Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.31 KB, 34 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>I. TÊN ĐỀ TÀI : RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI</b>
<b> II.ĐẶT VẤN ĐỀ:</b>
<b> 1. Tầm quan trọng của đề tài :</b>
<b> - Trong giảng dạy Ngữ văn nói chung, Tập làm văn nói riêng điều hết sức quan</b>
trọng là giúp học sinh tạo lập được một văn bản hồn chỉnh, chỉ có thơng qua
một bài văn mới có thể đánh giá được việc lĩnh hội kiến thức và khả năng viết
văn của học sinh.
- Để viết được một bài văn, bài văn nghị luận xã hội thật tốt và thành thạo thì
điều quan trọng cần thiết là giáo viên phải rèn luyện cho học sinh phương pháp,
kĩ năng để viết một bài văn trôi chảy, mạch lạc, lơ-gic, có như thế học sinh mới
nắm vững kiến thức về việc viết một bài Tập làm văn nói chung, viết văn nghị
luận nói riêng .
- Trong chương trình làm văn THCS, học sinh được tiếp xúc và rèn luyện với
nhiều kiểu bài : miêu tả, tự sự, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận... Gần đây,
cùng với sự thực hiện chương trình sách giáo khoa theo hướng giảm tải đảm bảo
chuẩn kiến thức kĩ năng, song song với việc học tập, rèn luyện kĩ năng làm bài
nghị luận văn học, học sinh còn phải học tập , rèn luyện kĩ năng làm bài nghị
luận xã hội.
<b> - Làm văn nghị luận xã hội đã trở thành bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc</b>
đề thi tốt nghiệp và tuyển sinh các cấp, vì vậy việc rèn luyện viết văn nghị luận
xã hội cho học sinh đã góp phần khơng nhỏ trong việc thực hiện thành công
phương pháp dạy học theo phương pháp đổi mới và là một đòi hỏi cấp bách đối
với học sinh Trung học cơ sở .
- Tuy vậy, nếu như các tài liệu về nghị luận văn học rất dễ tìm thì tài liệu về
nghị luận xã hội trong nhà trường hiện nay lại tương đối khan hiếm.
- Từ những tầm quan trọng nêu trên, trong quá trình giảng dạy Ngữ Văn 9 và
nghiên cứu vận dụng đề tài này, tôi thấy cần phải khắc sâu hơn nữa những kiến
thức có liên quan và đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, giúp các em có thêm
kĩ năng để viết văn nghị luận xã hội phục vụ cho việc ơn và thi mơn Ngữ Văn
có hiệu quả.
2. Thực trạng liên quan:
- Học sinh rất lười suy nghĩ và sáng tạo nên khi gặp một đề văn đặc biệt là văn
nghị luận xã hội thì các em lại kêu khó và khơng thể viết được hoặc có viết
nhưng lại viết rất sơ sài, không lô-gic...
- Các tiết học về văn nghị luận xã hội, thực hành lập dàn ý trên lớp lại q ít
nên giáo viên khơng đủ thời gian hướng dẫn cũng như rèn luyện cho học sinh kĩ
năng cần thiết khi viết một bài nghị luận nói chung, văn nghị luận xã hội nói
riêng.
- Phần lớn học sinh hiểu sơ sài về mặt lí thuyết vì thế việc xác định đề bài, chủ
đề và bố cục bài văn lại càng bối rối nên khi viết văn cịn hay bị sai lệch. Q
trình lập luận, trình bày chưa chặt chẽ, lô-gic và sinh động. Chưa biết vận dụng
nhiều phương pháp trong một bài văn. Vì thế các bài văn của các em thường hay
đơn thuần, nhàm chán.
- Học sinh chưa biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với kiểu văn bản. Đa số học
sinh chưa viết được một bài văn nghị luận xã hội hay và đạt yêu cầu, tình trạng
này đang là vấn đề khiến nhiều giáo viên dạy văn băn khoăn, lo lắng.
- Ngoài ra còn phụ thuộc vào nguyên nhân là học sinh thường ngại học văn, học
Tập làm văn, các em coi việc học mơn văn là khó, trừu tượng khó trở thành giỏi
- Một điều nữa là cơ chế thị trường thực dụng, con người khơ khan, kênh thơng
tin văn hóa nghệ thuật đa dạng, nhiều loại hình cuốn hút học sinh . Hơn thế nữa
phụ huynh lại định hướng cho con em mình theo khuynh hướng trên.
- Việc dạy học Ngữ văn, dạy văn nghị luận xã hội là một việc làm của người
thầy, bồi dưỡng kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh được các thầy cô trong
tổ Ngữ văn quan tâm thực hiện nhưng tài liệu giảng dạy lại quá ít nên giáo viên
phải tự nghiên cứu cùng với tổ chun mơn triển khai thực hiện.
<b> 3. Lí do chọn đề tài :</b>
Với tình trạng trên người dạy văn cần phải làm thế nào để các em có hứng thú
trong học văn và tạo lập một bài văn, đặc biệt là viết được một bài văn nghị luận
xã hội . Nhằm để rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận xã hội cho học sinh một
cách hiệu quả nhất, giúp học sinh nắm vững kiến thức về văn nghị luận xã hội
và ham thích học văn nói chung và học phân mơn Tập làm văn nói riêng.
Trong việc rèn kĩ năng viết văn nghị luận xã hội học sinh nắm được điều cơ bản
nhất của việc viết văn bản. Nhờ đó các em có khả năng hơn trong việc tạo lập
một văn bản hoàn chỉnh.
mơn Tập làm văn nói riêng. Từ những lí do trên tơi đã nghiên cứu và vận dụng
đề tài : “ Rèn kĩ năng viết văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9.”
<b>4. Giới hạn nghiên cứu </b>
<b> Trên cơ sở thấy được tầm quan trọng của vấn đề, những thực trạng có liên</b>
Hướng dẫn học sinh nắm vững và khắc sâu các kiến thức cơ bản có liên
quan đến văn nghị luận xã hội
Hướng dẫn học sinh phân loại và nắm phương pháp để viết một bài văn nghị
luận xã hội theo yêu cầu.
Đưa ra một số dạng bài văn nghị luận xã hội và phương pháp viết văn.
