Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số giải pháp chỉ đạo đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học ở trường THCS lam sơn ngọc lặc thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.89 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGỌC LẶC
TRƯỜNG THCS LAM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI SINH HOẠT
CHUYÊN MÔN THEO NGHIÊN CỨU BÀI HỌC Ở
TRƯỜNG THCS LAM SƠN - NGỌC LẶC - THANH HÓA

Người thực hiện: Nguyễn Hữu Hùng
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Lam Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Quản lý

THANHMỤC
HỐLỤC
NĂM 2021


Nội dung

Trang

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu

2


3
4

1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung

4

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.

4

2.2. Thực trạng của vấn đề

8

2.3. Các giải pháp

11

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị

16

3.1. Kết luận

18

3.2.Kiến nghị


18


-21. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Để triển khai thực hiện hiệu quả Kế hoạch hoạch số 134/KH-UBND ngày
17/6/2020 của UBND tỉnh Thanh Hóa về Kế hoạch triển khai Chương trình giáo
dục phổ thơng mới trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa; Đồng thời nhằm nâng cao chất
lượng dạy học và bồi dưỡng giáo viên, nhằm đáp ứng với mục tiêu đào tạo theo
hướng tiếp cận với chương trình giáo dục phổ thông mới từ năm học 2018-2019.
Sở GD-ĐT Thanh Hóa có nhiều văn bản chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học
theo định hướng Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể: Các môn học và
hoạt động giáo dục trong nhà trường áp dụng các phương pháp tích cực hóa hoạt
động của người học, trong đó GV đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho
học sinh, tạo mơi trường hoạt động thân thiện và những tình huống có vấn đề để
khuyến khích HS tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng
lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát
triển tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã tích lũy được để phát triển.
Để thực hiện mục tiêu này, cần đẩy mạnh hoạt động sinh hoạt chuyên môn
trong mỗi nhà trường để tạo ra sự thay đổi trong mỗi GV. Vậy, vấn đề đặt ra là
phải đổi mới sinh hoạt chuyên môn sao cho hiệu quả - sau mỗi buổi sinh hoạt
chuyên môn, hiệu quả dạy học thật sự được nâng lên. Mặt khác trong thực tế
hiện nay công tác chỉ đạo sinh hoạt chun mơn trong các nhà trường cịn bộc lộ
một số hạn chế như con mang tính hình thức, nặng về thủ tục, chưa thực sự tạo
cơ hội cho giáo viên được học tập lẫn nhau thông qua hoạt động, cùng nhau xây
dựng kế hoạch bài học, cùng nhau dự giờ, phân tích bài học, qua đó giúp giáo
viên phát triển năng lực chuyên môn, kĩ năng giảng dạy, phát triển khả năng
sáng tạo, …Tạo cơ hội cho tất cả giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ
năng sư phạm và phát huy khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương

pháp, kỹ thuật dạy học thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi
dự giờ. Nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường. Đảm bảo cho tất cả học
sinh có cơ hội tham gia thực sự vào quá trình học tập, giáo viên quan tâm đến
khả năng học tập của từng học sinh.


-3Đúc rút từ kinh nghiệp chỉ đạo công tác chuyên môn tôi lựa chọn đề tài “
Đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học” coi đây là một bước
thay đổi cơ bản để nâng cao hiệu quả sinh hoạt chuyên môn, nâng cao chất
lượng dạy và học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Giúp các cấp quản lý thống nhất nội dung chỉ đạo về sinh hoạt chuyên
môn; xây dựng kế hoạch tổ chức sinh hoạt chuyên môn về các nội dung tìm hiểu
Chương trình giáo dục phổ thơng 2018, nghiên cứu bài học, xây dựng kế hoạch
dạy học các mơn học và hoạt động giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục tiểu học.
Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo
viên tiểu học để thực hiện xây dựng kế hoạch và tổ chức dạy học nhằm phát
triển phẩm chất, năng lực học sinh; xây dựng mơi trường thân thiện, tích cực, tự
học; nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn ở các nội dung cơ bản sau:
- Cải tiến nội dung dạy học cụ thể thơng qua q trình hợp tác với các
giáo viên trong nhóm, giúp các thành viên hiểu sâu hơn về nội dung kiến thức
của bài học, bồi dưỡng năng lực sư phạm.
- Thông qua quan sát và thảo luận về những gì đang xảy ra trong lớp học,
cách học sinh phản ứng với các tác động, giáo viên tham gia có nhận thức đầy
đủ hơn về cách học sinh học và suy nghĩ cũng như cách học sinh hiểu bài, đáp
lại những cái giáo viên dạy, đồng thời giúp giáo viên học được cách quan sát quá
trình của học sinh học trong tiết dạy của mình. Giáo viên học được cách phân
tích, rút ra kết luận, sửa đổi từ những số liệu quan sát được. Ngoài ra, tham gia
NCBH giúp giáo viên nâng cao kĩ năng thiết kế công cụ dạy học để làm cho học

tập và tư duy của học sinh trở nên dễ hiểu đối với giáo viên và có thể nhìn thấy
được.
- Nhằm thúc đẩy, duy trì sự hợp tác giữa các giáo viên, giúp các giáo viên
phát triển kĩ năng làm việc nhóm, góp phần phát triển khơng khí hợp tác, đồn
kết trong nhà trường. Tạo ra cộng đồng học tập, văn hóa học tập và củng cố tình
đồng nghiệp trong nhà trường. Phát huy vai trò của người nghiên cứu, cải tạo


