Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 22 trang )

CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT 
CHO HỌC SINH LỚP 2”


Quảng Bình, tháng 02 năm 2019

CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
 “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT 
CHO HỌC SINH LỚP 2”

Họ và tên:           Nguyễn Thị Thương
Chức vụ:             Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phú Thủy


Quảng Bình, tháng 02 năm 2019

1. Phần mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài:
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là một biểu  
hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp  
phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự  trọng đối với mình cũng như  
đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình…”.
Những dòng chữ  ngay ngắn, thẳng hàng luôn gây  được cảm tình cho 


người đọc, người xem. Ngược lại, nét chữ  xiêu vẹo, nghiêng ngả, chưa được 
đẹp … khiến người đọc không hiểu được nội dung văn bản, thì việc chuyển  
tải  thông tin sẽ  gặp nhiều hạn chế.  Ông cha ta đã từng nói " Nét chữ  nết  
người" quả  không sai, chúng ta có thể  đoán được tính cách một người thông 
qua nét chữ của người đó. Bởi cái chữ phản ánh rất đúng cái tính cách, bản chất 
của người cầm bút viết nên nó. Nhìn nét chữ  ngay ngắn, tròn trĩnh đó là người 
có tính cách cẩn thận, chu toàn, gọn gàng, làm việc gì cũng tới nơi tới chốn, còn  
nhìn nét chữ  nghiêng ngã, xiêu vẹo chứng tỏ  người viết có tính cách cẩu thả,  
thiếu cẩn thận.  Nét chữ  là biểu hiện của nết người, là phản ánh ý thức rèn 
luyện tư  duy vào óc thẩm mĩ của người viết. Từ  việc rèn chữ  viết đẹp góp  
phần rèn luyện cho chính các em đức tính cẩn thận, tính kỷ  luật và lòng tự 
trọng đối với mình, đối với người khác. Vì thế  chữ  viết có vai trò rất quan  
trọng đối với con người. Chữ viết cần phải đúng, đẹp để tạo sự tôn trọng lẫn  
nhau. 
Chữ   viết   là   một   công   cụ   dùng   để   giao   tiếp   và   trao   đổi   thông   tin,   là 
phương tiện để  ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời 
sống... Do vậy,  ở  trường Tiểu học việc dạy học sinh biết chữ  và từng bước 


làm chủ được công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu 
quan trọng của môn Tiếng Việt. Ch ữ  vi ế t đã tr ở  thành m ộ t công c ụ  quan 
tr ọ ng trong vi ệ c hình thành, phát tri ể n văn hoá, văn minh c ủ a m ỗ i dân 
t ộ c.   Ngoài ra nó còn góp phần rèn luyện những phẩm chất đáng quý như  tính  
cẩn thận, lòng yêu cái đẹp, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng và thái độ tôn 
trọng người khác thông qua chữ viết. Và thông qua việc rèn luyện chữ viết mà 
giáo dục nhân cách con người. Do đó việc rèn chữ viết cho học sinh là điều rất  
cần thiết và không phải đơn giản, đòi hỏi cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo 
viên và học sinh. Giờ  đây nhu cầu về  cái đẹp ngày càng cao, viết chữ  đẹp là  
điều đang được mọi người quan tâm và đã gặt hái được nhiều thành công đáng 
kể. Đặc biệt phong trào "Vở  sạch, chữ  đẹp" đang được các ban ngành, nhà 

trường, phụ huynh và học sinh quan tâm.        
Trẻ em đến trường được học đọc, học viết. Sung sướng biết bao khi các  
bậc làm cha làm mẹ  được nhìn thấy con em mình tròn môi đọc từng tiếng và  
nắn nót viết từng nét chữ thật đẹp. 
Nếu như tập đọc giúp trẻ đọc thông, thì tập viết giúp trẻ viết thạo. Đọc 
thông mở  đường cho viết thạo, viết thạo sẽ  giúp trẻ  ghi nhanh, ghi rõ ràng 
những điều thầy giảng và những điều trẻ  nghĩ. Nhìn trang vở  tập viết với 
những dòng chữ  đều tăm tắp, không bị  giây mực, quăn mép, lòng ta dấy lên  
niềm vui, ta như được củng cố thêm niềm tin vào tương lai của con trẻ. Nhưng  
muốn viết thạo, trẻ phải gắng công khổ  luyện dưới sự  chăm sóc tận tình của  
các thầy cô giáo.
Nhưng giờ  đây, chúng ta đang  ở  trong một thời đại mới, thời đại công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người  
thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì 
cầm bút viết từng nét chữ  trên từng trang giấy. Việc rèn chữ  viết của mọi 
người đang dần bị chìm vào quên lãng.
Đối với tôi, là một giáo viên dạy lớp 2 thì việc dạy học sinh viết chữ đẹp 
là điều không dễ  dàng và đòi hỏi người giáo viên cần có những kĩ năng và 
phương pháp phù hợp bởi đối với học sinh lớp 2 nhất là lúc đầu năm học, mặc 
dù các em đã được làm quen với việc viết chữ ở lớp 1 nhưng việc tập trung để 
viết chữ đúng và đẹp là rất khó khăn bởi trình độ nhận thức của các em còn hạn 
chế, chưa chú ý vào việc tập viết, các em viết nhanh, viết  ẩu và viết sai rất  
nhiều, sai về độ cao, về khoảng cách, về cấu tạo các con chữ... Thế nên cần có 
những biện pháp phù hợp giúp các em học sinh lớp 2 rèn viết chữ đúng và đẹp  
hơn góp phần nâng cao chất lượng học tập.


Là một giáo viên dạy lớp 2 tôi luôn trăn trở, tự  hỏi làm thế  nào để  giúp  
cho các em học sinh lớp 2 có thể  viết đúng, viết đẹp. Với những lí do trên mà 
tôi chọn đề  tài "Một số  biện pháp nâng cao chất lượng chữ  viết cho học  

sinh lớp 2" giúp các em học sinh lớp 2 có được những kĩ năng và phương pháp 
để rèn viết chữ đúng và đẹp.
1.2. Điểm mới của đề tài
Đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh  
lớp 2"  đã đưa ra những biện pháp mới rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh  
trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, phù hợp với tình hình thực tế hiện 
nay, giúp cho các em yêu Tiếng Việt hơn, có ý thức luyện viết cẩn thận hơn,  
đẹp hơn.

2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng khi giảng dạy phân môn tập viết cho học sinh lớp 2
“Tập viết” là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt  ở 
tiểu học, nhất là đối với các lớp ở đầu cấp. Phân môn tập viết trang bị cho học  
sinh bộ chữ viết Tiếng Việt và những yêu cầu về kĩ thuật để  sử  dụng bộ  chữ 
cái này trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa đó, tập viết không những có quan  
hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn 
luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà 
trường đó là kĩ năng viết chữ. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ  nhanh thì học 
sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. 
Rèn luyện chữ viết không chỉ giúp cho học sinh nắm những kiến thức cơ 
bản về chữ viết mà còn rèn kĩ thuật viết chữ. Trong các tiết tập viết, học sinh  
nắm bắt được các tri thức cơ bản về cấu tạo các chữ cái Tiếng Việt được thể 
hiện trên bảng lớp, bảng con, ở vở tập viết, vở ghi bài các môn học khác. Đồng  
thời, học sinh được giáo viên hướng dẫn các yêu cầu kĩ thuật viết từng nét chữ 
để hình thành nên một chữ cái rồi đến tiếng, từ, cụm từ, câu và cả  đoạn văn... 
Song song với việc rèn chữ  hoa, học sinh còn được rèn viết văn bản có thể  là  


nhìn một đoạn văn, đoạn thơ  chép lại cho đúng  (tập chép) hoặc nghe cô giáo 
đọc mẫu, học sinh viết vào vở (nghe viết). 