Lưu ý cho học sinh các kiến thức liên quan khi viết văn nghị luận xã hội
Việc dạy văn, dạy Tập làm văn có nhiều hình thức, trong những năm qua
nhà trường có u cầu nên tập trung ưu tiên quan tâm nhiều hơn vào việc
rèn luyện kĩ năng, giúp đỡ nâng cao chất lượng cho học sinh trung bình yếu
và học sinh có năng khiếu về văn nhưng khơng có điều kiện học thêm.
Trong thời gian qua bản thân đã được nhà trường phân cơng giảng dạy mơn
Ngữ văn 8, 9 chính khóa và phụ đạo. Vì vậy, bản thân đã soạn ra đề tài :
“Rèn kĩ năng viết văn nghị luận xã hội”. Đây là đề tài dùng để giảng dạy
phụ đạo cũng như bồi dưỡng kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 9, lớp cuối
cấp.
<b>III. CƠ SỞ LÍ LUẬN :</b>
* Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn mới do nghị quyết TƯ khóa VII xác định : “
Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” và phải “ Đổi mới giáo
dục đào tạo, khắc phục lối học truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo
của người học, từng bước áp dụng phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học,
* Quán triệt thực hiện “Đổi mới phương pháp dạy học của bộ GD&ĐT theo
Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của bộ trưởng Bộ GD&ĐT
đã nêu : “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm của đối tượng học sinh, điều kiện từng
lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh” ( Những vấn đề chung
về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ Văn của Bộ GD& ĐT )
thường là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống có tính giáo dục
cao, có tính thời sự. Đối với chương trình làm văn trong trường phổ thơng, đó
thường là các đề tài mang đến cho học sinh những suy nghĩ, nhận thức đúng đắn
về cuộc sống , có ý nghĩa hướng đạo, đặc biệt là những vấn đề có ý nghĩa tác
động trực tiếp đối với thế hệ trẻ. Nội dung nghị luận thường được cô đúc trong
các câu tục ngữ, danh ngôn, hay một lời nhận xét, đánh giá khái quát nào đó thể
hiện những quan niệm, đánh giá... về các vấn đề của xã hội . Đó cũng có thể là
các vấn đề mang tính chất xã hội được rút ra từ các tác phẩm văn học. Do đặc
trưng đề tài của nghị luận xã hội, khi viết bài, người viết phải có sự hiểu biết về
xã hội, cuộc sống và văn học, có thái độ và nhận thức đúng đắn khi đứng trước
các vấn đề nghị luận, chủ động, chân thành, trung thực khi thể hiện cách ứng xử,
đánh giá của mình trước các vấn đề đặt ra.
Mặt khác, do đặc trưng kiểu văn bản nghị luận, người viết cũng cần thành thạo
các thao tác nghị luận( giải thích, chứng minh, bình luận, biết cách lập luận để
bài viết có sức thuyết phục, biết cách bố cục bài nghị luận chặt chẽ, lơ gic).
Vì vậy, việc rèn kĩ năng viết văn nghị luận xã hội là khâu hết sức quan trọng
trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn.
<b>IV.CƠ SỞ THỰC TIỄN :</b>
Qua thực tế giảng dạy Ngữ Văn lớp 9 trong những năm qua, bản thân nhận
thấy việc học sinh tiếp thu kiến thức trong phần văn nghị luận xã hội còn rất khó
khăn. Nhất là phần vận dụng để viết một bài văn nghị luận xã hội rất đa dạng
mang tính thực tế sâu rộng nên tạo cho học sinh sự lúng túng, khó khăn nhất
định.
Phần văn nghị luận ở lớp 9 của SGK Ngữ Văn 9 chỉ có 6 tiết, mặc dù văn nghị
luận các em đã được học từ lớp 7, 8 nhưng chỉ học những kiến thức cơ bản về
văn nghị luận...Do đó, các kiến thức về việc viết văn nghị luận xã hội vẫn còn
khá mới mẻ đối với các em. Chính vì thế, cần phải định hướng và tập cho các
em thích ứng dần với những kiến thức ở phần này một cách khoa học, có hệ
thống để các em dễ dàng nắm kiến bắt kiến thức và say mê học môn Tập làm
văn . Tạo nền tảng kiến thức vững chắc để các em tiếp tục học ở bậc THPT.
Do dặc trưng của bộ môn Ngữ văn, phân môn Tập làm văn, phần văn nghị luận
xã hội mang tính thực tế cao, áp dụng trong đời sống , liên quan đến cuộc sống
hiện tại nên vẫn có nhiều học sinh thích học phân môn này nhưng khi viết văn
nghị luận xã hội các em thường lúng túng trong cách diễn đạt, dùng từ, dựng
đoạn...cũng như tạo lập một văn bản nghị luận hoàn chỉnh .
Tiết học về văn nghị luận xã hội theo phân phối chương trình cịn q ít, chưa
đáp ứng được lượng kiến thức về văn nghị luận xã hội cần cung cấp, cần củng
cố và khắc sâu cho học sinh.
Học sinh chua nắm rõ lí thuyết về văn nghị luận xã hội, chưa nắm được kĩ năng
viết văn nghị luận xã hội....
Vậy bằng cách nào để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết bài văn nghị luận
xã hội trong chương trình ngữ văn 9 đó là trách nhiệm của giáo viên dạy văn 9.
<b>V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:</b>
1.Hướng dẫn khắc sâu một số kĩ năng làm văn nghị luận xã hội :
Để các em có thể triển khai tốt một bài văn Nghị luận xã hội giáo viên cần
giúp các em thành thạo những kĩ năng cơ bản , mặc dù đây là những kĩ năng các
em đã được học từ lớp 6 đến lớp 9 nhưng thời gian học ở các tiết học chính khóa
rất hạn chế nên phần lớn các em chưa nắm kĩ nên khi làm bài các em thường
phạm lỗi và đôi khi bỏ qua . Vì vậy bài làm chưa đạt kết quả cao.
Dưới đây là những kĩ năng cơ bản mà các em phải thành thạo và với mỗi kĩ
năng giáo viên cũng cần đưa vào một vài ví dụ để giúp các em thấy rõ hơn :
<i>1.1.Phân tích đề, tìm hiểu đề</i> :
- Đọc kĩ đề , chú ý những từ quan trọng, những khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa
bóng của từ ngữ, nghĩa tường minh, hàm ẩn của đoạn. Chia vế, ngăn đoạn, tìm
hiểu mối tương quan giữa các vế : song song,chính phụ, nhân quả, tăng tiến hay
đối lập...