-4thực tiễn và làm cho giáo viên nên vững vàng hơn về chuyên môn, nghiệp vụ,
tăng sự chuyên nghiệp của giáo viên và giúp giáo viên tự tin hơn trong việc giải
quyết vấn đề của thực tiễn để nâng cao chất lượng dạy học của mình.
- Tạo cơ hội cho giáo viên có thể quan tâm tới tất cả các học sinh trong
lớp, tạo cơ hội phát triển cho mọi học sinh. Và dẫn tới hệ quả tất yếu là nâng cao
chất lượng học tập của học sinh.
- Kết nối các nội dung kiến thức, giữa các bộ môn để thu được sự hỗ trợ
bổ sung tốt nhất giữa các bộ mơn góp phần đào tạo tồn diện cho học sinh, giữa
các cấp học để thu được chương trình đào tạo mạch lạc, thông suốt.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Tôi áp dụng đề tài này với các tổ chuyên môn trường THCS Lam Sơn. Sau khi
áp dụng đề tài này, giáo viên học cách quan sát tinh tế, nhạy cảm việc học của
HS. Hiểu sâu, rộng hơn về HS và đồng nghiệp. Hình thành sự chấp nhẫn lẫn
nhau giữa GV với GV và giữa GV và HS. Cùng nhau xây dựng và tạo nên văn
hoá nhà trường. Tạo cơ hội cho CBQL, GV hiểu về quy định, chính sách của
ngành và cơng việc của mỗi GV. Tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao năng lực
chuyên môn và đổi mới PPDH, KTĐG theo hướng dạy học tích cực, lấy việc
học của HS làm trung tâm của GV khi tham gia SHCM theo NCBH.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp tìm hiểu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích.

- Phương pháp thử nghiệm .
- phương pháp tổng hợp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Khái niệm về sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học
Thuật ngữ “NCBH” (tiếng Anh là Lesson Study hoặc Lesson Research;
theo tiếng Nhật là jugyo kenkyu) có nghĩa là nghiên cứu và cải thiện bài học cho
đến khi nó hồn hảo (theo Catherine Lewis, 2006). Thuật ngữ “NCBH” có


-5nguồn gốc trong lịch sử giáo dục Nhật Bản, từ thời Meiji (1868-1912), như một
biện pháp để nâng cao năng lực nghề nghiệp của GV thông qua nghiên cứu cải
tiến các hoạt động DH ở từng bài học cụ thể. Những năm gần đây, Bộ GD-ĐT đã
có nhiều biện pháp tích cực như giảm tải, tăng thời lượng cho một số bài học,
môn học, chú trọng nhiều hơn đến cách sinh hoạt chun mơn… Cụ thể, từ năm
2006, mơ hình hoạt động chuyên môn theo NCBH được cải tiến và thí nghiệm
tại tỉnh Bắc Giang trong khn khổ hợp tác Việt - Nhật, đã thực sự hiệu quả, góp
phần nâng cao chất lượng DH.
Sinh hoạt chuyên môn là hoạt động được thực hiện thường xuyên theo
định kì nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho GV theo
chuẩn nghề nghiệp thơng qua việc dự giờ phân tích bài học.
Sinh hoạt chuyên môn theo NCBH là hoạt động chun mơn nhưng ở đó, GV
tập trung phân tích cácvấn đề liên quan đến người học (HS). Sinh hoạt chuyên
môn theo NCBH không tập trung vào việc đánh giá giờ học, xếp loại GV mà
nhằm khuyến khích GV tìm ra nguyên nhân tại sao HS chưa đạt kết quả như
mong muốn và có biện pháp để nâng cao chất lượng DH, tạo cơ hội cho HS
được tham gia vào quá trình học tập; giúp GV có khả năng chủ động điều chỉnh
nội dung, phương pháp dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng HS.
Việc học tập của học sinh và phát triển năng lực chuyên môn của giáo viên
trong nghiên cứu bài học dựa trên cơ sở vùng phát triển vùng của nhà tâm lý học

người Nga Vygotsky. Theo lý thuyết này nội dung học chỉ có ý nghĩa khi nằm
trong vùng phát triển gần của người học. Do đó, nhiệm vụ của NCBH là xác
định rõ vùng phát triển gần để lựa chọn mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy
học phù hợp.
Do trình độ hiện tại của người học cũng như năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ của GV không đồng đều nên rất cần sự nghiên cứu, chia sẻ theo
NCBH. Giữa quá trình phát triển của người học với q trình dạy học khơng
diễn ra đồng thời. Cơ chế tác động của quá trình dạy học đến quá trình phát triển
của cá nhân người học là phức tạp, rất cần được suy ngẫm theo tinh thần NCBH.


-62.1.2. NCBH dựa vào lý thuyết đối thoại của Mikail Bakhtin(18951975), Wertsch
Con người học qua tương tác giữa các vòng trịn đối thoại. Theo lý
thuyết của Mikail Bakhtin, q trình dạy học không chỉ là sự tương tác theo
chiều dọc giữa GV và học sinh mà còn tương tác theo chiều ngang giữa học sinh
và học sinh. Nếu giờ học được ví dụ như một tấm vải thì tương tác GV - HS như
những sợi dọc, còn tương tác HS – HS như những sợi ngang. Nếu thiếu những
sợi ngang thì khơng thể hình thành tấm vải được.
2.1.3. NCBH là quá trình bồi dưỡng GV qua thực tiễn dạy học
Việc xây dựng nhà trường, mỗi tổ/nhóm chun mơn theo NCBH sẽ tạo
ra mơi trường thuận lợi để khuyến khích đổi mới PPDH, KTĐG. Khi tham gia
NCBH, mỗi GV được sống và làm việc trong mơi trường an tồn, có thể tích cực
hoạt động cho sự phát triển của bản thân, của tổ, của nhốm chun mơn. Đó là
q trình trao đổi thơng tin, qua đó GV được chia sẻ kiến thức chun mơn, đổi
mới PPDH, KTĐG của mình với đồng nghiệp, trao đổi ý kiến, hổ trợ và trợ giúp
nhau để hồn thiện các ký năng hiện có, bổ sung những ký năng mới và giải
quyết các vấn đề liên quan tới lớp học. Tổ CM phải được duy trì họp ít nhất 2
lần/tháng theo quy định của Điều lệ của nhà trường phổ thơng. Ngồi việc triển
khai các cơng văn, chỉ thị của cấp trên, phục vụ dạy học, quản lý học sinh, bồi
dưỡng chun mơn, nghiệp vụ nói chung, phần lớn thời gian còn lại là SHCM

