Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP về CHIA tài sản CHUNG của vợ CHỒNG KHI LY hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.41 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ MINH MẪN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY
HÔN
Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HÀ THỊ MAI HIÊN

HÀ NỘI - 2014



MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất
cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN

Đinh Thị Minh Mẫn


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật dân sự

BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ
sung
năm 2011
GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
HN&GĐ:

Hôn nhân và gia đình

TAND:

Tịa án nhân dân


TANDTC: Tịa án nhân dân tối cao
TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Thống kê giải quyết các vụ việc hôn nhân

48

Bảng 2.2: Công tác hịa giải các vụ án lao động

49

Bảng 2.3: Cơng tác hịa giải các vụ án hơn nhân và gia đình

49



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, gia đình ln là tế bào của xã hội, là nơi những người
có quan hệ huyết thống, hơn nhân và ni dưỡng cùng chung sống. Gia đình
hịa thuận và hạnh phúc sẽ góp phần vào sự phát triển bền vững và phồn thịnh
chung của xã hội. Nhận thức được vị thế quan trọng của gia đình, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng và giữ gìn gia đình êm ấm,
hịa thuận, thể hiện ở sự quan tâm đó là Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình góp phần giúp cho sự tồn
tại và phát triển của gia đình đi vào chuẩn mực, khuôn kho, giúp tạo ra sự bền
vững trong quan hệ gia đình.
Khi nam nữ kết hơn, cùng nhau xây dựng một gia đình thì sự bền vững
của quan hệ hôn nhân là mong muốn của những người vợ, người chồng, đây
cũng là mục đích của việc xây dựng gia đình mà pháp luật đặt ra. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp, quan hệ hôn nhân do chịu sự tác động của nhiều yếu tố
chủ quan và khách quan, đã không giữ được ý nghĩa và giá trị như mong muốn
ban đầu, cuộc sống chung của vợ, chồng đã không còn hạnh phúc, nên pháp
luật dự liệu khả năng cho họ quyền được giải phóng khỏi quan hệ hơn nhân
bằng việc ly hôn.
Khi ly hôn, vợ, chồng thường xảy ra các tranh chấp về nhân thân và tài
sản, đặc biệt là về tài sản. Quan hệ tài sản giữa vợ, chồng là quan hệ tài sản gắn
liền với nhân thân, tồn tại trong thời kỳ hơn nhân, khơng có tính đền bù ngang
giá và không xác định được công sức đóng góp cụ thể của các bên nên khi xảy
ra tranh chấp thì việc phân chia tài sản chung vợ, chồng là tương đối khó khăn,
phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong các vụ giải quyết ly hôn tại các cấp Tòa án.

6


Hiện nay cùng với xu thế phát triển của xã hội, số lượng các vụ án ly hơn có

tranh chấp về tài sản tăng lên, giá trị tài sản tranh chấp ngày càng lớn tạo ra rất
nhiều khó khăn và áp lực cho cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, nghiên cứu về
vấn đề giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Với những lý do trên tôi quyết định lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh
chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn” làm Luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trị quan trọng của gia đình trong xã hội nên việc nghiên
cứu về các tranh chấp trong quan hệ hơn nhân và gia đình ln được quan tâm
và chú ý, được nhiều nhà nghiên cứu và các học giả đề cập.
Một số tài liệu chuyên khảo về hơn nhân và gia đình như: Giáo trình
Luật HN&GĐ Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật
HN&GĐ của khoa luật, Trường Đại học Cần Thơ... các giáo trình này đều đề
cập đến các kiến thức pháp lý cơ bản và khái quát về tài sản chung vợ chồng.
Bên cạnh đó, các bài viết liên quan đến tài sản chung của vợ chồng như "Chế
độ tài sản chung vợ chồng theo Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam ” của tác
giả Nguyễn Văn Cừ; tác giả Đồn Thị Phương Diệp với “Ngun tắc suy đốn
tài sản chung trong Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam và Luật dân sự Pháp”;
tác giả Nguyễn Văn Cừ- Ngô Thị Hường với “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về Luật hơn nhân và gia đình năm 2000”. Các bài viết này đã đề cập một
cách khái quát về các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng.
Bên cạnh đó, phải kể đến một số cơng trình nghiên cứu như “ Chia tài
sản chung của vợ chồng theo Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”
của tác giả Nguyễn Thị Lan “ Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng

7


trong thời kỳ hôn nhân" của tác giả Nguyễn Hồng Hải; “Một số vấn đề chia tài

sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000"" của tác giả
Nguyễn Thị Bích Vân, các cơng trình này đã nghiên cứu một cách tương đối
toàn diện các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng.
Mặc dù vậy, với xu hướng các vụ án ly hôn và chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn hiện nay ngày càng tăng và việc Luật HN&GĐ năm 2014 mới
được ban hành và bước đầu đi vào áp dụng trong thực tiễn xét xử thì việc
nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc giải quyết tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn là điều rất quan trọng, qua nghiên cứu sẽ
thấy được những tiến bộ của Luật HN&GĐ năm 2014 và những hạn chế, bất
cập trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp
về chia tài sản chung của vợ chồng, đề ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật
và những phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xét xử giải quyết
tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ quy trình, cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn tại tồ án, thực tiễn áp dụng pháp luật để giải
quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại tồ án qua
cơng tác xét xử và qua đó phát hiện những vấn đề cịn bất cập trong các quy
định của pháp luật cũng như những khiếm khuyết, sai sót trong cơng tác xét xử
của tồ án để từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu
quả công tác xét xử và quyền, lợi chính đáng của các đương sự trong vụ án giải
quyết chia tài sản chung vợ chồng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

8


- Nghiên cứu làm rõ các quy định về thủ tục tố tụng, cơ sở pháp luật để
giải quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy

định của pháp luật hiện hành
- Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về tài
sản chung của vợ chồng khi ly hơn qua thực tiễn cơng tác xét xử của tồ án.
- Qua đó đánh giá hiệu quả của việc xét xử tại toà án về giải quyết các
tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, phát hiện những vấn đề
vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp
dụng pháp luật khi xét xử tại toà án và đề xuất các kiến nghị cần thiết.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định của pháp luật hiện hành về quy trình, thủ tục, căn cứ
pháp luật giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
và thực tiễn việc giải quyết tại Tòa án.
- Các vụ án cụ thể mà toà án đã xét xử giải quyết tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
- Báo cáo tong kết công tác xét xử của ngành toà án.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự, Luật HN&GĐ năm 2014 và một số văn bản khác có liên quan về quy
trình, thủ tục tố tụng giải quyết cá tranh chấp về chia tài sản chung của vợ,
chồng; các căn cứ pháp luật về nội dung để giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn. Đồng thời, nghiên cứu việc áp dụng pháp luật
giải quyết các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn qua
thực tiễn xét xử tại tồ án thông qua các vụ án cụ thể trong thời gian từ khi Luật
HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực đến nay. Đề tài chỉ nghiên cứu giải quyết các
tranh chấp về tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn, còn những tranh chấp về

9


tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc các tranh chấp về tài
sản riêng của vợ hoặc chồng khi ly hôn không được nghiên cứu trong đề tài

này. Đề tài nghiên cứu về thủ tục tố tụng và các quy định về nội dung của việc
giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và các quan điếm của Đảng, pháp luật của Nhà nước điều chỉnh
quan hệ hơn nhân và gia đình.
Phương pháp nghiên cứu cụ thế: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử
dụng phương pháp phân tích, so sánh, tong hợp, thống kê, mơ hình hố và đồng
thời nghiên cứu những báo cáo cơng tác xét xử của tồ án, các bản án của toà
án giải quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, các bài
viết, tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.
7. Dự kiến kết quả nghiên cứu của đề tài
Đây là một đề tài có tính chun sâu đồng thời có tính thực tiễn sâu sắc
trong chun ngành luật dân sự. Đề tài chú trọng nghiên cứu về mặt thực tiễn
giải quyết các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn qua
công tác xét xử của các cấp toà án từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực
đến nay, đồng thời liên hệ những điếm mới trong Luật HN&GĐ năm 2014. Qua
đó phát hiện những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật cũng
như những khiếm khuyết, sai sót trong q trình áp dụng pháp luật đế giải quyết
các tranh về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại tồ án. Trên cơ sở đó
luận văn đề xuất một số kiến nghị đế giải quyết những vướng mắc, bất cập và
hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng
nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hơn có thế tiết kiệm được thời gian, chi phí và đảm bảo được quyền, lợi
ích chính đáng của các bên liên quan.