- Khi phân tích đề phải xác định được ba yêu cầu sau đây :
+ Vấn đề cần nghị luận là gì ? Có bao nhiêu ý cần triển khai ? Mối quan hệ
giữa các ý như thế nào ?
+ Sử dụng thao tác lập luận gì là chính ? Thường là phải sử dụng tổng hợp các
thao tác, nhưng tùy theo từng dạng đề, tùy thuộc vào từng lĩnh vực kiến thức
+ Vùng tư liệu được sử dụng cho bài viết : thuộc lĩnh vực xã hội nào : phạm vi,
ảnh hưởng...
Đây là một thao tác quan trọng và cần thiết giúp phát hiện ra vấn đề cần nghị
luận trong yêu cầu của đề bài và triển khai đúng theo yêu cầu của đề. Vì thao
tác này có ý nghĩa quyết định đến chất lượng bài viết nên cần phải có sự đầu tư
thích đáng.
Ví dụ , với đề bài : Tục ngữ Việt Nam có câu : “ Đi một ngày đàng học một
sàng khôn” Suy nghĩ của em về câu nói trên.
Cần phải xác định những nội dung cơ bản sau từ đề bài
<b>- Về nội dung:</b>
<b>-</b> + Câu tục ngữ trên nêu lên vấn đề “ học hỏi”
<b>-</b> Người học sinh để trở thành người có ích cho xã hội cần phải đi nhiều, tiếp
xúc nhiều, học hỏi nhiều để trau dồi kiến thức...
<b>-</b> Bài viết có thể chia ra làm các luận điểm, mỗi luận điểm gồm một ý như
trên và phần liên hệ bản thân.
<b>-</b> Với đề văn trên, cần sử dụng các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh,
phân tích, bình luận..., đánh giá những hành động, việc làm thể hiện cách
học hỏi....
<b>-</b> Phạm vi dẫn chứng:
+ Từ thực tế
+ Từ những tấm gương của các nhà bác học, danh nhân...
<i>1.2.Lập dàn ý</i>
Sau khi xác định được yêu cầu của đề bài, nội dung của luận đề, cần phải tổ
chức lập luận, lập dàn ý thỏa mãn yêu cầu của đề bài. Khâu này phụ thuộc rất
nhiều vào kết quả phân tích. Học sinh cần phải vạch ra được những ý lớn,
những luận điểm chính, trên cơ sở đó cụ thể hóa thành từng ý nhỏ. Dàn ý càng
chi tiết thì càng thuận lợi cho việc viết bài.
Lập dàn ý giúp cho người viết lựa chọn, sắp xếp ý thành một hệ thống chặt
chẽ và bao quát được nội dung cơ bản, nhờ đó mà tránh tình trạng lạc đề hoặc
lặp ý, tránh việc bỏ sót hoặc triển khai ý không cân xứng. Đồng thời, nhờ dàn ý,
người viết sẽ biết cách sắp xếp thời gian một cách hợp lí.
<b>-</b> Cách lập dàn bài nghị luận xã hội :
+ Xác định các luận điểm( ý lớn) :
<b>-</b> Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm
Đề bài có một ý thì ý nhỏ hơn cụ thể của ý đó được xem là những luận điểm.
Nội dung kiến thức này ở trong bài học, tư liệu vốn có.
+Tìm luận cứ( ý nhỏ) cho các luận điểm : Mỗi luận điểm cần được cụ thể hóa
thành nhiều ý nhỏ hơn gọi là luận cứ. Số lượng ý nhỏ và cách triển khai tùy
thuộc vào ý lớn.
+ Lập dàn ý gồm ba phần :
a. Mở bài : Giới thiệu vấn đề xã hội cần nghị luận
b. Thân bài: Triển khai nội dung theo các ý nhỏ và ý lớn đã tìm.
c. Kết bài : Tổng kết nội dung đã trình bày, liên hệ, mở rộng, nâng cao vấn đề.
Gv sử dụng ví dụ để minh họa cho nội dung trên
Ví dụ : Đề bài Đọc truyện Tấm Cám , em có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa
cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay ?
Đề bài yêu cầu bàn luận một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội nhưng xuất phát từ sự
thể hiện của vấn đề đó trong văn học : cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, người
xấu và kẻ tốt trong xã hội xưa và nay.
- Giới thiệu về những quan niệm đạo đức truyền thống liên quan đến thiện- ác
trong dân gian.
-Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám và bài học đạo đức về sự chiến thắng của
cái thiện.
b. Thân bài
- Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, người tốt và kẻ xấu thể hiện trong truyện Tấm
Cám
+Đặc trưng thể loại cổ tích : phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội.
+ Mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác trong truyện Tấm cám : Dì ghẻ, Cám ><
Tấm, giai cấp bóc lột >< giai cấp bị bóc lột, cái ác >< cái thiện.
+ Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Mẹ con Cám bóc lột Tấm, bốn lần
giết Tấm: chặt cau, giết vàng anh,chặt cây xoan đào, đốt khung cửi-> tấm hóa
kiếp nhắc nhở “ Phơi áo chồng tao....”, giành lại hạnh phúc( vua mắc võng lên
cây xoan đào), đe dọa kẻ thù “ Kẽo cà kẽo kẹt...chị móc mắt ra”.
+ Ý nghĩa cuộc đấu tranh của cái thiện với cái ác : tăng tiến về mức độ, từ thụ
động đến chủ động...
<b>-</b> Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong cuộc sống hiện nay
<b>-</b> Rút ra bài học:
+ Muốn chiến thắng cái ác phải kiên quyết, không thể nhu nhược, nhún
nhường.
+ Con người phải biết hướng thiện và tránh xa cái ác.
a. Kết luận
Khẳng định đạo lí “ ở hiền gặp lành”, “ gieo gió gặt bão”... của nhân dân ta.
Ý nghĩa của bài học đó với bản thân.
