Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.41 KB, 17 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT
CHO HỌC SINH LỚP 2”

Quảng Bình, tháng 05 năm 2021


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT
CHO HỌC SINH LỚP 2”

Họ và tên:

Dương Thị Thảo Nguyên

Chức vụ:

TTCM Tổ 1 - 2

Đơn vị cơng tác: Trường Tiểu học Phú Thủy

Quảng Bình, tháng 05 năm 2021


I. Phần mở đầu


1. Lý do chọn đề tài:
Ông cha ta đã từng nói "Nét chữ nết người" quả khơng sai, bởi chữ viết phản
ánh rất đúng cái tính cách, bản chất của người cầm bút viết nên nó. Nhìn nét chữ
ngay ngắn, trịn trĩnh đó là người có tính cách cẩn thận, chu tồn, gọn gàng, làm việc
gì cũng tới nơi tới chốn, cịn nhìn nét chữ nghiêng ngã, xiêu vẹo chứng tỏ người viết
có tính cách cẩu thả, thiếu cẩn thận. Nét chữ là biểu hiện của nết người, là phản ánh ý
thức rèn luyện tư duy vào óc thẩm mĩ của người viết. Từ việc rèn chữ viết đẹp góp
phần rèn luyện cho chính các em đức tính cẩn thận, tính kỷ luật và lịng tự trọng đối
với mình, đối với người khác.
Chữ viết có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc Tiểu học. Học sinh phải dùng chữ
viết để học tập và giao tiếp. Do vậy, ở trường Tiểu học việc dạy học sinh biết chữ và
từng bước làm chủ được công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu
cầu quan trọng của môn Tiếng Việt. Chữ viết đã trở thành một cơng cụ quan
trọng trong việc hình thành, phát triển văn hố, văn minh của mỗi dân tộc.
Ngồi ra nó cịn góp phần rèn luyện những phẩm chất đáng q như tính cẩn thận,
lịng u cái đẹp, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng và thái độ tôn trọng người
khác thông qua chữ viết. Và thông qua việc rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân
cách con người. Do đó việc rèn chữ viết cho học sinh là điều rất cần thiết và khơng
phải đơn giản, địi hỏi cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và học sinh.
Nếu như tập đọc giúp trẻ đọc thông, thì tập viết giúp trẻ viết thạo. Đọc thơng
mở đường cho viết thạo, viết thạo sẽ giúp trẻ ghi nhanh, ghi rõ ràng những điều thầy
giảng và những điều trẻ nghĩ. Nhìn trang vở tập viết với những dịng chữ đều tăm
tắp, khơng bị giây mực, quăn mép, lịng ta dấy lên niềm vui, ta như được củng cố
thêm niềm tin vào tương lai của con trẻ. Nhưng muốn viết thạo, trẻ phải gắng cơng
khổ luyện dưới sự chăm sóc tận tình của các thầy cơ giáo.
Nhưng giờ đây, chúng ta đang ở trong một thời đại mới - thời đại thông tin
bùng nổ, mọi người thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một
văn bản thay vì cầm bút viết từng nét chữ trên từng trang giấy. Việc rèn chữ viết của
mọi người đang dần bị chìm vào qn lãng.
Đối với tơi, là một giáo viên dạy lớp 2 thì việc dạy học sinh viết chữ đẹp là

điều khơng dễ dàng và địi hỏi người giáo viên cần có những kĩ năng và phương pháp
phù hợp bởi đối với học sinh lớp 2 nhất là lúc đầu năm học, mặc dù các em đã được
làm quen với việc viết chữ ở lớp 1 nhưng việc tập trung để viết chữ đúng và đẹp là
rất khó khăn bởi trình độ nhận thức của các em cịn hạn chế, chưa chú ý vào việc tập
viết, các em viết nhanh, viết ẩu và viết sai rất nhiều, sai về độ cao, về khoảng cách,
về cấu tạo các con chữ... Tôi luôn trăn trở, tự hỏi làm thế nào để giúp cho các em học
sinh lớp 2 có kỹ năng viết đúng, viết đẹp. Với những lí do trên mà tôi chọn đề tài
"Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2" giúp các em
học sinh lớp 2 có được những kĩ năng và phương pháp để rèn viết chữ đúng và đẹp.


2. Điểm mới của đề tài
Đề tài "Một số biện pháp pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh
lớp 2" đã đưa ra những biện pháp mới rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh phù
hợp với tình hình thực tế hiện nay, giúp cho các em yêu Tiếng Việt hơn, có ý thức
luyện viết cẩn thận hơn, đẹp hơn.
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến "Một số biện pháp pháp pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho
học sinh lớp 2" được áp dụng đối với học sinh lớp 2.


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng của vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết:
1.1. Thực trạng
Ở trường tiểu học, trong những năm gần đây, học sinh viết chữ chưa đẹp là
một tình trạng đáng báo động. Hiện nay, học sinh lựa chọn đủ các loại bút để viết nên
ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng chữ viết. Vẫn cịn nhiều học sinh viết chữ chưa
đúng mẫu, chưa đúng độ cao các con chữ, kỷ thuật nối nét chưa đúng, thế chữ không
ổn định, viết sai các nét khuyết trên và nét khuyết dưới. Nhiều em viết các chữ viết
hoa chưa đúng độ cao, độ rộng, hình dạng con chữ. Ít có học sinh có ý thức và chăm

chỉ luyện viết thêm ở nhà. Mặt khác, chữ viết của một số giáo viên chưa đúng quy
định cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn chữ viết của học sinh. Mỗi thầy, cô giáo
được xem như là một tấm gương phản chiếu để học sinh soi rọi vào đó. Học sinh tiểu
học là lứa tuổi hay “bắt chước” giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế
đó, đặc biệt là các lớp đầu cấp.
Thực tế qua giảng dạy ở lớp tơi chủ nhiệm, tơi nhận thấy vẫn cịn nhiều học
sinh viết chữ chưa đẹp, chưa đúng mẫu, thế chữ khơng ổn định, viết sai chính tả ảnh
hưởng khơng nhỏ đến chất lượng học tập của các môn học khác. Cụ thể, kết quả
khảo sát kỹ năng viết sau 3 tuần học ở lớp tôi giảng dạy như sau:
Tổng
số HS

