autobiographical novel), đến nay khơng cịn q
xa lạ trong đời sống văn học. Thuật ngữ này được biết đến lần đầu tiên

vào năm 1977, khi Serge Doubrovsky “đã sáng chế thuật ngữ ghép hai
từ auto (chính mình) và fiction (hư cấu) dính liền với nhau” [20, tr.34].
Trên thế giới, tiểu thuyết tự truyện bắt đầu nở rộ từ thế kỷ XX, gắn liền
với những tên tuổi lớn như: Ch. Dickens (với David Copperfil), M.
Gorki (Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi), L.
Tolstoy (Thời thơ ấu, Thời niên thiếu, Thời thanh niên), Aragon (Gã
dân quê), Claude Simon (Điền viên, Cây keo), M. Duas (Người tình)...
Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là nó đã trở nên quen thuộc với mọi
đối tượng độc giả cũng như được mọi người trong giới nghiên cứu, phê
bình văn học thừa nhận. Vì, ngay trong cách định nghĩa về thể loại, giới
nghiên cứu, phê bình cũng khơng đồng nhất: có tài liệu thì định nghĩa
tiểu thuyết tự truyện là tự truyện viết dưới dạng trần thuật qua bút pháp
hư cấu; có tài liệu thì định nghĩa tiểu thuyết tự truyện là Truyện trong
đó tác giả vừa là người kể vừa là nhân vật, họ cùng chia sẻ chung một
danh hiệu với nhau, cịn tên gọi thì chứng tỏ đó là tiểu thuyết …[20, tr.
34 - 35]. Ở Việt Nam, đến nay, tiểu thuyết tự truyện vẫn chưa có được
một danh xưng thể loại cụ thể. Tuy nhiên, trong hành trình sáng tạo
nghệ thuật, rất nhiều nhà văn đã sử dụng yếu tố tự truyện làm chất liệu
trong tiểu thuyết, từ những thử bút ban đầu của các nhà văn ở chặng
đường nửa đầu thế kỷ XX như Tản Đà, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư,
Lan Khai... cho đến những cây bút sáng tác ở đô thị miền Nam: Thanh
Tâm Tuyền, Mai Thảo, Duyên Anh, Võ Hồng, Túy Hồng… Đặc biệt, từ
sau thời kỳ đổi mới, con số những tiểu thuyết có tính chất tự truyện xuất
hiện khá đầy đặn trên văn đàn, tạo thành một dòng chảy mạnh mẽ. Rất
nhiều những cây bút đã sử dụng yếu tố tự truyện như một thủ pháp nghệ
thuật để cách tân, làm mới tiểu thuyết.
1.2. Nhìn trên phương diện lý thuyết về tiểu loại cũng như thực tế
sáng tác, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam hiện nay vẫn còn
nhiều vấn đề đang bỏ ngỏ, địi hỏi cần phải có một sự tiếp tục. Đây cũng
chính là lý do để chúng tơi chọn “Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự

truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu nhằm
tìm ra sự vận động, quá trình phát triển cũng như những thành tựu đạt
được cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, góp phần làm rõ hơn diện
mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, một tiểu loại khá giàu tiềm
năng đang trong quá trình vận động.
1


2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn
học Việt Nam thế kỷ XX, tác giả luận án đặt mục tiêu nhận diện, lý giải
những đặc điểm của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học
Việt Nam suốt chiều dài của thế kỷ XX.
2.2. Nhiệm vụ
Hệ thống hóa các hướng nghiên cứu, tiếp cận tiểu thuyết có tính
chất tự truyện đã có, phân tích, lý giải nhằm làm rõ hơn những chỗ còn
bỏ ngỏ và xác định hướng nghiên cứu cụ thể; Xác định rõ tiền đề cơ sở
cho sự phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện; Khái qt một
cách thật ngắn gọn về đối tượng nghiên cứu trong mối tương quan tổng
thể đời sống văn học Việt Nam và các lý thuyết vận dụng trong q
trình nghiên cứu; Phân tích q trình hình thành, phát triển của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện dựa trên mối quan hệ giữa hiện thực cuộc
đời tác giả và thế giới nghệ thuật trong tác phẩm qua các chặng đường
khác nhau nhằm tìm ra quy luật vận động của tiểu loại tiểu thuyết này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của luận án là những tiểu thuyết có tính chất
tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỉ XX.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện
trong văn học Việt Nam thế kỷ XX trên các phương diện cơ bản: Cách
định danh tiểu loại; tiền đề cơ sở hình thành; sự vận động của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện qua các chặng đường khác nhau; các
phương thức thể hiện của tiểu loại tiểu thuyết này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Phương pháp tiểu sử; Phương pháp thống
kê, phân loại; Phương pháp liên ngành; Phương pháp so sánh, đối chiếu.
5. Đóng góp của luận án
Chúng tơi chọn lựa đề tài nghiên cứu Đặc điểm tiểu thuyết có
tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX là một hướng
nghiên cứu mới và cần thiết. Đây là một đề tài vừa có ý nghĩa lý luận,
vừa có giá trị thực tiễn, khơng trùng lắp với các cơng trình nghiên cứu
khác.
Khi tiến hành khảo sát và nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện
Việt Nam trong khoảng thời gian một thế kỷ, chúng tôi đã cố gắng xác
lập những nét đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết có tính chất tự truyện
dựa trên cơ sở lý luận, những tiền đề hình thành cũng như sự vận động
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong vịng một thế kỷ.
Từ việc hệ thống hóa lý luận về tiểu thuyết có tính chất tự
2


truyện, luận án đưa ra những kiến giải có tính thực tiễn nghiên cứu để
khái quát một số khái niệm mang tính đặc trưng của tiểu thuyết có tính
chất tự truyện.
Là một cơng trình nghiên cứu chun biệt, luận án cũng đã xác
lập cái nhìn tổng thể về sự vận động, phát triển và diện mạo của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Luận án cũng góp phần khẳng định rõ vai trị, vị trí của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện trong quá trình và phát triển của tiểu thuyết

hiện đại Việt Nam.
6. Cấu trúc luận án
- Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu; - Chƣơng 2: Cơ
sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học
Việt Nam thế kỷ XX; - Chƣơng 3: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện
trong văn học Việt Nam thế kỷ XX – Nhìn từ cảm quan hiện thực và
con người; - Chƣơng 4: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn
học Việt Nam thế kỷ XX - Nhìn từ phương thức thể hiện.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới đƣợc giới thiệu ở
Việt Nam
Những tác phẩm tự truyện đầu tiên trên thế giới bắt đầu xuất hiện
từ thời cận đại ở Tây Âu. Tuy nhiên, danh từ tự truyện chính thức được
sử dụng phải đợi đến cuối thế kỉ XVIII, khi mà thể loại này bắt đầu nở
rộ ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Những tài liệu nghiên cứu đầu tiên về thể loại
tự truyện xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ XX với những chuyên khảo
của Anna Robson Burr (1909), Wayne Shumaker (1926). Nhưng phải
đợi đến năm 1960, khi chuyên luận Phác thảo và Sự thật trong Tự
truyện (Design and Truth in Auubiography) của Roy Pascal ra đời thì tự
truyện mới bắt đầu được nghiên cứu như “một hoạt động sáng tạo”. Đến
thập niên 70, nhà phê bình văn học người Mỹ James Olney trong một
cơng trình nghiên cứu về tự truyện của mình đã viết: “Chính sự chuyển
hướng sang cái “tơi” khi đã có được nhận thức về sự tồn tại của nó sẽ
định hình và quyết định bản chất của tự truyện và trong quá trình ấy sẽ
vừa khám phá vừa sáng tạo lại mình - đã khởi đầu cho chủ đề tự truyện
trong những cuộc tranh luận” [155].
Trong ba thập niên cuối của thế kỉ XX, cùng với sự nở rộ của thể
loại tự truyện, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học khơng còn xem tự
truyện thuộc hàng “ngoại biên” nữa mà soi ngắm nó qua nhiều chiều

kích khác nhau trong vai trị của một thể loại văn học. Chính nhờ thế mà
3


cả một hệ thống lí luận thể loại cũng được định hình rõ nét. Và một
trong số đó phải kể đến Hiệp ước Tự thuật (Le Pacte Autobiographique)
(1975) của Philippe Lejeune. Nhưng trong khoảng hai thập niên cuối
thế kỉ XX, khi thể tự truyện ngày một thêm phong phú, vấn đề nghiên
cứu về tự truyện lại được xuất hiện trở lại khá đầy đặn mà xem chừng
như những lí thuyết về tự truyện từ trước đó và cả Hiệp ước tự thuật của
Philippe Lejeune gần như không thể theo kịp đà phát triển đa dạng của
tự truyện. Nhiều nhà nghiên cứu tập trung đi vào khám phá thế giới tự
truyện từ lĩnh vực tâm lí sáng tạo và dân tộc học, từ văn hóa và tâm lí
học nghệ thuật…
1.2. Những nghiên cứu về tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự
truyện ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, khi trang tiểu thuyết mang
bóng dáng tự truyện xuất hiện với gương mặt đầy lạ lẫm, giới học thuật
của Việt Nam đã bắt đầu chú ý đến bước đi của nó. Trong số các cơng
trình nghiên cứu, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan có lẽ là cơng
trình đầu tiên nghiên cứu về tự truyện dưới góc nhìn thể loại. Dần về
sau, đặc biệt là chặng đường sau năm 1986, khi mà quan niệm và tư duy
nghệ thuật thay đổi, tạo điều kiện cho sự xuất hiện của khuynh hướng tự
truyện ngày một nhiều đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học. Có lẽ vì thế nên những cơng trình nghiên cứu về
khuynh hướng này cũng ngày một nở rộ.
Có thể kể đến những cơng trình nghiên cứu sau: Từ sự nghiệp
đổi mới nhìn lại lịch sử các mối giao lưu với văn học phương Tây
(Phong Lê); Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975 (Nguyễn
Văn Long); Truyện và tự truyện của Phan Bội Châu (Hoàng Đức