<b>2 .CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI </b>
Do đặc trưng của việc bàn luận, làm sáng tỏ một vấn đề xã hội nào đó, cũng
giống như các bài văn nghị luận nói chung, một bài văn nghị luận xã hội cần có
sự kết hợp thành thạo giữa các thao tác nghị luận, lập luận chặt chẽ, thuyết phục,
bố cục Lơ- gic. Vì vậy, giáo viên cần giúp học sinh thành thạo các thao tác trong
khi làm bài nghị luận xã hội. Và để hiểu rõ hơn về từng thao tác giáo viên cần
phải giảng giải cho học sinh rõ khái niệm của từng thao tác mặc dù các thao tác
này các em đã được học ở các lớp7, 8 nhưng các em chưa được học kĩ về khái
niệm từng thao tác, Vì thế, việc trình bày từng thao tác cho các em là một việc
làm khá quan trọng để giúp các em thành công trong việc viết một bài văn nghị
Các thao tác sử dụng trong văn nghị luận xã hội là :
2.1.Giải thích
trước hết ở việc đi vào lí giải các từ ngữ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng,
nghĩa hẹp, nghĩa mở rộng... Trên cơ sở đó giải thích tồn bộ vấn đề ( chú ý đến
nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn). Trong thao tác giải thích, người viết vừa
dùng lí lẽ để phân tích, lí giải là chủ yếu : vừa dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ
vấn đề, xác lập một cách hiểu đúng đắn, có tính biện chứng, chống lại những
cách hiểu sai, hiểu không đầy đủ về vấn đề xã hội đã được đưa ra.
Thực chất của thao tác này là việc đi vào trả lời các câu hỏi. Vấn đề xã hội
được đưa ra nghị luận là gì ? Cần phải hiểu vấn đề đó như thế nào ? Tại sao lại
có cách hiểu như vậy ? Và cách hiểu đó dẫn đến kết quả như thế nào ? Kết thúc
thao tác giải thích, người viết phải làm cho người đọc, người nghe hiểu được
vấn đề được đưa ra nghị luận , rút ra được chân lí để sau đó vận dụng vào cuộc
sống hiện tại, vào bản thân.
Ví dụ : Trong đề Tục ngữ có câu “ Một cây làm chẳng nên non .Ba cây chụm
lại nên hịn núi cao”. Em hiểu gì về câu tục ngữ trên.
Vấn đề xã hội được đưa ra nghị luận là vai trò của cá nhân và tập thể được thể
hiện trong câu tục ngữ. Để hiểu vấn đề trên người viết cần:
+ Giải thích câu tục ngữ:
Nghĩa đen : Một cây dễ bẻ gãy, khó tồn tại.” Chẳng nên non”
Triệu triệu cây hợp lại làm thành một khu rừng thì bền vững “ nên hịn núi cao”
Nghĩa bóng : mỗi cá nhân là một cây, đứng một mình thì khó tồn tại và phát
triển.
Con người phải biết hịa mình vào tập thể mới đứng vững, mới phát huy hết
khả năng, mới có điều kiện để phát triển.
<b>-</b> Trả lời câu hỏi : Tại sao lại như vậy ?
+ Cuộc sống có nhiều khó khăn, vất vả, một cá nhân khơng thể làm hết mọi
việc, đáp ứng mọi nhu cầu.
+ Bước vào tập thể, con người học tập, sẻ chia giúp đỡ, động viên nhau : xây
dựng tập thể vững mạnh trong đó mỗi cá nhân đều được đáp ứng nhu cầu.
+ Cá nhân và tập thể có mối quan hệ khăng khít : cá nhân xây dựng nên tập thể,
tập thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển.
Trên cơ sở giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ,giải thích ý nghĩa của vấn đề
xã hội được đưa ra bàn luận : Vai trò cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và tập
thể.
<b>2.2.Chứng minh </b>
Chứng minh là đưa ra những cứ liệu- dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí
lẽ, một ý kiến, làm sáng tỏ vấn đề xã hội đang bàn luận, thuyết phục người
đọc ,người nghe tin tưởng vào vấn đề đang được nghị luận đó.
cầu của đề, cần phải có sự khoanh vùng những vấn đề xã hội được bàn luận, đưa
ra các dẫn chứng xác đáng, tiêu biểu và toàn diện nhất để làm sáng tỏ điều cần
chứng minh. Dẫn chứng đưa ra cần có sự chọn lọc, tránh việc đưa dẫn chứng
quá nhiều, không tiêu biểu, không sát với vấn đề được nghị luận, biến bài nghị
luận thành một bài liệt kê số liệu xã hội. Dẫn chứng đưa ra cần có lí lẽ phân tích,
để làm nổi bật những điểm phục vụ cho việc nghị luận, làm sâu sắc thêm vấn đề.
Để dẫn chứng và lí lẽ có sức thuyết phục cao, phải sắp xếp chúng thành một
hệ thống mạch lạc và chặt chẽ theo các mặt của vấn đề, theo trình tự thời gian,
khơng gian,từ xa đến gần từ ngồi vào trong... cho hợp lí và lơ- gic. Các dẫn
chứng đưa ra phải là dẫn chứng phục vụ đắc lực cho việc bàn luận về các vấn đề
xã hội, tức cũng mang tính xã hội, có ý nghĩa trong đời sống xã hội.
Ví dụ : Trong đề văn : Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần
giảm thiểu tai nạn giao thơng.
Để làm sáng tỏ vấn đề , cần đưa ra dẫn chứng chứng minh cho các luận điểm.
<b>-</b> Thực trạng tai nạn giao thông
<b>-</b> Hậu quả của vấn đề
<b>-</b> Các hành động của tuổi trẻ học đường trong việc góp phần giảm thiểu tai
nạn giao thơng .
*** Giáo viên cho học sinh tham khảo một đoạn văn chứng minh về thực trạng
an tồn giao thơng để các em học tập và có thêm kinh nghiệm viết bài.
Sau đây là một đoạn văn chứng minh về thực trạng an toàn giao thơng
“ Những thực tế đau buồn về tình hình tai nạn giao thông đã phản ánh tầm quan
trọng của vấn đề : Mỗi ngày qua đi có tới hơn ba mươi người chết và bị thương
do tai nạn giao thông. Trong vài năm trở lại đây, trong chương trình “ chào buổi
Trong đoạn văn trên ,người viết đã đưa ra những dẫn chứng từ thực trạng nền
giao thông đang diễn biến ngày càng phức tạp với rất nhiều những bất cập đáng
lo ngại. Đó là những dẫn chứng cụ thể và tương đối tiêu biểu.