Ở trường tiểu học, trong những năm gần đây, học sinh viết chữ chưa đẹp 
là một tình trạng đáng báo động. Hiện nay, học sinh lựa chọn đủ các loại bút để 
viết nên  ảnh hưởng không nhỏ  đến chất lượng chữ  viết. Vẫn còn nhiều học 
sinh viết chữ  chưa đúng mẫu, chưa đúng độ  cao các con chữ, kỷ  thuật nối nét  
chưa đúng, thế  chữ  không  ổn định, viết sai các nét khuyết trên và nét khuyết 
dưới. Nhiều em viết các chữ  viết hoa chưa đúng độ  cao, độ  rộng, hình dạng 
con chữ. Ít có học sinh có ý thức và chăm chỉ luyện viết thêm ở nhà. Mặt khác, 
chữ  viết của một số  giáo viên chưa đúng quy định cũng  ảnh hưởng rất nhiều 
đến việc rèn chữ  viết của học sinh. Mỗi thầy, cô giáo được xem như  là một 
tấm gương phản chiếu để học sinh soi rọi vào đó. Học sinh tiểu học là lứa tuổi 
hay “bắt chước” giáo viên viết như  thế nào thì học sinh viết như  thế đó, đặc 
biệt là các lớp đầu cấp.
      Thực tế qua giảng dạy ở lớp tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy vẫn còn nhiều 
học sinh viết chữ  chưa đẹp, chưa đúng mẫu, thế  chữ  không  ổn định, viết sai 
chính tả  ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các môn học khác.  
Cụ thể, kết quả khảo sát kỹ năng viết sau 4 tuần học ở lớp tôi giảng dạy như 
sau:
Tổng 
số HS

HS viết chữ 
đẹp, đúng 
mẫu
SL

34

%

HS viết chữ 

HS viết thế 
HS sai kỷ 
chưa đúng mẫu,  chữ không ổn  thuật nối nét
sai lỗi chính tả
định
SL

%

SL

%

SL

%

HS viết chưa 
đúng các con 
chữ viết hoa
SL

%

4
11,8
30
88,2
25
73,5

30
88,2
28
82,4
2.2 Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 rèn chữ viết đúng, viết đẹp

Chữ viết có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu học, học sinh phải dùng 
chữ viết để học tập và là phương tiện giao tiếp. Vì vậy, chữ viết không những 
có quan hệ  mật thiết tới chất lượng học tập  ở các môn học khác mà còn góp 
phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học môn Tiếng  
Việt trong trường tiểu học ­ đó là kỹ  năng viết chữ. Nếu học sinh viết đúng, 
đẹp, rõ ràng, đảm bảo tốc độ quy định thì học sinh có điều kiện để ghi chép bài  
học tốt, nhờ vậy mà kết quả học tập tốt hơn, ngược lại viết xấu sẽ ảnh hưởng  
không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Chữ  viết mang tính thực hành 
cao, ngoài việc học sinh nắm được các kiến thức cơ  bản của việc viết chữ và  
kỹ  thuật viết thì rèn viết chữ  đẹp là một yêu cầu cũng hết sức quan trọng và 
cần thiết, vì vậy chúng ta cần chú ý rèn cho học sinh tính cẩn thận, sự sáng tạo 
khi viết ngay từ đầu để tạo thành thói quen và kĩ năng cho các em. 


Để làm được điều đó, giáo viên phải là người có những kiến thức chuẩn 
về những mẫu chữ và những quy tắc cần thiết trong dạy học Tập viết để  đưa 
ra những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm mang lại hiệu  
quả cao:
2.2.1. Giáo viên phải nắm rõ kiến thức về những quy định viết chữ
Trong quá trình hình thành chữ viết cho học sinh, giáo viên cần nắm chắc 
những quy định về  các nét chữ, các dấu thanh, cấu tạo các con chữ, cách viết 
các con chữ... Cụ thể, giáo viên thường gọi các nét cơ bản để mô tả hình dạng,  
cấu tạo và quy trình viết một chữ cái theo các nét viết đã quy định ở bảng mẫu,  
gồm có nét viết và nét cơ  bản. Nét viết là một đường viết liền mạch, không 

phải dừng lại để  chuyển hướng ngòi hay nhấc bút. Nét viết có thể  là một hay  
nhiều nét cơ bản tạo thành, ví dụ như nét viết chữ cái o là nét cong kín, nét chữ 
e là hai nét cong phải, trái tạo thành. Còn nét cơ bản là nét bộ phận dùng để tạo  
thành nét viết hay hình chữ cái. Nét cơ bản có thể đồng thời là nét viết hoặc nét  
kết hợp hai, ba nét cơ  bản để  tạo thành một nét viết. Ví dụ  nét cong trái là nét 
viết chữ c, nét cong phải kết hợp với nét cong trái thì tạo thành chữ e. 
Các loại nét cơ bản đó là nét thẳng có 3 dạng: thẳng đứng, thẳng ngang, 
thẳng xiên; nét cong có 2 dạng: nét cong kín, nét cong hở (cong hở trái, cong hở 
phải); nét móc có 3 dạng: móc xuôi, móc ngược, móc hai đầu; nét khuyết có 2 
dạng: khuyết trên, khuyết dưới  và nét hất.
Giáo viên cần cung cấp cho học sinh những đặc điểm, cấu tạo, độ  cao,  
độ  rộng và cách viết từng con chữ  như  con chữ   a có độ  cao 1 ô li, cấu tạo là 
một nét cong kín và một nét móc ngược, con chữ b có độ cao là 2 ô li rưỡi, gồm 
có nét khuyết  trên và nét móc ngược, hay con chữ  d có độ  cao là 2 ô li rưỡi,, 
gồm có 2 nét: nét cong kín và nét móc ngược phải; con chữ g có độ cao là 2 ô li 
rưỡi, gồm nét cong kín và nét khuyết dưới; con chữ  t có độ  cao là 1 ô li rưỡi, 
gồm nét hất, nét móc ngược phải, nét ngang,... Bên cạnh đó, giáo viên cần cung  
cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về cách viết các con chữ hoa như con 
chữ H cao 5 ô li, gồm có 2 nét: nét 1 là sự kết hợp giữa nét cong trái và nét lượn  
ngang, nét 2: là sự  kết hợp của 3 nét: khuyết   trên, khuyết  dưới  và nét móc 
ngược phải, nét 3: nét thẳng đứng.
Ngoài ra giáo viên cần hướng dẫn cho các em biết được điểm đặt bút, 
dừng bút đúng cách để hoàn thành viết một con chữ và xác định cách rê bút, lia  
bút. Rê bút là nhắc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo đường nét  
viết trước hoặc tạo ra vệt mờ  để  sau đó có nét viết khác đè lên. Từ  rê được 


hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề  mặt, do đó giữa đầu 
bút và mặt giấy không có khoảng cách.
Lia bút là chuyển dịch đầu bút từ  điểm dừng này qua điểm dừng khác,  