31

HS viết chữ
đẹp, đúng
mẫu
SL
%

HS viết chữ
chưa đúng mẫu,
sai lỗi chính tả
SL
%

HS viết thế
chữ không ổn
định
SL

%

HS sai kỷ
thuật nối nét
SL

%

HS viết chưa
đúng các con
chữ viết hoa
SL
%

4
12,9
27
87,1
22
71
26
83,9
25
80,6
1.2. Nguyên nhân:
Trước hết đó là do ý thức rèn luyện chữ viết của các em hầu như khơng có, nhiều
em học sinh và cả các bậc phụ huynh cho rằng, chữ viết ngày nay không cịn quan
trọng. Thậm chí cịn có ý kiến cho rằng ở thời đại công nghệ thông tin phát triển
mạnh mẽ như ngày nay, chỉ cần có trí tuệ là đủ, vì tất cả đã có máy tính “viết” thay
tay người. Nhưng theo tơi, suy nghĩ đó hồn tồn lệch lạc bởi việc rèn chữ cho các

em học sinh khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường càng trở nên cần thiết, vì rèn chữ
cũng chính là rèn tính nết của con người.
Mặt khác, cịn phải nói tới ngun nhân là sự thiếu quan tâm, rèn luyện của đội
ngũ thầy cô giáo. Áp lực cơng việc, thời gian chăm sóc gia đình, con cái cùng với ý
thức trách nhiệm cịn hạn chế, cho nên khơng ít giáo viên cịn thiếu quan tâm nhận
xét về chữ viết, bài làm của học sinh.
Học sinh chưa nhận thức rõ về vị trí của các đường kẻ ngang hay kẻ dọc, chưa
xác định rõ được các dòng, li trong vở viết nên chữ của các em thường quá to hoặc
quá nhỏ. Một số em thường viết sai độ cao, khoảng cách giữa các con chữ trong một
chữ hoặc giữa các chữ trong câu do các em chưa chú ý đến điểm đặt bút, điểm dừng
bút, chưa biết cách nối giữa các con chữ trong một chữ, chưa biết ước lượng về


khoảng cách. Hoặc do các em hiếu động, thiếu kiên trì nên viết cho nhanh để cịn đi
chơi.
Những ngun nhân trên đã ảnh hưởng khơng ít đến chất lượng chữ viết của
học sinh.
2. Một số biện pháp pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2.
2.1. Giáo viên phải nắm rõ kiến thức về những quy định viết chữ
Trong quá trình hình thành chữ viết cho học sinh, giáo viên cần nắm chắc
những quy định về các nét chữ, các dấu thanh, cấu tạo các con chữ, cách viết các con
chữ... Cụ thể, giáo viên thường gọi các nét cơ bản để mơ tả hình dạng, cấu tạo và quy
trình viết một chữ cái theo các nét viết đã quy định ở bảng mẫu, gồm có nét viết và
nét cơ bản. Nét viết là một đường viết liền mạch, khơng phải dừng lại để chuyển
hướng ngịi hay nhấc bút. Nét viết có thể là một hay nhiều nét cơ bản tạo thành, ví dụ
như nét viết chữ cái o là nét cong kín, nét chữ e là hai nét cong phải, trái tạo thành.
Còn nét cơ bản là nét bộ phận dùng để tạo thành nét viết hay hình chữ cái. Nét cơ
bản có thể đồng thời là nét viết hoặc nét kết hợp hai, ba nét cơ bản để tạo thành một
nét viết. Ví dụ nét cong trái là nét viết chữ c, nét cong phải kết hợp với nét cong trái
thì tạo thành chữ e.

Các loại nét cơ bản đó là nét thẳng có 3 dạng: thẳng đứng, thẳng ngang, thẳng
xiên; nét cong có 2 dạng: nét cong kín, nét cong hở (cong hở trái, cong hở phải); nét
móc có 3 dạng: móc xi, móc ngược, móc hai đầu; nét khuyết có 2 dạng: khuyết
trên, khuyết dưới và nét hất.
Giáo viên cần cung cấp cho học sinh những đặc điểm, cấu tạo, độ cao, độ rộng
và cách viết từng con chữ như con chữ a có độ cao 1 ơ li, cấu tạo là một nét cong kín
và một nét móc ngược, con chữ b có độ cao là 2 ơ li rưỡi, gồm có nét khuyết trên và
nét móc ngược, hay con chữ d có độ cao là 2 ơ li rưỡi,, gồm có 2 nét: nét cong kín và
nét móc ngược phải; con chữ g có độ cao là 2 ơ li rưỡi, gồm nét cong kín và nét
khuyết dưới; con chữ t có độ cao là 1 ơ li rưỡi, gồm nét hất, nét móc ngược phải, nét
ngang,... Bên cạnh đó, giáo viên cần cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản
về cách viết các con chữ hoa như con chữ H cao 5 ơ li, gồm có 2 nét: nét 1 là sự kết
hợp giữa nét cong trái và nét lượn ngang, nét 2: là sự kết hợp của 3 nét: khuyết trên,
khuyết dưới và nét móc ngược phải, nét 3: nét thẳng đứng.
Ngoài ra giáo viên cần hướng dẫn cho các em biết được điểm đặt bút, dừng bút
đúng cách để hoàn thành viết một con chữ và xác định cách rê bút, lia bút. Rê bút là
nhắc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo đường nét viết trước hoặc tạo ra
vệt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên. Từ rê được hiểu theo nghĩa di chuyển chậm
đều đều, liên tục trên bề mặt, do đó giữa đầu bút và mặt giấy khơng có khoảng cách.
Lia bút là chuyển dịch đầu bút từ điểm dừng này qua điểm dừng khác, không
chạm vào mặt giấy. Từ lia xuất phát từ nghĩa ném hoặc đưa ngang thật nhanh. Vì vậy
khi lia bút ta phải nhắc đầu bút lên để đưa nhanh sang điểm khác, tạo một khoảng
cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy.
Cần cung cấp cho học sinh đầy đủ về mẫu chữ - mẫu chữ cái viết thường cỡ
chữ vừa: Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị (ô li): b, l, h, k, g, y. Các chữ


cái được viết với độ cao 2 đơn vị (ô li): d, đ, q, p. Các chữ cái được viết với độ cao
1,5 đơn vị (ô li): t. Các chữ cái được viết với độ cao 1,25 đơn vị (ô li): r, s. Các chữ
cái còn lại được viết với độ cao 1 đơn vị (ô li): o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e, ê, n, m. Các

dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vng có cạnh 0,5 đơn vị (ơ li).
Với mẫu chữ cái viết hoa: Các chữ cái được viết với độ cao 5 đơn vị (ơ li).
Cịn mẫu chữ số được viết với độ cao 2 đơn vị (ô li).
Giáo viên cần lưu ý khi dạy viết ứng dụng các chữ ghi tiếng có chữ cái viết
hoa đứng đầu (tên riêng, chữ viết hoa đầu câu...), cần hướng dẫn học sinh cách viết
tạo sự liên kết bằng nối nét hoặc để khoảng cách hợp lí giữa chữ cái viết hoa và chữ
cái viết thường.
Khi viết chữ cần chú ý cho học sinh nối chữ liền mạch, đảm bảo tốc độ viết
nhanh. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi
tiếng rồi mới đặt dấu phụ và dấu thanh.
Việc đặt dấu thanh cũng hết sức quan trọng, và việc này đã được xử lí thống
nhất trong sách giáo khoa của chương trình Tiểu học mới do Nhà Xuất bản Giáo dục
ấn hành, cụ thể: Dấu thanh (huyền, hỏi, sắc, ngã, nặng) được đánh ở âm chính: khóa,
thùy, ...), khi âm chính là một âm đơi, xuất hiện trong âm tiết mở (khơng có âm tiết
cuối) thì dấu thanh được đánh ở yếu tố đầu của ngun âm đơi đó: bìa, bùa... Khi âm
chính là một âm đơi, xuất hiện trong âm tiết đóng (có âm cuối) thì dấu thanh được
đánh ở yếu tố cuối của ngun âm đơi đó: miếng, buồm, vượn,... Cách đặt dấu thanh
trong chữ viết Tiếng Việt cũng cần đảm bảo sự hài hịa, cân đối và mang tính thẩm
mĩ, nên các dấu thanh thường được đặt vào vị trí khoảng giữa (trên, dưới) đối với
chữ cái a, ă, o, ơ, e, i (y), u, ư như cài, gỡ, hỏi, nặng; riêng đối với các chữ cái â, ê, ơ
thì dấu huyền, sắc được đặt ở phía bên phải của dấu mũ: gối, khế, cấy...
2.2. Các bước chuẩn bị, tiến hành hướng dẫn học sinh luyện viết
2.2.1. Chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, đồ dùng học tập trước khi lên lớp
Điều kiện cơ sở vật chất: Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế học sinh
không thể thiếu đối với việc dạy học nói chung, đối với việc rèn chữ nói riêng. Vì
vậy, nó phải đảm bảo để học sinh học tập tốt hơn.
Hoạt động chủ đạo của học sinh trong giờ học Tập viết là thực hành luyện tập
nhằm mục đích hình thành kĩ năng viết chữ thành thạo, dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, học sinh được thực hành luyện viết trên 2 hình thức: viết trên bảng và viết trong
vở Tập viết. Để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị

và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau:
Thứ nhất: bảng con màu đen (hoặc xanh đậm), bề mặt có độ nhám vừa phải,
dịng kẻ ơ rõ ràng, đều đặn dễ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết phấn. Bảng
con là công cụ thực hành tiện lợi và hiệu quả đối với học sinh, có tác dụng tích cực
trong q trình dạy tập viết ở tiểu học. Loại bảng viết bằng phấn và loại bảng viết
bằng bút dạ có những mặt ưu và một số hạn chế nhất định khi sử dụng, song tác dụng
của chúng đối với rèn kĩ năng viết cho học sinh là rất quan trọng.
Thứ hai: Phấn trắng có chất lượng tốt sẽ làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Nếu
viết bút dạ thì bút phải cầm vừa tay, đầu bút nhỏ, ra mực đều mới viết được rõ ràng.


Thứ ba: Khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải, dễ cầm tay sẽ giúp cho việc xóa
bảng hợp vệ sinh và không ảnh hưởng đến chữ viết.
Thứ tư: Vở tập viết phải đúng mẫu theo quy định của Bộ Giáo dục. Học sinh
phải giữ vở sạch sẽ, bao bìa kính ở ngồi, có ghi tên, lớp rõ ràng. Khi sử dụng vở tập
viết thì học sinh lưu ý khơng được làm dơ, bẩn, trình bày chữ viết sạch sẽ, đẹp, khoa
học, khơng bơi xóa lung tung.
Thứ năm: Bút, với bút mực thì phải sử dụng bút khơng nhạt q, cũng khơng
đậm q. Với bút máy thì phải chọn bút máy chuẩn, ngòi mềm, đầu bút thanh, vừa
tay cầm và chuẩn bị mỗi bạn một lọ mực, một cái khăn và một cái bìa kê tập. Khi
viết bút mực giáo viên cần lưu ý cho học sinh viết cẩn thận, không để mực dây ra
tập, quần áo, không được viết nhanh, viết ẩu, viết ngoáy.
2.2.2. Hướng dẫn học sinh tư thế ngồi viết, cách cầm phấn, cầm bút
Quá trình hình thành kĩ năng viết chữ trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn nhận biết, hiểu về chữ viết thông qua hoạt động của các giác quan
mắt, tai và hoạt động của vùng ngôn ngữ trong bộ não.
Giai đoạn điều khiển vận động (cơ, xương bàn tay), thường có hiện tượng "lan
tỏa", dễ ảnh hưởng tới một số bộ phận khác trong cơ thể (ví dụ: miệng méo, vai gù,
lệch...). Nhận thức rõ tầm quan trọng của giai đoạn này trong quá trình tập viết,
chương trình Tiểu học Pháp từ năm 1991 đã xác định: “Tập viết là môn học của bàn

tay và cơ thể, địi hỏi sự chính xác của nét bút, sự khéo léo trong trình bày, sự nhảy
cảm về thẩm mĩ khi viết.”
Bởi vậy trong quá trình viết chữ học sinh cần lưu ý đến tư thế ngồi viết cũng
như cách cầm bút và phấn.
Tư thế ngồi viết: học sinh cần ngồi thẳng lưng, khơng tì ngực vào bàn, đầu hơi
cúi, mắt cách vở khoảng 25 -30 cm, nên cầm bút (phấn) bằng tay phải, tay trái tì nhẹ
lên mép vở (bảng) để trang viết (bảng) không bị xê dịch, hai chân để song song, thoải
mái.
Cách cầm phấn: Cầm bằng 3 ngón tay, đầu ngón cái cách đều viên phấn
khoảng 1 cm, cầm phấn chắc vừa phải, khi đưa phấn lên cần nhẹ tay để tạo nét thanh,
khi đưa xuống cần miết đầu phấn mạnh hơn chút để tạo nét đậm. Nhưng phải từ từ,
tránh đột ngột.
Cách cầm bút: Cầm bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) với độ
chắc vừa phải, không chặt quá, không lỏng quá. Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển
bút nhẹ nhàng từ trái qua phải (không nhấn mạnh đầu bút xuống mặt giấy), cán bút
nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay, cánh tay cử động mềm mại, thoải mái. Khi
viết cần tạo nét thanh bằng cách đưa bút lên nhẹ, còn khi đưa xuống cần miết ngòi
bút xuống để tạo nét đậm. Ngoài ra khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn
trước mặt, nếu viết chữ nghiêng cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới
cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khi viết chữ về bên phải, quá xa
lề vở cần xê dịch vở sang bên sáng để mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhồi người về
bên phải để viết tiếp.
2.2.3. Hướng dẫn học sinh viết đúng, viết đẹp