1
0



8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật của việc giải quyết tranh chấp về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp
về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật,
tăng cường hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn.

1
1


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1. Cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn
1.1.1. Khái niệm và nội hàm tài sản chung của vợ chồng
Trong quá trình vợ chồng chung sống, ngồi tình cảm thì giữa vợ chồng
cịn cần có tài sản chung, tài sản chung được coi là một điều kiện khơng thể
thiếu để duy trì mối quan hệ vợ, chồng.
Tài sản theo nghĩa Từ điển tiếng việt là của cải, vật chất dùng vào mục
đích sản xuất và tiêu dùng, theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “ Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản’" [21, Điều 163].
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng, là
hình thức sở hữu chung đặc biệt. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, sự tồn tại của

chế độ tài sản chung vợ chồng phụ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân
và chấm dứt khi một trong hai vợ chồng chết hoặc có bản án, quyết định của
Tòa án cho vợ chồng ly hôn.
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra do lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho
chung và những tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung, quyền sử dụng đất
của vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Khác với tài sản chung đơn thuần, tài sản chung vợ, chồng có nguồn gốc
tạo ra từ thời kỳ hơn nhân, có thể là do vợ, chồng lao động tạo ra hoặc từ những
hành vi pháp lý diễn ra trong thời kỳ hôn nhân (thỏa thuận tài sản riêng trở
thành tài sản chung, thừa kế, tặng cho... ).


Từ xưa đến nay, cha ơng ta vẫn nói “Của chồng công vợ”, tài sản chung
của vợ chồng không nhất thiết do hai vợ, chồng trực tiếp tạo ra hoặc tạo ra
ngang bằng nhau. Tài sản chung có thể chỉ do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ
hôn nhân, quy định này thể hiện sự gắn kết “Như hai mà một" của quan hệ hôn
nhân... Đây là điểm khác biệt của tài sản chung vợ chồng so với các tài sản
chung theo phần khác.
Tài sản chung vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, khi vợ,
chồng chưa phân chia tài sản thì khơng xác định được tỷ lệ tài sản của mỗi
người. Khi hai bên thỏa thuận phân chia xong hoặc có quyết định phân chia của
Tịa án thì phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mới được xác
định. Đây là điểm khác biệt đặc trưng của tài sản chung vợ, chồng so với các tài
sản chung theo phần.
Vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung. Tài sản chung vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận
hoặc theo quyết định của Toà án.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể các căn cứ xác lập tài sản

chung vợ chồng như sau:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ
hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của
Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng
cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa
kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng
tài sản riêng.


2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng
để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ
chồng.
3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ,
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó
được coi là tài sản chung [23, Điều 33].
Từ những phân tích trên, có thể hiểu rằng “Tài sản chung vợ chồng là
những tài sản được hình thành hoặc tạo ra phù hợp với những căn cứ xác lập
tài sản chung vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ”.
1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn
Ly hôn là sự kiện làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ, đồng
thời với sự chấm dứt quan hệ hơn nhân thì chế độ tài sản chung của vợ chồng
cũng chấm dứt kể từ thời điểm ly hơn. Khi ly hơn do có sự mâu thuẫn về quan
hệ tình cảm nên vợ chồng khó tìm được tiếng nói chung trong việc phân chia tài
sản chung từ đó dễ xảy ra tranh chấp chia tài sản chung.
Theo Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp được hiểu là sự tranh giành nhau

một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào.
Tranh chấp về tài sản vợ chồng thường xảy ra chủ yếu và gần như đồng
thời cùng với việc ly hôn, điều này là hợp lý bởi lẽ khi ly hơn thì vợ chồng đã
có sự sứt mẻ về tình cảm, sự u thương, gắn bó “u nhau củ ấu cũng trịn”
trong thời kỳ hơn nhân khơng cịn nên cùng với việc ly hơn họ sẽ có sự tranh
giành, hơn thua nhau trong vấn đề phân chia tài sản. Việc tranh chấp về chia tài
sản chung có thể diễn ra cùng với việc vợ, chồng xin ly hơn hoặc có thể diễn ra
sau khi vợ chồng đã ly hôn do thời điểm ly hôn vợ, chồng không yêu cầu giải
quyết về tài sản chung mà để họ tự thỏa thuận nhưng sau đó họ khơng tự thỏa
thuận được. Việc vợ chồng tranh chấp về tài sản đồng thời với việc ly hôn hoặc