Khoa); Tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (Bích Thu);
Văn xi Việt Nam 1975 - 1995 (Nguyễn Thị Bình); Văn học Việt
Nam trong bước chuyển mình (Lã Nguyên); Văn học và nền kinh tế
thị trường trong mười năm cuối thế kỷ (Nguyễn Phượng); Nghệ thuật
tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (Mai
Hải Oanh); Tiểu thuyết, một giá trị không thể thay thế (Ma Văn
Kháng); Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong thời kỳ đổi mới
(Lý Hoài Thu); Thế kỷ tiểu thuyết (Nguyễn Vy Khanh); Khuynh
hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam (Đỗ Hải Ninh); Mối quan
hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng tự thuật khác trong
văn học Việt Nam đương đại (Đỗ Hải Ninh); Một vài lý giải về hiện
tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam
từ 1900 đến nay (Hồ Khánh Vân); Tính chất tự truyện trong tiểu
thuyết nữ Việt Nam đương đại (Trần Huyền Sâm)…
Tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở nước ta đã có cả
4


một chuỗi thời gian dài hình thành và phát triển. Tuy nhiên, cho đến
nay, so với các thể loại khác dường như nó vẫn chưa được nhiều sự ưu
ái của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Theo khảo sát của chúng
tơi, đã có nhiều tác giả chú ý khảo sát các tác phẩm tự truyện và tiểu
thuyết có tính chất tự truyện nhưng nhìn chung chỉ dừng lại ở việc kết
hợp trong nhận định, đánh giá, hoặc nếu có thì cũng chỉ dừng lại ở mức
khảo sát một chặng đường ngắn (Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện
trong văn học Việt Nam đương đại của Đỗ Hải Ninh), chưa có một cơng
trình thật sự chun sâu nào đi vào nghiên cứu về tự truyện và tính chất
tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam thế kỉ XX.
1.3. Nhận xét và đánh giá về các tác phẩm cụ thể
1.3.1. Giai đoạn trước 1945

Khảo sát chặng đường một thế kỷ, từ lúc những dấu vết ban đầu
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện xuất hiện cho đến khi tiểu loại này
hợp vào dòng chủ lưu của tiểu thuyết Việt Nam, chúng tơi nhận thấy, sự
tồn tại của tiểu thuyết có tính chất tự truyện là nhờ “sự đọc” của cơng
chúng độc giả qua mọi thời đại, trong đó có sự góp mặt của những siêu
độc giả, những người gần như là nhịp cầu nối để đưa tiểu loại này đến
gần hơn với công chúng.
Sau đây, chúng tôi điểm lược những bài viết, những cơng trình
nghiên cứu về những tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt
Nam giai đoạn trước 1945: Nhà văn hiện đại (Vũ Ngọc Phan); Những
ngày thơ ấu - cuốn hồi ký tự truyện đặc sắc (Nguyễn Ngọc Thiện); Sống
nhờ của Mạnh Phú Tư (Bùi Huy Phồn); Hai khơng gian trong Sống mịn
(Đỗ Đức Hiểu); Đọc lại và nhìn lại “Sống mịn” (Phong Lê); Bút pháp tự
sự đặc sắc trong Sống mịn (Nguyễn Ngọc Thiện)…
Có thể những nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra
đời trong chặng đường trước 1945 được viết ở những thời điểm khác
nhau. Nhưng nhìn chung, những nghiên cứu này thường thiên về tính
khái quát, hoặc chỉ đi vào khai thác những nét đơn lẻ của tác phẩm cả
trên phương diện nội dung lẫn nghệ thuật.
1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Bẵng đi một thời gian dài, trong chặng đường từ 1945 đến 1954, tiểu
thuyết có tính chất tự truyện gần như không xuất hiện trên văn đàn Việt
Nam. Đến những năm sau 1954, dòng tiểu thuyết này bắt đầu xuất hiện trở
lại trong lịng đơ thị miền Nam và cả ở vùng kháng chiến, với các tác phẩm
như: Vịng tay học trị của Nguyễn Thị Hồng, Bếp lửa của Thanh Tâm
Tuyền, Tơi nhìn tơi trên vách của Túy Hồng, Người về đầu non và Hoa
bươm bướm của Võ Hồng… Sự xuất hiện của các tác phẩm này có thể
được xem là những thành tựu đáng ghi nhận của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện trong văn học Việt Nam chặng đường từ sau 1954 đến 1975.
5



Tuy nhiên, phần lớn các tác phẩm tiểu thuyết này được các nhà
nghiên cứu nhìn nhận và đánh giá trên phương diện tổng thể trong việc
nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết đương thời như: Tiểu thuyết năm
1961 của Cô Phương Thảo đăng trên Bách khoa (121) ngày 15/1/1962;
Nhận định về tiểu thuyết hiện đại của Nguyễn Ngu Í, đăng trên Bách
khoa số 136, ngày 1/9/1962; Tiểu thuyết hiện đại (1963) của Tràng
Thiên (Nxb Đời mới); Tình hình tiểu thuyết trong năm 1964 của Thu
Thủy (Tin sách tháng 2/1965); Sinh hoạt tiểu thuyết một năm qua của
Nhật Tiến đăng trên Bách Khoa số 265 - 266 (15/1/1968)…
1.3.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX
Từ sau 1975, khi đất nước bắt đầu dần hồi sinh đó cũng là lúc mà
những tiểu thuyết có tính chất tự truyện ngày một thêm nảy nở, trong số
đó phải kể đến những tiểu thuyết: Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Chuyện kể
năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên và một số
tác phẩm khác của nhà văn Ma Văn Kháng…
Chúng tôi điểm qua những bài viết và nhận xét về các tác phẩm cụ
thể ra đời ở chặng đường này, bao gồm: Những bước phát triển của văn
xuôi Việt Nam sau 1975 (Lê Tiến Dũng); Văn xi Việt Nam 1975 - 1995
(Thái Thị Mỹ Bình); Lê Lựu và giọng điệu trần thuật trong Thời xa vắng
(Nguyễn Thị Như Trang, Ngô Thu Thủy); Nỗi buồn chiến tranh nhìn từ
Mỹ (Phạm Xuân Nguyên); “Nỗi buồn chiến tranh” viết về chiến tranh
thời hậu chiến từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp
(Phạm Xuân Thạch); Người kể chuyện tự ý thức trong “Nỗi buồn chiến
tranh” (Cao Kim Lan); Những nét đặc sắc của nghệ thuật tiểu thuyết
Phùng Quán (Vĩnh Mẫn); Chuyện kể năm 2000 - Bản cáo trạng không
được công bố (Lê Minh Hà); Đọc Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc
Tấn (Nguyễn Thị Hải Hà); Sóng từ trường II (Thụy Khuê); Đọc “Chuyện

kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn (Trần Bình Nam)
Trong phạm vi khảo sát của mình, chúng tơi nhận thấy, các nhà
nghiên cứu qua nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra những nhận
định, đánh giá về tiểu thuyết có tính chất tự truyện dựa trên nhiều
phương diện, từ tác giả, tác phẩm đến đề tài, nhân vật và cả ở góc nhìn
thủ pháp nghệ thuật trần thuật… Đây chính là nguồn tư liệu khơng chỉ
mang tính chất gợi dẫn mà còn cung cấp những cơ sở lý luận rất hữu ích
trong q trình nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT CĨ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX
6


2.1. Giới thuyết về thể loại
2.1.1. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện
Sử dụng thuật ngữ Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong luận
án này, chúng tôi muốn cụ thể hóa những tác phẩm mà ở đó tác giả sử
dụng chất liệu tự truyện để hư cấu thành tiểu thuyết, trong đó bao gồm
cả các tác phẩm tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện, tiểu thuyết có
bóng dáng tự truyện, tính chất tự truyện trong tiểu thuyết. Trong các
tiểu thuyết này, hầu như các tác giả đều chọn lựa thể loại tiểu thuyết để
“viết lại” câu chuyện đời mình. Nhưng trong quá trình sáng tạo, mỗi
một nhà văn đều có một phương cách xử lý chất liệu sự thật đời mình
theo những cách thức riêng.
2.1.2. Quan niệm về tự truyện
Theo một số tài liệu nghiên cứu về tự truyện của các nhà khoa học,
những tác phẩm tự truyện đầu tiên bắt đầu xuất hiện từ thời cận đại ở Âu
Tây. Nhưng mãi đến thế kỉ XVIII, danh từ tự truyện (autobiography) mới
chính thức được sử dụng. Tuy nhiên, để có được một định nghĩa khá đầy