dựa trên NCBH. Cụ thể như sau:
* Thay đổi nhận thức của GV và SHCM
SHCM theo NCBH là một quá trình các GV tham gia vào các khâu từ
chuẩn bị, thiết kế bài học sáng tạo, dạy thể nghiệm, dự giờ, suy ngẫm, chia sẻ
các ý kiến sâu sắc về những gì đã diễn ra trong việc học của HS. Đây là hoạt
đọng học tập lẫn nhau, học tập trong thực tế, là nơi thử nghiệm và trải nghiệm
những cái mới, là nơi kết nối lý thueeyts với thực hành, giữa ý định và thực tế.
Trong q trình học tập đó, GV sẽ học được nhiều điều để phát triển năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ mới. Để đảm bảo SHCM hiệu quả, trước hết Hiệu
trưởng trường THCS cần coi SHCM là trụ cột, là chính sách quan trọng nhất để


-7đổi mới nhà trường, nâng cao chất lượng việc học của HS. Từ đó giúp GV hiểu
rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của SHCM và cùng nhau nhất trí quyết tâm thực hiện
SHCM mới. Hiểu rõ SHCM theo hướng tiếp cận mới là trụ cột, là chính sách
quan trọng nhất để đổi mới nhà trường, CBQL và GV phải có quyết tâm cao
trong việc đổi mới nhà trường thông qua kiên trì thực hiên SHCM mới. Cần
tránh để GV suy nghĩ coi đó là chỉ là việc SHCM truyền thống mà họ và đã thực
hiện từ trước đến nay và khơng học tập được nhiều. Cần tạo cho họ có động lực
tham gia SHCM theo hướng tiếp cận mới để học tập lẫn nhau, nâng cao năng lực
chuyên môn. Cần cho GV thấy SHCM theo hướng tiếp cận mới có mục đích
chính là nâng cao chất lượng các bài học của học sinh.
Qua dự giờ mỗi GV có cái nhìn và cách nhìn khác nhau, có suy nghĩ cảm
nhận khác nhau về HS và bài học của các em. Khi các ý kiến khác nhau đó được
chia sẻ cho mọi người cùng thấy sẽ làm cho việc phân tích học trở nên phong
phú, sâu sắc, đa chiều, đa dạng. Từ đó GV có cái nhìn tồn cảnh, phong phú và
rõ nét hơn về tất cả các vấn đề liên quan đế việc dạy, việc học và cách giải
quyết.
Đặc biệt, khi từ bỏ việc quan sát việc dạy của GV, người dự và người dạy
sẽ thấy tất cả cùng nhau hướng về một điểm chung là việc học của học sinh. Họ

khơng cịn để ý đến những khoảng cách về năng lực giữa các GV, thoải mái hơn
khi trao đổi và chia sẻ ý kiến. Từ đó họ dễ dàng chấp nhận lẫn nhau và họ sẽ chỉ
quan tâm đến những khó khăn của người GV trước sự thay đổi phức tạp trong
học tập của HS.
Tóm lại GV dự giờ chỉ quan sát, suy ngẫm về việc học và các vấn đề liên
quan đến việc học của HS. Người dự giờ phải quan sát tỉ lỉ, phải tinh tế, nhạy
cảm việc học của từng học sinh để suy ngẫm và chuẩn bị chia sẻ ý kiến phong
phú, sâu sắc. Những dấu hiệu từ HS thể hiện rõ ở khuông mặt, lời nói, điệu bộ,
sản phẩm học tập,… khơng nên chỉ quan sát việc dạy của GV, cần chú ý quan sát
mối quan hệ phản ứng của HS trước nội dung bài học và hành động của GV.
Không coi trọng việc ghi chép tiến trình bài dạy. GV dự giờ thoải mái ghi chép


-8trong sổ dự giời. Khi kiểm trao, nhà trường nên đánh giá sổ dự giờ của GV theo
hướng học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Nhiều năm qua, công tác sinh hoạt chuyên môn ở các trường THCS chung
và trường THCS Lam Sơn nói riêng đã được tổ chức thực hiện và duy trì khá
thường xun. Mục đích các buổi sinh hoạt tổ, nhóm chun môn là nhằm bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên. Sinh hoạt
chuyên môn ở các nhà trường hiện nay thường diễn ra theo hai hình thức: tổ
chức theo các chuyên đề và dự giờ, trao đổi kinh nghiệm.
Ở hình thức thứ nhất, sinh hoạt chuyên môn bao gồm việc triển khai học
tập các văn bản chỉ đạo về chuyên môn của cấp trên, tổ trưởng điều hành các tổ
viên hoàn thành các nhiệm vụ lặp lại như: đánh giá nhận xét quá trình hoạt động
trong tuần, triển khai một số công việc mới trong thời gian tới và xây dựng một
số chuyên đề như: nâng cao chất lượng hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp, kinh
nghiệm dạy một dạng bài, kiểu bài nào đó, kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi,
phụ đạo học sinh yếu, thảo luận về kế hoạch làm ngoại khoá…
Những nội dung này thường được giao cho các giáo viên có kinh nghiệm,