không chạm vào mặt giấy. Từ lia xuất phát từ  nghĩa ném hoặc đưa ngang thật 
nhanh. Vì vậy khi lia bút ta phải nhắc đầu bút lên để đưa nhanh sang điểm khác,  
tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy.
Cần cung cấp cho học sinh  đầy  đủ  về  mẫu chữ  ­ mẫu chữ  cái viết 
thường cỡ chữ vừa: Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị (ô li): b, l, h, k, 
g, y.  Các chữ  cái được viết với độ  cao 2 đơn vị  (ô li): d, đ, q, p.  Các chữ  cái 
được viết với độ cao 1,5 đơn vị (ô li): t. Các chữ cái được viết với độ  cao 1,25  
đơn vị (ô li): r, s. Các chữ cái còn lại được viết với độ cao 1 đơn vị (ô li): o, ô, 
ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e, ê, n, m. Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông 
có cạnh 0,5 đơn vị (ô li).
Với mẫu chữ cái viết hoa: Các chữ  cái được viết với độ  cao 5 đơn vị (ô 
li). Còn mẫu chữ số được viết với độ cao 2 đơn vị (ô li).
Giáo viên cần lưu ý khi dạy viết  ứng dụng các chữ  ghi tiếng có chữ  cái  
viết hoa đứng đầu (tên riêng, chữ viết hoa đầu câu...), cần hướng dẫn học sinh  
cách viết tạo sự liên kết bằng nối nét hoặc để khoảng cách hợp lí giữa chữ cái  
viết hoa và chữ cái viết thường. 
Cụ  thể: Có 17 chữ  cái viết hoa  A, Ă, Â, G, H, K, L, M, Q, R, U,  Ư, Y  
(kiểu 1), A, M, N, Q (kiểu 2) có điểm dừng bút hướng tới chữ viết thường kế 
tiếp như Hà Nội, Quỳnh Trâm...
Có 17 chữ cái viết hoa B, C, D, Đ, E, Ê, I, N, O, Ô, P, S, T, V, X (kiểu 1), 
V (kiểu 2) có điểm dừng bút không hướng tới chữ cái viết thường kế tiếp, do  
đó khi viết cần căn cứ  vào từng trường hợp để  tạo sự  liên kết bằng cách viết  
chạm đầu nét của chữ cái viết thường vào nét chữ cái viết hoa đứng trước hoặc 
để khoảng cách ngắn (bằng 1/2 khoảng cách giữa 2 chữ  cái viết thường) giữa  
chữ hoa với chữ thường. Ví dụ như Đà Nẵng, Tây Nguyên, Phan Đình Phùng...
Khi viết chữ cần chú ý cho học sinh nối chữ liền mạch, đảm bảo tốc độ 
viết nhanh. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một 
chữ ghi tiếng rồi mới đặt dấu phụ và dấu thanh.
Việc đặt dấu thanh cũng hết sức quan trọng, và việc này đã được xử  lí  
thống nhất trong sách giáo khoa của chương trình Tiểu học mới do Nhà Xuất 

bản  Giáo dục  ấn hành, cụ  thể: Dấu thanh ( huyền, hỏi, sắc, ngã, nặng) được 
đánh ở âm chính: khóa, thùy, ...), khi âm chính là một âm đôi, xuất hiện trong âm 
tiết mở  (không có âm tiết cuối) thì dấu thanh được đánh  ở  yếu tố  đầu của 


nguyên âm đôi đó:  bìa, bùa...  Khi âm chính là một âm đôi, xuất hiện trong âm 
tiết đóng (có âm cuối) thì dấu thanh được đánh  ở  yếu tố  cuối của nguyên âm 
đôi đó:  miếng, buồm, vượn,...  Cách đặt dấu thanh trong chữ  viết Tiếng Việt  
cũng cần đảm bảo sự hài hòa, cân đối và mang tính thẩm mĩ, nên các dấu thanh 
thường được đặt vào vị trí khoảng giữa (trên, dưới) đối với chữ cái  a, ă, o, ơ, e, 
i (y), u, ư như cài, gỡ, hỏi, nặng; riêng đối với các chữ cái â, ê, ô thì dấu huyền, 
sắc được đặt ở phía bên phải của dấu mũ: gối, khế, cấy...
2.2.2. Các bước chuẩn bị,  tiến hành hướng dẫn học sinh luyện viết 
a. Chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, đồ dùng học tập trước khi lên lớp
 
Điều kiện cơ  sở  vật chất: Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế  học  
sinh không thể thiếu đối với việc dạy học nói chung, đối với việc rèn chữ  nói 
riêng. Vì vậy, nó phải đảm bảo để học sinh học tập tốt hơn.
Hoạt động chủ  đạo của học sinh trong giờ  học Tập viết là thực hành 
luyện tập nhằm mục  đích hình thành kĩ năng viết chữ  thành thạo, dưới sự 
hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết trên 2 hình thức:  
viết trên bảng và viết trong vở Tập viết. Để  thực hành luyện viết đạt kết quả 
tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị  và sử  dụng có hiệu quả  một số  đồ  dùng 
học tập thiết yếu sau: 
Thứ  nhất: bảng con màu đen (hoặc xanh đậm), bề  mặt có độ  nhám vừa 
phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn dễ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết  
phấn. Bảng con là công cụ thực hành tiện lợi và hiệu quả đối với học sinh, có  
tác dụng tích cực trong quá trình dạy tập viết  ở tiểu học. Loại bảng viết bằng  
phấn và loại bảng viết bằng bút dạ có những mặt ưu và một số  hạn chế nhất  
định khi sử dụng, song tác dụng của chúng đối với rèn kĩ năng viết cho học sinh  

là rất quan trọng.
Thứ hai: Phấn trắng có chất lượng tốt sẽ làm nổi rõ hình chữ trên bảng.  
Nếu viết bút dạ  thì bút phải cầm vừa tay, đầu bút nhỏ, ra mực đều mới viết  
được rõ ràng. 
Thứ ba: Khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải, dễ cầm tay sẽ giúp cho việc 
xóa bảng hợp vệ sinh và không ảnh hưởng đến chữ viết.
Thứ tư: Vở tập viết phải đúng mẫu theo quy định của Bộ Giáo dục. Học  
sinh phải giữ  vở  sạch sẽ, bao bìa kính  ở  ngoài, có ghi tên, lớp rõ ràng. Khi sử 
dụng vở tập viết thì học sinh lưu ý không được làm dơ, bẩn, trình bày chữ viết  
sạch sẽ, đẹp, khoa học, không bôi xóa lung tung. 
Thứ  năm:  Bút, với bút mực thì phải sử  dụng bút không nhạt quá, cũng 
không đậm quá. Với bút máy thì phải chọn bút máy chuẩn, ngòi mềm, đầu bút 


thanh, vừa tay cầm và chuẩn bị mỗi bạn một lọ mực, một cái khăn và một cái  
bìa kê tập. Khi viết bút mực giáo viên cần lưu ý cho học sinh viết cẩn thận,  
không để mực dây ra tập, quần áo, không được viết nhanh, viết ẩu, viết ngoáy.
b. Hướng dẫn học sinh tư thế ngồi viết, cách cầm phấn, cầm bút
Quá trình hình thành kĩ năng viết chữ trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn nhận biết, hiểu về chữ viết thông qua hoạt động của các giác 
quan mắt, tai và hoạt động của vùng ngôn ngữ trong bộ não.
Giai đoạn  điều khiển vận  động (cơ, xương bàn tay), thường có hiện  
tượng "lan tỏa", dễ   ảnh hưởng tới một số  bộ  phận khác trong cơ  thể  (ví dụ: 
miệng méo, vai gù, lệch...). Nhận thức rõ tầm quan tr ọng của giai đoạn này 
trong quá trình tập viết, chương trình Tiểu học Pháp từ  năm 1991 đã xác định: 
“Tập viết là môn học của bàn tay và cơ  thể, đòi hỏi sự  chính xác của nét bút,  
sự khéo léo trong trình bày, sự nhảy cảm về thẩm mĩ khi viết.”
Bởi vậy trong quá trình viết chữ học sinh cần lưu ý đến tư thế ngồi viết  
cũng như cách cầm bút và phấn.
Tư  thế  ngồi viết: học sinh cần ngồi thẳng lưng, không tì ngực vào bàn, 

đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 ­30 cm, nên cầm bút (phấn) bằng tay phải,  
tay trái tì nhẹ lên mép vở (bảng) để trang viết (bảng) không bị xê dịch, hai chân  
để song song, thoải mái.