đặn về tự truyện phải đợi đến khi Hiệp ước tự thuật (1975) của Philippe
Lejeune ra đời. Trong hiệp ước này, Philippe Lejeune định nghĩa: “Tự
truyện là một thể loại tự sự tái hiện dĩ vãng, trong đó một con người có
thật kể lại cuộc đời của chính mình, nhấn mạnh về đời sống riêng tư, đặc
biệt là về mặt lịch sử hình thành nhân cách” [154]. Từ điển Văn học
Pháp từ A đến Z định nghĩa: “Tự truyện là một thể loại văn học mà ở đó
tác giả viết lại một câu chuyện về chính cuộc đời mình” [94, tr.35]. Từ
điển văn học của Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) định nghĩa tự truyện là “một
thể loại văn học trong đó tác giả kể chuyện về cuộc đời mình. Nhân vật
chính của truyện chính là tác giả” [94, tr.35]. Còn Từ điển thuật ngữ
văn học của Lê Bá Hán (đồng chủ biên) định nghĩa “tự truyện là một tác
phẩm văn học thuộc loại tự sự do tác giả tự viết về cuộc đời mình” [34,
tr.389]. Từ những định nghĩa trên, có thể thấy, điểm đáng lưu ý trong
quan điểm của các tác giả là: đều công nhận tự truyện là một thể loại văn
học, trong đó, chất liệu làm nên tác phẩm chính là từ cuộc đời thực của
tác giả.
2.1.3. Quan niệm về tiểu thuyết tự truyện
Trong cuộc Hội thảo về tiểu thuyết, tại trường Đại học Strasbourg
(1970), đã có rất nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề vai trò và con đường
phát triển của tiểu thuyết tự truyện trong việc đổi mới thể loại tiểu thuyết.
Rất nhiều tham luận cho rằng sự dung hợp và xâm nhập giữa tiểu thuyết
và tự truyện đã mở ra một hướng phát triển đầy hứa hẹn ở tương lai cho
thể loại tiểu thuyết. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có nhiều ý kiến trái chiều,
có nhiều tác giả khơng đồng tình với việc đưa yếu tố tự truyện vào trong
một tác phẩm tiểu thuyết và không thể đổi mới tiểu thuyết bằng con
7


đường tự thuật (tự truyện). Trong hội thảo Autofiction & Cie (tiểu thuyết
tự truyện và đồng loại) tổ chức tại Đại học Nanterre (1992), trong bài

tham luận Tiểu thuyết tự truyện: một thể loại tồi? (L‟Autofiction: un
mauvais genre?), Jacques Lecarme khẳng định: tiểu thuyết tự truyện (tự
truyện hư cấu) là “truyện trong đó tác giả vừa là người kể vừa là nhân vật,
họ cùng chia sẻ chung một danh hiệu với nhau, cịn tên gọi thì chứng tỏ
đó là tiểu thuyết” [20, tr.35]. T.S. Eliot lại cho rằng: “Sự tiến bộ của nghệ
sĩ là sự từ bỏ không ngừng bản thân mình, là sự giảm thiểu khơng ngừng
yếu tố cá nhân” [94, tr.40]. Theo như Pierre Alexandre, tiểu thuyết tự
truyện (tự sự hư cấu) là chuyện riêng tư, trong đó tác giả vừa là người kể
vừa là nhân vật, còn văn bản và/ hay chung quanh văn bản thì chứng tỏ
đó là hư cấu” [20, tr. 35].
Có thể nói, tiểu thuyết tự truyện là những hư cấu nghệ thuật dựa
trên phần nền tiểu sử của chính cuộc đời tác giả. Những chi tiết từ cuộc
đời tác giả đều trở thành chất liệu để làm nên tác phẩm tiểu thuyết.
2.1.4. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong mối quan hệ với các thể
loại tương cận
2.1.4.1. Mối quan hệ với hồi ký và nhật ký
Đều là những thể loại gắn với câu chuyện đời tư, đều là những thể
loại lý tưởng có khả năng “cấp chứng chỉ” để tả lại chân thật nhất những
kinh nghiệm của thời đại, nhưng nếu như thể nhật kí thường gắn liền với
thời gian mang tính thời sự, được thực hiện dưới dạng ghi chép những diễn
biến, sự việc diễn ra hàng ngày, có đánh số ngày tháng cụ thể thì tiểu thuyết
có tính chất tự truyện và hồi kí thường tác giả ngược dịng thời gian, tìm về
quá khứ - kể lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình. Nhật kí thường
mang tính độc thoại, viết cho riêng mình, cịn hồi kí và tiểu thuyết có tính
chất tự truyện, người viết nhằm hướng đến giãi bày, trao gửi với người
khác. Nhưng, giữa tiểu thuyết có tính chất tự truyện và hồi kí lại có địa hạt
phân định tương đối rõ nét. Bởi, xét trên trục hệ thống thể loại văn học, bản
chất của kí là ghi chép, địi hỏi có sự chính xác về các sự kiện và đánh giá
một cách khách quan của người viết. Những yếu tố hư cấu, nếu có, chỉ
mang chức năng tựa như chất phụ gia để hỗ trợ cho những sự kiện khách

quan. Còn bản chất của tiểu thuyết mang tính hư cấu để tạo nên những hình
tượng văn học hồn chỉnh. Hơn nữa, hồi kí thường cần có độ lùi thời gian
“đủ để đong đầy” miền kí ức nên thường khơng tồn tại một cái tơi trong
hiện tại. Ngược lại, trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường tồn tại
một cái tôi trong hiện tại ngối nhìn về q khứ như một hành trình tìm lại
chính mình.
2.1.4.2. Mối tương quan với tự truyện
Sự giống và khác nhau từ tính chất và đặc điểm của tiểu thuyết có tính
chất tự truyện và tự truyện có thể được cụ thể hóa qua bảng tóm tắt sau:
8


Đặc điểm
Thể/Tiểu loại
Tự truyện
Tiểu thuyết có
tính chất tự
truyện

Mối quan hệ giữa
Ngôi trần thuật tác giả - nhân vật –
ngƣời kể chuyện
Trần thuật ở Tác giả - nhân vật
ngôi thứ nhất, – người kể chuyện
xưng tơi.
là một, đồng nhất.
Có thể trần Có thể tương đồng,
thuật ở ngơi trùng khít nhưng
thứ nhất hoặc hồn tồn khơng
ngơi thứ ba.

đồng nhất.

Sự thật đời tƣ
Đóng vai trò chủ
yếu.
-Nghiêng về chất
tiểu thuyết.
-Sự thật đời tư + Hư
cấu.

Từ những gì khảo sát và nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự
truyện, chúng tơi giới thuyết khái niệm về tiểu thuyết có tính chất tự truyện,
xem đây là cơ sở lý thuyết cho luận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện là
một tiểu loại tiểu thuyết mà tác giả đã sử dụng chất liệu đời tư của chính
bản thân mình để hư cấu hóa thành thế giới nghệ thuật tiểu thuyết. Trong
tiểu thuyết có tính chất tự truyện, bức chân dung tự họa của tác giả được
cấu trúc lại thành một sáng tạo nghệ thuật.
2.1.5. Cơ sở hình thành tiểu thuyết có tính chất tự truyện
2.1.5.1. Sự ra đời và phát triển của những thể loại mới
Trước khi xuất hiện hệ thống thể loại nghệ thuật tự sự có nguồn
gốc từ phương Tây như: tiểu thuyết, tự truyện, tiểu thuyết tự truyện,
truyện ngắn… thì văn học Việt Nam cũng đã có cả một hệ thống loại
hình tự sự được định hình trong suốt chiều dài của nền văn học trung
đại. Đến thế kỷ XX, trên cơ sở những thay đổi về văn hóa - xã hội, văn
học Việt Nam đã có những bước chuyển biến mới, chỉ trong vòng chưa
đầy nửa thế kỷ (1900 -1945), nhưng văn học Việt Nam đã sớm có được cả
một hệ thống thể loại tương đối hồn chỉnh. Điều đáng nói ở đây là, gần
như tất cả các thể loại được hình thành và phát triển trong q trình hiện đại
hóa đều tồn tại “trong trạng thái động”, có sự dung hợp, xâm nhập lẫn
nhau. Đây là một trong những yếu tố kích thích sự phát triển của văn học,