năng lực chuyên môn tốt xây dựng và thực thi. Đối với hình thức thứ hai là dự
giờ trao đổi kinh nghiệm dạy học, các nhà trường tổ chức đều đặn và nghiêm
túc. Trong mỗi buổi dự giờ, có sự tham gia của tổ trưởng và giáo viên trong tổ.
Sau dự giờ, tổ chuyên môn tiến hành rút kinh nghiệm và đánh giá xếp loại tay
nghề giáo viên. Cả hai hình thức trên các nhà trường đã tổ chức triển khai thành
nề nếp. Tuy vậy, sinh hoạt chuyên môn hiện nay cịn bộc lộ một số vấn đề bất
cập. Đó là, chất lượng nhiều buổi sinh hoạt chuyên môn chưa cao. Nội dung sinh
hoạt chuyên đề chưa được chú trọng, nhất là việc phổ biến áp dụng các sáng
kiến còn nhiều hạn chế. Các báo cáo chuyên đề được nghiệm thu đôi khi chưa
phục vụ hiệu quả cho thực tiễn giảng dạy. Đối với công tác dự giờ, khi lên bục
giảng, còn nhiều giáo viên cố gắng truyền tải hết mọi nội dung kiến thức bất kể
chính - phụ theo kiểu nhồi nhét mà ít quan tâm đến tầm đón nhận của học sinh.
Tiến trình dạy học hầu như theo một bản sao cố định. Ngồi ở phía dưới, người


-9dự giờ và ngay cả học sinh cũng phỏng đoán được trước các bước thực hiện của
giáo viên trên bảng như thế nào. Nhiều giờ học cũng vì thế mà tẻ nhạt đơn điệu.
Trong các đợt thao giảng, hội thi, có những giờ học cịn nặng chất trình diễn vì
giáo viên sợ bị đánh giá là thiếu năng lực, không đủ kiến thức, không đủ các
bước lên lớp…Hệ quả tất yếu là có những giờ dạy mang tính áp đặt. Thiệt thòi
vẫn nghiêng về đối tượng học sinh yếu, kém do tâm lý người dạy sợ các em
đứng im không biết trả lời sẽ làm ảnh hưởng đến tiết dạy nên những học sinh
này thiếu sự quan tâm, thường bị “bỏ rơi”. Khơng ít giáo viên giáo viên chỉ tập
trung vào một nhóm học sinh khá, giỏi mà trong thực tế thì một lớp học thường
có ba nhóm học sinh:
- Nhóm A: Học sinh giải được bài sau các đơn vị kiến thức được dạy.
- Nhóm B: Học sinh giải được một phần.
- Nhóm C: Học sinh khơng giải được.
Rất nhiều giáo viên lúc dạy chỉ chú tâm đến nhóm A, nhóm C bị bỏ rơi
trong khi lẽ ra cần chú trọng vào nhóm B, C.

Bất cập hơn là buổi sinh hoạt rút kinh nghiệm ngay sau đó. Giáo viên có
tiết dạy lúc nào cũng trở thành “điểm ngắm” duy nhất để đồng nghiệp ngồi ở
phía dưới khi dự giờ chăm chăm quan sát mọi hoạt động rồi sau đó phân tích,
góp ý, rút kinh nghiệm về nội dung kiến thức, phương pháp dạy học, tư thế tác
phong. Kĩ càng hơn nữa thì mổ xẻ cách trình bày bảng, biện pháp sử dụng đồ
dùng dạy học, ứng dụng công nghệ thơng tin, phân bố thời gian… có hợp lý hay
khơng? Nghịch lý hơn, nội dung bài học phải là “hình chiếu trung thành” nhất
của sách giáo khoa chứ không quan tâm đến việc nội dung đó có phù hợp với
đối tượng học sinh hay khơng? Ý kiến nhận xét vì thế nặng tính chủ quan, áp đặt
dựa vào kinh nghiệm của từng cá nhân theo kiểu: “Theo tôi cách tốt nhất là, nếu
tôi dạy tôi sẽ…”, mặc dù trong thực tế khơng có cách dạy nào tốt nhất cho tất cả
mọi người vì cịn tùy thuộc vào từng đối tượng học sinh trong mỗi lớp.
Những ý kiến góp ý hầu như không đưa được giải pháp để cải tiến giờ
dạy. Giáo viên dạy trở thành mục tiêu để phân tích các thiếu sót. Và chính vì chỉ
chú ý vào giáo viên nên mọi ý kiến đều hướng về người dạy mà bỏ quên người


- 10 học. Bởi khi dự giờ, người dự thường ngồi ở bàn cuối lớp để “giám sát” thật kỹ
lưỡng giáo viên mà không hề quan tâm các em học sinh học như thế nào, tiếp
thu ra sao hoặc có cần thầy cô giúp đỡ hay không. Do vậy mà kết quả học tập
của học sinh ít được cải thiện, nhất là các đối tượng yếu, kém vì ln bị “bỏ
rơi”, các em lại càng tự ti, sợ học, chán học…
Thực trạng trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Tổ trưởng chưa phát huy hết vai trò của mình, thường có tâm lí coi mình
cũng như giáo viên bình thường khác, chỉ lo hồ sơ đầy đủ, sạch đẹp; chưa
chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch, chưa mạnh dạn trong việc đề xuất các
ý kiến để nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn.
- Việc chuẩn bị nội dung cho các buổi sinh hoạt chuyên môn chưa phong
phú, hình thức cịn đơn điệu, chưa đi sâu vào các vấn đề trọng tâm đổi mới
phương pháp dạy học và tháo gỡ những khó khăn cho giáo viên trong tổ. Trong

