Tải bản đầy đủ (.pdf) (355 trang)

Chức năng của gia đình trong việc giáo dục con cái sức khỏe sinh sản của trẻ vị thành niên (điển cứu quận thủ đức, thành phố hồ chí minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.68 MB, 355 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------

CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON CÁI SỨC
KHỎE SINH SẢN CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
(Điển cứu quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh)

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------

CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON CÁI SỨC
KHỎE SINH SẢN CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
(Điển cứu quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh)

Nhóm tác giả:
1.
2.
3.
4.

Phạm Thị Tú Anh – Chủ nhiệm
Nguyễn Thị Phương Thùy (CH 2008) – Thành viên
Phạm Hồng Phước (CH 2010) – Thành viên
Nguyễn Trí Thơng (CH 2009) – Thành viên

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010




MỤC LỤC
DẪN NHẬP ........................................................................................................... 1
NỘI DUNG............................................................................................................ 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN .......................... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong và ngồi nước thuộc lĩnh vực
của đề tài: .......................................................................................................... 9
1.2. Các cách tiếp cận nghiên cứu trong đề tài............................................22
1.3. Các lý thuyết áp dụng................................................................................24
1.4. Các khái niệm được sử dụng trong đề tài.................................................28
1.5. Khung phân tích:.......................................................................................45
1.6. Giả thuyết nghiên cứu:..............................................................................45
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC SKSS CHO VỊ THÀNH NIÊN CỦA
GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÙNG VEN ĐÔ ..........................................................47
2.1. Vài nét về mẫu nghiên cứu........................................................................47
2.2. Nhận thức, thái độ và hành vi của gia đình hạt nhân trong việc giáo
dục SKSS cho vị thành niên: ...........................................................................48
2.3. Phương pháp và nội dung giáo dục SKSS trong gia đình hạt nhân:.......53
2.4. Các yếu tố tác động để gia đình đóng vai trị quan trọng trong việc
giáo dục sức khỏe sinh sản cho vị thành niên..................................................75
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................83
PHỤ LỤC.............................................................................................................87


DẪN NHẬP

1.


Đặt vấn đề :

Giáo dục giới tính (GDGT) là việc làm có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống
hiện nay. Bởi lẽ trong tình hình Việt Nam đang tham gia hội nhập thế giới, bên cạnh
những nét văn minh, tích cực chúng ta cần tiếp thu, thì mặt trái của nó là những văn
hố ngoại lai khơng phù hợp với chuẩn mực văn hóa, lối sống của chúng ta đang
xâm nhập vào giới trẻ một cách ồ ạt. Điều này đã dẫn tới một bộ phận thanh, thiếu
niên hiện nay có sống bng thả, sống thực dụng. Hậu quả của việc sống bng thả
đó là sự gia tăng tình trạng mang thai sớm, tình trạng nạo phá thai của các nữ thanh
niên. Các tai biến do thai sản, lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục trong đó có cả
HIV – AIDS gia tăng.
Theo thống kê mỗi năm trên thế giới có khoảng 15 triệu trẻ em do các cô gái
tuổi vị thành niên sinh ra, chiếm khoảng 11% tổng số sinh. Mỗi năm có khoảng 20
triệu trường hợp nạo phá thai khơng an tồn, 95% ở các nước đang phát triển trong
đó có Việt Nam. Theo thống kê của các ngành hữu quan ở Việt Nam (điều tra tổng
cộng trên 20 trường đại học với 2000 sinh vên nam nữ), có khoảng 50% sinh viên có
hành vi thân mật với người khác giới và trên 50% của phần trăm sinh viên trên đã có
quan hệ tình dục trước hôn nhân. Cũng theo số liệu báo cáo của Bộ Y tế tính đến
ngày 30/9/2010, cả nước có 180.312 người nhiễm HIV/AIDS đang cịn sống được
báo cáo, trong đó có 42.339 bệnh nhân AIDS và tổng số người chết do AIDS đã
được báo cáo là 48.368 người, nhóm tuổi từ 20-39 (chiếm 82%) trong đó có 14%
dưới 15 tuổi. ( nguồn số liệu BC số 887/BC-BYT ngày 29 tháng 10 năm 2010). Bên
cạnh đó, số liệu thống kê của Hội Kế hoạch hóa và Gia đình, mỗi năm nước ta có
khoảng 1,2 đến 1,6 triệu ca nạo phá thai (NPT), trong đó 20% ở lứa tuổi vị thành
niên. Riêng tại TP.HCM, nơi tập trung số lượng các bạn trẻ sinh sống và học tập
đông đảo nhất hiện nay cũng là nơi có số lượng cơng nhân và học sinh, sinh viên
NPT nhiều nhất cả nước. Tỉ lệ số ca nạo phá thai so với số ca sinh trong năm tại

1



TP.HCM là 103,4%. Nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây nhiễm qua
đường tình dục ở vị thành niên và thanh niên cũng đang ở mức báo động
Vấn đề an tồn tình dục và sức khoẻ sinh sản (SKSS) là bộ phận trung tâm
của tổng thể sức khoẻ con người trong cả cuộc đời. Nó tác động mạnh mẽ đến đời
sống vật chất và tinh thần, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của con người.
Tuổi vị thành niên (VTN) là lứa tuổi ln tự khẳng định mình, nhân cách chưa hồn
thiện, tâm lý bồng bột chưa chín chắn, nhưng mong muốn khám phá thế giới mãnh
liệt và khơng loại trừ khám phá tình dục. Trong đó các em lại ít có hiểu biết về giới
tính, tình dục, kinh nghiệm sống và đặc biệt là hành vi tự kiềm chế bản thân. Trước
tình hình thực tế như trên việc trang bị kiến thức về giới tính, sức khỏe sinh sản cho
các em trước khi bước vào tuổi dậy thì là việc làm có ý nghĩa thiết thực nhằm giúp
các em hiểu biết về tình dục và cách đề phịng những điều bất lợi có thể xảy ra.
Những thơng tin tốt được cung cấp cho vị thành niên và thanh niên giúp cho các em
có trách nhiệm trong quan hệ tình dục, tránh tác hại do quan hệ tình dục gây nên và
tránh quan hệ tình dục sớm.
Trong khi xã hội chúng ta có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau về vấn đề
giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản cho trẻ vị thành niên. Có những người cho
rằng: nếu đưa vấn đề giáo dục giới tính vào nhà trường là “vẽ đường cho hươu
chạy”. Vì thế họ cho rằng không cần phải giáo dục trong nhà trường mà tự để trẻ
phát triển tự nhiên, đến lúc nào đó tự trẻ sẽ hiểu được. Cũng có những quan điểm
cho rằng nhất thiết cần phải giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản cho thanh niên
hiện nay đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên nhằm nâng cao năng lực, giảm thiểu
những tác hại do thiếu hiểu biết gây ra. Nhưng cho tới nay nhà nước chưa đưa
chương trình giáo dục giới tính vào nhà trường giảng dạy một cách phổ biến và
chính thức vì những điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau. Trong điều kiện
đó thì giáo dục giới tính trong gia đình là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất,
nhằm nâng cao hiểu biết về sức khỏe sinh sản và đảm bảo cho thanh, thiếu niên một
cuộc sống tình dục an tồn và giảm thiểu những tác hại do thiếu hiểu biết gây ra.
Giáo dục giới tính đặc biệt là giáo dục sức khỏe sinh sản ngay trong từng gia đình