sau khi ly hôn đều được coi là tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn.
Các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn chủ yếu là các
nội dung sau đây:
- Tranh chấp về việc xác định tài sản chung hay tài sản riêng, đây là
dạng tranh chấp pho biến nhất (vì dụ như tài sản do vợ, chồng tạo lập được
trong thời kỳ hôn nhân như nhà, đất nhưng trong giấy tờ mua bán hoặc giấy
chứng nhận quyền sử dụng chỉ đứng tên vợ hoặc chồng; tài sản là của bố mẹ vợ
hoặc chồng cho vợ chồng nhưng khi ly hơn thì bố mẹ lại thay đổi là chỉ cho con
trai hoặc con gái hoặc cha mẹ đòi lại; tài sản riêng vợ chồng có trước khi kết
hơn nhưng lại đưa vào sử dụng chung trong thời kỳ hôn nhân...).
- Tranh chấp về việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng
hay của gia đình (trong trường hợp vợ chồng sống chung cùng gia đình mà ly
hơn).
- Tranh chấp về việc phân chia hiện vật.
- Tranh chấp về việc thỏa thuận giá trị tài sản tranh chấp.
- Tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với người thứ ba.
Khi vợ chồng tranh chấp về chia tài sản chung thì họ khó thỏa thuận

thống nhất trong việc phân chia tài sản chung nên cần có một cơ quan Nhà nước
có đủ thẩm quyền tiến hành giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc giải quyết ly hôn và chia tài sản
chung của vợ chồng thuộc tham quyền giải quyết của Tịa án. Khi vợ, chồng có
đơn gửi đến Tịa án u cầu giải quyết ly hơn và cùng với việc giải quyết ly hôn
họ yêu cầu giải quyết về tài sản thì Tịa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án, thực hiện
các thủ tục, quy trình tố tụng đã được pháp luật quy định cụ thể trong Bộ luật
Tố tụng dân sự như lấy lời khai, thu thập chứng cứ, hòa giải, định giá, mở phiên
tịa (nếu hịa giải khơng thành)...Các bước tố tụng này giúp Tịa án có thể xem


xét, đánh giá chứng cứ, cân nhắc kỹ, quyết định về tính hợp pháp, hợp lý trong
lời khai, chứng cứ do các bên đưa ra. Nếu đủ cơ sở pháp lý xác định tài sản
tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng thì Tịa án căn cứ vào quy định của
Luật HN&GĐ hiện hành để giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, có thể hiểu “Giải quyết tranh chấp chia tài sản chung vợ,
chồng khi ly hôn là tổng hợp các hành vi tố tụng của Tịa án, đương sự và các
chủ thể khác theo trình tự, thủ tục do luật định, được tính từ giai đoạn đương
sự có đơn khởi kiện, Tịa án tiếp nhận và thụ lý đơn khởi kiện của đương sự cho
đến các bước tố tụng khác như hòa giải, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng
cứ và đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật
về việc xác định tài sản chung và các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn
nhằm đảm bảo sự cơng bằng, hợp tình, hợp lý cho vợ, chồng khi họ không thỏa
thuận được việc phân chia tài sản chung”.
1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn
Bản chất việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn là một hình
thức phân chia nhằm chuyển những tài sản vốn là tài sản chung của vợ chồng
thành tài sản riêng của vợ, chồng gắn liền với sự kiện ly hôn.
Do đặc thù của quan hệ hơn nhân và gia đình nên giải quyết tranh chấp

về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn cũng mang những đặc thù riêng
biệt.
Khi giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn,
Thẩm phán giải quyết không những phải là người có trình độ am hiểu pháp luật
mà Thẩm phán cịn phải có kinh nghiệm và cái nhìn thấu đáo, sâu sắc về những
mối quan hệ trong gia đình.
Tài sản chung vợ chồng là tài sản có nguồn gốc hình thành phù hợp với
các quy định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản chung, do đây là loại tài sản