các buổi sinh hoạt, khơng khí thường trầm lắng, giáo viên ít phát biểu ý kiến;
những vấn đề mới và khó ít được mang ra bàn bạc, thảo luận.
Công tác quản lý chỉ đạo của ban giám hiệu chưa sát sao, thiếu sự đôn đốc
và kiểm tra thường xuyên.
Do xuất phát từ mục đích của buổi dự giờ là để đánh giá kĩ năng dạy học
và năng lực chuyên môn của giáo viên nên tạo ra áp lực cho cả người dạy và
người dự. Người dạy sẽ chỉ ngồi nghe còn người dự trở thành giám khảo phán
xét, đánh giá.
Lí do tiếp theo nữa là xuất phát từ suy nghĩ của người dự giờ, khi được
mời phát biểu, nếu chỉ tồn khen lại sợ người khác nghĩ mình kém cỏi. Nếu có
nhiều ý kiến lại sợ làm tổn thương và ảnh hưởng đến kết quả xếp loại của đồng
nghiệp. Một số khác lại suy nghĩ là họ học được rất ít từ đồng nghiệp, bởi hầu
hết giáo viên khi dạy đều bám sát vào các tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên
do vậy cấu trúc bài học, tiến trình lên lớp gần như giống nhau nên họ cảm thấy
nhàm chán, thậm chí có giáo viên đi dự giờ cốt để đủ số giờ theo quy định.
Thực trạng trên lặp lại ở nhiều năm học và diễn ra ở khơng ít các nhà
trường. u cầu đổi mới cơng tác quản lý, nâng cao hiệu quả quản lý và chất


- 11 lượng giáo dục đòi hỏi sinh hoạt tổ nhóm chun mơn trong nhà trường cần phải
có một cách làm mới, một hướng đi mới.
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1 Trong quá trình chỉ đạo tôi rút ra được 6 giải pháp như sau
Giải pháp thứ nhất là: Hiệu trưởng phải xây dựng văn hóa nhà trường
(mối quan hệ thân thiết giữa các thành viên trong hội đồng sư phạm) đồng thời
song song với xây dựng môi trường học tập và tự bồi dưỡng cho giáo viên (Đổi
mới sinh hoạt chuyên môn) từ đó giúp cho giáo viên. Thay đổi dạy học - Học
sinh thay đổi cách học - Trường học thay đổi hình thức và phương pháp dạy học.
Cần cải tiến cách quản lý từ khâu chỉ đạo đến khâu thực hiện, xây dựng kế
hoạch và nội dung SHCM cho cả năm học. Thường xuyên kiểm tra đôn đốc để

đảm bảo chất lượng và hiệu quả.
Giải pháp thứ hai là: Bồi dưỡng năng lực tổ chức điều hành cho đội ngũ
tổ trưởng những người chủ trì các buổi SHCM vì thực tế cho ta thấy buổi sinh
hoạt chuyên môn thành công phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và chuyên môn
của người chủ trì.
Giải pháp thứ ba là: Cần sắp xếp và bố trí thời gian SHCM hợp lý, khơng
nhất thiết là cả một buổi. Nội dung sinh hoạt chuyên môn cần thật cụ thể, sát
thực, liên quan trực tiếp đến mỗi bài học, tiết học mà giáo viên giảng dạy hàng
ngày tránh chung chung ở tầm vĩ mô.
Giải pháp thứ tư là : BGH cần quản lý chặt chẽ nội dung các buổi SHCM
có sự hướng dẫn và định hướng nội dung SHCM theo tình hình thực tế của nhà
trường hay từng khối lớp theo đổi mới sinh hoạt chuyên môn.
Giải pháp thứ năm là: Cần xây dựng một nề nếp sinh hoạt chuyên môn,
hàng năm nên tổ chức và định hướng nội dung SHCM tốt vì thực tế cho ta thấy
những trường nào có phong trào chun mơn mạnh mẽ thì trường đó có sinh
hoạt chun mơn đạt hiệu quả.
Giải pháp thứ sáu là: Nâng cao chất lượng chuyên môn là việc mà nhà
trường luôn quan tâm hàng đầu: Để thực hiện được mục tiêu đề ra trong kế
hoạch nhà trường, Ban Giám hiệu phải chủ động vào cuộc cùng với các tổ


- 12 trưởng chuyên môn thảo luận và xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn chi tiết cho từng tuần, từng tháng.
2.3.2 Chỉ đạo tổ trưởng xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn
Kế hoạch tổ chuyên môn được xây dựng trên cơ sở cụ thể hóa kế hoạch
năm học, kế hoạch chuyên môn, kế hoạch bồi dưỡng của nhà trường. Khi xây
dựng cần căn cứ vào điều kiện thực tiễn của nhà trường, tình hình đội ngũ giáo
viên, điều kiện về cơ sở vật chất và thực tiễn học sinh trong tổ. Trong kế hoạch
tổ chun mơn thì nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn là một phần quan trọng.
Nội dung này phải thể hiện được những công việc cần làm cho cả năm học và bổ