địi hỏi trước hết chính những bậc phụ huynh phải là những người nắm vững kiến
thức về giới tính một cách khoa học; biết được kỹ năng giáo dục và hơn cả là mối
2


quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ln ln được chan hịa cởi mở và chia
sẻ lẫn nhau. Chỉ như vậy q trình giáo dục giới tính cho con cái mới đạt hiệu quả
và kết quả là chính con em mình có thể kiếm sốt được hành vi tình dục, có trách
nhiệm trong quan hệ tình dục, hạn chế tối đa những rủi ro từ quan hệ tình dục gây
nên.
Chúng ta đã biết, gia đình là mơi trường xã hội hố đầu tiên của con người
trong đó bố mẹ là những ngưịi có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển
nhân cách của con cái. Cách cư xử giữa bố - mẹ là bài học sớm nhất đối với trẻ về
cách ứng xử giới giữa một người nam và một người nữ. Trẻ sẽ tiếp thu dần dần
những kiến thức giới từ chính gia đình mình. Từ đó dần theo năm tháng hình thành
những hành vi thái độ mang tính chất giới nam hay nữ được mọi người và xã hội
chấp nhận.
2.

Đối tượng nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng vai trị của gia đình hạt nhân trong việc giáo dục sức khoẻ sinh
sản cho trẻ vị thành niên.
3.

Khách thể nghiên cứu

Đề tài này tập trung nghiên cứu nhóm trẻ vị thành niên và phụ huynh tại những gia
đình hạt nhân trong q trình giáo dục giới tính đặc biệt là giáo dục sức khoẻ sinh
sản ở quận Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh.

4.

Phạm vi nghiên cứu

4.1. Về khơng gian:
Quận Thủ Đức, thành Phố Hồ Chí Minh.
4.2. Về thời gian:
Đề tài này được thực hiện trong thời gian từ tháng 04 năm 2009 đến tháng 07 năm
2010.

3


5.
5.1.

Mục tiêu nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu:

Tìm hiểu và phân tích vai trị của gia đình trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho
trẻ vị thành niên (trường hợp nghiên cứu: phụ huynh và trẻ VTN quận Thủ Đức,
thành Phố Hồ Chí Minh).
5.2.

Mục tiêu cụ thể:

- Tìm hiểu thực trạng vấn đề giáo dục SKSS cho con cái là trẻ vị thành niên trong
các gia đình hạt nhân vùng ven hiện nay.
- Phản ứng của trẻ vị thành niên đối với cách giáo dục SKSS hiện nay của cha mẹ.
- Vai trò của các dịch vụ xã hội trong việc góp phần giáo dục SKSS cho trẻ VTN.

6.
6.1.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin:
Phương pháp nghiên cứu chung của đề tài này là phương pháp qui nạp và diễn

dịch, trong đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa ba phương pháp khác nhau như mơ tả,
giải thích và so sánh đối chiếu. Đồng thời, phương pháp hệ thống được xem như là
phương pháp chủ đạo vì gia đình chính là một thành tố cấu thành nên một hệ thống
xã hội rộng lớn hơn, tức là xem xét gia đình như là một tiểu hệ thống có mối quan
hệ hỗ tương với các thành tố khác.
Với hai cách tiếp cận nghiên cứu: cách tiếp cận định chế và cách tiếp cận
nhóm, nhóm tác giả sử dụng đồng thời cả hai cách nghiên cứu định lượng và định
tính.
Với phương pháp nghiên cứu định lượng, nhóm tác giả sử dụng cơng cụ thu
thập thơng tin sẵn có và với phương pháp nghiên cứu định tính, nhóm tác giả đã sử
dụng công cụ thu thập thông tin bằng phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.
Thơng tin định lượng được nhóm tác giả sử dụng để mô tả bức tranh về thực
trạng giáo dục sức khoẻ sinh sản cho trẻ VTN ở thành phố Hồ Chí Minh. Những
thơng tin định tính được sử dụng để minh họa thêm những xu hướng được thể hiện
trong thông tin định lượng (dùng những câu trả lời phù hợp để minh họa), chúng

4


cũng có thể được sử dụng để khái quát hóa một số vấn đề phát hiện trong nghiên
cứu.
Ngoài ra việc thu thập thơng tin được tổ chức theo hình thức thông tin sơ cấp và
thông tin thứ cấp.

Thông tin thứ cấp:
Những thông tin thứ cấp là các bảng biểu thống kê, những báo cáo nghiên cứu,
bài báo của các tác giả khác đã xuất bản. Trong đề tài, nhóm tác giả sử dụng những
thông tin thống kê được xuất bản một cách chính thức của những nhà xuất bản trong
và ngồi nước. Một số thơng tin khai thác trên mạng điện tử được nhóm tác giả chọn
lọc cẩn thận vì hiểu được tính giới hạn của độ tin cậy của các nguồn thông tin này.
Những bài báo hàng ngày, được nhóm tác giả sử dụng như nguồn tài liệu tham khảo
khi tìm kiếm thơng tin, chúng khơng được coi như những minh chứng khoa học
(chưa có hội đồng chun mơn thẩm định). Những nguồn tư liệu về cơ sở lý luận
của đề tài được khai thác từ các tài liệu đã công bố bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh
như: sách, tạp chí mang tính chun khảo và các giáo trình về xã hội học, tâm lý học
xã hội…
Thông tin sơ cấp:
Nguồn thơng tin sơ cấp chính là các kết quả nghiên cứu thực nghiệm do chính nhóm
tác giả tổ chức nghiên cứu trong vịng 02 tháng.
6.2. Phương pháp chọn mẫu:
Nhóm tác giả chọn mẫu theo phương pháp chỉ tiêu:


Trẻ VTN đang đi học trong gia đình hạt nhân tại Thủ Đức, thành phố Hồ Chí

Minh.


Phụ huynh của những trẻ VTN trên.