Vào đầu năm học giáo viên đã củng cố kiến thức cơ bản về độ cao, độ rộng,
khoảng cách các con chữ và chữ, các quy tắc đặt dấu thanh, cách cầm phấn, cầm bút,
tư thế ngồi viết để học sinh nắm chắc nhằm tạo cho các em những thói quen tốt trong
việc rèn viết chữ.
Giáo viên giúp học sinh xác định lại vị trí đường kẻ trong vở học sinh, tọa độ

của các nét chữ, chữ trong khung chữ mẫu
Về cơ bản, hình dạng 29 chữ cái viết thường cỡ chữ vừa có thể chia thành ba
nhóm, có cấu tạo các nét cơ bản gần gũi với nhau. Luyện viết theo từng nhóm chữ
giúp cho kĩ năng viết các nét cơ bản thành thạo, tạo thói quen viết đều nét và đẹp
chữ. Dựa vào mẫu chữ viết trong trường Tiểu học, tùy điều kiện giáo viên có thể cho
học sinh luyện viết theo hai cách:
Ở giai đoạn của việc luyện viết, giáo viên nên chọn loại vở kẻ ô vng nhỏ
(dịng kẻ 4 ơ ly), để dễ xác định chiều cao và bề rộng cho đúng tỉ lệ. Biện pháp thực
hiện chủ yếu là từ dễ đến khó theo từng nhóm chữ:
Nhóm 1: i, u, ư, t, n, , m, v, r: các chữ cái ở nhóm này có chiều cao 1 đơn vị
(ô li), riêng chữ cái r có cao 1, 25 đơn vị (ơ li), chữ t cao 1, 5 đơn vị (ô li). Bề rộng
cơ bản của chữ là 3/4 đơn vị (ô li), riêng chữ cái m rộng 1, 5 đơn vị (ô li). Chữ cái ở
nhóm này thường được cấu tạo bởi các nét móc (móc xi, móc ngược, móc hai
đầu). Khi luyện viết chữ hai nét móc xi và móc hai đầu cần chú trọng vì chúng
khó viết hơn nét móc ngược, 4 chữ cái n, m, v, r cần được luyện tập nhiều lần để nét
viết mềm mại, đẹp mắt.
Nhóm 2: l, b, h, k, y, p: các chữ cái này có chiều cao 2, 5 đơn vị (ô li), riêng
chữ cái p cao 2 đơn vị (ô li), bề rộng cơ bản của chữ là 3/4 đơn vị (ô li). Về cấu tạo
chữ cái ở nhóm này có nét khuyết (khuyết trên, khuyết dưới), có những điểm gần gũi
với chữ cái ở nhóm 1 (nửa dưới của chữ b giống với chữ v, nửa dưới của chữ h
giống với chữ n, nửa trên của chữ y giống với chữ u). Khi luyện viết chữ hai nét
khuyết trên và khuyết dưới đều cần được chú trọng, tập trung luyện viết cho đẹp bốn
chữ cái l, b, h, n (tạo vòng xoắn ở chữ b và k vừa phải, hợp lí trong hình chữ).
Nhóm 3: o, ơ, ơ, a, ă, â, d, d, q, g, c, x, e, ê, s: các chữ cái ở nhóm 3 có 3 loại
độ cao khác nhau, song chúng đều có độ cao 1 đơn vị (ơ li) (10/15 chữ), các chữ d, đ,
q cao 2 đơn vị (ô li), chữ g cao 2, 5 đơn vị (ô li), riêng chữ s cao 1, 25 đơn vị (ô li).
Bề rộng cơ bản của hầu hết các chữ cái là 3/4 đơn vị (riêng chữ s rộng 1 đơn vị, chữ
x rộng 1, 5 đơn vị). Nhóm chữ này thường được cấu tạo bởi các nét cong (cong kín,
cong hở), trong đó nét cong kín (chữ o) có mặt ở mười chữ cái, tạo sự liên hệ gần gũi
về hình dạng giữa các chữ. Vì vậy muốn luyện viết đẹp các chữ cái ở nhóm 3 cần tập

trung luyện viết thật đẹp chữ o, từ chữ o, dễ dàng chuyển sang viết các chữ ô, ơ, a, ă,
â, d, d, q, g, dễ tạo được các nét cong kín để viết được các chữ còn lại.
Với chữ hoa gồm có 29 chữ tuy hình dạng khác nhau nhưng nhìn chung có thể
chia làm 5 nhóm có cấu tạo các nét cơ bản. Hầu hết các chữ viết hoa cao 2, 5 đơn vị
(ơ li), cịn chữ G, Y có chiều cao 4 đơn vị (ô li). Do vậy khi luyện viết các chữ hoa
cần tập tung vào việc tạo các đường cong hoặc lượn khi phối hợp các nét cơ bản cho


mềm mại, đẹp mắt và việc thực hiện đó được tiến hành từ dễ đến khó theo các nhóm
chữ:
Nhóm 1: U, Ư, Y, X, (N, M, V kiểu 2) : khi viết các chữ hoa ở nhóm này học
sinh cần tập trung luyện kĩ nét móc hai đầu, điều khiển nét bút ở phần cong sao cho
chuẩn, mềm mại, đúng hình dạng.
Nhóm 2: A, Ă, Â, N, M: chủ yếu là rèn luyện nét móc ngược, đưa bút từ trên
dưới lên, độ nghiêng hoặc lượn ở đầu nét móc và phần cong cuối nét móc sao cho
vừa phải, đúng mẫu.
Nhóm 3: C, G, E, Ê, T: các chữ cái viết hoa ở nhóm này chủ yếu được tạo bởi
nét cong và sự phối hợp biến điệu của những nét cong. Bởi thế khi viết cần luyện
cách điều khiển đầu bút để tạo những nét cong đúng mẫu. Trong các chữ ở nhóm này
thì chữ C và chữ E tương đối khó viết nên học sinh cần chú ý quan sát kĩ khi giáo
viên viết mẫu và phải luyện viết nhiều để tạo dáng chữ mềm mại.
Nhóm 4: P, R, B,D, I, K, H, S, L,V: các chữ này đều có nét cơ bản được biến
điệu hoặc có sự kết hợp hài hịa các nét cơ bản trong một nét viết.
Nhóm 5: O, Ô, Ơ, Q, ( A, Q kiểu 2): các chữ hoa ở nhóm này được viết bởi 1
hoặc 2 nét nhưng có nét địi hỏi viết liền mạch và điều khiển đầu bút theo nhiều
hướng.
Ngoài ra giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ các khái niệm cơ bản về dòng,
khoảng cách... Dòng (thể hiện chữ viết) được hiểu theo nghĩa là khoảng để viết hoặc
xếp chữ kế tiếp nhau thành hàng, ví dụ: giấy có kẻ dịng, chấm xuống dịng. Vở tập
viết của học sinh được trình bày theo các ơ vng, có các dịng kẻ ngang. Mỗi dòng