<b>2.3.Phân tích </b>
Đối tượng phân tích của một bài nghị luận xã hội là một vấn đề thuộc lĩnh vực
xã hội, được thể hiện trực tiếp trong yêu cầu của đề bài hay qua một câu tục
ngữ, một câu danh ngôn, một ý kiến, nhận định... qua vấn đề xã hội thể hiện
trong văn học. Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị ý nghĩa của sự vật,
hiện tượng, mối quan hệ giữa hình thức bên ngồi và bản chất bên trong của sự
việc, hiện tượng đó. Phân tích để nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về các vấn đề
xã hội đang được đưa ra xem xét, bàn luận. Yêu cầu khi phân tích cần phải nắm
vững đặc điểm cấu trúc của đối tượng để chia tách một cách hợp lí. Sau khi
phân tích, tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết, phải tổng hợp khái quát lại để nhận
thức đối tượng đầy đủ, chính xác.
Sau khi giới thiệu cho học sinh hiểu rõ hơn về khái niệm của bước phân
tích,giáo viên cần đọc cho học sinh nghe một hoặc vài đoạn văn để các em nắm
vững hơn về bước phân tích.
Ví dụ, dưới đây là đoạn văn phân tích về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể
trong đề : Đức Phật dạy “ Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà
thôi”
Em hiểu gì về lời dạy trên
“...Đức Phật từng dạy : Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi”.
Nếu coi từng giọt nước là những cá thể riêng lẻ trong xã hội và biển cả là tập thể
rộng lớn thì lời dạy của Đức Phật thật sâu xa, thâm thúy. Câu nói ấy nhắc nhở
con người phải biết hịa mình vào tập thể, sống trong tập thể và sống vì tập thể
“ một người vì mọi người ”. Mỗi cá nhân là một bộ phận hữu cơ của tập thể
xung quanh. Tự cá nhân không thể đáp ứng mọi nhu cầu về vật chất, tinh thần
cho mình bởi mỗi người khơng phải là cả thế giới:
Một ngôi sao chẳng sáng đêm
Một bơng lúa chín chẳng nên mùa vàng
Một người đâu phải nhân gian
Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi.
( Tố Hữu- Tiếng ru)
khác, từ đó tác động đến cả tập thể. Cha ơng ta từng có câu : “Một con ngựa
đau cả tàu bỏ cỏ” Vậy là mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể vơ cùng khăng
khít, gắn bó hữu cơ. Nhận thức được điều đó, mỗi người cần sống tốt hơn để
xây dựng gia đình, lớp học , cơ quan của mình. Ta khơng sợ mất đi điều gì bởi
ta vì mọi người thì đến lượt tập thể họ cũng sẵn sàng “ mọi người vì một
người” giúp đỡ ta tiến lên nhiều hơn, mạnh hơn nữa” . Vậy đoàn kết là sống mà
chia rẽ thì chết .
<b>2.4. Bình luận</b>
Bình luận là bàn bạc, đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng.. chỉ ra sự đúng
-cái sai - phải-trái, tốt-xấu, lợi- hại.. để nhận thức đối tượng, có cách ứng xử phù
hợp, phương châm hành động đúng. Đây là thao tác có tính tổng hợp vì nó bao
hàm cả cơng việc giải thích lẫn chứng minh. Tuy nhiên, đây là thao tác giải
thích, chứng minh được viết cô đọng để tập trung làm sáng rõ cho phần việc
quan trọng nhất là phần mở rộng vấn đề. Việc bình luận phải dựa trên sự nhìn
nhận vấn đề một cách tồn diện, khách quan, có lập trường tư tưởng đúng đắn,
rõ ràng.
Bình luận ln gồm hai phần :
+ Đưa ra nhận định về đối tượng nghị luận( Thông thường, những nhận định
được rút ra từ kết quả phân tích).
+ Trên cơ sở của những nhận định, đánh giá về vấn đề. Muốn đánh giá vấn đề
một cách thuyết phục cần có lập trường đúng đắn và nhất thiết phải có tiêu chí.
Trong nghị luận về văn học, đó là các tiêu chí giá trị đặc trưng của văn học
nghệ thuật như giá trị nhận thức, giá trị thẫm mĩ, giáo dục, nhân đạo... Còn
trong nghị luận xã hội đó thường là việc dựa vào lập trường mang tính đạo đức
truyền thống của nhân dân, các tiêu chí đạo lí của xã hội...
Người viết thể hiện ý kiến của mình đối với vấn đề xã hội được đưa ra nghị
luận: đồng ý hay không đồng ý? Đồng ý ở những nội dung khía cạnh nào? Sau
đó bình luận- mở rộng lời bàn về vấn đề một cách sâu hơn, toàn diện và triệt để
hơn. Cuối cùng, cần chỉ ra phương hướng vận dụng vào cuộc sống, chỉ ra ý
nghĩa, tác dụng của vấn đề đối với bản thân và đời sống xã hội.
Trong khi thực hiện thao tác bình luận, người viết cần phải rất linh hoạt, tránh
Ví dụ, trong đề : “ Phân tích và làm sáng rõ ý nghĩa câu nói : Đường đi
khơng khó vì ngăn sơng cách núi mà khó vì lịng người ngại núi e sơng”
(Nguyễn Bá Học)
Bàn luận mở rộng vấn đề bằng việc liên hệ với thế hệ trẻ, với chính bản thân
mình. Dưới đây là một đoạn văn bình luận :
“ Là học sinh chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ và bổn phận của mình, luôn tự
nhắc nhở bản thân :
Khơng có việc gì khó
Chỉ sợ lịng khơng bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí cũng làm nên
Và “ Đường đi khơng khó vì ngăn sơng cách núi mà khó vì lịng người ngại núi
e sơng”
Nói như vậy có nghĩa là , nhiệm vụ chính của chúng ta là học tập, sẽ khơng có
lí do gì để chúng ta khơng cố gắng học tốt, chỉ có tích cực trau dồi kiến thức ,
mỗi người trẻ tuổi mới có thể trở thành những chủ nhân có ích cho đất nước.
Đứng trước một bài tập khó hay trước những phút lười biếng, hãy nhớ đến câu
nói của thầy Nguyễn Bá Học để vượt qua, để vươn lên thực hiện tốt nhiệm vụ
của mình. Chúng ta là những con người hạnh phúc bởi đang được sống trong
đất nước hịa bình phát triển. Chúng ta được học tập, vui chơi, được tự do mơ
ước mà không phải “xếp vào ba lô mọi mơ ước dịu hiền nhất...mà đánh giặc”.