Nhóm sinh viên năm nhất và năm hai


Qua hai nhóm khách thể này chúng tơi muốn tìm hiểu vai trị của gia đình trong việc
giáo dục sức khỏe sinh sản cho trẻ VTN (thông qua bảng hỏi dành cho phụ huynh
học sinh) cũng như trẻ nhận thức và đánh gia như thế nào về vai trò của cha mẹ

5


trong việc giáo dục SKSS cho trẻ VTN ( hỏi trẻ VTN). Điểm đáng chú ý hơn trong
cơng trình nghiên cứu này là những phụ huynh trong mẫu phỏng vấn chính là cha
mẹ của trẻ VTN nhằm làm rõ hơn nhận thức về vai trò giáo dục SKSS giữa cha mẹ
và con cái. Bên cạnh đó, nhóm sinh viên sẽ cho chúng tơi những câu trả lời về vai
trị của gia đình trong việc giáo dục SKSS sau khi các em đã tham gia vào môi
trường xã hội nhiều hơn mơi trường gia đình và nhà trường.
6.3. Phương pháp xử lý thơng tin:


Thơng tin định lượng nhóm tác giả sử dụng phần mềm SPSS: thống kê và xử lý

tương quan.


Thông tin định tính: nhóm tác giả gỡ băng và ghi chép lại tồn bộ nội dung

cuộc phỏng vấn, sau đó mã hóa và thống kê theo từng vấn đề phục vụ mục tiêu, nội
dung nghiên cứu.
6.4. Địa bàn nghiên cứu:
Quận Thủ Đức là một quận cửa ngõ phía Đơng Bắc Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1997, Huyện Thủ Đức cũ được chia ra thành 3 quận mới là Quận 9, Quận 2 và
Quận Thủ Đức. Hiện nay, quận Thủ Đức có 12 phường gồm: phường Hiệp Bình
Chánh, phường Hiệp Bình Phước, phường Tam Phú, phường Tam Bình, phường

Linh Chiểu, phường Linh Đông, phường Linh Tây, phường Linh Xuân, phường
Linh Trung, phường Bình Thọ (trung tâm quận Thủ Đức), phường Bình Chiểu,
phường Trường Thọ.
Trên địa bàn quận Thủ Đức có ga Bình Triệu, làng đại học Thủ Đức, làng thiếu
niên Thủ Đức, khu chế xuất Linh Trung 1 và 2, Đại học quốc gia và rất nhiều cảng
sông và cảng đường bộ…Một phần phía Tây Nam của quận Thủ Đức được bao bọc
bởi sơng Sài Gịn. Diện tích tồn quận là 47,46 km2, dân số năm 2006 là hơn
250.000 người. Trên địa bàn quận có các tuyến đường chính như quốc lộ 1A, xa lộ
Hà Nội, quốc lộ 13, quốc lộ 1K, đường Võ Văn Ngân, Kha Vạn Cân, Đặng Văn Bi,
Tỉnh lộ 43, đường Linh Đơng, Ngơ Chí Quốc, Lê Thị Hoa, Hoàng Diệu 2… Các

6


tuyến đường đang triển khai như đường Tân Sơn Nhất – Bình Lợi, Bình Thái – Gị
Dưa, tuyến ống nước D2000 xa lộ Hà Nội.1

Bản đồ hành chính quận Thủ Đức2

1
2

Từ điển Wikipedia mở.
Từ điển Wikipedia mở.

7


Về tình hình dân số của Quận năm theo số liệu năm 2009


Đơn vị tính

Số liệu năm 2009

1. Diện tích

Km2

47,76

2. Dân số trung bình

Người

411.945

- Nam

Người

197.822

- Nữ

Người

214.123

3. Mật độ dân số


Người/km 2

8.625

(Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM, năm 2009)

8


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN

Trong chương này, trước hết nhóm tác giả sẽ trình bày tổng quan tình hình
nghiên cứu, sau nữa sẽ giới thiệu các lý thuyết cơ bản như là cơ sở lý luận của cuộc
nghiên cứu, những khái niệm then chốt của đề tài và phương pháp nghiên cứu được
áp dụng trong khi thực hiện đề tài.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực của
đề tài:
Nhóm tác giả xác định rằng, trước khi bắt tay vào nghiên cứu một vấn đề nào
đó, cần phải hiểu rõ những nội dung nào đã được nghiên cứu, những khía cạnh nào
đã làm được và những điểm hạn chế, những phương pháp mà các tác giả đi trước đã
áp dụng để có thể tránh lặp lại những kết quả hiển nhiên, hoặc vướng phải những
khuyết điểm của những cơng trình trước đó. Nhóm tác giả đã tìm hiểu nhiều tài liệu
nghiên cứu và phân tích, khái quát từ những nguồn tư liệu đó.
Phần này nhóm tác giả sẽ trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về những
vấn đề liên quan đến đề tài này là tổng quan tình hình nghiên cứu về chức năng giáo
dục của gia đình đặc biệt là giáo dục SKSS cho trẻ VTN.
1.1.1. Những nghiên cứu về chức năng giáo dục sức khỏe sinh sản của gia đình
1.1.1.1. Trên thế giới

Trên thế giới đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về gia đình đặc biệt là sự biến
đổi gia đình. Trong thời gian đầu (khoảng nửa sau thế kỷ XIX), những nghiên cứu
về gia đình thường tập trung vào những cuộc tranh luận về định nghĩa và các loại
hình gia đình, nguồn gốc của gia đình. Sang đầu thế kỷ XX, những tác giả quan tâm
tới chủ đề gia đình đã tập trung nghiên cứu những vấn đề đang diễn ra trong đời
sống gia đình của thế giới hiện thực.

9


Chăm sóc sức khỏe là một vấn đề mang tính toàn cầu thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và hoạch định chính sách thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau. Giáo dục giới tính và chăm sóc sức khỏe sinh sản là một vấn đề
được nhiều nước ở phương Tây đặt sự quan tâm từ rất sớm. Các cơng trình nghiên
cứu thường đề cập đến sự biến đổi hành vi giới tính và vấn đề giáo dục giới tính.
Những kết quả trên thế giới trong những thập kỷ qua cho thấy độ tuổi quan hệ tình
dục lần đầu đã có những thay đổi đáng kể tuỳ theo những đặc điểm về mặt văn hóa,
chuẩn mực xã hội.
Ở Braxin, lứa tuổi 20, 21 có tỉ lệ quan hệ tình dục rất cao (91% ở nam và 46% ở
nữ).
Ở Australia, một cuộc khảo sát cho thấy ở độ tuổi 20, có 58% (nam) và 48% (nữ) đã
có quan hệ tình dục.
Ở Mỹ một nghiên cứu năm 1979 cho thấy 77% (nam) và 69% (nữ) đã có qua hệ tình
dục ở tuổi 19.
Ở Gambia, trong một cuộc nghiên cứu trên 2507 trường hợp trong độ tuổi 14 – 24
cho thấy 28% (nữ) và 73% (nam) độc thân đã có quan hệ tình dục, trong số đó có
tới 33% (nam) và 20% (nữ) có quan hệ tình dục lần đầu tiên vào tuổi 14 hoặc nhỏ
hơn.
Ở khu vực châu Á, thanh thiếu niên có xu hướng qua hệ tình dục muộn hơn. Ở Nhật
chỉ có 15% (nam) và 7% (nữ) trong độ tuổi 16 – 21 có qua hệ tình dục. Ở Thái Lan

chỉ có 15% nữ 19 tuổi chưa lập gia đình có qua hệ tình dục 3.
Ở Thụy Điển, 1921 đã có những cuộc nghiên cứu xung quanh vấn đề giáo
dục giới tính. Năm 1933 tại Thụy Điển đã thành lập “Hiệp hội quốc gia tình dục”
với mục đích là phổ biến thơng tin kiến thức về giới tính nói chung và tình dục nói
riêng. Phong trào này ngày càng được nhân rộng với những khẩu hiệu xung quanh
vấn đề bình đẳng nam nữ, giải phóng hôn nhân khỏi quyền lực nhà thờ, tự do ly
hôn, sử dụng các biện pháp an toàn khi quan hệ tình dục.
3