Tư thế ngồi viết

Cách cầm phấn: Cầm bằng 3 ngón tay, đầu ngón cái cách đều viên phấn  
khoảng 1 cm, cầm phấn chắc vừa phải, khi đưa phấn lên cần nhẹ  tay để  tạo  


nét thanh, khi đưa xuống cần miết đầu phấn mạnh hơn chút để  tạo nét đậm. 
Nhưng phải từ từ, tránh đột ngột.
Cách cầm bút: Cầm bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) với 
độ chắc vừa phải, không chặt quá, không lỏng quá. Khi viết dùng ba ngón tay di  
chuyển bút nhẹ  nhàng từ  trái qua phải (không nhấn mạnh đầu bút xuống mặt 
giấy), cán bút nghiêng về  bên phải, cổ  tay, khuỷu tay, cánh tay cử  động mềm  
mại, thoải mái. Khi viết cần tạo nét thanh bằng cách đưa bút lên nhẹ, còn khi  
đưa xuống cần miết ngòi bút xuống để  tạo nét đậm.  Ngoài ra khi viết chữ 
đứng, học sinh cần để  vở  ngay ngắn trước mặt, nếu viết chữ nghiêng cần để 
vở  hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc  
khoảng 15 độ. Khi viết chữ về bên phải, quá xa lề vở cần xê dịch vở sang bên 
sáng để mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhoài người về bên phải để viết tiếp. 

Cách cầm bút

c. Hướng dẫn học sinh viết đúng, viết đẹp
 

* Củng cố cho học sinh những kiến thức căn bản của cách viết: 


Vào đầu năm học giáo viên đã củng cố  kiến thức cơ  bản về  độ  cao, độ 
rộng, khoảng cách các con chữ  và chữ, các quy tắc đặt dấu thanh, cách cầm 
phấn, cầm bút, tư  thế  ngồi viết để  học sinh nắm chắc nhằm tạo cho các em 
những thói quen tốt trong việc rèn viết chữ.
Giáo viên giúp học sinh xác định lại vị trí đường kẻ trong vở học sinh, tọa 
độ của các nét chữ, chữ trong khung chữ mẫu
Về  cơ  bản, hình dạng 29 chữ  cái viết thường cỡ  chữ  vừa có thể  chia  
thành ba nhóm, có cấu tạo các nét cơ  bản gần gũi với nhau. Luyện viết theo  


từng nhóm chữ  giúp cho kĩ năng viết các nét cơ  bản thành thạo, tạo thói quen  
viết đều nét và đẹp chữ. Dựa vào mẫu chữ  viết trong trường Tiểu học, tùy  
điều kiện giáo viên có thể cho học sinh luyện viết theo hai cách: 
Ở giai đoạn của việc luyện viết, giáo viên nên chọn loại vở  kẻ ô vuông  
nhỏ (dòng kẻ 4 ô ly), để dễ xác định chiều cao và bề rộng cho đúng tỉ lệ. Biện  
pháp thực hiện chủ yếu là từ dễ đến khó theo từng nhóm chữ:
Nhóm 1: i, u, ư, t, n, , m, v, r: các chữ cái ở nhóm này có chiều cao 1 đơn 
vị (ô li), riêng chữ cái r có cao 1, 25 đơn vị (ô li), chữ t cao 1, 5 đơn vị (ô li). Bề 
rộng cơ bản của chữ là 3/4 đơn vị (ô li), riêng chữ cái m rộng 1, 5 đơn vị (ô li). 
Chữ  cái  ở  nhóm này thường được cấu tạo bởi các nét móc  (móc xuôi, móc 
ngược, móc hai đầu). Khi luyện viết chữ hai nét móc xuôi và móc hai đầu cần 
chú trọng vì chúng khó viết hơn nét móc ngược, 4 chữ cái  n, m, v, r cần được 
luyện tập nhiều lần để nét viết mềm mại, đẹp mắt.
Nhóm 2:  l, b, h, k, y, p: các chữ  cái này có chiều cao 2, 5 đơn vị  (ô li),  
riêng chữ cái p cao 2 đơn vị (ô li), bề rộng cơ bản của chữ là 3/4 đơn vị  (ô li).  
Về  cấu tạo chữ  cái  ở  nhóm này có nét khuyết  (khuyết  trên, khuyết dưới), có 
những điểm gần gũi với chữ cái ở nhóm 1 (nửa dưới của chữ  b giống với chữ 
v, nửa dưới của chữ  h giống với chữ  n, nửa trên của chữ  y giống với chữ  u). 
Khi luyện viết chữ hai nét khuyết trên và khuyết dưới đều cần được chú trọng, 
tập trung luyện viết cho đẹp bốn chữ cái l, b, h, n (tạo vòng xoắn ở chữ b và k 

vừa phải, hợp lí trong hình chữ). 
Nhóm 3: o, ô, ơ, a, ă, â, d, d, q, g, c, x, e, ê, s : các chữ cái ở nhóm 3 có 3 
loại độ cao khác nhau, song chúng đều có độ cao 1 đơn vị (ô li) (10/15 chữ), các 
chữ  d, đ, q cao 2 đơn vị (ô li), chữ  g cao 2, 5 đơn vị (ô li), riêng chữ  s cao 1, 25 
đơn vị (ô li). Bề rộng cơ bản của hầu hết các chữ cái là 3/4 đơn vị (riêng chữ   s 
rộng 1 đơn vị, chữ x rộng 1, 5 đơn vị). Nhóm chữ này thường được cấu tạo bởi  
các nét cong (cong kín, cong hở), trong đó nét cong kín (chữ  o) có mặt  ở  mười 
chữ cái, tạo sự liên hệ gần gũi về hình dạng giữa các chữ. Vì vậy muốn luyện  
viết đẹp các chữ cái ở nhóm 3 cần tập trung luyện viết thật đẹp chữ  o, từ chữ 
o, dễ dàng chuyển sang viết các chữ ô, ơ, a, ă, â, d, d, q, g, dễ tạo được các nét 
cong kín để viết được các chữ còn lại. 
Với chữ hoa gồm có 29 chữ tuy hình dạng khác nhau nhưng nhìn chung có  
thể chia làm 5 nhóm có cấu tạo các nét cơ bản. Hầu hết các chữ viết hoa cao 2,  
5 đơn vị (ô li), còn chữ G, Y có chiều cao 4 đơn vị (ô li). Do vậy khi luyện viết 
các chữ hoa cần tập tung vào việc tạo các đường cong hoặc lượn khi phối hợp 