viết gồm 5 dòng kẻ ngang, chia thành 4 li (mỗi li khoảng cách giữa hai dòng kẻ - 0,
25cm). Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học có độ cao tính theo đơn vị (bằng chiều
cao chữ cái ghi nguyên âm), tương ứng với li trong vở Tập viết như sau: viết theo cỡ
chữ nhỏ thì chiều cao chữ cái ghi nguyên âm là 1li, chữ viết theo cỡ vừa chiều cao
chữ cái là 2 li. Từ đó có thể hiểu mẫu chữ cái trong bảng mẫu chữ do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành được trình bày theo cỡ vừa (chiều cao chữ cái ghi nguyên âm là 2
li - 1 đơn vị, chữ cái viết thường có chiều cao lớn nhất là 5 li, hầu hết chữ cái viết
hoa có chiều cao 5 li.
Ngồi việc cung cấp kiến thức cơ bản về độ cao, độ rộng, khoảng cách các con
chữ và chữ, các quy tắc đặt dấu thanh, cách cầm phấn, cầm bút, tư thế ngồi...thì hoạt
động hướng dẫn học sinh luyện viết cho học sinh là khâu rất quan trọng vì nếu chúng
ta hướng dẫn kỹ sẽ giúp học sinh thực hành nhanh và chính xác hơn. Tôi tiến hành
luyện viết cho học sinh theo các bước như sau:
Bước 1: Viết mẫu:
Để tạo được hiệu quả dạy học, giúp học sinh hình dung ra các chữ thường
cũng như chữ hoa một cách sinh động, rõ ràng thì giáo viên cần chuẩn bị những mẫu
chữ viết sẵn có các dịng kẻ sau đó giáo viên sẽ hướng dẫn lại cách viết để giúp học
sinh khắc sâu hơn. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát chữ mẫu: nhận biết về
hình dạng, cấu tạo nét, so sánh với chữ cái đã học trước đó. Giáo viên hướng dẫn học
sinh về quy trình viết chữ: điểm đặt bút, rê bút, lia bút, chuyển dịch đầu bút, điểm


dừng bút... Hình thức: chỉ dẫn trên mẫu chữ, viết mẫu trên khung chữ, viết mẫu trên
dòng kẻ (giống vở Tập viết). Hướng dẫn học sinh viết trên bảng con: giáo viên theo
dõi, kiểm tra, uốn nắn, hướng dẫn học sinh rút kinh nghiệm.
Ví dụ: Để dạy viết chữ hoa L, câu ứng dụng Lá lành đùm lá rách. Tôi chuẩn
bị sẵn 1 bảng mẫu chữ đã viết sẵn chữ hoa L, câu ứng dụng Lá lành đùm lá rách có
các dịng kẻ sẵn trên nền vàng cho học sinh quan sát trước, sau đó giáo viên chuẩn bị
thêm một bảng phụ để viết mẫu chữ hoa L, câu ứng dụng Lá lành đùm lá rách lên
cho học sinh quan sát các điểm đặt bút, rê bút, dừng bút và độ cao các con chữ. Điều

này giúp học sinh hình thành kiến thức trong đầu trước khi các em viết lên bảng con
của mình, nhằm tạo hiệu quả cao trong việc rèn chữ viết.
Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp học
sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ cái. Do vậy, giáo viên phải
viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ vừa giảng giải, vừa phân tích cho học sinh.
Khi viết mẫu, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay của giáo
viên viết từng nét chữ. Khi viết, giáo viên vừa kết hợp giảng giải, phân tích: đưa bút
như thế nào, thứ tự các nét viết ra sao, giáo viên cũng cần chú ý phân tích cả cách
viết dấu phụ và dấu thanh.
Bước 2: Luyện viết bảng con:
Sau khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp, giáo viên yêu cầu học sinh viết
bảng con. Quan sát học sinh viết bảng con để sửa cho các em ngay tại lúc đó, chỉ ra
chỗ sai cho các em rút kinh nghiệm. Giới thiệu những em viết đúng, viết đẹp trước
lớp để các em khác rút kinh nghiệm. Đối với những em viết sai, giáo viên nhắc nhở
ngay và hướng dẫn các em điều chỉnh lại cho đúng. Khâu này rất quan trọng vì nếu
các em làm đúng ở bảng con thì khi viết vào vở sẽ ít bị sai.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết vở:
Đây là bước quan trọng trong một tiết luyện viết, bởi có thể đánh giá chất
lượng chữ viết của các em sau khi xem bài viết của học sinh: xấu hay đẹp, đúng hay
sai, hoàn thành tốt, hoàn thành hay chưa hoàn thành. Sau khi cho học sinh thực hành
viết bảng con và giáo viên đã sửa lỗi thì giáo viên cho học sinh viết bài vào vở.
Trước khi viết bài giáo viên cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi viết, cách cầm
bút để học sinh ngồi đúng và đẹp trong quá trình viết. Trong khi học sinh viết bài,
giáo viên phải theo dõi, quan sát, nhắc nhở học sinh viết đúng và viết đẹp.
Khi dạy từ ngữ ứng dụng, ngoài việc hướng dẫn học sinh viết chữ ghi tiếng,
giáo viên còn phải quan tâm, nhắc nhở các em viết đúng khoảng cách giữa các chữ
đều đặn, hợp lí. Khoảng cách giữa các chữ thường được ước lượng bằng một chữ cái
o viết thường. Giữa các từ ứng dụng, học sinh viết theo điểm đặt bút, dừng bút.
Khi dạy viết câu ứng dụng, giáo viên cần lưu ý về cách viết và đặt dấu câu:
dấu chấm, dấu phẩy, dấu hỏi...