Trần Anh Tuấn. Dẫn lại: Nghiên cứu sự trưởng thành tính dục, kiến thức và thái độ
về sức khỏe sinh sản ở học sinh phổ thông cơ sở tại TP HCM. Luận văn thạc sĩ Y học.
1999.
10


Tiếp sau Thụy Điển là các nước Đông Âu như : Đức, Ba Lan, Hungari, Tiệp, và các
nước Tây Âu khác. Sự thay đổi về mặt quan niệm coi hoạt động tình dục là một lĩnh
vực hoạt động lành mạnh, cần phải có những kiến thức hiểu biết về những quy luật
của tình dục.
Như vậy, một điều chúng ta có thể nhận thấy rằng thông qua sự thay đổi
nhận thức và hành vi ứng xử về tình dục, vấn đề chăm sức khỏe nói chung và chăm
sóc sức khỏe sinh sản nói riêng đã nhận được sự quan tâm ủng hộ mạnh mẽ trong
những năm đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, những nghiên cứu kể trên cũng mới chỉ dừng
lại trong khn khổ của vấn đề tình dục, giáo dục giới tính nói chung và sự phát
triển ấy mới chỉ dừng lại trong phạm vi ở một số nước Châu Âu và Châu Mỹ. Ở
Châu Á, việc phổ biến, tuyên truyền giáo dục về sức khỏe sinh sản và giới tính vẫn
cịn bị xem là những điều “tế nhị, cấm kỵ” ít được nhắc tới.
Bắt đầu từ năm 1968, vấn đề giáo dục giới tính và sức khỏe tình dục đã được
khẳng định và trở thành một trong những nội dung trọng tâm của Liên hợp quốc về
chăm sóc giáo dục nâng cao chất lượng dân số toàn cầu. Năm 1973, Hội nghị Quốc

tế về giáo dục tình dục trong cộng đồng các nước nói tiếng Pháp được tổ chức. Năm
1974, hội nghị quốc tế về tình dục ở Giơnevơ đã thảo luận đến sự cần thiết phải đưa
“vấn đề tình dục” vào chương trình giảng dạy ở các ngành giáo dục, y tế. Năm
1977, hội thảo quốc tế về kế hoạch hóa gia đình, giáo dục tình dục, hơn nhân và gia
đình được tổ chức ở Vacsava (Ba Lan). Hội nghị Quốc tế ở Mêxicơ (1984) về kế
hoạch hóa gia đình và giáo dục giới tính. Cho đến những năm giữa thập niên 1980,
Unesco đã đánh một dấu ấn quan trọng khi đã khẳng định tầm quan trọng của giáo
dục đời sống gia đình và giáo dục giới tính trong quá trình giáo dục con người.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước


Chức năng của gia đình và các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức

năng trong gia đình
 Chức năng của gia đình
Ở Việt Nam, vấn đề này ngày càng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
ngành, nhiều giới. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, chúng chủ yếu

11


tập trung vào các nội dung chính như sau:
1. Những biến đổi của các truyền thống và tập tục gia đình được xem xét trong bốn
quan hệ: trong tạo lập gia đình, tổ chức đời sống gia đình, các quan hệ gia đình - họ
mạc - làng xóm và đặt biệt là trong các quan hệ giáo dục văn hóa trong gia đình.
Nhận thức về sự phát triển được người Việt Nam diễn đạt mộc mạc nhưng đầy tính
bản chất trong câu ca dao: “con hơn cha là nhà có phúc”. Có lẽ đây là cái nguồn cội
của truyền thống coi trọng việc giáo dục con cái. Nhưng là hơn cha chứ không phải
“hơn mẹ”. Sự ảnh hưởng của tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ có lẽ đã tham
gia vào sự hình thành nên truyền thống về vai trị chính của người cha trong gia

đình. Sự ưu tiên giáo dục học vấn đối với con trai và vai trò riêng của người mẹ
trong việc rèn dạy con gái cũng là những nét truyền thống trong giáo dục gia đình từ
xa xưa. (Cuộc nghiên cứu xã hội học về gia đình và họ tộc ở đồng bằng Bắc Bộ, ven
biển Trung Bộ và 1200 mẫu ở đồng bằng Sông Cửu Long được tiến hành đầu năm
1990, tạp chí XHH số 3 (31), 1990, trang 15)
2. Những tác động của chuyển đổi kinh tế trong thời kì đổi mới đến mọi mặt của đời
sống gia đình, trên các phương diện loại hình, cơ cấu, chức năng cũng như sự biến
đổi của các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở tương quan giới. Đặt biệt là việc
xem xét chức năng giáo dục – xã hội hóa bên cạnh chức năng kinh tế và chức năng
sinh đẻ và chăm sóc gia đình như là một trong ba chức năng cơ bản nhất của gia
đình Việt Nam. (Dự án “Điều tra cơ bản về gia đình Việt Nam và vai trị của người
phụ nữ trong gia đình thời kì cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” do TT
KHXH & NV quốc gia là cơ quan chủ quản, TT NCKH về gia đình và phụ nữ là cơ
quan chủ trì, tiến sĩ Đỗ Thị Bình làm chủ nhiệm).
3. Vai trị của gia đình trong việc thực hiện chức năng xã hội hóa đối với các thành
viên gia đình nói chung và giáo dục sức khỏe sinh sản cho vị thành niên nói riêng,
so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa gia đình truyền thống và gia đình hiện đại
khi thực hiện chức năng này (Lê Ngọc Lân, Lê Ngọc Văn, Lê Như Hoa).
4. Vai trị của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt
Nam, trong đó tập trung đi sâu tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo, thời
đại và các môi trường giáo dục khác đến giáo dục gia đình.
12