các nét cơ bản cho mềm mại, đẹp mắt và việc thực hiện đó được tiến hành từ 
dễ đến khó theo các nhóm chữ:
Nhóm 1: U,  Ư, Y, X, (N, M, V kiểu 2) : khi viết các chữ hoa  ở nhóm này 
học sinh cần tập trung luyện kĩ nét móc hai đầu, điều khiển nét bút ở phần cong 
sao cho chuẩn, mềm mại, đúng hình dạng.
Nhóm 2: A, Ă, Â, N, M: chủ yếu là rèn luyện nét móc ngược, đưa bút từ 
trên dưới lên, độ nghiêng hoặc lượn ở đầu nét móc và phần cong cuối nét móc  
sao cho vừa phải, đúng mẫu.
Nhóm 3: C, G, E, Ê, T: các chữ  cái viết hoa  ở  nhóm này chủ  yếu được 
tạo bởi nét cong và sự phối hợp biến điệu của những nét cong. Bởi thế khi viết  
cần luyện cách điều khiển đầu bút để tạo những nét cong đúng mẫu. Trong các 
chữ ở nhóm này thì chữ  C và chữ  E tương đối khó viết nên học sinh cần chú ý 
quan sát kĩ khi giáo viên viết mẫu và phải luyện viết nhiều để  tạo dáng chữ 

mềm mại.
Nhóm 4: P, R, B,D, I, K, H, S, L,V: các chữ này đều có nét cơ bản được 
biến điệu hoặc có sự kết hợp hài hòa các nét cơ bản trong một nét viết.
Nhóm 5: O, Ô,  Ơ, Q, ( A, Q kiểu 2): các chữ  hoa  ở  nhóm này được viết 
bởi 1 hoặc 2 nét nhưng có nét đòi hỏi viết liền mạch và điều khiển đầu bút theo  
nhiều hướng. 
Ngoài ra giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ các khái niệm cơ  bản về 
dòng, khoảng cách... Dòng (thể hiện chữ viết) được hiểu theo nghĩa là khoảng  
để  viết hoặc xếp chữ  kế  tiếp nhau thành hàng, ví dụ: giấy có kẻ  dòng, chấm  
xuống dòng. Vở  tập viết của học sinh được trình bày theo các ô vuông, có các 
dòng kẻ  ngang. Mỗi dòng viết gồm 5 dòng kẻ  ngang, chia thành 4 li (mỗi li  
khoảng cách giữa hai dòng kẻ ­ 0, 25cm). Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học  
có độ  cao tính theo đơn vị  (bằng chiều cao chữ cái ghi nguyên âm), tương  ứng  
với li trong vở Tập viết như sau: viết theo cỡ chữ nhỏ thì chiều cao chữ cái ghi 
nguyên âm là 1li, chữ  viết theo cỡ  vừa chiều cao chữ cái là 2 li. Từ  đó có thể 
hiểu mẫu chữ  cái trong bảng mẫu chữ  do Bộ  Giáo dục và Đào tạo ban hành 
được trình bày theo cỡ vừa (chiều cao chữ cái ghi nguyên âm là 2 li ­ 1 đơn vị, 
chữ  cái viết thường có chiều cao lớn nhất là 5 li, hầu hết chữ  cái viết hoa có 
chiều cao 5 li. 
* Hướng dẫn học sinh luyện viết: 


Đây là khâu rất quan trọng vì nếu chúng ta hướng dẫn kỹ  sẽ  giúp học  
sinh thực hành nhanh và chính xác hơn. Tôi tiến hành luyện viết cho học sinh 
theo các bước như sau:
Bước 1: Viết mẫu: 
Để  tạo  được hiệu quả  dạy học, giúp học sinh hình dung ra các chữ 
thường cũng như chữ hoa một cách sinh động, rõ ràng thì giáo viên cần chuẩn bị 
những mẫu chữ viết sẵn có các dòng kẻ sau đó giáo viên sẽ hướng dẫn lại cách 
viết để giúp học sinh khắc sâu hơn. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát chữ 

mẫu: nhận biết về hình dạng, cấu tạo nét, so sánh với chữ cái đã học trước đó.  
Giáo viên hướng dẫn học sinh về  quy trình viết chữ: điểm đặt bút, rê bút, lia  
bút, chuyển dịch đầu bút, điểm dừng bút... Hình thức: chỉ  dẫn trên mẫu chữ,  
viết mẫu trên khung chữ, viết mẫu trên dòng kẻ  (giống vở  Tập viết). Hướng 
dẫn học sinh viết trên bảng con: giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn, hướng  
dẫn học sinh rút kinh nghiệm.
Ví dụ: Để  dạy viết chữ  hoa L, câu  ứng dụng Lá lành đùm lá rách. Tôi 
chuẩn bị  sẵn 1 bảng mẫu chữ  đã viết sẵn chữ  hoa  L, câu  ứng dụng Lá lành 
đùm lá rách có các dòng kẻ sẵn trên nền vàng cho học sinh quan sát trước, sau 
đó giáo viên chuẩn bị  thêm một bảng phụ  để  viết mẫu chữ  hoa   L, câu  ứng 
dụng Lá lành đùm lá rách lên cho học sinh quan sát các điểm đặt bút, rê bút, 
dừng bút và độ  cao các con chữ. Điều này giúp học sinh hình thành kiến thức 
trong đầu trước khi các em viết lên bảng con của mình, nhằm tạo hiệu quả cao 
trong việc rèn chữ viết.
Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp 
học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ  cái. Do vậy, giáo 
viên phải viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ vừa giảng giải, vừa phân tích 
cho học sinh. 
Khi viết mẫu, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay của 
giáo viên viết từng nét chữ. Khi viết, giáo viên vừa kết hợp giảng giải, phân 
tích: đưa bút như  thế  nào, thứ  tự  các nét viết ra sao, giáo viên cũng cần chú ý 
phân tích cả cách viết dấu phụ và dấu thanh.
Bước 2: Luyện viết bảng con: 
Sau khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp, giáo viên yêu cầu học sinh 
viết bảng con. Quan sát học sinh viết bảng con để sửa cho các em ngay tại lúc  
đó, chỉ  ra chỗ  sai cho các em rút kinh nghiệm. Giới thiệu những em viết đúng, 
viết đẹp trước lớp để các em khác rút kinh nghiệm. Đối với những em viết sai,  


giáo viên nhắc nhở  ngay và hướng dẫn các em điều chỉnh lại cho đúng. Khâu 

này rất quan trọng vì nếu các em làm đúng ở bảng con thì khi viết vào vở sẽ ít 
bị sai. 
Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết vở: 
Đây là bước quan trọng trong một tiết luyện viết, bởi có thể  đánh giá 
chất lượng chữ viết của các em sau khi xem bài viết của học sinh: xấu hay đẹp,  
đúng hay sai, hoàn thành tốt, hoàn thành hay chưa hoàn thành. Sau khi cho học 
sinh thực hành viết bảng con và giáo viên đã sửa lỗi thì giáo viên cho học sinh  
viết bài vào vở. 
Trước khi viết bài giáo viên cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi viết, cách  
cầm bút để học sinh ngồi đúng và đẹp trong quá trình viết. Trong khi học sinh  
viết bài, giáo viên phải theo dõi, quan sát, nhắc nhở học sinh viết đúng và viết 
đẹp.
Khi dạy từ  ngữ   ứng dụng, ngoài việc hướng dẫn học sinh viết chữ  ghi  
tiếng, giáo viên còn phải quan tâm, nhắc nhở  các em viết đúng khoảng cách 
giữa các chữ  đều đặn, hợp lí. Khoảng cách giữa các chữ  thường được  ước 
lượng bằng một chữ  cái o viết thường. Giữa các từ   ứng dụng, học sinh viết  
theo điểm đặt bút, dừng bút. 
Khi dạy viết câu ứng dụng, giáo viên cần lưu ý về  cách viết và đặt dấu  
câu: dấu chấm, dấu phẩy, dấu hỏi...
Bước 4:  Nhận xét chữa bài:
Việc nhận xét bài của học sinh cũng rất quan trọng, thường căn cứ  vào 
mục đích, yêu cầu đặt ra cho từng bài học theo chương trình quy định. Qua việc 
nhận xét bài, giáo viên cần giúp cho học sinh tự  nhận thức được  ưu điểm để 
phát huy, thấy rõ những thiếu sót để  khắc phục, kịp thời phát hiện, động viên 
những cố gắng, nổ lực của học sinh khi viết chữ. Giáo viên cần viết lại những 
chữ  học sinh viết sai để  học sinh thấy được cái sai và sửa lại cho đúng và ghi 
lời nhận xét ngắn gọn.
Sau mỗi tiết học Tập viết, Chính tả, luyện viết, khi nhận xét bài cho học 
sinh, giáo viên cần nhận xét thật tỉ  mỉ  các nét chữ  trong con chữ  mà học sinh 
vừa viết và phân tích rõ nguyên nhân học sinh viết chưa đúng, chưa đẹp để lần  