Bước 4: Nhận xét chữa bài:
Việc nhận xét bài của học sinh cũng rất quan trọng, thường căn cứ vào mục
đích, yêu cầu đặt ra cho từng bài học theo chương trình quy định. Qua việc nhận xét
bài, giáo viên cần giúp cho học sinh tự nhận thức được ưu điểm để phát huy, thấy rõ


những thiếu sót để khắc phục, kịp thời phát hiện, động viên những cố gắng, nổ lực
của học sinh khi viết chữ. Giáo viên cần viết lại những chữ học sinh viết sai để học
sinh thấy được cái sai và sửa lại cho đúng và ghi lời nhận xét ngắn gọn.
Sau mỗi tiết học Tập viết, Chính tả, luyện viết, khi nhận xét bài cho học sinh,
giáo viên cần nhận xét thật tỉ mỉ các nét chữ trong con chữ mà học sinh vừa viết và
phân tích rõ nguyên nhân học sinh viết chưa đúng, chưa đẹp để lần sau học sinh rút
kinh nghiệm cho những lần viết sau.
Qua việc nhận xét bài thường xuyên trên lớp, tôi phát hiện một số học sinh
viết chữ còn chưa đẹp các nét khuyết của các con chữ (l, b, g, h, k), nét móc xi của
các con chữ (n, m, p). Tơi tập trung các em thành nhóm theo đối tượng và hướng dẫn
cách viết.
Tôi thường chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn
học sinh luyện tập, thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu
tạo, kích thước và cỡ chữ, sau đó là viết đúng dịng và đúng tốc độ quy định. Việc
rèn luyện kĩ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp .
Sau một thời gian rèn luyện, tôi thấy số lượng học sinh viết chữ chưa đẹp ngày
càng giảm đi nhiều.
Song song với việc rèn chữ, giữ vở sạch là vấn đề không kém phần quan trọng
đối với mỗi học sinh. Vì vậy, tơi ln giáo dục học sinh ý thức giữ vở sạch sẽ: vở
sạch là vở khơng quăn góc, khơng xộc xệch, bao bọc cẩn thận, có nhãn vở, có bao
bìa. Bên trong vở, các em trình bày bài rõ ràng, khơng giây bẩn..
Đối với những em chưa có ý thức giữ vở, tôi liên hệ kịp thời với phụ huynh để
nhắc nhở việc giữ vở sạch và sắp xếp vở ngăn nắp, gọn gàng. Có như vậy, khi soạn

vở, các em đỡ tốn thời gian và giữ vở được tốt hơn.
Trước đây chúng ta thường nghe nói: “Chữ tốt là do hoa tay, hoa văn hay là do
trí óc”. Trong thực tế, xưa và nay cho thấy điều đó khơng hồn tồn đúng, mà quan
trọng cả là ở sự “rèn luyện”.
Rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh là một công việc địi hỏi tơi kiên trì
nhẫn nại và khơng nơn nóng. Tơi khơng những rèn cho các em viết đúng mà tiến
hành đến viết đẹp.
Bước 5: Hướng dẫn học sinh luyện viết ở trường, ở nhà:
+ Luyện viết ở trường:
Hiện nay, các trường đều thực hiện dạy hai buổi/ngày nên các em có thời gian
luyện viết vào buổi chiều. Ở những tiết luyện viết trước hết tôi hướng dẫn cho các
em sử dụng bảng cài để ôn lại các từ khó, dễ lẫn, các từ các em hay viết sai.
Sau đó yêu cầu học sinh viết bảng con nhiều lần những từ cần viết và cuối
cùng viết vào vở (Trình tự như nêu ở trên nhưng các bước thực hiện nhẹ nhàng hơn
vì các em đã nắm kỹ cách viết ).
+ Luyện viết ở nhà


Ở trường, thời gian không đủ để các em luyện tập, do đó sau mỗi bài viết trên
lớp tơi thường yêu cầu các em về nhà tự luyện vào vở. Để tránh nhàm chán cho các
em tôi thường cho thêm những bài thơ, bài văn yêu cầu các em viết ở nhà.
Ví dụ: Để giúp các em phân biệt và luyện viết chữ ng – ngh tôi yêu cầu các
em viết:
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lịng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Sau mỗi bài luyện viết của học sinh, giáo viên thu tập vở của học sinh và nhận
xét bằng bút đỏ, ghi các lỗi học sinh mắc phải để học sinh thấy được những điểm sai
và làm tốt hơn cho những bài viết sau.
2.3 Một số biện pháp hỗ trợ giúp học sinh viết tốt hơn
2.3.1. Giáo viên phải là tấm gương cho học sinh học tập về viết chữ đẹp

Để nâng cao chất lượng viết chữ đẹp ở học sinh lớp 2 thì người giáo viên phải
là người viết chuẩn, đẹp và thường xuyên rèn luyện chữ viết. Bởi trong mắt học sinh
thì cơ giáo là “thần tượng” là người các em rất xem trọng và được các em lấy làm
mẫu mực nhất. Bởi vậy giáo viên phải là người nắm vững kiến thức về cấu tạo, đặc
điểm chữ viết và các kiểu mẫu chữ và chữ viết của giáo viên phải đúng, chuẩn và
đẹp. Các em sẽ nhìn, quan sát và bắt chước những nét chữ từ đơn giản đến phức tạp
của cô giáo. Nếu giáo viên viết chữ đẹp và có ý thức rèn chữ viết thì chất lượng chữ
viết của lớp đó sẽ cao. Qua quan sát tôi thấy rằng nét chữ của các lớp khác nhau
nhưng trong một lớp thì lại tương đối giống nhau và rất giống chữ của giáo viên, bởi
học sinh lớp 2 rất dễ bắt chước. Do đó giáo viên cần phải thường xuyên rèn luyện
chữ viết để nâng cao chất lượng chữ viết của mình. Điều mà giáo viên phải làm và
làm thường xuyên đó là thể hiện nét chữ của mình trên bảng lớp mỗi ngày sao cho
khoa học, đẹp, đúng mẫu để học sinh học hỏi. Giáo viên cần viết đúng chính tả, đúng
mẫu, rõ ràng và ngay ngắn, cách trình bày lề bảng, dịng chữ ghi ngày tháng năm, tên
môn, tên bài học cần được viết rất mẫu mực không qua loa và tuyệt đối là khơng
được sai chính tả. Vậy nên địi hỏi giáo viên phải viết hằng ngày, phải luyện tập
thường xuyên để viết đúng mẫu chữ quy định và các bài viết luyện chữ đẹp và sáng
tạo.
2.3.2. Kết hợp với các môn học khác
Để giúp học sinh hình thành thói quen luyện viết. Trong các tiết học khác tôi
cũng yêu cầu học sinh luyện viết:
Với phân mơn chính tả, sau khi học sinh đọc các từ, các tiếng khó, hay sai,
giáo viên cho học sinh rèn luyện viết chữ trên bảng con.
Ví dụ bài “Trên chiếc bè” thì sau khi đọc bài, giáo viên hướng dẫn cho học
sinh viết vào bảng con các từ khó Dế Trũi, ngao du, say ngắm, trong vắt, dưới đáy…
trước khi các em viết vào vở để cho các em hình thành kiến thức trong đầu và viết
cho quen tay, rèn cho các em tính cẩn thận, tỉ mỉ và rèn kĩ năng viết của mình.
Với mơn Tốn thì sau khi giới thiệu bài, dạy cho học sinh những kiến thức cơ
bản, giáo viên hướng dẫn cho học sinh viết lời giải, các chữ số, các dấu >, <, =; cách