Ở khía cạnh hội thảo thì có Hội Khoa học tâm lý giáo dục phối hợp với Ủy ban dân
số - gia đình và trẻ em tại TP.HCM đã tổ chức một hội thảo khoa học mang tên
“Gia đình và sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay”. Hội
thảo đã trình bày và thảo luận 33 báo cáo khoa học của các tác giả nổi tiếng là
những giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ và các chuyên gia trong các lĩnh vực tâm lý
giáo dục, giáo dục gia đình và những nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực chăm

sóc và bảo vệ trẻ em… Các báo cáo khoa học này đã tập trung theo ba chuyên đề cụ
thể là: Gia đình - nền tảng hình thành nhân cách con trẻ, gia đình và giáo dục giá trị
truyền thống, những lệch lạc trong giáo dục gia đình và những thách thức giúp các
em vượt qua hiểm nghèo. Những báo cáo trong hội thảo này bước đầu cũng đã phản
ánh được những vấn đề mà giáo dục gia đình đang quan tâm.
Về phương pháp nghiên cứu:
Trong các cơng trình nghiên cứu của mình, hầu hết các tác giả này đều sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng gồm các phương pháp phân tích số liệu thống
kê và phỏng vấn bảng hỏi (Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Lân, Lê Ngọc Văn, Lê Như Hoa).
Đồng thời có sự kết hợp một số phương pháp định tính như phỏng vấn và tọa đàm
nhóm (Lê Ngọc Lân).
Như vậy với những nguồn tài liệu mà nhóm tác giả tiếp cận được, có thể nói
rằng hiện nay, có khá nhiều sách báo đề cập đến vấn đề gia đình, nhưng hầu hết các
cơng trình nghiên cứu và các đề tài chủ yếu là đi sâu vào nghiên cứu tâm tư, tình
cảm hoặc những thay đổi của cơ cấu gia đình trước những biến đổi mạnh mẽ của xã
hội, hay cũng có khá nhiều những đề tài nghiên cứu về vấn đề giáo dục con cái
trong gia đình nói chung. Cịn vấn đề chức năng giáo dục trẻ vị thành niên của gia
đình hạt nhân vùng ven đơ dưới tác động của q trình đơ thị hóa vẫn cịn là một
vấn đề mới, đó cũng chính là lý do nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài này.


Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng giáo dục trong gia đình

Nghiên cứu về ảnh hưởng của việc làm kinh tế gia đình đến vấn đề chăm sóc giáo
dục con, tác giả Nguyễn Thị Bích Điểm đưa ra nhận định: “ngồi những mặt tích
cực như làm kinh tế gia đình để tăng thêm mức thu nhập, cải thiện đời sống gia

13



đình, giải quyết việc làm cho người lao động, thơng qua làm kinh tế gia đình và
giáo dục cho con minh tinh thần lao động, lịng u lao động thì một số hộ gia đình
hiện nay lại có những ảnh hưởng khơng tốt cho cơng tác chăm sóc và giáo dục con
cái” [ Nguyễn Thị Bích Điểm, 1991. 30:130-131]. Làm kinh tế gia đình hiện nay
chiếm hết sự quan tâm, chú ý của các bậc cha mẹ làm ảnh hưởng đến sự chăm sóc,
giáo dục con cái. Bên cạnh đó, trẻ em tham gia lao động và sức lao động của các em
bị lạm dụng. Đặc biệt, đối với những gia đình bn bán, hàng ngày phải tiếp xúc
với chuyện tiền nong và khách hàng, con cái tham gia lấy hàng, giao hàng, bán phụ,
nhận tiền và khi chúng làm được việc thì thưởng tiền đã gây những ảnh hưởng
khơng tốt cho trẻ.
Hơn nhân và gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Minh Hịa, 1998:
Xã hội hóa là chức năng cơ bản nhất của gia đình nhưng trong bối cảnh khoa
học công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay thì chức năng đó dần được
chuyển giao phần lớn cho xã hội. Quá trình xã hội hóa cá nhân trong xã hội hiện đại
diễn ra dưới bốn tác nhân chính là: gia đình, nhóm bạn bè, nhà trường và thơng tin
đại chúng [ Nguyễn Minh Hịa, 1998, 11:145, 168). Tuy vậy, gia đình vẫn là tác
nhân xã hội hóa trẻ em quan trọng nhất và khơng có tác nhân nào có thể thay thế
được, vì gia đình là mơi trường sống đầu tiên giáo dưỡng sau khi trẻ lọt lòng. Sự
giảm sút chức năng giáo dục gia đình là do hiện tượng trẻ con bị bức khỏi gia đình
sớm. Trước đây, trẻ đến sáu tuổi mới bắt đầu đi học thì ngày nay do cha mẹ quá bân
rộn với làm kinh tế và nâng cao trình độ chun mơn nghề nghiệp để thích ứng với
nền kinh tế thì trường nên trẻ em hơn một tuổi là cha mẹ đã gởi vào các nhà trẻ và
sau đó là các trường mẫu giáo. Chức năng xã hội hóa của gia đình phải phó thác
một phần đáng kể cho thông tin đại chúng mà đối với lứa tuổi thiếu niên thì chủ
yếu là tivi, sách báo và truyện tranh các trị chơi trên mạng… điều đó đã làm cho
tính cách của trẻ phát triển không giống như thế hệ trước.

14





Thực trạng chung và việc nhìn nhận của các bậc phụ huynh về giáo dục

sức khỏe sinh sản trẻ vị thành niên
Bài viết: Giáo dục giới tính: " lỗ hổng" từ gia đinh, Nguyễn Hồng ( Báo tuổi trẻ thủ
đô, 09/07/2009)
Trong mục nhìn nhận về trách nhiệm của các bậc cha mẹ, tác giả đã dẫn ra
một thực trạng là: Hà Nội là một trong những địa phương có tỉ lệ nạo phá thai cao
nhất cả nước. Tác giả đặt ra hàng loạt các câu hỏi: Lỗi này tại ai, tại xã hội hay tại
lối sống buông thả của các em? Có thể nói, nguyên nhân đẩy các em vào bi kịch này
thì nhiều nhưng vấn đề sâu xa chính là những bất cập trong giáo dục của gia đình,
đặc biệt là những hạn chế trong giáo dục giới tính, tình dục". Dẫn chứng cho luận
điểm này, tác giả đưa ra kết quả khảo sát của dự án "Tạo sự gắn kết" do Trung tâm
Hỗ trợ phụ nữ phòng chống AIDS và chăm sóc sức khỏe sinh sản... thực hiện tại 3
địa phương Hà Nội, Hà Nam, Thái Nguyên. Kết quả này chỉ ra 6,2% các bà mẹ và
15% các em gái tại các câu lạc bộ ở Hà Nam có hiểu biết đầy đủ về chu kì kinh
nguyệt; ngay tại thành phố lớn như Hà Nội thì con số này cũng chỉ là 18,8% và
26,3% , tại Thái Nguyên là 9,3% - 12%. Thực trạng trên đã khiến xã hội không khỏi
lo ngại bởi sự hiểu biết các vấn đề có liên quan đến SKSS, bình đẳng giới... của các
bậc phụ huynh thấp đến mức báo động.
Trả lời cho con số đáng báo động trên, bài viết “ Vì sao cha mẹ khơng thích nói với
con cái về vấn đề giáo dục giới tính?”4
Tác giả đã chia sẻ một số suy nghĩ mà các bậc cha mẹ thường gặp phải khi
đề cập đến vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái. Đó là: Hoạt động tình
dục là một lĩnh vực “khó ăn, khó nói” trong các mối quan hệ. Nếu như chính bản
thân các người lớn còn ngại ngùng khi bàn thảo về những cảm xúc tình dục với
nhau, thì họ cũng khó có thể "nói chuyện " với con cái của mình về vấn đề trên.
Nhiều phụ huynh cũng nghi ngờ bản thân, vì họ khơng thể đưa ra câu trả lời
thích hợp cho những câu hỏi hóc búa, lắt léo. Sự khó khăn trong cách bắt đầu câu

chuyện với con về giới tính như: bắt đầu từ lứa tuổi nào, cung cấp bao nhiêu lượng