đồng thời, nó cũng làm cho mỗi thể loại càng trở nên phong phú và đa dạng
thêm. Cùng với sự vận động của hệ thống thể loại, một trong những hiện
tượng đáng để lưu tâm nhất là q trình hiện đại hóa văn học trên phương
diện thể loại được khởi động từ thể tài văn xuôi mà trước hết là thể loại tiểu
thuyết, một trong những thể loại mặc dù đã có mặt trong đời sống văn học
trung đại nhưng thành tựu khơng nhiều.
Tiểu thuyết, một thể loại mang đậm “cái nhìn cuộc sống từ góc độ
đời tư... có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các
thể loại văn học khác” [34, tr.330], cùng với tính năng “chưa hề chịu
ngưng kết”, nó đã “lấn át thể loại này, thu hút thể loại kia vào trong cấu
trúc của mình… nó làm chúng lây nhiễm tính biến đổi và tính khơng
9


hồn thành. Nó lơi cuốn chúng một cách đầy quyền lực vào quỹ đạo của
mình” [78, tr.27 - 30]. Chính nhờ những đặc tính ấy của tiểu thuyết đã tạo
điều kiện cho tiểu thuyết có tính chất tự truyện, một tiểu loại nằm trung
gian giữa tiểu thuyết và tự truyện ra đời.
2.1.5.2. Sự xuất hiện con người cá nhân trong văn học
Đầu thế kỷ XX, Pháp đẩy nhanh công cuộc khai thác thuộc địa,
khiến cho cơ cấu xã hội Việt Nam có những thay đổi sâu sắc: từ một xã
hội phong kiến trở thành một xã hội thực dân nửa phong kiến. Đặc biệt,
sự du nhập ngày một sâu rộng của văn hóa phương Tây vào đời sống xã
hội Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học. Chính hiện
thực này đã tạo điều kiện cho con người cá nhân có dịp được bừng thức,
nảy nở và nhanh chóng trở thành yếu tố trung tâm, làm thay đổi văn học
Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XX. Sự bùng nổ về ý thức
cá nhân này được thai nghén trong suốt chiều dài của văn học trung đại
và đến đầu thế kỷ XX, nhờ sự du nhập của văn hóa phương Tây đã tiếp
sức cho nó để thốt thai, trở thành cái tơi tự thuật đầy tươi trẻ.

2.2. Diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện thế kỷ XX
2.2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Trên nền của đời sống văn học đang làm cuộc cách tân rầm rộ,
những tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện cũng bắt đầu định hình
được gương mặt tiểu loại của mình trên văn đàn. Những ngày đầu khi
Phan Bội Châu niên biểu hay Giấc mộng lớn ra đời, người đọc còn thấy
bỡ ngỡ nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, có đến hàng loạt tác phẩm
tiểu thuyết như Bốc đồng, Mực mài nước mắt, Chiếc cáng xanh, Sống
nhờ, Dã tràng, Ngậm miệng, Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội,
Sống mòn ra đời mang theo câu chuyện đời tư tự kể đã nhanh chóng trở
nên quen thuộc và neo vào lòng người đọc niềm trăn trở, xót xa. Dẫu thế
nhưng, đại từ nhân xưng “tôi” mang nghĩa tuyệt đối của cá nhân nhà văn
trong tiểu thuyết vẫn cịn có những giới hạn nhất định. Tuy nhiên, sự hiện
diện của cái tôi tự thuật trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện cũng đã
tạo nên được những thành tựu đáng kể cho văn học Việt Nam trên bước
đường hiện đại hóa.
2.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Từ bước chuyển ban đầu ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, tiểu
thuyết có tính chất tự truyện lưu lại những dấu ấn đậm nét qua hàng loạt
tác phẩm ra đời ngay giữa lịng đơ thị miền Nam trong những năm kháng
chiến. Khi Mười đêm ngà ngọc của Mai Thảo ra đời, dư luận công chúng
độc giả thời bấy giờ đã thống thấy bóng dáng câu chuyện tình vượt ra
ngồi khung nền văn hóa phương Đơng ẩn trong tâm tình “chuyện ba
người” tựa như chuyện tình một thời từng xôn xao giữa Mai Thảo và ca sĩ
Thái Thanh. Cho đến Vịng tay học trị của Nguyễn Thị Hồng cũng đã
10


làm dấy lên làn sóng trong dư luận những ngờ vực rằng: liệu chăng đây là
câu chuyện tình của chính nữ sĩ? Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một vài nét

chấm phá về cuộc đời tác giả qua tác phẩm. Tính chất tự truyện trong tiểu
thuyết ở đơ thị miền Nam chỉ thực sự in đậm dấu ấn của mình qua Hoa
bươm bướm và Như cánh chim bay của Võ Hồng, Tơi nhìn tơi trên vách
của Túy Hồng, Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền... Ở những tác phẩm này,
mức độ nhận biết về sự thật trong tác phẩm có phần khó hơn so với các
tác phẩm ra đời ở giai đoạn trước. Vì, đa phần sự thật trong tác phẩm đã
được “làm mới” lại qua nghệ thuật hư cấu, chất tiểu thuyết trong các tác
phẩm này có phần đậm hơn và chất tự truyện khá mờ nhạt. Người đọc
nếu như khơng có một vốn hiểu biết nhất định về tác giả sẽ khó mà nhận
diện ra được đâu là cuộc đời, con người thật tác giả, đâu là nhân vật hư
cấu trong tác phẩm. Nhân vật Luân (Hoa bươm bướm), Trâm (Vịng tay
học trị), Khanh (Tơi nhìn tơi trên vách) đã khơng cịn “mang tấm thẻ căn
cước” cuộc đời tương khớp với nhà văn nữa mà họ chỉ còn là “cái bóng”,
“hao hao” giống tác giả.
2.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX
Từ sau 1975, đặc biệt là sau thời kỳ đổi mới (1986), cùng với
những thay đổi quan niệm hiện thực và con người đã tạo điều kiện cho
nhà văn “tự tìm lại chính mình”, để một lần được trung thực với mình,
chân thành bộc bạch, giãi bày những niềm suy tư, trăn trở ẩn sâu trong bể
tâm hồn. Có lẽ vì thế mà cơng chúng độc giả hơm nay ít nhiều được bắt
gặp bóng dáng cuộc đời nhà văn đổ bóng xuống trang tiểu thuyết qua:
Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Chuyện kể năm
2000 (Bùi Ngọc Tấn), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán). Và hiện tượng này
còn kéo dài cho đến những năm đầu thế kỷ XXI qua các tác phẩm:
Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Một mình một ngựa (Ma Văn
Kháng), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Tấm ván phóng dao (Mạc Can)…
Ở các tác phẩm này, gần như phần tiểu sử đời tư tác giả cũng đã được
“viết lại” bằng thủ pháp nghệ thuật theo dụng ý của tác giả.

11



CHƢƠNG 3
TIỂU THUYẾT CĨ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN
TỪ CẢM QUAN HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI
3.1. Hiện thực cuộc đời qua chiêm cảm của ngƣời trong cuộc
3.1.1. Hiện thực được tái hiện theo dịng hồi niệm
Đa phần các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời
trong giai đoạn đầu thường mang tính chất tái hiện lại quãng đời tuổi
thơ của tác giả khi mà phần lớn các tác giả ấy có tuổi đời chưa xa lắm
với thời thơ ấu.
Tiểu thuyết có tính chất tự truyện Việt Nam giai đoạn nửa đầu
thế kỷ XX, khi viết về tuổi thơ thường hay đi vào khai thác mảng màu
u tối trong cuộc sống. Cảm thức về thân phận, về những nỗi đau đớn,
xót xa trước các bất hạnh trong cuộc đời mà tác giả phải luôn đối mặt
trở thành tâm điểm nổi bật trong các tác phẩm này.
Qua các tác phẩm Những ngày thơ ấu, Sống nhờ, Chiếc cáng
xanh, Sống mòn, hay Mực mài nước mắt… cùng với hình ảnh những
đứa trẻ mồ cơi, những người đàn bà góa, hay những gã trí thức nghèo…
là những số phận con người trong xã hội trước 1945 đang từng ngày đối
mặt với nạn nghèo đói cùng những hủ tục lạc hậu. Nếu như sự bất hạnh
và tình người rẻ rúng sớm đày đọa những đứa trẻ, những văn sĩ nghèo
hay một thầy giáo khổ trong phận đời cơ cực trước miếng cơm manh áo
thì những hủ tục lạc hậu lại dày vò những người đàn bà trẻ sớm chịu
cảnh góa bụa trong nạn tam tịng tứ đức, chỉ cần bước chân họ nhích đi
về miền khát vọng tự do, hạnh phúc thì lập tức sẽ bị vùi dập bởi dư luận
và lễ giáo phong kiến hà khắc.
3.1.2. Hiện thực qua cái nhìn hồi cố, chiêm nghiệm
Đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện là kể lại cuộc đời