đặt tính và tính, cách trình bày tóm tắt, bài giải ... đều, đẹp, rõ ràng. Việc này hình
thành cho các em tính thẫm mĩ và tính khoa học.
Ví dụ: Ở phần đặt tính và tính. Tơi u cầu học sinh phải đặt tính thẳng cột,
thẳng hàng.
Với các mơn học khác, tơi u cầu các em phải nắn nót khi ghi thứ ngày, tên
đề bài, khi gạch hết bài... nhằm rèn cho các em tính cẩn thận khi trình bày.
2.3.3. Kết hợp với phụ huynh học sinh để có những biện pháp phù hợp giúp
học sinh viết đúng và đẹp
Cần làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để xây dựng phong
trào “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp”.
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, giáo viên chủ nhiệm phải tuyên truyền
cho phụ huynh biết về vai trò quan trọng của việc "Giữ vở sạch - viết chữ đẹp",
hướng dẫn phụ huynh trong việc mua sắm đồ dùng, sách vở, bút viết đúng quy định
cũng như cách bọc sách vở, ghi tên, lớp đầy đủ cho các em... và phổ biến cho phụ
huynh biết các tiêu chuẩn cụ thể khi xếp loại vở sạch chữ đẹp. Hàng kì, nhà trường
sẽ thơng báo tình hình học tập và rèn luyện chữ viết của học sinh qua sổ liên lạc gia
đình để phụ huynh có kế hoạch kèm cặp thêm ở nhà .
Giáo viên cần nâng cao nhận thức cho phụ huynh về tầm quan trọng của việc
viết chữ đẹp để từ đó phụ huynh kết hợp với giáo viên có những biện pháp phù hợp
giúp các em rèn viết chữ tốt hơn.
2.3.4. Xây dựng phong trào "Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp".
Từ đầu năm học giáo viên cần tiến hành kiểm tra sách vở, đồ dùng học tập của
học sinh, hướng dẫn học sinh dùng loại vở ô ly của công ty Hồng Hà, dùng loại bút
nào để luyện viết, hướng dẫn học sinh cách bọc vở và bảo quản, giữ gìn sách vở như
thế nào trong năm học. Hướng dẫn cho học sinh các tiêu chuẩn cần phấn đấu để đạt
danh hiệu “Vở sạch - Chữ đẹp”. Đồng thời cùng học sinh ra quyết tâm thực hiện các
chỉ tiêu về phong trào rèn chữ viết và giữ gìn sách vở của lớp. Giáo viên nên lấy
những tấm gương của các anh chị lớp trên đạt danh hiệu trong phong trào “Vở sạchChữ đẹp”, cấp trường, cấp huyện để làm gương cho các em học tập, noi theo.
Ngoài yêu cầu viết đúng, viết đẹp giáo viên cần hướng dẫn cách trình bày ở vở

của học sinh trong từng thể loại bài, cách kẻ vở khi hết bài, hết môn, hết ngày và hết
tuần như thế nào để thống nhất trong cả lớp để tạo một sự đồng đều và đẹp.
Khi phát hiện những học sinh có năng khiếu và viết chữ khá đẹp, giáo viên
phải có định hướng từ đầu là phải luôn chú ý theo dõi, kèm cặp nhắc nhở, hướng dẫn
những cách viết mới, những kiểu chữ hoa, chữ in nghiêng, chữ nét thanh nét đậm…
để học sinh luôn ghi nhớ, cố gắng luyện tập thường xun và có hướng phát huy
năng khiếu. Cịn những học sinh viết cịn yếu thì cần có kế hoạch phụ đạo, kèm cặp
và có kế hoạch bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu, viết đẹp.
Để tạo hiệu quả nhanh thì giáo viên hàng tuần phải kiểm tra và nhận xét, động
viên để học sinh cố gắng hơn ở tuần tiếp theo. Và có phần thưởng, tuyên dương
những học sinh viết chữ đẹp sau mỗi tháng để giúp các em phấn đấu và cố gắng
trong những tháng sau.


Giáo viên cần làm tốt việc bồi dưỡng lòng say mê và tinh thần quyết tâm thực
hiện phong trào “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp ” của học sinh bằng cách khơi dậy ở các
em lòng say mê về rèn chữ cho học sinh bằng những mẫu chữ đẹp, trang vở sạch đẹp
và phải thổi vào học sinh luồng sinh khí những ước mơ cao đẹp, kể cho học sinh
nghe những mẩu chuyện về tấm gương rèn chữ viết của thầy Nguyễn Ngọc Ký, Cao
Bá Quát và gần hơn nữa là các bạn học sinh trong lớp, trong trường mình để các em
soi mình vào trong những tấm gương đó mà phấn đấu rèn luyện chữ viết ngày càng
đẹp hơn.
2.3.5. Tổ chức thi viết chữ đẹp ở lớp
Để học sinh viết chữ tốt, tôi thường tổ chức thi viết chữ đẹp giữa các tổ trong
lớp mỗi tháng một lần. Qua mỗi cuộc thi ở lớp, tôi thường tuyên dương những học
sinh đạt “Vở sạch, chữ đẹp” để từ đó khích lệ học sinh viết chữ đẹp hơn. Tơi thường
khen những học sinh có tiến bộ để động viên khích lệ tinh thần luyện viết của các
em. Cho học sinh biết đánh giá bài của mình, của bạn. Những bài đạt yêu cầu về kĩ
thuật, trình bày đẹp, thể hiện năng khiếu (nét thanh, nét đậm) được trưng bày ở góc
học tập của lớp. Đối với học sinh viết chữ chưa đúng cỡ, đúng mẫu, tôi đánh giá kết