Như đã nói ở trên, một bài văn nghị luận thường là sự kết hợp nhiều thao tác
lập luận, trong đó, tùy theo từng yêu cầu và vấn đề nghị luận nêu ra ở đề bài mà
lựa chọn và sử dụng thao tác nào là thao tác chính. Khơng thể sử dụng đơn độc
một loại thao tác lập luận duy nhất, làm cho vấn đề bàn luận trở nên thiếu sức
thuyết phục, không thấu đáo. Viết văn nghị luận xã hội là thể hiện sự hiểu biết,
nhận thức, khám phá của mình về đối tượng xã hội nghị luận, nhằm nâng cao
trình độ năng lực, giúp người khác cùng hiểu và tin vào vấn đề. Không chỉ thế,
người viết qua đó cũng thể hiện chính kiến, thái độ, sự đánh giá vấn đề, đưa ra
những điều chỉnh tích cực nhằm nâng cao hiểu biết và tiến bộ về các lĩnh vực
trong đời sống xã hội. Do đó, phải sử dụng kết hợp các thao tác lập luận để đi
từ hiểu biết, nhận thức đến khám phá và cuối cùng là bàn luận, đánh giá về vấn
đề, liên hệ với bản thân và đời sống. Việc vận dụng một cách linh hoạt các thao
tác lập luận sẽ khiến cho vấn đề xã hội nghị luận được nhìn nhận một cách đầy
đủ, sâu sắc hơn, mang tính thuyết phục cao hơn, hấp dẫn người đọc, người
nghe.
học sinh nắm kĩ hơn về các dạng đề mà các em sẽ gặp phải ở bậc THCS và
THPT. Vì vậy sau khi dành thời gian giảng về kĩ năng giáo viên cũng dành
một thời gian tương đối lớn để hướng dẫn các em về các dạng đề mà các em
gặp trong quá trình học ở đầu học kì 2( lớp 9.)
<b>3.CÁCH LÀM CÁC DẠNG ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI</b>
Trong văn nghị luận, căn cứ vào đối tượng nghị luận, người ta phân chia
thành hai dạng chính : nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện
<b>tượng đời sống. Đây là hai dạng đề mà các em đã được học trong chương trình</b>
nhưng thời gian học ở lớp của các em lại quá ít nên việc áp dụng vào làm bài
<b>3.1.Nghị luận về một tư tưởng đạo lí</b>
Đề tài của dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí vơ cùng phong phú.
Nó bao gồm các vấn đề nhận thức( như lí tưởng, mục đích sống...), về
tâm hồn, tính cách( lịng u nước, lịng nhân ái, tính trung thực, thói ích
kỉ...) về các quan hệ gia đình, quan hệ xã hội , cách ứng xử, những hành
động của mỗi người trong cuộc sống.
Chẳng hạn đề bài:
<b>-</b> Tình thương là hạnh phúc của con người
<b>-</b> Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề xướng :
“ Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”
Để làm tốt dạng đề này cần chú ý những vấn đề sau:
<b>-</b> Giới thiệu, giải thích tư tưởng đạo lí cần nghị luận : Đó là vấn đề tư tưởng
đạo lí gì ? Điều đó được thể hiện như thế nào trong thực tế? Nguyên nhân,
nguồn gốc của tư tưởng đạo lí đó ?
<b>-</b> Phân tích các mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến
vấn đề nghị luận. Lưu ý rằng có những vấn đề đạo lí đúng trong thời đại
này nhưng cịn thiếu sót trong thời đại khác; đúng trong hồn cảnh này
nhưng chưa hoàn toàn diện trong hoàn cảnh khác. Vì vậy, việc phân tích,
bác bỏ, bình luận phải đặt dưới nhiều chiều, nhiều góc độ.
<b>-</b> Nêu ý nghĩa, rút ra bài học về tư tưởng đạo lí, và hành động: đây là vấn đề
<b>-</b> Lấy dẫn chứng minh họa( chủ yếu là các dẫn chứng trong thực tế đời sống).
Để bài viết thêm sâu sắc , gv lưu ý cho học sinh là phải biết liên hệ với các
ý kiến khác tương đồng hoặc đối lập.
<b>-</b> Ví dụ : Trong đề :”Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng
quan trọng và cần thiết như ngợi ca lòng vị tha, tình đồn kết.
Đề bài u cầu bàn luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí là thái độ sống( thờ ơ ,
ghẻ lạnh hay vị tha, đồn kết) của con người , từ đó đưa ra quan niệm về một
cách sống đúng đắn, tiến bộ. Để làm tốt đề này người viết cần :
+ Giải thích các khái niệm: thờ ơ, ghẻ lạnh, vị tha ,đồn kết. Vấn đề đó được
thể hiện và có vai trò như thế nào trong cuộc sống?
+ Bài học rút ra cho mỗi người : Cần lên án lối sống thờ ơ, ghẻ lạnh giữa người
với người, sống nhân ái, bao dung với những người xung quanh và nhân rộng
những tấm lòng bao dung ấy đến mọi nơi, mọi người, làm cho xã hội ngày
càng nhân văn, tốt đẹp hơn.
+Liên hệ với thế hệ trẻ, với bản thân.
+Lấy dẫn chứng từ thực tế đời sống minh họa cho vấn đề : Về những hành
động thờ ơ, ghẻ lạnh giữa con người với nhau đáng bị phê phán, về tấm gương
vị tha , đoàn kết đáng được học tập và phát huy.
<b>3.2.Nghị luận về một hiện tượng đời sống</b>
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn về một hiện tượng có ý nghĩa đối
với đời sống xã hội: cách thể hiện tình cảm gia đình, thực trạng trong xã hội,
các vấn đề nóng bỏng mang tính thời sự...
Chẳng hạn đề bài:
<b>-</b> Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn
giao thông.
<b>-</b> Hiện nay ở nước ta có nhiều cá nhân , gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em cơ
nhỡ, lang thang kiếm sống về những mái ấm tình thương để ni dạy, giúp
các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh, tốt đẹp. Em hãy bày tỏ
suy nghĩ của mình về hiện tượng trên.
Để làm tốt dạng đề này lưu ý cho các em cần chú ý những vấn đề sau:
<b>-</b> Đặt hiện tượng đời sống vào hoàn cảnh cụ thể, xã hội thực tại, nhìn chúng
dưới những điều kiện xã hội cụ thể để có sự phân tích, lí giải, đánh giá đúng.