4

tờ Dân Trí, 07/10/2009

15


thơng tin thì đủ, và liệu cha mẹ nên “tiên phong” trước, hay "bị động” đợi chờ
những câu hỏi? Những mối quan ngại, rằng nói sớm quá có khác nào "vẽ đường cho
hươu chạy”, và quá nhiều thông tin "ly kỳ" sẽ kích thích sự tị mị và cướp đi tuổi
thơ hồn nhiên của các em.
Trong kết luận cuối cùng, tác giả đã khẳng định: Thật ra, nếu được giáo dục
giới tính tích cực, cái mà các em mất đi chính là sự ngu khờ, chứ khơng phải là sự
ngây thơ. . Những em được giáo dục giới tính đầy đủ sẽ hiểu đúng và sẽ biết cách
hành động đúng, loại trừ những điều không hay sẽ xảy đến cho mình.
Tìm hiểu sâu hơn về vai trị của cha mẹ trong vấn dề này, diễn đàn "giáo dục
giới tính cho con, cha mẹ đứng ở đâu?” 5 là phần tổng hợp những chia sẻ của các
bậc phụ huynh về chủ đề nên hay không nên hướng dẫn cho con về những vấn đề
liên quan đến giới tính. Những câu nói quen thuộc bà thường trực của đa số các bậc
cha mẹ khi được hỏi "gia đình đã hướng dẫn gì về chuyện tình yêu, tình dục cho con
khi bước vào tuổi dậy thì" là " lớn lên rồi sẽ biết". Như trường hợp của chị H.N (
chợ Ninh Hiệp - Gia Lâm - Hà Nội, có hai cơ con gái đang trong độ tuổi dậy thì: "có
gì mà phải hướng dẫn. Lớn lên rồi biết tất ấy mà. Ông bà ta xưa có ai hướng dẫn
đâu mà vẫn con đàn cháu đống đấy thôi!". Tác giả cho rằng: cuộc sống mưu sinh
hàng ngày đã khiến họ vơ tình qn mất thiên chức giáo dục con cái của mình. Và
khi khơng được hướng dẫn, giáo dục, thì tự " mày mị", tìm hiểu là con đường để
thỏa mãn trí tị mị của các em.



Tầm quan trọng của chức năng giáo dục sức khỏe sinh sản của gia đình

Báo cáo điều tra: “Thực trạng cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản tại bảy tỉnh tham gia chương trình quốc gia do Unfpa tài trợ” của bộ y
tế, thuộc dự án VIE/01/P10 được thực hiện vào năm 2006. Với khách thể nghiên
cứu bao gồm: người cung cấp dịch vụ, cán bộ quản lý chương trình, cán bộ trực
tiếp truyền thông, phụ nữ, nam giới và những đối tượng đang là vị thành niên. Một
trong những kết quả quan trọng của cuộc nghiên cứu cho thấy:

5

05-09-2008

16


Hiểu biết của phụ nữ và nam giới về các biện pháp tránh thai không đồng đều. Ba
biện pháp tránh thai hiện đại được phần lớn các nhóm đối tượng phỏng vấn biết là
bao cao su (85.3%), thuốc tránh thai (81%) và dụng cụ tử cung (64.5%). Các biện
pháp tránh thai còn lại, tỷ lệ người biết thấp ( dưới 30%), thậm chí có loại rất thấp
như thuốc uống tránh thai khẩn cấp (4.3%). 18.8% đối tượng phỏng vấn kể được
biện pháp tránh thai truyền thống “ tính vịng kinh”. Người lớn biết về các biện
pháp tránh thai cao hơn so với vị thành niên. Vẫn còn tới 16.3% vị thành niên
không biết tới các biện pháp nào trong chin biện pháp tránh thai mà nhóm nghiên
cứu đưa ra. Hiểu biết về biện pháp tránh thai khác biệt đáng kể giữa các nhóm đối
tượng và giữa các tỉnh. Số biện pháp trung bình được phụ nữ kể đến là 3.6 biện
pháp, ở nhóm nam giới là 3.4 và thấp nhất ở nhóm vịt hành niên (2.4 biện pháp).



“Cuộc điều tra về vị thành niên và thanh niên Việt Nam” – nghiên cứu của

Savy, 2008.
Trong phần mở đầu, báo cáo đã khẳng định: Mơi trường gia đình có một vai
trị quan trọng trong việc định hình các hành vi vào lối sống của thanh thiếu niên,
mang lại cho họ những cơ hội và đáp ứng nhu cầu của họ như: cải thiện hồn cảnh
kinh tế, sự hài hịa gia đình, sự cởi mở trao đổi những vấn đề như dậy thì, tình bạn,
tình u và HIV/AIDS. Cha mẹ cũng có thể là những mẫu hình tích cực hoặc tiêu
cực đối với giới trẻ. Cuộc nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở chọn mẫu theo kiểu
ngẫu nhiên, phân tầng cho toàn bộ vị thành niên và thanh niên từ 14-25 tuổi sống
trong hộ gia đình trên tồn quốc, chia theo tám vùng kinh tế, khu vực thành thị và
nông thôn. Với dung lượng mẫu lớn góp phần đảm bảo tính tổng quát và khách
quan cho cuộc nghiên cứu này. Một trong những nội dung lớn của Savy cho thấy,
95% thanh thiếu niên có mối quan hệ gắn bó với gia đình – và họ cũng dẫn chứng
được rằng gia đình có tầm quan trọng giống như là một yếu tố bảo vệ đối với thanh
thiếu niên Việt Nam. Do vậy, những trẻ có mối quan hệ gắn bó với gia đình thường
khỏe mạnh hơn so với những trẻ khác. Bên cạnh đó, những thơng tin thu thập được
cũng cho phép họ tìm hiểu quan niệm, thái độ, hành vi và trải nghiệm của thanh
thiếu niên về các vấn đề sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình cũng như các vấn
đề về tình dục trước hơn nhân…

17


Cuộc nghiên cứu là bức tranh khá toàn diện về thanh thiếu niên Việt Nam
trên về cả nhận thức, thái độ và hành vi cho thấy có sự tác động mạnh của sự khác
biệt giới, vùng miền, mức độ phát triển và sự ảnh hưởng từ cha mẹ. Kế thừa những
luận điểm đó, nhóm nghiên cứu với đề tài “ vai trị của gia đình ven đơ đối với
nhận thức về sức khỏe sinh sản của trẻ vị thành niên”, đặt trọng tâm vào việc tìm
hiểu vai trị của cha mẹ trong việc định hướng, giáo dục sức khỏe sinh sản sức

khỏe sinh sản cho trẻ vị thành niên trong bối cảnh hiện đại hóa, đơ thị hóa của quận
Thủ Đức – vùng ven đô của TPHCM.
Bên cạnh cuộc nghiên cứu lớn như Savy, thì nội dung về “ chức năng của
gia đình đối với giáo dục sức khỏe sinh sản trẻ vị thành niên” còn được thể hiện ở
nhiều bài viết trên một số kênh truyền thông đại chúng như báo chí và các diễn
đàn.