hợp với lời nhận xét để học sinh thấy rõ những chỗ sai của mình và có hướng cần
phấn đấu trong những bài tới.
Tơi lấy một số gương điển hình về rèn chữ viết (sưu tầm, lưu trữ bài viết tốt
của những em viết đẹp ở năm trước) để cho các em thấy được chữ viết đẹp là do sự
rèn luyện. Từ đó, đánh giá và thực hiện tốt phong trào giữ vở rèn chữ thường xuyên.
2.3.6. Làm tốt công tác tuyên dương, khen thưởng
Để giúp học sinh tiến bộ và đạt kết quả cao hơn thì điều khơng thể thiếu đó là
sự động viên, khích lệ kịp thời của giáo viên. Bên cạnh đó giáo viên cần tuyên
dương, khen thưởng những học sinh có thành tích tốt để các em có động lực phấn
đấu hơn và làm gương cho các bạn khác noi theo. Và các hình thức tuyên dương như
tuyên dương trước lớp, trước cờ trong các giờ sinh hoạt chào cờ và phát những phần
thưởng như tập sách, bút hay một hộp bánh để giúp các em có chí hướng phấn đấu.
3. Kết quả:
Qua nghiên cứu và áp dụng các biện pháp rèn luyện chữ viết cho các em tơi
thấy rằng chất lượng chữ viết của học sinh có nhiều tiến bộ rõ rệt. Số lượng học sinh
viết đúng, viết đẹp nhiều hơn, số học sinh viết chưa đúng mẫu giảm xuống. Khơng
cịn học sinh viết khơng đúng độ cao các con chữ, sai hình thái các con chữ. Học sinh
ít viết sai lỗi chính tả...
Kết quả khảo sát kỹ năng viết tuần 24 ở lớp tôi giảng dạy như sau:
Tổng
số HS

31

HS viết chữ
đẹp, đúng
mẫu
SL
%


26

83,9

HS viết chữ
chưa đúng mẫu,
sai lỗi chính tả
SL
%

1

3,2

HS viết thế
chữ khơng ổn
định
SL
%

5

16,1

HS sai kỷ
thuật nối nét
SL

%


3

9,7

HS viết chưa
đúng các con
chữ viết hoa
SL
%

0

0


III. Phần kết luận
1. Ý nghĩa của sáng kiến
Nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh là việc làm hết sức quan trọng và
thiết thực. Rèn cho các em ý thức viết đúng, viết đẹp là rèn cho các em tính cẩn thận,
tỉ mĩ, óc sáng tạo và khiếu thẫm mĩ. Chữ viết đúng, viết đẹp phản ánh tính nết của
các em học sinh. Mỗi giáo viên chúng ta cần phải làm tốt cơng tác này nhằm góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Qua thực hiện sáng kiến kinh nghiệm tôi đã tuyên truyền, tạo được uy tín,
niềm tin đối với phụ huynh học sinh giúp họ hiểu được vai trò, ý nghĩa của việc rèn
chữ viết đúng, đẹp. Để từ đó cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, phụ huynh mua
các loại vở, đồ dùng học tập đầy đủ, đúng chuẩn để giúp các em rèn chữ viết đúng và
đẹp. Phối hợp tốt với phụ huynh trong việc nhắc nhở, động viên để giúp các em
luyện viết thêm ở nhà và biết soạn sách vở gọn gàng, ngăn nắp để giữ vở bền đẹp.
Giúp các em học sinh nắm được những kiến thức, biện pháp, kĩ năng để luyện viết
đúng, viết đẹp. Khí thế tham gia rèn chữ viết được đông đảo học sinh thực hiện

thường xuyên trở thành phong trào. Các em hứng thú với giờ học tập viết hơn. Giúp
các em viết chữ đẹp hơn để góp phần nâng cao hiệu quả các môn học khác cũng như
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Nâng cao chất lượng bài dạy
trong tổ khối, trong nhà trường.
Đề tài này có thể áp dụng ở tất các trường tiểu học trong huyện, tỉnh. Qua áp
dụng tôi thấy học sinh nắm chắc kiến thức vận dụng tốt các biện pháp, các kĩ năng và
điều đặc biệt là chữ viết của các em tiến bộ rõ rệt, có nhiều em viết chữ nét thanh, nét
đậm rất đẹp. Khi các em viết chữ rõ ràng, đẹp hơn và tốc độ nhanh hơn kéo theo việc
viết bài ở những môn khác tốt hơn nên hiệu học tập cao hơn.
2. Những kiến nghị, đề xuất.
Sau khi nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhỏ
của mình để góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2:
2.1. Đối với nhà trường
Với nhà trường thì cần thường xuyên tổ chức các cuộc thi "Viết chữ đẹp" để
học sinh và giáo viên tham gia, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể cho từng đối
tượng riêng. Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nghiệm
để nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường, của từng khối lớp.Trưng bày các
bài viết đẹp, tập vở sạch cho học sinh toàn trường tham khảo.
Đưa tiêu chuẩn vở sạch chữ đẹp vào đánh giá thi đua của cả thầy và trị. Duy
trì các phong trào thi đua “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Hội thi “Viết chữ đẹp” cấp
trường.
Thường xuyên quan tâm, kiểm tra, rà soát, sửa chữa và cung cấp kịp thời về
mặt cơ sở vật chất như: bảng chống loá đạt chất lượng (lớp 1, 2 phải có phần kẻ ơ li
để thuận tiện cho việc dạy tập viết và hướng dẫn học sinh luyện viết), bàn ghế phải
đúng chuẩn, không để bàn thấp, ghế cao hay ghế quá cao so với bàn... Hệ thống bóng
đèn, cửa sổ phải cung cấp đủ ánh sáng cho học sinh ngồi học để học sinh có điều
kiện thuận lợi trong việc rèn chữ.


Bên cạnh đó, sau mỗi học kỳ nhà trường cần có những chương trình tổ chức

triển lãm các thành quả mà học sinh đã làm được như các bài thi viết chữ đẹp, những
tập vở tiêu biểu để cho các em, các bậc phụ huynh cùng xem và thấy được những
thành quả của con em mình đã ý thức rèn luyện và để học sinh các lớp có sự thi đua
học tập lẫn nhau.
2.2. Đối với giáo viên
Giáo viên phải là tấm gương sáng cho các em noi theo từ những việc nhỏ nhất:
tư thế ngồi viết, cách cầm bút, chữ viết bảng, cách trình bày bảng, cách nhận xét cho
học sinh. Và cái cần ở người giáo viên nữa đó là lịng u nghề, u trẻ, sự tận tâm,
tận tình chỉ dạy cho học sinh. Nắm bắt được những mặt mạnh và mặt yếu của từng
học sinh, từ đó phân nhóm học sinh, lên kế hoạch bồi dưỡng chữ viết cũng như phụ
đạo cho từng nhóm đối tượng học sinh và thường xuyên trau dồi chữ viết, luyện tập
nhiều, không ngừng học hỏi bạn bè, đồng nghiệp để làm phong phú vốn kiến thức về
chữ viết và những kĩ thuật trong rèn viết chữ đẹp.
Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh
lớp 2 được thực nghiệm trong quá trình dạy học của tơi. Trong q trình nghiên cứu
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nên tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của đồng nghiệp và cấp trên để đề tài này của tơi được hồn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn !



×