đã qua của tác giả bằng nghệ thuật hư cấu. Vì vậy, tiểu loại này thường
có xu hướng xây dựng lại con người trong hồi quang số phận. Nhân vật
trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường là những con người bình
thường, nhỏ bé, luôn khắc khoải một nỗi đau thân phận về đời mình
trong quá khứ. Tuy nhiên, vấn đề về thân phận con người hiện lên khá
đậm nét trong các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời ở đô
thị miền Nam trước 1975.
Từ Bếp lửa (Thanh Tâm Tuyền), Hoa bướm bướm, Như cánh
chim bay (Võ Hồng), đến Tôi nhìn tơi trên vách (Túy Hồng), Vịng tay
học trị (Nguyễn Thị Hoàng)… đều là những cảm nhận sâu sắc về thân
phận con người trong hoàn cảnh chiến tranh. Ở các tác phẩm này, các
tác giả đã đi vào đào sâu cái tôi nội cảm, cái bản ngã của những con
12


người cảm thấy chới với, cố gắng vùng vẫy để vượt thốt khỏi kiếp
sống vơ nghĩa nhưng hầu như rơi vào bất lực trước hiện thực đời sống
luôn như “thảm kịch” và hư vô. Các nhân vật: Luân (Hoa bươm bướm,
Như cánh chim bay - Võ Hồng), Tâm (Bếp lửa - Thanh Tâm Tuyền),
đến cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm (Vịng tay học trị - Nguyễn Thị
Hồng), Khanh (Tơi nhìn tôi trên vách -Túy Hồng)… đều mang đầy nỗi
băn khoăn, hoài nghi trước cuộc đời tăm tối của những năm đất nước
ngập chìm trong khói lửa chiến tranh.
Trong bước chuyển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện chặng
đường 1945 đến 1975, một trong những điểm đáng để lưu tâm nhất có
lẽ đó chính là sự góp mặt của những cây bút nữ. Với sự xuất hiện của
Vòng tay học trị (1966), Tơi nhìn tơi trên vách (1970) đã đánh dấu
bước đột phá mới của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Trước đây,
dường như lối “tự thú” bằng tiểu thuyết chỉ là lãnh địa dành riêng cho
nam giới, thì kể từ 1966, tình hình đã khác. Sự hiện diện những lời “tự

thú” thành thật của các nữ văn sĩ đã mang đến cho đời sống văn học
hiện đại chút nồng nàn, đầy táo bạo, mang đậm thiên tính nữ. Điều này
đã cho thấy, người phụ nữ trong thời hiện đại khơng cịn bị ràng buộc
bởi những quan niệm phong kiến quá lỗi thời thuở trước. Người phụ nữ
của thời hiện đại được giải phóng hồn tồn về mặt tư tưởng, tình cảm.
Họ lên tiếng, khẳng định cái tơi của mình bằng tiếng nói bình đẳng với
nam giới, và việc bày tỏ quan điểm, tiếng nói riêng tư kể từ đây khơng
cịn chỉ là “đặc quyền” của nam giới. Bằng trái tim nhạy cảm, các nhà
văn nữ đã cảm nhận một cách sâu sắc về nỗi đau thân phận con người,
về sự mong manh, bé nhỏ của con người trong thế giới ngổn ngang
những phi lý của xã hội hiện đại.
3.1.3. Hiện thực qua góc nhìn phản tư
Cùng chung trong dịng chảy của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện nhưng những tác phẩm ra đời từ những năm sau 1975 như Tuổi
thơ dữ dội (Phùng Quán), Thời xa vắng (Lê Lựu), Chuyện kể năm 2000
(Bùi Ngọc Tấn), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… lại mang một sắc
màu khác. Vấn đề đặt ra trong các tác phẩm này không chỉ đi vào khai
thác số phận con người dưới góc nhìn hiện sinh, hay phảng phất chút
sắc màu Phật giáo mà nó cịn cho thấy một lối nhìn đầy sốt xét của con
người trong cuộc sống hơm nay, nhìn lại q khứ để khám phá con
người thật của mình như hịng tìm lời giải cho câu hỏi “Tơi là ai?”. Vì
thế, q trình viết của tác giả khơng cịn là sự tái hiện lại quá khứ, hoặc
làm sống lại quá khứ ấy qua góc nhìn hồi cố, chiêm nghiệm mà đó cịn
là cả một sự phản tỉnh, thức ngộ của mình trước cuộc đời. Bởi, chính tác
giả cũng chưa hiểu và khơng thể hiểu hết được bản thân mình ở quá
khứ, một quá khứ như mới vừa diễn ra nhưng để hiểu hết về nó, hiển
13


nhiền là điều không dễ. Cho nên, nhà văn không kể, trình bày lại “thời

đã qua” mà chủ yếu là phân tích, lý giải, cắt nghĩa, sốt xét để tìm ra sự
thật về con người mình, một sự thật mà tác giả muốn hiểu hết về nó chứ
khơng phải là sự thật tác giả đã từng biết/từng hiểu.
3.2. Từ nguyên mẫu nhà văn đến nhân vật
3.2.1. Từ con người thực đến nhân vật tự trình bày
Khi xây dựng nhân vật từ nguyên mẫu đời mình, mẫu nhân vật
thường thấy trong các tiểu thuyết có tính chất tự truyện từ đầu thế kỷ
XX đến 1945 đó là kiểu nhân vật tự trình bày, kiểu một người nhớ lại
quãng đời đã qua của mình và tái dựng lại theo trình tự biên niên, gần
như khơng có sự xáo trộn thời gian. Ở các tác phẩm này thường nghiêng
về hướng tự trình bày nhằm tái hiện lại quãng đời đã qua của tác giả qua
điểm nhìn của cái tơi trong hiện tại “thấu suốt và nhất quán”. Nhưng,
mỗi một con người đều có một cuộc đời riêng, một tính cách, số phận
khác nhau, không ai giống ai, cho nên, mỗi một tác giả lại có một cách
“tự trình bày” khác nhau về thời quá khứ của mình.
Tuy nhiên, trong chặng đường này cũng đã có một số tác giả đã
khai thác lai lịch bản thân mình từ góc độ của một nhà văn ngẫm về
nghề như Sống mòn của Nam Cao và Mực mài nước mắt của Lan Khai.
Nhưng đây vẫn chỉ là điểm dự báo cho bước chuyển động ban đầu của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện theo hướng hiện đại.
3.2.2. Từ con người thực đến nhân vật hồi cố, chiêm nghiệm
Mang nét đặc trưng của tiểu loại tiểu thuyết viết về cuộc đời cá
nhân tác giả, tiểu thuyết có tính chất tự truyện giai đoạn 1945 - 1975 khi
xây dựng nhân vật cũng lấy từ chính chất liệu hiện thực cuộc đời nhà văn.
Nhưng điểm khác biệt ở tiểu thuyết có tính chất tự truyện giai đoạn này
so với giai đoạn trước đó chính là cấu trúc đơn tuyến, biên niên dần được
thay thế bằng nhiều dạng cấu trúc đa tuyến, những sự việc trong quá khứ
được “tái cấu trúc” lại, đan xen cùng với sự việc trong hiện tại theo dịng
mạch của sự chiêm nghiệm. Đơi khi, tồn tại trong câu chuyện là cả một
chuỗi đối thoại giữa hiện tại và quá khứ (Hoa bươm bướm, Như cánh

chim bay, Vịng tay học trị, tơi nhìn tơi trên vách). Vì vậy, nhân vật trong
các tác phẩn ở giai đoạn này thường tìm về quá khứ, hồi cố, chiêm
nghiệm lại để tìm ra con người thật của chính mình trong miền hồi ức.
Khai thác số phận cá nhân qua cái nhìn hồi cố, đã khơng ít lần tiểu
thuyết có tính chất tự truyện chạm đến cái tôi chứa đầy lạc lõng, cơ đơn.
Thậm chí, khơng ít những tác phẩm mà ở đó màu sắc hiện sinh hiện lên
tương đối đậm nét: sự mong manh của kiếp người trước những cơn dư
chấn của lịch sử, con người cảm thấy lạc loài, đánh mất niềm tin vào cuộc
sống, con người được gì, mất gì trong một thế giới xơ bồ, hỗn độn và phi
lý… Gần như khơng tìm thấy trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra
14