sung những vấn đề nhà trường chỉ đạo hoặc nảy sinh như tăng cường biện pháp
bồi dưỡng học sinh năng khiếu và phụ đạo học sinh chưa hoàn thành chuẩn kiến
thức và kĩ năng môn học sau mỗi lần kiểm tra định kỳ; dạy học theo nhóm đối
tượng học sinh; những vấn đề giáo viên chưa nắm vững hoặc gặp khó khăn
trong quá trình giảng dạy, đặc biệt quan tâm đến những giáo viên mới ra trường
hoặc giáo viên có năng lực chun mơn cịn hạn chế.
Năm học này tơi chỉ đạo tập trung vào vấn đề “ dạy học theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng; Đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh và ra đề kiểm tra đánh giá ”.
Tôi chỉ đạo tổ trưởng nghiên cứu về giáo viên của tổ, những giáo viên năm trước
ở tổ và giáo viên năm nay mới bổ sung, đặc điểm của mỗi giáo viên đó, nghiên
cứu hồ sơ năm trước tổ đã làm được những chuyên đề gì? chuyên đề nào đã áp
dụng thành cơng? chun đề nào cần tiếp tục bổ sung hồn chỉnh ? Cần tổ chức
mới những chuyên đề nào ?…
2.3.3 Bồi dưỡng cho tổ trưởng
Tổ trưởng chuyên môn là những người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng
lực chuyên mơn, có sức khỏe tốt, được Hiệu trưởng tin tưởng, giáo viên tin cậy
nhưng lại chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý như Hiệu trưởng hay Phó
hiệu trưởng. Vì vậy, tôi quan tâm đến bồi dưỡng năng lực tổ chức, chỉ đạo
chun mơn trong tổ. Đó là các kiến thức, kĩ năng xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch tổ theo năm học, tháng, tuần; bồi dưỡng về nghiệp vụ kiểm tra nội
bộ, kiểm tra hồ sơ sổ sách, việc thực hiện chương trình, thời khóa biểu của các


- 13 thành viên trong tổ; kiểm tra hiệu quả giáo dục của các thành viên trong tổ; tham
gia kiểm tra toàn diện giáo viên theo sự điều động của Hiệu trưởng nhà trường.
Bồi dưỡng cho tổ trưởng kĩ năng đánh giá giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp
giáo viên Tiểu học.
Bồi dưỡng những kĩ năng tổ chức, sắp xếp nội dung sinh hoạt tổ chuyên
môn cho cả năm học, cho từng buổi cụ thể. Bồi dưỡng năng lực tổ chức, điều
hành một buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ chức một chuyên đề, một cuộc thi trong

tổ, một số kĩ năng ra đề kiểm tra cho học sinh trong các đợt kiểm tra định kỳ,
phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong tổ đúng người, đúng việc; kiểm
tra, đôn đốc để điều chỉnh và giúp đỡ giáo viên một cách kịp thời.
Biện pháp bồi dưỡng là: Yêu cầu Phó hiệu trưởng và tổ trưởng nắm vững
các văn bản chỉ đạo, nắm vững chương trình, chuẩn kiến thức kĩ năng cơ bản các
môn học của các lớp thuộc khối lớp trong tổ phụ trách. Những vấn đề nào chưa
hiểu thì tơi giải thích bổ sung trên nguyên tắc tự bồi dưỡng là chủ yếu.
2.3.4. Chỉ đạo, tư vấn cho tổ trưởng quy hoạch nội dung sinh hoạt
chuyên môn, thiết kế và thực thi một buổi sinh hoạt chuyên môn.
a. Nội dung, cấu trúc sinh hoạt chuyên môn
- Tập trung vào các vấn đề thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục, dạy
học theo chuẩn kiến thức kĩ năng môn học, đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực và rèn kĩ năng cho học sinh; đánh giá, nhận xét học
sinh, … Dự giờ, rút kinh nghiệm, tổ chức chuyên đề, sử dụng và làm đồ dùng
dạy học,… Học tập bồi dưỡng chun mơn bằng các hình thức đọc sách, báo,
tạp chí, xem băng bồi dưỡng giáo viên, khai thác thông tin trên mạng và học hỏi
kinh nghiệm của đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường. Nghiên cứu, học tập
các văn bản chỉ đạo, tìm hiểu tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của địa
phương để bổ trợ kiến thức cá nhân.
Dành quỹ thời gian giới thiệu các bài viết hay trên tạp chí chuyên ngành
cho giáo viên. Ưu tiên cho những vấn đề còn vướng mắc trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ của giáo viên. Chú trọng đến kĩ năng tổ chức giờ dạy, phối hợp


- 14 các hình thức và phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh tích cực hoạt động
trong giờ học.
Thực hiện theo văn bản hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt
chuyên môn đảm bảo 2 tuần/ 1 lần. Nội dung họp tổ chun mơn về hành chính
như: Sơ kết công tác 2 tuần qua, đề ra biện pháp khắc phục tồn đọng, ... chỉ được
chiếm không quá 1/2 thời gian sinh hoạt tổ. Thời gian còn lại, tổ chuyên môn

cần trao đổi, thảo luận về kinh nghiệm chủ nhiệm lớp, kinh nghiệm trong cơng
tác vận động và duy trì sĩ số học sinh, phương pháp dạy học tích cực, xem xét
việc thực hiện chương trình, thống nhất từng tiết dạy của tuần tiếp theo về nội
dung, phương pháp, đồ dùng dạy học, thống nhất kiến thức trọng tâm của từng
chương, phần, chuẩn bị cho kiểm tra sắp tới (nếu có). Cơng tác bồi dưỡng học
sinh năng khiếu, phụ đạo học sinh chưa hoàn thành chuẩn kiến thức kĩ năng môn
học,…
Tổ trưởng chủ động thiết kế nội dung, gởi Ban giám hiệu duyệt trước 3
ngày khi họp. Khi đó, tơi tư vấn cho tổ trưởng về nội dung để đảm bảo theo kế
hoạch của nhà trường. Coi trọng sự chủ động, sáng tạo của tổ trưởng và giáo
viên trong tổ chứ khơng áp đặt phải sinh hoạt nội dung gì.
b. Một số mơ hình sinh hoạt tổ chun mơn
- Thảo luận tìm biện pháp có hiệu quả phụ đạo học sinh chưa hoàn thành
kiến thức kĩ năng cơ bản của mơn học; Thiết kế phiếu học tập, cách hình thành
động cơ học tập cho học sinh.
- Dự giờ 1 tiết dạy, rút kinh nghiệm một cách tỉ mỉ từ phương pháp dạy
học đến điều kiện trang thiết bị dạy học, tình hình thực tế của học sinh trong tổ.
Thời gian còn lại giáo viên trao đổi những vấn đề liên quan nội dung họp.
- Nghiên cứu, xây dựng những tiết dạy khó cho 2 tuần kế tiếp.
- Đánh giá mức độ nắm kiến thức kĩ năng sau mỗi kì kiểm tra định kỳ. Tôi
chỉ đạo tổ và giáo viên thống kê từng kiến thức kĩ năng một ở mức độ học sinh
đạt được, từ đó bàn biện pháp tăng cường phụ đạo, giúp đỡ để học sinh tiến bộ.
- Tổ chức chuyên đề: Chuyên đề là vấn đề chuyên môn được nghiên cứu
sâu cả về lí luận và thực tiễn, được xem xét toàn diện và thực hiện trong một