sau học sinh rút kinh nghiệm cho những lần viết sau.
Qua việc nhận xét bài thường xuyên trên lớp, tôi phát hiện một số  học  
sinh viết chữ còn chưa đẹp các nét khuyết của các con chữ  (l, b, g, h, k), nét móc 
xuôi của các con chữ  (n, m, p). Tôi tập trung các em thành nhóm theo đối tượng 
và hướng dẫn cách viết.  


Tôi thường chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc 
hướng dẫn học sinh luyện tập, thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao, từ dễ 
đến khó, từ  đơn giản đến phức tạp để  học sinh dễ  tiếp thu. Lúc đầu là việc 
viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước và cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và 
đúng tốc độ  quy định. Việc rèn luyện kĩ năng viết chữ  phải được tiến hành 
đồng bộ ở lớp . 
Sau một thời gian rèn luyện, tôi thấy số  lượng học sinh viết chữ  chưa  
đẹp ngày càng giảm đi nhiều.  
Song song với việc rèn chữ, giữ vở sạch là vấn đề không kém phần quan  
trọng đối với mỗi học sinh. Vì vậy, tôi luôn giáo dục học sinh ý thức giữ  vở 
sạch sẽ: vở sạch là vở  không quăn góc, không xộc xệch, bao bọc cẩn thận, có 
nhãn vở, có bao bìa. Bên trong vở, các em trình bày bài rõ ràng, không giây bẩn..
Đối với những em chưa có ý thức giữ  vở, tôi liên hệ  kịp thời với phụ 
huynh để  nhắc nhở   việc giữ  vở  sạch và sắp xếp vở  ngăn nắp, gọn gàng. Có 
như vậy, khi soạn vở, các em đỡ tốn thời gian và giữ vở được tốt hơn.
Trước đây chúng ta thường nghe nói: “Chữ tốt là do hoa tay, hoa văn hay  
là do trí óc”. Trong thực tế, xưa và nay cho thấy điều đó không hoàn toàn đúng,  
mà quan trọng cả là ở sự “rèn luyện”. 
Rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh là một công việc đòi hỏi tôi kiên 
trì nhẫn nại và không nôn nóng. Tôi không những rèn cho các em viết đúng mà 
tiến hành đến viết đẹp.
Bước 5: Hướng dẫn học sinh luyện viết ở trường, ở nhà: 
+ Luyện viết ở trường: 

Hiện nay, các trường đều thực hiện dạy hai buổi/ngày nên các em có thời 
gian luyện viết vào buổi chiều.  Ở  những tiết luyện viết trước hết tôi hướng  
dẫn cho các em sử  dụng bảng cài để  ôn lại các từ  khó, dễ  lẫn, các từ  các em 
hay viết sai.
Sau đó yêu cầu học sinh viết bảng con nhiều lần những từ  cần viết và  
cuối cùng viết vào vở  (Trình tự  như  nêu ở  trên nhưng các bước thực hiện nhẹ 
nhàng hơn vì các em đã nắm kỹ cách viết ). 
+ Luyện viết ở nhà
Ở  trường, thời gian không đủ  để  các em luyện tập, do đó sau mỗi bài  
viết trên lớp tôi thường yêu cầu các em về nhà tự luyện vào vở. Để tránh nhàm 
chán cho các em tôi thường cho thêm những bài thơ, bài văn yêu cầu các em viết  
ở nhà.


Ví dụ: Để giúp các em phân biệt và luyện viết chữ  ng – ngh tôi yêu cầu 
các em viết: 
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Sau mỗi bài luyện viết của học sinh, giáo viên thu tập vở của học sinh và  
nhận xét bằng bút đỏ, ghi các lỗi học sinh mắc phải để  học sinh thấy được 
những điểm sai và làm tốt hơn cho những bài viết sau. 
2.2.3 Một số biện pháp hỗ trợ giúp học sinh viết tốt hơn
a. Giáo viên phải là tấm gương cho học sinh học tập về viết chữ đẹp
Để  nâng cao chất lượng viết chữ  đẹp  ở  học sinh lớp 2 thì người giáo  
viên phải là người viết chuẩn, đẹp và thường xuyên rèn luyện chữ  viết. Bởi 
trong mắt học sinh thì cô giáo là “thần tượng” là người các em rất xem trọng và 
được các em lấy làm mẫu mực nhất. Bởi vậy giáo viên phải là người nắm  
vững kiến thức về  cấu tạo, đặc điểm chữ  viết và các kiểu mẫu chữ  và chữ 
viết của giáo viên phải đúng, chuẩn và đẹp. Các em sẽ  nhìn, quan sát và bắt  
chước những nét chữ từ đơn giản đến phức tạp của cô giáo. Nếu giáo viên viết 

chữ  đẹp và có ý thức rèn chữ  viết thì chất lượng chữ  viết của lớp đó sẽ  cao.  
Qua quan sát tôi thấy rằng nét chữ  của các lớp khác nhau nhưng trong một lớp 
thì lại tương đối giống nhau và rất giống chữ của giáo viên, bởi học sinh lớp 2  
rất dễ  bắt chước. Do đó giáo viên cần phải thường xuyên rèn luyện chữ  viết 
để nâng cao chất lượng chữ viết của mình. Điều mà giáo viên phải làm và làm 
thường xuyên đó là thể hiện nét chữ  của mình trên bảng lớp mỗi ngày sao cho  
khoa học, đẹp, đúng mẫu để  học sinh học hỏi. Giáo viên cần viết đúng chính 
tả, đúng mẫu, rõ ràng và ngay ngắn, cách trình bày lề bảng, dòng chữ ghi ngày  
tháng năm, tên môn, tên bài học cần được viết rất mẫu mực không  qua loa và  
tuyệt đối là không được sai chính tả. Vậy nên đòi hỏi giáo viên phải viết hằng 
ngày, phải luyện tập thường xuyên để  viết đúng mẫu chữ  quy định và các bài 
viết luyện chữ đẹp và sáng tạo.
b. Kết hợp với các môn học khác
Để giúp học sinh hình thành thói quen luyện viết. Trong các tiết học khác 
tôi cũng yêu cầu học sinh luyện viết:
Với phân môn chính tả, sau khi học sinh đọc các từ, các tiếng khó, hay 
sai, giáo viên cho học sinh rèn luyện viết chữ trên bảng con. 
Ví dụ  bài “Trên chiếc bè” thì sau khi đọc bài, giáo viên hướng dẫn cho 
học sinh viết vào bảng con các từ  khó Dế  Trũi, ngao du, say ngắm, trong vắt,  


dưới đáy… trước khi các em viết vào vở  để  cho các em hình thành kiến thức  
trong đầu và viết cho quen tay, rèn cho các em tính cẩn thận, tỉ mỉ và rèn kĩ năng  
viết của mình.
Với môn Toán thì sau khi giới thiệu bài, dạy cho học sinh những kiến 
thức cơ  bản, giáo viên hướng dẫn cho học sinh viết lời giải, các chữ  số, các 
dấu >, <, =; cách đặt tính và tính, cách trình bày tóm tắt, bài giải ... đều, đẹp, rõ 
ràng. Việc này hình thành cho các em tính thẫm mĩ và tính khoa học. 
Ví dụ: Ở phần đặt tính và tính. Tôi yêu cầu học sinh phải đặt tính thẳng  
cột, thẳng hàng.