được hình thành dựa trên cơ sở quan hệ hơn nhân nên khi giải quyết tranh chấp
về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn cần căn cứ và xác định rõ tính
hợp pháp của quan hệ hơn nhân, thời điếm xác lập quan hệ hôn nhân, từ đó mới
có cơ sở đế xác định tài sản chung và tiến hành phân chia.
Khi giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng cần căn cứ
vào các nguyên tắc chia tài sản chung như tình trạng tài sản, cơng sức đóng góp,
hồn cảnh của các bên...
Thơng qua việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hơn thì quan hệ tài sản được thay đoi, điều chỉnh phù hợp với quyền và
lợi ích của vợ, chồng và những người liên quan sau khi vợ chồng ly hôn. Thông
qua sự xem xét, đánh giá, quyết định của một cơ quan Nhà nước có đủ thẩm
quyền pháp lý đế giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn sẽ giúp tháo gỡ hoặc hạn chế những mâu thuẫn, bất đồng giữa vợ- chồng,
giữa vợ, chồng với các thành viên khác trong gia đình, giúp họ có đủ niềm tin,
động lực, điều kiện đế duy trì, on định cuộc sống sau khi ly hơn, giúp con cái
của họ có điều kiện phát triến bình thường, được hưởng các quyền lợi vật chất
và sự yêu thương, chăm sóc của bố mẹ. Như vậy, việc giải quyết tranh chấp về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là công việc có ý nghĩa quan trọng
vừa bảo đảm pháp luật được thi hành, tăng cường pháp chế trong lĩnh vực hơn
nhân gia đình vừa hạn chế được những mâu thuẫn, bất đồng giữa những con

người đã từng có những mối quan hệ thiêng liêng về huyết thống, hôn nhân,
nuôi dưỡng.
1.2. Cơ sở và căn cứ pháp luật của việc giải quyết tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hơn
Khi vợ chồng có tranh chấp về chia tài sản chung thì họ có quyền thỏa
thuận với nhau về việc phân chia tài sản, nếu không thỏa thuận được họ có
quyền u cầu Tịa án giải quyết chia tài sản chung, việc yêu cầu Tòa án giải


quyết có thể đồng thời cùng với việc giải quyết ly hôn hoặc sau khi họ đã ly
hôn.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Tịa án là cơ quan có thẩm
quyền xét xử các vụ án tranh chấp trong đó có các tranh chấp về hơn nhân và
gia đình. Hiến pháp 2013 quy định:
Tịa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm
Tòa án nhân dân tối cao và các Tịa án khác do luật định. Tịa án
nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của to chức, cá nhân [22, Điều
102].
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì những tranh chấp sau về
hơn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tòa án xem xét, giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng
khi vợ, chồng hoặc của cả hai vợ chồng có đơn khởi kiện u cầu Tịa án giải
quyết, đây là điều kiện cần để Tòa án xem xét, thụ lý vụ án và giải quyết yêu
cầu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật.
Việc khởi kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện về quyền khởi kiện, phạm
vi khởi kiện, hình thức, nội dung đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo,
thời hiệu khởi kiện, việc khởi kiện không thuộc các trường hợp phải trả lại đơn

khởi kiện. Đây chính là những điều kiện đủ để Tịa án giải quyết tranh chấp về
chia tài sản chung của vợ chồng.
Để giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn,
Tịa án cần thực hiện đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tố
tụng và các quy định về pháp luật nội dung.


1.2.1. Pháp luật về nội dung: Các nguyên tắc và các nội dung cụ thể
Pháp luật về nội dung chính là các quy định về căn cứ, cơ sở pháp luật để
Tòa án giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng.
Kế thừa quy định về quyền sở hữu tài sản của công dân tại Điều 58 Hiến
pháp năm 1992, Hiến Pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền sở hữu về
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,
phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” [22,
Điều 32].
Quy định của Hiến pháp thể hiện một điều rằng Nhà nước ta công nhận
tất cả các công dân trong xã hội đều có quyền sở hữu các tài sản do họ tạo ra
một cách hợp pháp. Vợ chồng cũng là những công dân trong xã hội nên họ
đương nhiên có quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp của họ.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước Việt Nam, là cơ sở để xây
dựng, ban hành các văn bản luật và dưới luật. BLDS năm 2005 cũng đã quy
định cụ thể về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng, theo đó:
Sở hữu chung vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. Vợ chồng
cùng tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng cơng sức của mỗi
người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung. Vợ chồng cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy
quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản
chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của Tịa án [21, Điều 219].
Cụ thể hóa quy định của Hiến Pháp và BLDS, Luật HN&GĐ, ngành luật