- 15 thời gian tương đối dài, các biện pháp đưa ra phải được kiểm chứng trước khi
báo cáo và áp dụng. Chuyên đề thường xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác
như dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng, bồi dưỡng học sinh năng khiếu, phụ
đạo học sinh cịn hạn chế kiến thức,… Chun đề phải có báo cáo bằng văn bản,

có thể dạy minh họa tùy theo nội dung. Các chuyên đề dự định làm trong năm
học phải được xây dựng, dự kiến từ đầu năm học, phân công người thực hiện.
Báo cáo chuyên đề phải được photo gởi đến các thành viên tham gia trước 3-5
ngày để nghiên cứu trước.
* Cách tiến hành buổi sinh hoạt chuyên đề:
+ Tổ trưởng tập trung các thành viên tham dự, nêu mục đích, nội dung
buổi sinh hoạt.
+ Báo cáo viên trình bày nội dung chuyên đề bằng văn bản.
+ Dự giờ dạy minh họa.
+ Rút kinh nghiệm cho báo cáo và giờ dạy minh họa. Thống nhất những
nội dung áp dụng vào công tác giảng dạy.
Tổ chức các cuộc thi: Các cuộc thi cũng là một hình thức sinh hoạt
chun mơn rất có tác dụng. Tơi chỉ đạo các tổ chuyên môn thi đọc hay, viết
đẹp, thi viết bảng, thi soạn kế hoạch bài học,.. để có thêm nhiều kinh nghiệm.
2.3.5 Tham gia sinh hoạt cùng tổ chuyên môn và đánh giá sinh hoạt tổ
chuyên môn từng tháng, từng kỳ:
Mỗi tháng, Ban giám hiệu tham gia sinh hoạt cùng tổ chuyên môn một
lần. Khi tham gia sinh hoạt, tơi đóng vai trị là thành viên chứ khơng phải cán bộ
quản lý đến giám sát để tạo khơng khí bình đẳng, dân chủ, thân thiện trong buổi
sinh hoạt, khơng áp đặt ý kiến của mình, khơng đánh giá ý kiến của người khác,
lắng nghe ý kiến của mọi thành viên với thái độ trân trọng. Tôi cũng nhận một
phần việc như chuẩn bị tài liệu, báo cáo, phân tích hoặc làm rõ một số điểm mới
với những văn bản chỉ đạo hoặc những thuật ngữ khó hiểu, hỗ trợ giáo viên khi
cần thiết. Trong quá trình dự sinh hoạt, tơi ghi chép các nội dung chính hoặc
những vấn đề mà giáo viên còn vướng mắc.


- 16 Từ những thông tin thu thập được sau mỗi lần dự sinh hoạt cùng các tổ,
tôi chỉ đạo cho Phó hiệu trưởng, góp ý cho tổ trưởng cần bổ sung những nội
dung nào giáo viên còn yếu, phát huy thế mạnh, năng lực sở trường của giáo

viên nào để có thể nghiên cứu sâu hơn.
Trong các cuộc họp chun mơn hàng tháng, tơi cùng Phó hiệu trưởng
đánh giá hoạt động của các tổ chuyên môn. Đánh giá những việc đã làm được
và những việc chưa làm được, đánh giá thi đua giữa các tổ. Qua đó, đề nghị
khen đối với những cá nhân có nhiều đóng góp trong sinh hoạt tổ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến được Ban giám hiệu, đặc biệt là tổ chuyên mơn nhất trí đưa vào
áp dụng trong nhà trường và có kết quả trong thực tiễn như sau:
- Thứ nhất với học sinh, học sinh trở thành trung tâm của quá trình dạy
học theo định hướng phát triển năng lực, được giáo viên quan tâm các em tự tin,
tích cực tham gia các hoạt động học. Với phương châm không bỏ sót học sinh,
những học sinh có khó khăn trong việc học được kịp thời giúp đỡ, kết quả học
tập được cải thiện.
- Thứ hai với giáo viên, đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm
trung tâm đã tạo cơ hội cho tất cả giáo viên chủ động tìm ra biện pháp để nâng
cao chất lượng dạy và học; có cơ hội nhìn lại q trình dạy để kịp thời điều
chỉnh; quan tâm đến học sinh nhiều hơn.
- Thứ ba, sinh hoạt chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm thay đổi cả
người dạy và người học, tạo ra một cộng đồng học tập, học hỏi lẫn nhau, khi
giáo viên dạy thì chưa chắc học sinh học nhưng khi giáo viên học thì chắc chắn
học sinh được học.
- Thứ tư, sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm đã huy động
được tất cả giáo viên trong nhóm chun mơn tham gia. Hiệu quả này có tác
dụng gắn kết giáo viên. Động lực quan trọng để giúp nhà trường phát triển chính
là mối quan hệ, sự tương tác, giúp đỡ lẫn nhau trong khối đoàn kết và sự nỗ lực
vươn lên của mỗi cá nhân.