Đầu tiên, nhóm nghiên cứu xin đề cập đến bài viết: “Gia đình và giáo dục

tình dục, sức khoẻ sinh sản cho trẻ vị thành niên” trên Tạp chí y Tế Cơng
Cộng, T. 8, Số 2 (2004) của nữ tác giả Nguyễn Thu Lan.
Bà cho rằng vai trị của gia đình thơng qua giáo dục giữa cha mẹ và con cái
đã được coi là nguồn thơng tin giáo dục quan trọng trong giáo dục tình dục và sức
khoẻ sinh sản cho trẻ vị thành niên bên cạnh hai chủ thể khác là nhà trường và xã
hội. Giáo dục tình dục và sức khoẻ sinh sản trong gia đình khơng những giúp trẻ vị
thành niên ngăn ngừa được những hành vi thiếu lành mạnh mà còn giúp trẻ phát
triển những giá trị tính dục bản thân, nâng cao sức khoẻ tình dục và sức khoẻ sinh
sản khơng những trong giai đoạn dậy thì mà cịn trong suốt cuộc đời.


Một bài viết khác của tác giả Vũ Cảnh Linh “ Vị thành niên và chính sách

đối với vị thành niên”, 2002, Vũ Cảnh Linh - NXB Lao động và xã hội.
Trong tiểu mục III, tác giả đã đi tìm hiểu thực trạng vị thành niên trong các
mối quan hệ gia đình từ cả hai phía : sự chu cấp, chăm sóc của gia đình cũng như
hành vi ứng xử của bố mẹ đối với vị thành niên và qua thái độ, tình cảm của của vị
thành niên đối với gia đình. Những phát hiện từ kết quả nghiên cứu cho thấy sự chu
cấp của bố mẹ đối với vị thành niên hiện nay là khá tốt, sự quan tâm, giáo dục vị
thành niên đã có nhiều chuyển biến theo hướng vị thành niên ngày càng được bố mẹ

18


tơn trọng hơn, từ đó thấy rõ được vai trị và vị thế của vị thành niên trong gia đình.
Sự kết gắn của vị thành niên đối với gia đình cũng được thể hiện ở chỗ vị thành
niên ln có nhu cầu chia sẻ tình cảm với gia đình, mặt khác ln tự giác trong các
cơng việc gia đình khơng chờ bố mẹ phân cơng, sai bảo.


Giới tính & đời sống gia đình, Nguyễn Quang Mai, NXB ĐHQGHN, 2002:

Trong chương II nói về giáo dục giới tính và bản chất giới tính, các tác giả cho biết:
một số cơng trình nghiên cứu về giáo dục giới tính ở Liên Xơ cũ như " khảo luận
tính dục trẻ em của Blonxki, giáo dục giới tính qua tập thể của A.X.Macarenco.
Giáo dục giới tính được xem như là một bộ phận giáo dục đạo đức, đặc biệt đối với
thiếu niên và thanh niên hướng đến sự hình thành vai trị làm cha, làm mẹ... của
V.A.Xukhom Linxki. Ở các nước Châu Âu như Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Nam
Tư... cũng tiến hành giáo dục giới tính qua gia đình và nhà trường trên quy mơ tồn
xã hội. Ngồi ra, sự phân biệt về vị trí, vai trị của từng giới cũng ảnh hưởng về cách
nhìn nhận của cha mẹ đối với vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái.
Các bài viết xuất phát từ các góc nhìn đa dạng nhưng có cùng điểm chung là
nhấn mạnh tầm quan trọng của cha mẹ đối với vấn đề giáo dục con cái đặc biệt việc
giáo dục sức khỏe sinh sản trẻ vị thành niên. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một
bài tạp chí và các tác giả chủ yếu dựa trên sự phân tích các nguồn tư liệu sẵn có nên
chưa đảm bảo được tính khách quan cũng như khả năng phân tích sâu vào vấn đề
nghiên cứu. Khắc phục những hạn chế trên, đề tài “ chức năng của gia đình ven đô
đối với giáo dục sức khỏe sinh sản trẻ vị thành niên” được thực hiện theo phương
pháp kết hợp giữa định lượng và định tính, vai trị của gia đình mà cụ thể là những
người làm cha làm mẹ được phân tích dưới góc độ giới, đặt dưới sự tác động của
bối cảnh kinh tế - văn hóa - xã hội hiện nay.

Bên cạnh những bài viết đã được đăng tải trên các tạp chí nói trên thì một kênh
thơng tin quan trọng khác phải kể đến đó là một số bài viết hay các diễn đàn xoay
quanh vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên trên một số trang web khá
quen thuộc như: giadinh.net hay webtretho.com.


Nhấn mạnh vào thực trạng của việc giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên

hiện nay, tác giả Đào Ngọc Hà với bài viết “ giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành
19


niên – vấn đề cần được quan tâm” chỉ ra những mặt trái của quá trình chuyển đổi
tâm sinh lý đã mang đến cho trẻ những mối “ nguy hiểm” mới. Trong khi cha mẹ
bận rộn với công việc hoặc ngại ngùng né tránh, khơng chỉ dẫn tận tình những vấn
đề liên quan đến vấn đề giới tính, tình dục… đó cũng là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn đến những hệ quả như làm mẹ ở độ tuổi vị thành niên hay bị
lây nhiễm những bệnh liên quan đến bộ phận sinh dục…
Bên cạnh việc khẳng định trách nhiệm của cá nhân vị thành niên, tác giả
cũng nhấn mạnh đến vai trò của cha mẹ như những người truyền đạt, cung cấp
thông tin, kiến thức cho đông đảo vị thành niên và thanh niên trẻ về những vấn đề
sức khỏe sinh sản, họ phải là những người hiểu biết hơn ai hết về nhu cầu, mong
muốn của vị thành niên và thanh niên trẻ về những vấn đề liên quan đến sức khỏe
sinh sản. Như vậy mới có thể giúp đỡ, hỗ trợ trẻ vị thành niên để họ có thái độ,
niềm tin, và hành vi ứng xử phù hợp6