chuyên ngành điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong quan hệ
hơn nhân và gia đình đã có quy định cụ thể về tài sản chung của vợ chồng.
Trải qua các thời kỳ xây dựng và áp dụng, Luật HN&GĐ đã từng bước
hoàn thiện về sự phù hợp và tính khả thi trong thực tế. Luật HN&GĐ năm 1959


bước đầu xác lập sự bình đẳng trong việc xác lập, sử dụng tài sản chung vợ
chồng, theo đó “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng
ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cướf" [15, Điều 15]. Kế thừa
quan điếm trên, Luật HN & GĐ năm 1986 đã quy định “Tài sản chung của vợ
chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp về nghề nghiệp
và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng
cho chung" [16, Điều 14].
Các quy định của Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986
cịn thiếu tính rõ ràng và hợp lý, chưa bao trùm được các căn cứ xác lập tài sản
chung của vợ chồng trong đó quan trọng nhất là chưa quy định được căn cứ xác
lập tài sản chung dựa vào thời kỳ hơn nhân.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát huy, Luật HN&GĐ năm 2000 đã
có những quy định hợp lý hơn về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng,
trong đó điếm tiến bộ nhất là đưa ra căn cứ xác lập tài sản chung dựa vào thời
kỳ hôn nhân và nguyên tắc suy đốn “Nếu khơng chứng minh được tài sản
riêng thì là tài sản chung" [18, Điều 27]. Quy định về nguyên tắc suy đốn “có
ý nghĩa như một ngun tắc có tính chất định hướng trong việc giải quyết các
tranh chấp giữa vợ chồng với nhau về nguồn gốc tài sản" [42].
trong việc xác định tài sản chung vợ chồng đã góp phần bảo vệ quyền lợi
của những người vợ, người chồng có thế yếu trong gia đình, những người sống
phụ thuộc khơng có thu nhập hoặc làm những người chỉ làm cơng việc gia đình,
họ có xu hướng hướng nội nên những việc như đứng tên trên giấy tờ sở hữu,
giao dịch mua bán, xác lập quyền sở hữu.... đều do chồng hoặc vợ của họ làm
nên khi ly hôn họ không chứng minh được quyền sở hữu tài sản chung.

Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ
năm 2014 đã bo sung thêm các quy định phù hợp hơn. Căn cứ xác lập tài sản


chung vợ chồng được quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014, cụ thể như
sau:
- Tài sản chung xác lập căn cứ vào thời kỳ hôn nhân:
Căn cứ xác lập tài sản chung vợ, chồng trước hết phải dựa vào “thời kỳ
hơn nhân”. Luật HN&GĐ năm 2014 giải thích thời kỳ hôn nhân là “Khoảng
thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân” [23, Điều 3].
Việc quy định thời kỳ hôn nhân là căn cứ để xác lập tài sản chung của vợ
chồng là một quy định mang tính truyền thống trong Luật HN&GĐ của nhiều
nước. Ví dụ: Điều 13 của Luật HN&GĐ năm 1980 của nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa quy định “Tài sản của vợ chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn
nhân là tài sản chung vợ chồng, ngồi ra mỗi bên có thể có tài sản riêng ngồi
quy định trên”. Khoản 2 Điều 30 Luật gia đình Cộng hịa Cu Ba quy định “Tài
sản mua sắm và quyền lợi tạo ra trong thời kỳ hôn nhân bằng tiền hoặc vốn
chung dù là nhân danh cả hai vợ chồng hay nhân danh một người mà mua sắm
tài sản để tạo ra quyền lợi”.
Đề tồn tại thời kỳ hơn nhân thì việc kết hơn giữa nam và nữ phải đáp ứng
các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn. Thực tế có
nhiều vợ, chồng sống chung khơng đăng ký kết hôn, khi phát sinh mâu thuẫn họ
xin ly hôn và phân chia tài sản. Pháp luật chỉ công nhận trường hợp nam nữ
sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987, đối với những
trường hợp này thì dù họ đăng ký kết hơn hay khơng đăng ký kết hơn thì thời kỳ
hơn nhân của họ vẫn được tính từ thời điểm họ chung sống với nhau, tài sản
chung của họ cũng đồng thời được xác lập cùng thời điểm họ sống chung. Đối
với trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng sau ngày
03/01/1987 đến trước ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực, có đủ điều