- 17 Lấy chất lượng chuyên môn của giáo viên cuối năm học 2019-2020, kết
quả phản ánh như sau:

Tổng

Xếp loại giờ dạy

Xếp loại Hồ sơ giáo

nề nếp chuyên

án

số GV

15

Xếp loại thực hiện

G

K

TB

Y

G

K

TB


Y

G

mơn
K TB

13

0

0

0

13

0

0

0

14

1

0

Xếp loại chung


Y

G

K

TB

Y

0

14

1

`0

0

Những kết quả trên đây cịn phải tiếp tục kiểm nghiệm trong quá trình vận
dụng nhưng những tín hiệu đáng mừng qua thực tiễn đã khẳng định: việc đổi
mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm đã như luồng gió mới
thổi vào các buối sinh hoạt tổ nhóm chun mơn trong nhà trường và đem lại
những tác động tích cực đến kết quả học tập của học sinh. Chính điều đó sẽ góp
phần khơng nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục theo tinh thần đổi mới.
3. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
- Đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm phải được
thực hiện theo kế hoạch, bắt đầu từ kế hoạch dự giờ giáo viên, sau dự giờ nhất

thiết phải thảo luận, trao đổi, rút kinh nghiệm.
- Khi tổ chức dự giờ, giáo viên cần luyện tập cách quan sát và suy nghĩ về
việc học của học sinh trong giờ học, luyện khả năng phán đốn nhanh nhạy,
chính xác để điều chỉnh việc dạy phù hợp với các đối tượng kịp thời.
- Sau các tiết dạy có dự giờ cần tổ chức thảo luận, tập trung phân tích các
hoạt động học của học sinh, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh, hỗ trợ phù
hợp.
- Tăng cường, vận dụng, thử nghiệm những ý tưởng sáng tạo, lấy học sinh
làm trung tâm, đi sâu nghiên cứu, phân tích các phương án dạy học đáp ứng tối
thiểu nhiệm vụ học tập của học sinh.
- Giáo viên trong tổ nhóm chun mơn cần hình thành thói quen lắng
nghe lẫn nhau; rèn luyện cách chia sẻ ý kiến hình thành quan hệ đồng nghiệp
thân thiện, cộng tác và học tập, giúp đỡ lẫn nhau.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


- 18 4.1. Kết luận
Bản chất của đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm
là từ chỗ chủ yếu quan sát giáo viên chuyển sang quan sát học sinh là trọng tâm,
từ chỗ chỉ tập trung đánh giá trình độ, cách dạy của giáo viên sang suy ngẫm về
việc học của học sinh, cùng suy đoán các nguyên nhân và đưa ra những cách
giải quyết khắc phục. Cách làm này góp phần phát triển năng lực người học,
giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức, tự tin vào bản thân, thúc đẩy các em
có động lực học tập, vượt qua được “vùng kiến thức trống” của mình bằng cách
mạnh dạn hỏi thầy cơ, bạn bè hay học tập theo nhóm do được giáo viên quan
tâm, khích lệ. Cách làm này cũng tạo ra cơ hội giúp giáo viên hiểu rõ hơn về
cách các em học sinh học, về tác dụng của phương pháp dạy học đến việc học
tập của học sinh đồng thời cũng hướng đến phát triển năng lực chuyên môn của
giáo viên thơng qua sự tương tác có hệ thống với các giáo viên khác. Sinh hoạt
chun mơn là hợp lại trí tuệ tập thể để tìm ra cách nào tốt hơn cho việc dạy và

học. Không hướng tới kết quả học tập của học sinh, sinh hoạt chuyên môn trong
nhà trường coi như vô nghĩa. Bởi bất cứ học sinh nào khi đến trường đều có
mong mỏi được học, nhiệm vụ của giáo viên đáp ứng mong mỏi đó.
4.2. Kiến nghị
- Bổ sung tiêu chí đánh giá giờ dạy của giáo viên như: đánh giá năng lực
quan sát, khả năng điều chỉnh kịp thời hành vi học của học sinh.
- Đối với các cấp quản lí giáo dục: cần tăng cường việc kiểm tra hiệu hoạt
động của tổ chuyên môn trong đó có nội dung sinh hoạt tổ chun mơn, kiểm tra
đánh giá về kế hoạch, quá trình tổ chức, các biện pháp chỉ đạo đến kết quả thể
hiện ở chất lượng học sinh. Khi cán bộ quản lý quan tâm đến vấn đề của người
học thì dần giáo viên cũng sẽ quan tâm.
- Điều kiện cơ sở vật chất của các trường học hiện nay tuy đã được cải
thiện đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học, còn thiếu phương tiện, thiết bị. Diện tích lớp học cịn hẹp, sĩ số trung bình
cao sẽ tạo khó khăn cho hoạt động quan sát, quan tâm học sinh của giáo viên khi
lên lớp. Cấp quản lý giáo dục nên có giải pháp tháo gỡ những khó khăn, bất cập


- 19 này. Đổi mới là quá trình lâu dài và học tập là việc suốt đời, làm thầy càng phải
học. Quan trọng là chúng ta phải thay đổi lối mòn tư duy trước đây từ cách nghĩ,
cách làm, đến cách đánh giờ giờ học. Thay đổi không phải do chỉ thị từ Bộ, từ
Sở mình phải thực hiện mà phải do chính mong muốn của mình mới có cách làm
hiệu quả. Triết lí dạy học mới “Khơng bỏ rơi học sinh, tạo cơ hội tối đa để trò
được nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn” sẽ được thực thi khi chúng ta sinh hoạt tổ
chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm.
Thanh Hóa, ngày 12 tháng 04 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của


ĐƠN VỊ

mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Đình Sâm

Nguyễn Hữu Hùng



×