đời ở chặng đường 1945 đến 1975 một mẫu hình nhân vật có được cuộc
sống đời tư đủ đầy, ấm êm và hạnh phúc. Họ phần lớn là những người
sống trong tâm trạng bất an, hoài nghi, cùng cảnh vừa “khơng gia đình”,
vừa “thiếu q hương”. Nhân vật Tâm trong Bếp lửa, Trâm trong Vòng
tay học trò, hay Luân trong Hoa bươm bướm, Khanh trong Tơi nhìn tơi
trên vách… tất cả đều mang tâm trạng rã rời, “buồn nôn”, đều hồi nghi
chính sự hiện hữu của mình, sống giữa cuộc đời mà cứ ngỡ như giữa
“một hành tinh bằng cát bụi lơ lửng giữa không gian, bắt đầu hư không
rồi chấm dứt ở đó. Sống như một di chuyển lạnh lùng” [40]. Khơng
những thế, trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở đô thị miền Nam, đặc
biệt là trong các tác phẩm của nhà văn nữ, kiểu con người nổi loạn trong
tâm hồn, nổi loạn trong hành động để chống đối, phản kháng lại thực tại
đã được các nhà văn xây dựng thành cơng qua các tác phẩm Vịng tay học
trị và Tơi nhìn tơi trên vách.
3.2.3. Từ con người thực đến nhân vật phản tư
Trong những trang tiểu thuyết có tính chất tự truyện chặng đường
sau 1975, người đọc sẽ rất khó tìm thấy mẫu nhân vật tự trình bày lai lịch

cuộc đời mình theo trình tự biên niên, với hàng loạt những câu kể với điểm
khởi đầu là: tơi sinh; tơi là; tơi đã; tơi cịn nhớ rất nhiều; tơi cịn biên nhiều
lắm… như trước đây đã từng hiện diện trong câu chuyện kể của tiểu thuyết
có tính chất tự truyện chặng đường nửa đầu thế kỷ XX. Giai đoạn này nổi
lên rất rõ mẫu hình nhân vật phản tư, “tự phân tích”, chất vấn để tìm lại con
người rất thật của mình giữa cuộc sống đời thường thời hậu chiến, đan xen
tốt - xấu, vui - buồn, hạnh phúc - đắng cay đầy phức tạp...
Vẫn là câu chuyện đời tự kể nhưng ở những tiểu thuyết có tính
chất tự truyện chặng đường sau 1975 đã tìm đến một lối ứng xử mới để
tái tạo lại chất liệu hiện thực. Từ thành thật tự thú, đi sâu vào vùng hiện
thực ẩn khuất đến phá vỡ tất cả những “qui tắc” phản ánh hiện thực để
đi vào khai thác cả vùng mờ, vô thức cùng những giấc mơ và cả nhại,
giả hiện thực, “gây nhiễu”, khiến cho người tiếp nhận khá hao tổn tâm
trí trong việc đọc - hiểu tác phẩm khi phải “đồng sáng tạo”.

15


CHƢƠNG 4
TIỂU THUYẾT CĨ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC
VIỆT NAM THẾ KỈ XX - NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN
4.1. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
4.1.1. Người kể chuyện ở ngơi thứ nhất với điểm nhìn bên trong và sự
thay đổi điểm nhìn
Trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện có rất nhiều tác phẩm sử
dụng ngôi kể thứ nhất, từ Những ngày thơ ấu, Sống nhờ, đến Người về
đầu non, Trường cũ, Miền thơ ấu…. Sử dụng ngôi kể thứ nhất, người
kể chuyện xưng “tôi” ở đây đồng nhất với nhân vật chính, nhân vật
xưng “tơi” để kể lại câu chuyện về đời mình theo trình tự biên niên
của thời gian tuyến tính. Chọn ngơi thứ nhất, người trần thuật lúc bấy

giờ đóng vai trị là nhân chứng - người chứng kiến tất cả mọi diễn biến
xảy ra trong đời mình và thuật lại bằng những dịng hồi tưởng kiểu
như: “tơi khơng thể nói rõ là bao nhiêu”, “tơi cũng khơng thể nhớ
rõ”… Ở hình thức trần thuật này, điểm nhìn trần thuật thường hướng
vào diễn biến tâm lý bên trong cái tơi đóng vai trị là người kể chuyện.
Phương thức trần thuật này có đường biên sát với các dạng tự thuật
khác với kiểu nhân vật trải nghiệm tự thú. Trần thuật ở ngôi thứ nhất,
cái tôi tự thuật hiển lộ rõ trên bề mặt tác phẩm. Tất cả những sự kiện,
hành động, những trạng thái cảm xúc, yêu ghét, hờn giận… đó có thể
là của nhân vật nhưng đồng thời nó cũng chính là những sự kiện, hành
động, những trạng thái xúc cảm mà tác giả từng trải qua. Và khi hồi
tưởng lại những gì đã qua trong quá khứ, lẽ dĩ nhiên, nó có một
khoảng cách nhất định về thời gian. Hơn nữa, q khứ ấy hiện về
trong hồi niệm, nên đơi lúc mức độ xác thực chưa hẳn đã là trọn vẹn.
Tuy nhiên, dẫu thế nào thì người đọc vẫn có cơ hội được sống trong
miền hiện thực mà từ lâu từng ẩn giấu trong tâm hồn tác giả.
Khi chọn ngôi kể thứ nhất, các tác giả đã đứng trên lập trường
của “cái tơi” chính mình nên đã gọi ra được tất cả niềm trăn trở, cùng
những cay đắng, đau đớn, đến những kỷ niệm êm đềm của đời mình...
Ưu thế của lối trần thuật ở ngơi thứ nhất đó chính là việc thể hiện cái tôi
cá nhân một cách trực tiếp. Với ngôi kể này, nhà văn dễ dàng xác lập
được điểm nhìn trần thuật bên trong, nhờ vậy mà nhà văn dễ đi sâu vào
khai thác những diễn biến tâm lý đầy phức tạp nhằm thỏa được niềm
suy tư, cùng những giãi bày tâm trạng của nhân vật - tác giả - người kể
chuyện. Tuy nhiên, truyện được kể ở ngơi thứ nhất cũng bị giới hạn bởi
tính cá nhân, chủ quan và hạn chế điểm nhìn. Những giới hạn của việc
trần thuật ở ngôi thứ nhất đã được khắc phục một cách đáng kể khi
điểm nhìn đơn tuyến đã được thay thế bằng việc trần thuật ở ngôi thứ
16



nhất với điểm nhìn đa tuyến.
Trong Tơi nhìn tơi trên vách của nữ văn sĩ Túy Hồng chủ yếu được
kể ở ngôi thứ nhất. Cái tôi trải nghiệm - Tôi - cô Khanh vừa là người kể
chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Ở tác phẩm này, Túy Hồng đã tránh
lối sử dụng kể chuyện với điểm nhìn đơn tuyến, hạn định điểm nhìn. Mặc
dù trong tác phẩm nhân vật “tôi” - cô Khanh - người kể chuyện vẫn giữ vai
trị trung tâm, nhưng tồn bộ câu chuyện khơng phải duy nhất một mình
“tơi” kể với duy chỉ có một điểm nhìn của „tơi” - người kể chuyện. Trong
tác phẩm đã có sự trao chuyển vai kể chuyện cho nhiều người khác nhau
với nhiều điểm nhìn khác nhau. Ở Bếp lửa, nhà văn Thanh Tâm Tuyền
cũng sử dụng người kể chuyện ngôi thứ nhất trong suốt cả từ đầu đến cuối
tác phẩm. Mặc dù truyện được kể lại thông qua nhân vật “tôi” - Tâm với lối
kể gần như đơn tuyến theo một mạch chảy mà không hề xuất hiện sự đảo
tuyến xảy ra trong tác phẩm, nhưng trong tác phẩm, tác giả đã vận dụng
khá khéo léo điểm nhìn đa tuyến. Chính yếu tố này tạo cho tác phẩm một
sắc diện mới, đậm chất hiện đại.
4.1.2. Người kể chuyện ở ngơi thứ ba với điểm nhìn bên trong
Là sản phẩm của quá trình lai ghép, dung hợp giữa tự truyện và tiểu
thuyết, một mặt, tiểu thuyết có tính chất tự truyện vẫn giữ được nét đặc
trưng của tự truyện, nhưng mặt khác, nó cũng chịu sự ảnh hưởng tính chất
hư cấu của tiểu thuyết nên tiểu loại này hoàn toàn tự do trong cách chọn lựa
bút pháp, cũng như việc tổ chức trần thuật. Đã có khơng ít tiểu thuyết có
tính chất tự truyện “khước từ” lối trần thuật ở ngôi thứ nhất - “tôi” bằng
cách chọn lối trần thuật ở ngơi thứ ba nhằm tạo nên tính khách quan hóa
cho câu chuyện kể. Trong văn học trên thế giới (cả ở thế kỉ XX và XXI)
cũng có nhiều tác phẩm tiểu thuyết giàu chất tự truyện đã tìm đến ngôi kể
thứ ba làm yếu tố trung tâm cho câu chuyện kể (như Người tình của M.
Duras, Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleife). Ở Việt Nam, vào
những năm đầu thập niên 40 (thế kỷ XX), lối kể chuyện ngôi thứ ba cũng

đã được nhà văn Nam Cao và Lan Khai sử dụng khá thành cơng trong Sống
mịn và Mực mài nước mắt.
Từ sau 1945, trong số những tiểu thuyết có tính chất tự truyện mà
chúng tơi khảo sát, có đến 2/3 tác phẩm sử dụng ngơi thứ ba để trần
thuật. Tuy nhiên, mỗi một chặng đường khác nhau, cùng với những
thay đổi quan niệm và tư duy nghệ thuật, các nhà văn đã không ngừng
làm mới phương thức trần thuật ở ngôi thứ ba. Phương thức trần thuật ở
ngơi thứ ba với điểm nhìn bên trong của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện khi bước vào quỹ đạo mới ở những năm sau 1945 đã phát huy tối
đa tác dụng của nó khi được các nhà văn kết hợp với điểm nhìn đa
tuyến. Sự kết hợp này đã làm tăng thêm độ thơng thống và tính mở cho
tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
17