kiện kết hơn nhưng chưa đăng ký kết hơn thì họ có nghĩa vụ đi đăng ký kết hôn


trong thời hạn hai năm kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003 theo quy
định tại Nghị quyết số 35/2000/QH 10 của Quốc hội ngày 9/6/2000 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Toàn bộ tài sản do vợ chồng tạo ra được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản
chủ yếu, cơ bản, on định nhất trong khối tài sản chung của vợ chồng. Tài sản
này do vợ chồng trực tiếp hoặc gián tiếp làm ra dựa trên cơng việc, năng lực,
bàn tay, khối óc của vợ, chồng như làm việc, mua sắm đồ đạc, mua nhà cửa,
thuê nhân công sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận...
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn
nhân là tài sản chung của vợ chồng. Đây là một quy định mới của Luật
HN&GĐ năm 2014 so với Luật HN&GĐ năm 2000.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong nhiều trường hợp là một
loại hình thu nhập quan trọng của vợ chồng, nhằm duy trì đời sống chung của
gia đình nên pháp luật quy định đây là tài sản chung của vợ chồng. Các bên
trong q trình chung sống vẫn có thể thỏa thuận đó là tài sản riêng, điều này
pháp luật khơng cấm vì pháp luật ln tơn trọng ngun tắc tự thỏa thuận và
quyền định đoạt tài sản riêng của mỗi người.
Thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ
chồng. Hiện nay chưa có nghị quyết hướng dẫn mới về thu nhập hợp pháp
nhưng theo quy định của Nghị quyết 02/2000/NĐ- CP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Luật HN&GĐ năm 2000 thì thu nhập hợp pháp vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân là “Tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ chồng có được hoặc
tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247,
248, 249, 250, 251, 252 Bộ luật dân sự năm 2005 trong thời kỳ hôn nhân" [10,
điểm a, mục 3].



Tài sản do vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung trong thời kỳ
hôn nhân cũng là tài sản chung. Đây là tài sản có tính chất đặc thù trong khối tài
sản chung vợ chồng, bởi tài sản này hình thành khơng phải dựa trên cơ sở vợ
chồng tạo ra từ lao động, sản xuất mà nó hình thành trên cơ sở ý chí định đoạt
của người khác và phải tuân theo quy định của pháp luật thừa kế và pháp luật về
tặng cho tài sản. Vợ chồng có thể được tặng cho hoặc được thừa kế chung trong
thời kỳ hôn nhân, những tài sản này đương nhiên thuộc khối tài sản chung vợ
chồng nếu hợp đồng tặng cho hoặc di chúc nêu rõ tặng cho chung, thừa kế
chung cho vợ, chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng.
Đất đai là tài nguyên, tài sản quan trọng của quốc gia [14]. Đất đai là tài
sản thuộc sở hữu của Nhà nước, mỗi cá nhân, to chức chỉ có quyền sở hữu đối
với quyền sử dụng đất. Sở dĩ đất đai được coi là tài sản quý giá bởi nó chính là
nơi con người dùng để sinh sống, tồn tại và sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
“An cư mới lạc nghiệp”, quyền sử dụng đất là tài sản để vợ chồng xây dựng nhà
ở, sinh hoạt, sản xuất để tồn tại và cuộc sống ổn định, phát triển.
về nguyên tắc, GCNQSDĐ đối với quyền sử dụng đất mà vợ chồng có
được trong thời kỳ hơn nhân phải đứng tên cả hai vợ chồng, tuy nhiên một thực
tế diễn ra rất nhiều hiện nay là nhiều GCNQSDĐ chỉ đứng tên vợ hoặc chồng.
Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định “Trong trường hợp giấy chứng nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng nếu có
tranh chấp thì giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này” [23,
Điều 34]. Quy định này đã khẳng định việc đứng tên trong GCNQSDĐ đối với
quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trong thời kỳ hơn nhân dù do một
mình vợ hoặc chồng đứng tên thì đó vẫn là tài sản chung của vợ chồng nếu
người đứng tên trong GCNQSDĐ khơng chứng minh được đó là tài sản riêng.