Đi sâu hơn vào những nội dung giáo dục cụ thể, Viện thông tin thư viện Y

hoc Trung ương có bài viết: “ Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên” đưa ra

như sau:
Thứ nhất: Cần nói cho các em biết những thay đổi do sự phát triển về thể chất, sinh
lý, tâm lý sẽ xuất hiện trong lứa tuổi các em, cũng như giúp các em hiểu rõ hơn các
quan niệm về tình bạn, tình yêu.
Thứ hai: Trao đổi với các em về thái độ giao tiếp ứng xử có trong quan hệ bạn bè;
biết cách né tránh những hồn cảnh có thể dẫn đến quan hệ tình dục quá sớm.
Hướng dẫn cho các em hiểu cần gìn giữ vệ sinh bộ phận sinh dục hàng ngày, và một
vấn đề quan trọng như: tại sao người con gái lại có thai, hậu quả của việc mất trinh
tiết và có thai ngồi ý muốn.
Thứ ba: Đối với các em ở lớp vị thành niên muộn cũng nên cho các em biết những
diễn biến về quan hệ tình dục, thái độ ứng xử thể nào trước những ham muốn về
tình dục và tránh những thái độ, hành động dễ dãi. Đồng thời, giải thích cho các em
hiểu thế nào là tình dục lạnh mạnh, tình dục an tồn và khi cần thiết không ngần
6

Đào Ngọc Hà, giáo dục sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên – vấn đề cần được quan tâm, giadinh.net
(30/9/2009)

20


ngại hướng dẫn cho các em các phương tiện tránh thai và cách phòng tránh các bệnh
lây truyền qua đường tình dục thích hợp với lứa tuổi và hồn cảnh của từng em.7


Bài viết “ Giáo dục giới tính: Trách nhiệm của gia đình hay nhà trường”

của tác giả - Bác sỹ Hồ Đắc Duy trên trang web giadinh.net ( cập nhật 21/10/2007)
cho rằng:
Giáo dục giới tính phải bắt đầu bằng giáo dục gia đình, vai trị của cha mẹ,

truyền thống, đạo đức, luật pháp của từng quốc gia, sau đó là các kiến thức về cơ
thể học sinh lý học, các kỹ năng của con người để bước vào quan hệ tình dục một
cách có trách nhiệm, các thơng tin về tính dục và sinh sản,các hệ lụy phát sinh từ
sinh hoặt tình dục .... Và hơn nữa vì có các nét đặc thù của từng khu vực cho nên
khơng thể áp đặt chương trình Giáo dục giới tính của quốc gia này lên quốc gia
khác được. Việc giáo dục giới tính có thể thực hiện ở nhiều bối cảnh khác nhau
nhưng chắc chắn là phải bắt đầu từ bối cảnh gia đình. Các bậc cha mẹ cần ý thức
rằng con cái học được rất nhiều điều ở cha mẹ về giới tính, tính dục, nhân cách một quá trình cùng đồng thời phát triển trên một con người. Trong nhiều trường
hợp, con cái học được những bài học quý báu từ cha mẹ về vai trò giới mẫu mực,
mối quan hệ nhân văn và có trách nhiệm.


Đặt vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên trong bối cảnh giao thoa

văn hóa Đơng Tây, bài viết “chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên - sự cần
thiết để nâng cao chất lượng dân số” đề cập đến nỗi băn khoăn chung về các bậc
phụ huynh8: khi nào sẽ bắt đầu giáo dục giới tính cho con và sẽ giáo dục như thế
nào?
Bằng cách đưa ra một phân tích số liệu chéo từ sáu nghiên cứu quốc gia, với
đại diện của 53 quốc gia khác nhau cho thấy rằng các mối quan hệ giữa cha mẹ và
con cái có thể ảnh hưởng tới thời điểm bắt đầu quan hệ tình dục, sử dụng chất kích
thích và sự trầm cảm ở trẻ vị thành niên. Những dẫn chứng từ những nguồn này đã
khẳng định tầm quan trọng của sự tham gia của cha mẹ như là một phần của chiến
lược toàn diện để nâng cao sức khỏe và sự phát triển của trẻ vị thành niên. Và như
7

Viện thơng tin Y học Trung ương, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, giadinh.net ( 27/09/2007)
Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên – Sự cần thiết để nâng cao chất lượng dân số, webtretho.com (
9/1/2009)
8


21


thế các bậc cha mẹ phải có một cách nhìn nhận đúng về cơng tác giáo dục về giới
tính, sức khỏe sinh sản. để tránh đi những khả năng trẻ bị ảnh hưởng bởi những
nguồn thông tin sai lệch.
Các bài viết nói trên đều đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ ràng buộc giữa
cha mẹ và con cái, họ đều nhấn mạnh đến những mối quan hệ tích cực và ổn định
này có vai trị quan trọng đối với sức khỏe của vị thành niên. Các tác giả phản ánh
khá rõ nét vai trò, trách nhiệm của các bậc phụ huynh đối với việc giáo dục sức
khỏe sinh sản cho trẻ vị thành niên, tuy nhiên dưới hình thức bài viết trên diễn đàn
nên các cách phản ánh mang “ màu sắc” cá nhân nhiều hơn, mặt khác các khách thể
nghiên cứu chỉ được nhắc đến một cách chung chung chứ chưa đặt vào trong một
bối cảnh thời gian, khơng gian cụ thể. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề nghiên
cứu, nhóm tác giả tiến hành thực hiện đề tài: “ Vai trị của gia đình hạt nhân đối
với giáo dục sức khỏe sính sản trẻ vị thành niên”
1.2. Các cách tiếp cận nghiên cứu trong đề tài
1.2.1. Cách tiếp cận thiết chế
Có nhiều cách hiểu khác nhau về phạm trù thiết chế, ta có thể khái quát các
cách tiếp cận đó bằng định nghĩa trong cuốn từ điển “xã hội học hiện đại” coi thiết
chế xã hội là “một hệ thống liên kết lẫn nhau giữa các vai trò và các chuẩn mực xã
hội được tạo ra và hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu và chức năng xã hội.
Các vai trò và chuẩn mực xã hội nằm trong thiết chế xã hội quyết định cách ứng xử
tương ứng và như người ta trông đợi, ứng xử này hướng tới những nhu cầu xã hội
cụ thể” (Théo dorson G, Théodoron A. 1969). Như vậy có thể thấy rằng cách tiếp
cận thiết chế là một cách nhìn vĩ mơ bởi vì cách tiếp cận này quan tâm đến những
qui luật chung nhất.
Các thiết chế xã hội đều có nhiệm vụ riêng, chúng được đặt trong một tổng
thể xã hội và có sự tương tác, liên kết với nhau rất chặc chẽ. Sự biến đổi của một

thiết chế xã hội này có ảnh hưởng rất lớn đến các thiết chế xã hội khác. Chính mối
quan hệ giữa thiết chế với các cá nhân sẽ tạo điều kiện cho thiết chế ổn định. Các
thiết chế xã hội luôn đặt ra những chế tài qui định cho cá nhân, điều này địi hỏi cá
nhân phải biết hồn thành nhiệm vụ của mình và cá nhân biết được những sự kì
22


×