<b>-</b> Từ những điều đã phân tích, chỉ ra mặt đúng-sai, lợi-hại của hiện tượng.
<b>-</b> Lí giải nguyên nhân của hiện tượng trên, từ đó bày tỏ thái độ, ý kiến của
mình và đưa ra giải pháp hợp lí cho vấn đề.
<b>-</b> - Lấy dẫn chứng minh họa( chủ yếu là các dẫn chứng trong thực tế đời sống)
Ví dụ trong đề: Tình trạng ơ nhiễm mơi trường và trách nhiệm của người dân
Đề bài yêu cầu người viết bàn về tình trạng ơ nhiễm mơi trường sống và trách
nhiệm của người dân đối với thực trạng đáng buồn này. Để giải quyết được vấn
đề này các em phải :
+ Chỉ ra hậu quả của sự ơ nhiễm mơi trường
+Lí giải ngun nhân( do ý thức người dân, sự phát triển của công nghiệp hóa,
q trình đơ thị hóa..); chỉ ra trách nhiệm của mỗi người dân trong việc bảo vệ
mơi trường, tìm ra biện pháp giải quyết: tự giác,chủ động trong việc tham gia
bảo vệ mơi trường, có các biện pháp cụ thể thiết thực từ cấp trung ương , chính
quyền địa phương đến bản thân mỗi người dân.
Từ căn cứ vào đối tượng nghị luận xã hội này, dựa theo nội dung và hình thức
thể hiện của đề nghị luận lại có thể chia thành các dạng đề nghị luận xã hội cơ
bản sau:
<b>-</b> Đề bài yêu cầu nghị luận( trực tiếp) về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội
<b>-</b> Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội được thể hiện
qua một câu tục ngữ, một câu danh ngôn, qua một ý thơ,ý văn...
<b>-</b> Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội nhưng xuất
phát từ sự thể hiện vấn đề đó trong văn học.
Với mỗi dạng đề cụ thể như vậy, người viết cần có cách triển khai riêng để
bài viết của mình đáp ứng được yêu cầu của người ra đề.
Để giúp học sinh làm tốt được văn nghị luận xã hội người thầy cần phải có
hướng dẫn cách làm. Dưới đây là phần hướng dẫn cách làm văn nghị luận
xã hội cho học sinh.
***.Đề bài yêu cầu nghị luận ( trực tiếp) về một vấn đề thuộc lĩnh vực
<b>xã hội</b>
Loại đề bài này thường đề cập đến những sự kiện, vấn đề bức thiết của đời
sống xã hội, có liên quan mật thiết đến đời sống hằng ngày, đặc biệt là vấn
đề đạo đức- xã hội. Mục đích của những đề bài này là yêu cầu người viết thể
hiện những hiểu biết về vấn đề, về mối liên hệ của vấn đề đối với đời sống,
tính cấp thiết của vấn đề và việc giải quyết vấn đề. Từ đó, người viết đề xuất
phương hướng giải quyết, qua cách giải quyết vấn đề đã đồng thời có ý thức
tự điều chỉnh hành vi ý thức đạo đức xã hội của mình.
Ví dụ : Vai trị của sách đối với đời sống nhân loại.
<b>-</b> Em hãy trình bày những suy nghĩ của mình về lịng dũng cảm
<b>-</b> Tình thương là hạnh phúc của con người ....
Để làm tốt dạng đề này, yêu cầu học sinh phải có sự quan tâm, hiểu biết nhất
định đến các mặt của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề của tuổi trẻ( học
tập, rèn luyện đạo đức....), những vấn đề đang được dư luận quan tâm( tệ nạn xã
hội, bạo lực tuổi trẻ vị thành niên...)
Khi làm bài, các em cần chú ý tới các bước sau:
<b>-</b> Giải thích khái niệm: làm rõ những tên gọi, những khái niệm xuất hiện
trong vấn đề mà đề bài nêu ra. Chẳng hạn “ Lòng dũng cảm là gì ?..” “ ma
túy” là gì ?...
<b>-</b> Nêu thực trạng vấn đề : Thực tế vấn đề đang diễn ra như thế nào? Có ảnh
hưởng ra sao đối với đời sống( tích cực,tiêu cực) ? Thái độ của xã hội đối
với vấn đề ( tích cực, tiêu cực) ?( Chú ý liên hệ tới tình hình thực tế xã hội,
địa phương, bản thân, từ đó làm nổi bật tính cấp thiết của việc phải giải
quyết vấn đề.)
<b>-</b> Nêu nguyên nhân vấn đề : đưa ra các nguyên nhân nảy sinh vấn đề, các
nguyên chủ quan, khách quan, do tự nhiên, do con người...?
<b>-</b> Đề xuất phương hướng giải quyết: Từ nguyên nhân nảy sinh vấn đề, đề xuất
phương hương giải quyết( trước mắt, lâu dài)? Chú ý chỉ rõ những việc cần
làm, cách thức thực hiện, đòi hỏi sự phối hợp của những lực lượng nào ?...
Ví dụ trong đề: Tầm quan trọng của vấn đề chuẩn bị hành trang cho tương lai,
phải:
+ Giải thích khái niệm : Hành trang là gì ?Thế nào là việc chuẩn bị hành trang
cho tương lai?
+ Thực trạng:
*Bước vào thế kỉ mới, thế giới có nhiều thay đổi, có nhiều bước nhảy quan
trọng, đất nước hội nhập.
*Thế mạnh của dân tộc ta: thông minh và nhạy bén với những cái mới.
*Những thế mạnh, ưu điểm của thế hệ trẻ
* Hạn chế :: Vẫn chưa thực sự chủ động và tự tin về vốn tri thức của mình trong
việc chuẩn bị hành trang bước vào hội nhập
+ Nguyên nhân:
*Do đất nước đang trên đường phát triển, cịn gặp nhiều khó khăn.
*Chúng ta chưa chủ động trong việc tiếp thu ,bồi dưỡng tri thức cho bản thân,
chuẩn bị hành trang bước vào hội nhập.
+ Đề xuất phương hướng :
Xác định được sự tất yếu của q trình hơị nhập, chủ động , sáng tạo.