Mặc dù trước đó Luật HN&GĐ năm 2000 đã có quy định về nguyên tắc suy
đoán khi xác định tài sản chung, nhưng việc Luật HN&GĐ năm 2014 quy định
riêng, cụ thể về vấn đề suy đoán khi xác định tài sản chung đối với quyền sử
dụng đất đã tạo ra một cách tiếp cận rõ ràng, cụ thể hơn cho các cặp vợ chồng
khi làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ, bảo vệ được quyền lợi của những người vợ,
người chồng ít tham gia vào các công việc xã hội hoặc vì điều kiện nhất định
mà khi đăng ký kê khai cấp GCNQSDĐ họ không trực tiếp tham gia và không
đứng tên trong GCNQSDĐ, quy định này cũng giúp tránh khuynh hướng xấu
của một số bộ phận không nhỏ người vợ hoặc người chồng lợi dụng việc đứng
tên một mình trong GCNQSDĐ để khi ly hôn họ một mực cho rằng đó là tài sản
riêng của họ.
- Tài sản chung xác lập dựa trên ý chí của các bên: “Tài sản chung của
vợ chồng còn bao gồm cả những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung" [23, Điều 33].
Những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung có nguồn gốc là
tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm các tài sản
được quy định tại Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014. Việc nhập tài sản riêng vào
tài sản chung của vợ chồng phải tuân thủ theo đúng các quy định tại Điều 46
Luật HN&GĐ năm 2014.
Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung là một trong
những căn cứ xác lập tài sản chung vợ, chồng. Việc vợ, chồng thỏa thuận nhập
tài sản riêng vào tài sản chung có thể là mặc nhiên hoặc bằng văn bản. Thực
tiễn xét xử thì những trường hợp như sau có thể được coi là vợ chồng đã thỏa
thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung, đó là vợ chồng bán tài sản riêng để
góp vào mua một tài sản mới, khi mua khơng có sự phân biệt về tỷ lệ đóng góp
sau đó vợ chồng đã đưa vào sử dụng chung; bên có tài sản riêng trong quá trình
sử dụng, kê khai cấp giấy chứng nhận đã ghi tên cả hai vợ chồng trong đơn xin


đề nghị cấp GCNQSDĐ... Tuy nhiên, cần khẳng định rằng không phải mặc

nhiên những trường hợp như vừa nêu khi giải quyết tranh chấp đều đương nhiên
xác định đó là tài sản chung vợ chồng, khi xét xử Tòa án cần yêu cầu vợ chồng
hoặc Tòa án tự thu thập các chứng cứ để đánh giá ý thức chủ quan của người có
tài sản riêng từ đó mới quyết định đó là tài sản chung hay tài sản riêng.
Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung là quy định
mang tính mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với đặc thù của quan hệ hôn nhân.
- Xác định tài sản chung căn cứ vào nguyên tắc suy đoán:
Do tính chất mối quan hệ tài sản trong quan hệ hơn nhân là khơng có sự
phân biệt rạch rịi nên trong nhiều trường hợp tài sản chung- tài sản riêng của
vợ, chồng có sự trộn lẫn. Do đó, để đảm bảo cơng bằng, hợp lý cho các bên thì
khi phân chia tài sản các bên vẫn có quyền đưa ra các bằng chứng để chứng
minh đó là tài sản riêng của mình, nếu có căn cứ Tịa án sẽ cơng nhận đó là tài
sản riêng của họ, nếu họ khơng chứng minh được đó là tài sản riêng của mỗi
bên thì đó là tài sản chung. Đây là một quy định mới của Luật HN&GĐ năm
2000 và đã được Luật HN&GĐ năm 2014 kế thừa. Tuy nhiên, Việc xác định tài
sản chung căn cứ vào ngun tắc suy đốn có ý nghĩa như một ngun tắc có
tính chất định hướng trong việc giải quyết các tranh chấp giữa vợ chồng với
nhau về nguồn gốc tài sản. Tuy nhiên, tác dụng của nguyên tắc này chỉ dừng lại
ở chỗ thiết lập một sự suy đốn, khơng có ý nghĩa khẳng định chác chắn tất cả
các tài sản trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Đôi khi
ngun tắc này cịn có ý nghĩa như một trở ngại không những đối với vợ chồng
trong việc chứng minh tài sản là của riêng, mà còn là trở ngại đối với người thứ
ba [13].
Khi xác định các căn cứ xác lập tài sản chung cần lưu ý “Lao động của
vợ chồng trong gia đình được coi như là lao động có thu nhập” [23,


×