Với các môn học khác, tôi yêu cầu các em phải nắn nót khi ghi thứ ngày,  
tên đề bài, khi gạch hết bài... nhằm rèn cho các em tính cẩn thận khi trình bày.
c. Kết hợp với phụ  huynh học sinh để  có những biện pháp phù hợp  
giúp học sinh viết đúng và đẹp
Cần làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để xây dựng 
phong trào “Giữ vở sạch ­ Viết chữ đẹp”.
   
Trong cuộc họp phụ  huynh đầu năm, giáo viên chủ  nhiệm phải tuyên 
truyền cho phụ huynh biết về vai trò quan trọng của việc " Giữ  vở sạch ­ viết  
chữ  đẹp",  hướng dẫn phụ  huynh trong việc mua sắm đồ  dùng, sách vở, bút  
viết đúng quy định cũng như cách bọc sách vở, ghi tên, lớp đầy đủ cho các em...  
và phổ biến cho phụ huynh biết các tiêu chuẩn cụ thể khi xếp loại vở sạch chữ 
đẹp. Hàng kì, nhà trường sẽ thông báo tình hình học tập và rèn luyện chữ  viết 
của học sinh qua sổ liên lạc gia đình để phụ huynh có kế hoạch kèm cặp thêm 
ở nhà .
Giáo viên cần nâng cao nhận thức cho phụ huynh về tầm quan trọng của  
việc viết chữ  đẹp để  từ  đó phụ  huynh kết hợp với giáo viên có những biện  
pháp phù hợp giúp các em rèn viết chữ tốt hơn.
d.  Xây dựng phong trào "Giữ vở sạch ­ Viết chữ đẹp".
Từ  đầu năm học giáo viên cần tiến hành kiểm tra sách vở, đồ  dùng học  
tập của học sinh, hướng dẫn học sinh dùng loại vở ô ly của công ty Hồng Hà, 
dùng loại bút nào để luyện viết, hướng dẫn học sinh cách bọc vở và bảo quản,  
giữ  gìn sách vở  như  thế  nào trong năm học. Hướng dẫn cho học sinh các tiêu 
chuẩn cần phấn đấu để  đạt danh hiệu “Vở  sạch ­ Chữ  đẹp”. Đồng thời cùng 
học sinh ra quyết tâm thực hiện các chỉ  tiêu về  phong trào rèn chữ  viết và giữ 
gìn sách vở  của lớp. Giáo viên nên lấy những tấm gương của các anh chị  lớp  


trên  đạt  danh hiệu trong phong trào  “Vở  sạch­  Chữ   đẹp”,  cấp trường, cấp 
huyện để làm gương cho các em học tập, noi theo. 

 
Ngoài yêu cầu viết đúng, viết đẹp giáo viên cần hướng dẫn cách trình 
bày ở vở của học sinh trong từng thể loại bài, cách kẻ vở khi hết bài, hết môn,  
hết ngày và hết tuần như  thế  nào để  thống nhất trong cả  lớp để  tạo một sự 
đồng đều và đẹp.
   
Khi phát hiện những học sinh có năng khiếu và viết chữ  khá đẹp, giáo 
viên phải có định hướng từ đầu là phải luôn chú ý theo dõi, kèm cặp nhắc nhở,  
hướng dẫn những cách viết mới, những kiểu chữ hoa, chữ in nghiêng, chữ  nét 
thanh nét đậm… để học sinh luôn ghi nhớ, cố gắng luyện tập thường xuyên và 
có hướng phát huy năng khiếu. Còn những học sinh viết còn yếu thì cần có kế 
hoạch phụ  đạo, kèm cặp và có kế  hoạch bồi dưỡng những học sinh có năng 
khiếu, viết đẹp.
Để tạo hiệu quả nhanh thì giáo viên hàng tuần phải kiểm tra và nhận xét, 
động viên để học sinh cố gắng hơn ở tuần tiếp theo. Và có phần thưởng, tuyên  
dương những học sinh viết chữ đẹp sau mỗi tháng để giúp các em phấn đấu và 
cố gắng trong những tháng sau.
Giáo viên cần làm tốt việc bồi dưỡng lòng say mê và tinh thần quyết tâm 
thực hiện phong trào “Giữ  vở  sạch ­ Viết chữ  đẹp  ” của học sinh bằng cách 
khơi dậy  ở các em lòng say mê về  rèn chữ  cho học sinh bằng những mẫu chữ 
đẹp, trang vở sạch đẹp và phải thổi vào học sinh luồng sinh khí những ước mơ 
cao đẹp, kể cho học sinh nghe những mẩu chuyện về tấm gương rèn chữ  viết  
của thầy Nguyễn Ngọc Ký, Cao Bá Quát và gần hơn nữa là các bạn học sinh 
trong lớp, trong trường mình để các em soi mình vào trong những tấm gương đó 
mà phấn đấu rèn luyện chữ viết ngày càng đẹp hơn.
e. Tổ chức thi viết chữ đẹp ở lớp
        Để học sinh viết chữ tốt, tôi thường tổ chức thi viết chữ đẹp giữa các tổ 
trong lớp mỗi tháng một lần. Qua mỗi cuộc thi  ở lớp, tôi thường tuyên dương 
những học sinh đạt “Vở  sạch, chữ  đẹp” để  từ  đó khích lệ  học sinh viết chữ 
đẹp hơn. Tôi thường khen những học sinh có tiến bộ để động viên khích lệ tinh 

thần luyện viết của các em. Cho học sinh biết đánh giá bài của mình, của bạn. 
Những bài đạt yêu cầu về  kĩ thuật, trình bày đẹp, thể  hiện năng khiếu  (nét  
thanh, nét đậm) được trưng bày  ở  góc học tập của lớp. Đối với học sinh viết 
chữ chưa đúng cỡ, đúng mẫu, tôi đánh giá kết hợp với lời nhận xét để học sinh  
thấy rõ những chỗ sai của mình và có hướng cần phấn đấu trong những bài tới. 