4.2. Ngơn ngữ của tiểu thuyết có tính chất tự truyện
4.2.1. Ngơn ngữ kể và sự hịa phối giữa kể - tả - bình luận
Thơng thường, ngơn ngữ người kể chuyện tồn tại dưới hai hình
thức: ngơn ngữ của người kể chuyện ngôi thứ ba giấu mặt, khách quan
và ngôn ngữ người kể chuyện ngôi thứ nhất nếm trải, chứng nhân,
người trong cuộc mang tính chủ quan. Nghiên cứu tiểu thuyết có tính
chất tự truyện Việt Nam trong vịng một thế kỷ, chúng tôi nhận thấy,
nảy sinh từ đặc trưng tiểu loại, tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường
lựa chọn hình thức trần thuật ở ngơi thứ nhất, mang tính chủ quan:
Chiếc cáng xanh (Lưu Trọng Lư), Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Tơi nhìn
tơi trên vách (Túy Hồng), Người về đầu non (Võ Hồng), Miền Thơ ấu
(Vũ Thư Hiên). Bên cạnh đó, vẫn có những tác phẩm được các tác giả
lựa chọn hình thức trần thuật từ ngơi thứ ba mang lại khơng ít sự thú vị
như: Sống mịn (Nam Cao), Mực mài nước mắt (Lan Khai), Hoa bươm
bướm (Võ Hồng), Vịng tay học trị (Nguyễn Thị Hồng), Bếp lửa

(Thanh Tâm Tuyền), Thời xa vắng (Lê Lựu), Chuyện kể năm 2000 (Bùi
Ngọc Tấn)... Điều này có thể dễ dàng lí giải bởi những ưu thế về sự
năng động, sức bao quát rộng lớn của người kể chuyện ở ngôi thứ ba,
điều mà thể loại tiểu thuyết cũng như tiểu thuyết có tính chất tự truyện
cần hơn bất kì thể loại nào khác.
Tuy nhiên, trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện, các nhà văn hay
vận dụng linh hoạt giữa lời kể và tả làm cho câu chuyện kể được tái sinh
từ quá khứ cuộc đời tác giả thêm phần sinh động. Ngay cả những tiểu
thuyết có tính chất tự truyện ra đời giữa lịng đơ thị miền Nam chặng
đường trước 1975, mặc dù các tác giả đã cố gắng gia tăng thêm lời thoại
trực tiếp, nhưng bên cạnh lời kể, sự xuất hiện của ngôn ngữ tả trong
truyện cũng đã phát huy được tối đa khả năng mô tả sự vật, hiện tượng…
một cách cụ thể chi tiết. Trong một số trường hợp, để tăng thêm hiệu quả
cho câu chuyện kể, nhà văn đã hòa kết giữa lời kể - tả và có cả sự xâm
nhập của lời bình luận trong lời kể. Sự kết hợp này diễn ra khá nhiều
trong các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời từ sau 1945.
Sự kết hợp các lớp ngôn ngữ trong cùng một câu chuyện kể
không chỉ đem lại sức hấp dẫn cho câu chuyện mà nó cịn giúp cho tiểu
thuyết có tính chất tự truyện vượt thốt mơ hình truyện kể truyền thống.
Giờ đây, tiểu loại này đã mang đúng đặc tính đa thanh, đa âm, phức
điệu đặc trưng vốn có. Các nhà văn đã khơng ngừng nỗ lực, sáng tạo
những nguyên tắc mới trong việc tiếp cận, thể hiện, luận giải có chiều
sâu về “lịch sử” chính bản thân mình. Từ câu chuyện về cá nhân, mang
tính riêng tư trở thành câu chuyện về thế sự cuộc đời, về những vấn đề
của ngày hôm nay và cả tương lai trong sự nối kết với quá khứ. Nhờ
vậy, tiểu thuyết có tính chất tự truyện mang một hình hài, một sức sống
18


mới, tiếng nói mới, lạ mà quen.

4.2.2. Ngơn ngữ gián tiếp tự do (lời nửa trực tiếp)
Không đơn nghĩa như lời gián tiếp hay lời trực tiếp, lời gián tiếp
tự do thường mở ra nhiều hướng tiếp nhận, trở thành kiểu lời nói đặc
trưng cho ngơn ngữ trần thuật đa thanh trong tiểu thuyết. Đây là kiểu lời
nói có sự hịa trộn giữa ngơn ngữ người kể chuyện và ngơn ngữ nhân
vật, giọng người kể và giọng nhân vật xen lẫn vào nhau.
Trong một số tác phẩm ở chặng đường đầu thế kỷ XX đến 1945,
kiểu lời trần thuật nửa trực tiếp cũng đã xuất hiện qua một số tác phẩm
như: Sống mòn, Mực mài nước mắt... Từ sau 1945, lời gián tiếp tự do
được sử dụng khá rộng rãi trong các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự
truyện. Có thể nói, đây là một trong những phương thức thể hiện tính hiện
đại trong việc khai mở kiểu tư duy phức hợp của con người trước cuộc
sống đa chiều, đa diện. Đây là một trong những nét cơ bản nhất, đánh dấu
sự đổi mới của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Sự xâm nhập lẫn nhau
của các kiểu diễn ngôn và đặc biệt là sự hiện diện của lời gián tiếp tự do
đã cho thấy sự cách tân trong cách sử dụng ngơn ngữ, góp phần làm mới
nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
4.3. Giọng điệu trần thuật
4.3.1. Giọng trữ tình, hồi niệm
Thường trong một tiểu thuyết có tính chất tự truyện hay có khuynh
hướng hướng nội, lấy tình cảm, cảm xúc cá nhân làm điểm tựa cho lời
văn nghệ thuật. Vì vậy, giọng điệu trong tác phẩm tựa hồ là tiếng nói tâm
hồn đầy khắc khoải, vô cùng nhạy cảm nhưng cũng mang đậm nét hồn
nhiên của tâm hồn thơ trẻ. Trong Sống nhờ (Mạnh Phú Tư) là cả “những
rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại” lắng trong dòng hồi niệm
xót xa đã tạo nên giọng điệu chính bao trùm toàn bộ tác phẩm. Mỗi một
lần kỉ niệm tuổi thơ ùa về là một lần cảm xúc như dòng chảy cuộn trào
bao nỗi niềm day dứt. Ở Sống nhờ, những cụm từ chỉ thời quá khứ như:
buổi chiều đông ấy, mùa đông năm ấy, trong hồi thơ ấu ấy, năm ấy…
luôn hiện diện với tần suất khá nhiều. Đây cũng là một trong những yếu

tố giúp cho giọng trữ tình, hồi niệm phát huy được tối đa tác dụng của
nó trong việc tìm lại những gì xa nhất của “những ngày thơ ấu”.
Khảo sát các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong suốt
chiều dài nửa sau thế kỷ XX, từ Hoa bướm bướm, Như cánh chim bay
(Võ Hồng), Tơi nhìn tơi trên vách (Túy Hồng), cho đến Bếp lửa (Thanh
Tâm Tuyền), Vòng tay học trò (Nguyễn Thị Hoàng), Thời xa vắng (Lê
Lựu), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), và cả trong Nỗi buồn chiến
tranh (Bảo Ninh)… chúng tôi đều nhận thấy, yếu tố không thể thiếu để
làm nên những giá trị nghệ thuật cho tác phẩm đó chính là giọng trữ tình
hồi niệm. Ở những tác phẩm này, mặc dù độ lùi thời gian có khoảng
19


cách khá gần so với những sự kiện từng diễn ra trong đời tác giả, đơi khi
có những câu chuyện cứ ngỡ rằng chỉ mới vừa diễn ra, chưa xa lắm so
với thời gian nhà văn đặt bút viết tác phẩm (như Hoa bươm bướm, Tơi
nhìn tơi trên vách), nhưng thời gian ấy vẫn là khoảng thời gian đã diễn ra
trong quá khứ. Và một khi tái dựng lại, lẽ dĩ nhiên, con đường hoài niệm
trở thành nẻo đường dẫn về nhanh nhất để hướng đến những gì đã, từng
diễn ra. Dù rằng câu chuyện được kể ở thì hiện tại nhưng nhờ vào giọng
hồi niệm nên nó vẫn ln có mối quan hệ gắn kết với quá khứ.
4.3.2. Giọng triết lý, chiêm nghiệm
Bên cạnh giọng trữ tình, hồi niệm, giọng triết lý, chiêm nghiệm
cũng là một trong những giọng điệu được nhà văn sử dụng trong các tác
phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Bởi, khi nhà văn đặt bút viết
những dịng tiểu thuyết có tính chất tự truyện, đó cũng là lúc họ bắt đầu
bước đi trên hành trình khám phá con người thật của mình trong q khứ
bằng chính cái nhìn đầy nếm trải của người trong cuộc.
Sau 1945 cho đến hết thế kỷ XX, đây là khoảng thời gian ghi
nhận sự gia tăng đáng kể của giọng triết lý, chiêm nghiệm trong tiểu

thuyết có tính chất tự truyện. Có thể nói, khi đồng hành cùng với cuộc
sống của con người thời hiện đại, cuộc sống mà ở đó con người đang
từng ngày đối diện với hiện thực ngổn ngang, những điều ngẫu nhiên,
phi lý, đầy rẫy những điều mà lâu nay “tưởng đã biết, đã rõ - giờ lại
thấy mông lung, phải định nghĩa lại từ đầu” [16, tr.93]. Sống giữa thực
tại luôn đối mặt với những bất an mà gần như nếu dựa vào tư duy duy
lý để nhận thức và lý giải thực tại thì con người khơng thể nào lý giải
được, nên con người phải chạy đua với thực tại bằng con đường sống
với tận cùng bản thể của mình, đơi khi rút sâu vào cái tôi nội cảm để
phản ứng lại với đời. Vì vậy, giọng triết lý, chiêm nghiệm trong tiểu
thuyết có tính chất tự truyện cũng mang sắc thái riêng. Sắc thái ấy được
hình thành từ cái tơi của con người ln cố gắng đi tìm, cắt nghĩa và lý
giải sự hiện tồn của mình trước thực tại đầy phi lý, khác hoàn toàn so
với giọng triết lý được làm nên từ cái tơi tự trình bày trong tiểu thuyết
có tính chất tự truyện chặng đường trước 1945. Từ Hoa bươm bướm
đến Tơi nhìn tơi trên vách, Vịng tay học trò… đều là những nghiệm
sinh về đời sống, về tình yêu, hạnh phúc, về con người trong cái thế giới
hằng thường như nó vốn có.
4.3.3. Giọng tự trào, giễu nhại
Cảm hứng tự trào, giễu nhại trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện
khởi nguồn từ cái hài, nhưng cái hài ở đây là cái hài do chính bản thân nó
tự gây ra. Giọng điệu tự trào, giễu nhại trong các tác phẩm tiểu thuyết có
tính chất tự truyện xuất phát từ kiểu con người tự ý thức được thời cuộc,
ý thức được những mặt tốt - xấu đang hiện hữu trong bản thân mình, ln
20


có tinh thần phản tỉnh, đấu tranh để dần hồn thiện nhân cách. Và thông
qua lớp vỏ của nhân vật cùng ngôi kể trong tác phẩm, nhà văn dần tự lật
tẩy bản thân mình, tự đem mình ra để làm đối tượng để giễu cợt. Câu

chuyện đời, chuyện nghề nghiệp của Nam Cao được ông thuật lại trong
lớp vỏ hư cấu của tiểu thuyết Sống mòn với nụ cười chua chát thường
xuyên xuất hiện qua lời của nhân vật Thứ. Cái hài trong Sống mòn nảy
sinh từ sự đau đớn của của con người trước tình trạng nhân tính đang bị
bào mịn vì miếng cơm manh áo giữa xã hội “tối ư vô nghĩa lý”. Với Lan
Khai, nụ cười tự trào, giễu nhại trong tác phẩm Mực mài nước mắt đôi
khi là tiếng thở dài ngao ngán, đầy cám cảnh cho kiếp sống thực tại của
“một kẻ viết văn kiếm gạo” ni thân mình chật vật.
Sau 1975, khi khuynh hướng sử thi và thời đại văn chương viết để
cổ vũ cho tinh thần chiến đấu nhạt dần trong đời sống văn học, tiểu thuyết
bắt đầu “áp sát” và tiếp xúc “suồng sã đến thô bạo hiện thực”. Những mặt
trái của cuộc sống được lột trần, cái chất bi một thời từng bị lên án và né
tránh cũng được đề cập khá nhiều trong tiểu thuyết, chất hài cũng được
gia tăng đã mang đến cho tiểu thuyết Việt Nam một luồng sinh khí mới.
Tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở chặng đường này cũng đã có một số
tác phẩm sử dụng khá thành công chất giọng hài hước qua nụ cười tự
trào, giễu nhại để khắc họa bức chân dung tinh thần của tác giả. Trong
Chuyện kể năm 2000, tuy giọng tự trào, giễu nhại chỉ xuất hiện ở một vài
chi tiết khá rời rạc, nhưng sự hiện diện của nó cũng đã thể hiện thấm thía
nỗi đau thân phận của tác giả: “Vào tù hắn đã học được hai điều: ăn cắp
và nói dối. Khơng ăn cắp vẫn sống được đấy. Nhưng khổ. Và buồn nữa.
Nếu khơng có cái lo lắng hồi hộp của việc ăn cắp và bồng của ăn cắp
được về trại, thì buồn lắm, buồn khơng chịu nổi. Sung sướng biết bao khi
mình vẫn lấy cắp và mang được về trại tất cả, vượt qua vòng kiểm sốt
nghiêm ngặt của các ơng quản giáo. Ăn cắp với hắn cịn có nghĩa phản
kháng, tuy sự phản kháng đó hơi nguy hiểm. Nó dẫn tới kỷ luật, cùm xà
lim, ăn cháo loãng” [119, tr.9]. Nhà văn Lê Lựu khi nhìn lại quá khứ của
một “thời xa vắng” cũng đã sử dụng tiếng cười như một phương tiện để
giễu nhại lại cả quá khứ một thời được xem là lý tưởng cho mọi chuẩn
mực của con người khi đứng chân trong cộng đồng tập thể. Nét độc đáo

trong giọng văn tự trào của Lê Lựu trong Thời xa vắng là nhà văn không
cần dùng đến bất kỳ yếu tố cường điệu, phóng đại, hay lạ hóa mà chỉ kể
những chuyện thật như đùa, lúc giễu cười, khi xót xa, ưu tư nên trong cái
hài lại trộn lẫn chất bi.

21


KẾT LUẬN
1. Hình thành và phát triển trong hồn cảnh lịch sử Việt Nam thế
kỷ XX đầy biến động, tiểu thuyết có tính chất tự truyện thực sự đã
mang đến một luồng gió mới cho văn học Việt Nam. Từ bước đầu xuất
hiện với cái tôi tự thuật “bỡ ngỡ” bên cạnh những qui phạm của thời
tiền hiện đại đã tạo đà để cho tiểu thuyết có tính chất tự truyện được dịp
“cơi nới” vùng không gian nghệ thuật trong đời sống thể loại tiểu
thuyết. Sự kết hợp giữa yếu tố sự thật đời tư và hư cấu trong thế giới
nghệ thuật của tiểu thuyết đã mở ra cho thể loại tiểu thuyết những hình
thức biểu đạt mới, vừa lạ vừa quen, vừa gần gũi, vừa xa xôi gợi sự tị
mị, thích thú cho người đọc khi đến với tác phẩm.
2. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện liệu chăng có phải là một
tiểu loại của thể loại tiểu thuyết hay khơng? Hay đó chỉ là một lối viết
tự truyện “bất thành”, vụt hiện theo kiểu “tự yêu mình” trong q trình
sáng tạo của tác giả? Có thể nói, tiểu thuyết có tính chất tự truyện là
một tiểu loại của tiểu thuyết, một loại tự sự mà tác giả đã sử dụng chất
liệu hiện thực đời tư của bản thân mình để hư cấu thành thế giới nghệ
thuật của tiểu thuyết. Là một tiểu loại nghiêng về cái nhìn cuộc sống từ
góc độ đời tư, cho nên, đường biên của tiểu thuyết có tính chất tự truyện
khá sát với một số thể loại tương cận như: tự truyện, hồi ký, nhật ký…
Vậy, để phân định và nhận diện ra đâu là một tiểu thuyết có tính chất tự
truyện cần phải dựa trên ba tiêu chí: mối quan hệ giữa sự thật và hư cấu;

ngôi kể; mối quan hệ giữa tác giả - nhân vật chính - người kể chuyện
trong tác phẩm. So với các thể loại khác, tiểu thuyết có tính chất tự
truyện ở Việt Nam có tuổi đời cịn khá trẻ. Sự ra đời của tiểu loại này
gắn liền với q trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nó chính là sản
phẩm của sự cộng sinh giữa nội lực truyền thống văn hóa dân tộc và sự
tiếp biến một cách có chọn lọc văn hóa phương Tây. Đặc biệt, sự ra đời
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện cịn là kết quả của q trình vận
động, phát triển trong trạng thái dung hợp giữa tiểu thuyết và tự truyện.
Chính điều này giúp cho tiểu thuyết có tính chất tự truyện dung chứa
một số đặc điểm của hai thể loại gốc là tiểu thuyết và tự truyện. Song,
với tư cách là một tiểu loại, nó cũng có những đặc điểm riêng, rất khó
trộn lẫn trong đời sống thể loại văn học.
3. Khi tiến hành khảo sát và nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự
truyện Việt Nam trong khoảng thời gian một thế kỷ, chúng tôi đã cố
gắng xác lập những nét đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện dựa trên cơ sở lý luận, những tiền đề hình thành cũng như sự vận
động của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong vịng một thế kỷ. So
với các tiểu loại khác, mặc dù thành tựu của tiểu loại này chưa nhiều,
22


×