Tôi lấy một số  gương điển hình về  rèn chữ  viết (sưu tầm, lưu trữ  bài 
viết tốt của những em viết đẹp ở năm trước) để cho các em thấy được chữ viết  
đẹp là do sự rèn luyện. Từ đó, đánh giá và thực hiện tốt phong trào giữ  vở  rèn 
chữ thường xuyên.
 

 g. Làm tốt công tác tuyên dương, khen thưởng

Để giúp học sinh tiến bộ và đạt kết quả cao hơn thì điều không thể thiếu  
đó là sự  động viên, khích lệ  kịp thời của giáo viên. Bên cạnh đó giáo viên cần  
tuyên dương, khen thưởng những học sinh có thành tích tốt để  các em có động 
lực phấn đấu hơn và làm gương cho các bạn khác noi theo. Và các hình thức 
tuyên dương như tuyên dương trước lớp, trước cờ trong các giờ  sinh hoạt chào 
cờ và phát những phần thưởng như tập sách, bút hay một hộp bánh để giúp các  
em có chí hướng phấn đấu.
2.3. Kết quả:
Qua nghiên cứu và áp dụng các biện pháp rèn luyện chữ viết cho các em 
tôi thấy rằng chất lượng chữ  viết của học sinh có nhiều tiến bộ  rõ rệt. Số 
lượng học sinh viết đúng, viết đẹp nhiều hơn, số học sinh viết chưa đúng mẫu 
giảm xuống. Không còn học sinh viết không đúng độ  cao các con chữ, sai hình 
thái các con chữ. Học sinh ít viết sai lỗi chính tả...
Chất lượng phong trào "Giữ  vở  sạch­ Viết chữ  đẹp" lớp tôi đúng đầu 
khối. Qua hội thi "Viết chữ đẹp" cấp trường lớp tôi đạt giải Nhất tập thể, có 2  

em đạt giải Nhất, 3 em đạt giải Nhì và 3 em đạt giải Ba. Có 2 em được chọn 
bài đi dự thi cấp huyện.
Kết quả khảo sát kỹ năng viết tuần 24 ở lớp tôi giảng dạy như sau:
Tổng 
số HS

34

HS viết chữ 
đẹp, đúng 
mẫu

HS viết chữ 
HS viết thế 
HS sai kỷ 
chưa đúng mẫu,  chữ không ổn  thuật nối nét
sai lỗi chính tả
định

HS viết chưa 
đúng các con 
chữ viết hoa

SL

%

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

29

85,3

1

2,9

5

14,7

3

8,8

0


0


3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
 Nâng cao chất lượng chữ  viết cho học sinh là việc làm hết sức quan  
trọng và thiết thực. Rèn cho các em ý thức viết đúng, viết đẹp là rèn cho các em  
tính cẩn thận, tỉ  mĩ, óc sáng tạo và khiếu thẫm mĩ. Chữ  viết đúng, viết đẹp  
phản ánh tính nết của các em học sinh. Mỗi giáo viên chúng ta cần phải làm tốt  
công tác này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Qua thực hiện sáng kiến kinh nghiệm tôi đã tuyên truyền, tạo được uy  
tín, niềm tin đối với phụ huynh học sinh giúp họ hiểu được vai trò, ý nghĩa của 
việc rèn chữ  viết đúng, đẹp. Để  từ  đó cùng với sự  hướng dẫn của giáo viên, 
phụ  huynh mua các loại vở, đồ  dùng học tập đầy đủ, đúng chuẩn để  giúp các 
em rèn chữ viết đúng và đẹp. Phối hợp tốt với phụ huynh trong việc nhắc nhở,  
động viên để giúp các em luyện viết thêm ở nhà và biết soạn sách vở gọn gàng, 
ngăn nắp để giữ vở bền đẹp. Giúp các em học sinh nắm được những kiến thức,  
biện pháp, kĩ năng để luyện viết đúng, viết đẹp. Khí thế tham gia rèn chữ viết 
được đông đảo học sinh thực hiện thường xuyên trở  thành phong trào. Các em  
hứng thú với giờ học tập viết hơn.  Giúp các em viết chữ đẹp hơn để góp phần  
nâng cao hiệu quả  các môn học khác cũng như  nâng cao chất lượng giáo dục 
toàn diện cho học sinh. Nâng cao chất lượng bài dạy trong tổ  khối, trong nhà 
trường.
Đề  tài này có thể  áp dụng  ở  tất các trường tiểu học trong huyện, tỉnh. 
Qua áp dụng tôi thấy học sinh nắm chắc kiến thức vận dụng tốt các biện pháp,  
các kĩ năng và điều đặc biệt là chữ viết của các em tiến bộ rõ rệt, có nhiều em  
viết chữ  nét thanh, nét đậm rất đẹp. Khi các em viết chữ  rõ ràng, đẹp hơn và 
tốc độ  nhanh hơn kéo theo việc viết bài  ở  những môn khác tốt hơn nên hiệu 
học tập cao hơn.

3. 2. Những kiến nghị, đề xuất.
Sau khi nghiên cứu và thực hiện đề  tài, tôi mạnh dạn đề  xuất một số  ý 
kiến nhỏ của mình để góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp  
2:
  3.2.1. Đối với nhà trường
 
Với nhà trường thì cần thường xuyên tổ  chức các cuộc thi "Viết chữ 
đẹp" để  học sinh và giáo viên tham gia, từ  đó có kế  hoạch bồi dưỡng cụ  thể 
cho từng đối tượng riêng. Thường xuyên tổ  chức các buổi chuyên đề  đánh giá 
và rút kinh nghiệm để  nâng cao chất lượng vở  sạch chữ đẹp của trường, của 


từng khối lớp.Trưng bày các bài viết đẹp, tập vở sạch cho học sinh toàn trường  
tham khảo.
 

 Đưa tiêu chuẩn vở sạch chữ đẹp vào đánh giá thi đua của cả thầy và trò. 

Duy trì các phong trào thi đua “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Hội thi “Viết chữ  
đẹp” cấp trường.
Thường xuyên quan tâm, kiểm tra, rà soát, sửa chữa và cung cấp kịp thời 
về  mặt cơ  sở  vật chất như: bảng chống loá đạt chất lượng (lớp 1, 2 phải có 
phần kẻ ô li để thuận tiện cho việc dạy tập viết và hướng dẫn học sinh luyện  
viết), bàn ghế phải đúng chuẩn, không để bàn thấp, ghế cao hay ghế quá cao so  
với bàn... Hệ  thống bóng đèn, cửa sổ  phải cung cấp đủ  ánh sáng cho học sinh 
ngồi học để học sinh có điều kiện thuận lợi trong việc rèn chữ.
Bên cạnh đó, sau mỗi học kỳ  nhà trường cần có những chương trình tổ 
chức triển lãm các thành quả mà học sinh đã làm được như các bài thi viết chữ 
đẹp, những tập vở  tiêu biểu để  cho các em, các bậc phụ  huynh cùng xem và  
thấy được những thành quả  của con em mình đã ý thức rèn luyện và để  học 

sinh các lớp có sự thi đua học tập lẫn nhau.
 

3.3.2. Đối với giáo viên

    
Giáo viên phải là tấm gương sáng cho các em noi theo từ những việc nhỏ 
nhất: tư  thế ngồi viết, cách cầm bút, chữ  viết bảng, cách trình bày bảng, cách  
nhận xét cho học sinh. Và cái cần  ở  người giáo viên nữa đó là lòng yêu nghề, 
yêu trẻ, sự  tận tâm, tận tình chỉ  dạy cho học sinh. Nắm bắt được những mặt 
mạnh và mặt yếu của từng học sinh, từ đó phân nhóm học sinh, lên kế  hoạch  
bồi dưỡng chữ  viết cũng như  phụ  đạo cho từng nhóm đối tượng học sinh và  
thường xuyên trau dồi chữ viết, luyện tập nhiều, không ngừng học hỏi bạn bè,  
đồng nghiệp để  làm phong phú vốn kiến thức về  chữ  viết và những kĩ thuật  
trong rèn viết chữ đẹp.
    
Trên đây là một số  biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chữ  viết cho 
học sinh lớp 2 được thực nghiệm trong quá trình dạy học của tôi. Trong quá  
trình nghiên cứu không thể  tránh khỏi những thiếu sót nên tôi rất mong nhận  
được sự  đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và cấp trên để  đề  tài này của tôi 
được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn !



×