Trang bị cho bản thân những vốn sống, vốn tri thức đáp ứng được yêu cầu
trong nước và thế giới
Bồi đắp và tiếp tục phát huy những thế mạnh, tiềm lực vốn có của bản thân,
Vai trò của thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước trong việc chuẩn bị hành
trang bước vào quá trình hội nhập và phát triển.
***.Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội được thể
<b>hiện qua một câu tục ngữ,một câu danh ngôn, qua một ý thơ...</b>
Dạng đề bài này thường đề cập đến những vấn đề về đạo đức, thế giới quan,
nhân sinh quan, các mối quan hệ xã hội... Chẳng hạn: sự yêu ghét, lí tưởng con
người, tốt- xấu, tình cảm gia đình, bạn bè,... Người viết cần phân tích câu tục
ngữ, câu danh ngơn, ý thơ... đó, trình bày suy nghĩ, quan điểm cá nhân, đưa ra
những tình cảm, thái độ cần có đối với mỗi vấn đề.
Để làm tốt dạng đề này, người thầy cần hướng dẫn học sinh nắm rõ các chuẩn
mực đạo đức xã hội, có sự hiểu biết về các luồng quan điểm, tư tưởng. Đặc biệt,
người viết phải có lập trường vững chắc, tỉnh táo trong việc bác bỏ các quan
điểm sai và đề xuất những ý kiến đúng.
Ví dụ : Một số đề bài:
<b>-</b> “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần” ( Tố Hữu- Dậy mà đi)
Viết bài văn về thắng và bại; khôn và dại trong cuộc sống.
<b>-</b> Ca dao có câu : “ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hịn núi cao
Em hiểu gì về ý trên? Viết bài văn bàn về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể
trong cuộc sống.
<b>-</b> Em hãy giải thích và làm sáng tỏ câu ngạn ngữ Hi Lạp : “ Học vấn có những
chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào”
Giáo viên lưu ý cho học sinh khi làm bài cần chú ý tới các bước sau:
Giải thích vấn đề được đề cập trong câu tục ngữ, câu danh ngôn, khổ thơ...
( giải thích nghĩa đen từ đó suy ra nghĩa bóng( nếu có); giải thích các từ ngữ
quan trọng) Sau đó trả lời câu hỏi : Vấn đề cần nghị luận là gì ? Quan điểm
của dân gian ( nếu là tục ngữ), danh nhân( nếu là danh ngôn), của nhà thơ,
nhà văn( nếu là ý thơ, ý văn)là gì ?
Tầm quan trọng của vấn đề trong đời sống xã hội( đó là lí do để vấn đề được
đưa ra nghị luận). Tại sao lại như vậy?
Những biểu hiện của vấn đề trong đời sống, các luồng tư tưởng, quan điểm
khác nhau đối với vấn đề . Phân tích cái đúng , cái chưa đúng ở mỗi quan
Khẳng định những quan điểm, tư tưởng, tình cảm tích cực đối với vấn đề,
liên hệ bản thân.
***.Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội xuất phát
<b>từ sự thể hiện của vấn đề đó trong văn học </b>
nhiều các vấn đề khác nhau trong xã hội. Trong cuộc sống, có những vấn đề
mang tính lịch sử. Chúng là mối quan tâm của xã hội trong mọi thời đại. Trong
quá khứ, chúng được phản ánh trong các tác phẩm văn học, thể hiện cách đánh
giá, cách nhìn nhận của người xưa. Cho đến ngày nay, chúng vẫn giữ nguyên
tầm quan trọng và giá trị . Đó là những vấn đề về nhân cách làm người, vấn đề
ứng xử,hành động của con người, những giá trị đạo đức và văn hóa truyền
thống... Nghị luận về vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội nhưng xuất phát từ sự thể
hiện của vấn đề đó trong văn học là thao tác nghị luận đi từ một vấn đề cụ thể
được đề cập đến trong tác phẩm, bàn bạc, mở rộng đến những vấn đề liên quan
nằm ngoài phạm vi tác phẩm văn học đó- những vấn đề mang tính xã hội, có ý
nghĩa trong những thời điểm khác nhau, cả quá khứ, hiện tại và tương lai từ đó
nhằm làm rõ sự thay đổi( hoặc không thay đổi trong suy nghĩ, quan điểm giữa
hai thời điểm về cùng một vấn đề( cũng là làm rõ sự thay đổi về hoàn cảnh xã
hội, sự khác biệt, tương đồng giữa quá khứ - hiện tại ). Việc bàn luận đi đến kết
quả cuối cùng để khẳng định cái nhìn mới phù hợp với xã hội đương đại về vấn
đề đặt ra.
Ví dụ :
Từ việc cảm thụ câu thơ sau trong bài “ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” của Nguyễn
Duy : Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Em hãy phát biểu suy nghĩ của mình về tình mẫu tử trong xã hội hiện đại ngày
nay.
Do sự phức tạp trong yêu cầu của đề, khi làm dạng bài này, học sinh cần có kiến
thức phong phú về văn học, đồng thời có những hiểu biết thực tế về vấn đề xã
hội được bàn luận trong tác phẩm văn học đó, về tính lịch sử và thực trạng vấn
đề . Trong khi làm bài cần chú ý các bước sau:
<b>-</b> Làm rõ vấn đề trong văn học ( thơng qua phân tích văn học, cần làm rõ vấn
đề xã hội được bàn luận trong văn học đó là gì ? Vấn đề đó được thể hiện
trong văn học như thế nào ? Quan điểm của lịch sử về vấn đề ( cách nhìn
nhận, đánh giá) . Đồng thời cũng lí giải tại sao lại như vậy ?( do chế độ xã
hội, do thực trạng xã hội...)
<b>-</b> Làm rõ vấn đề trong thực tế xã hội ( chỉ ra sự thay đổi của hoàn cảnh, điều
kiện xã hội, cách đánh giá, nhìn nhận mới về vấn đề : các tư tưởng, quan
điểm khác nhau; đánh giá nhận xét về các tư tưởng quan điểm ấy; khẳng
định cái nhìn tiến bộ , khoa học, tích cực.)
<b>4. MỘT SỐ LƯU Ý KHI LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI</b>
Sau khi đã hướng dẫn cách làm các dạng đề văn nghị luận xã hội , giáo viên
nên sắp xếp thời gian để lưu ý thêm cho học sinh những điều sau:
đưa ra bàn luận. Có thể tích lũy vốn hiểu biết này từ các kênh thơng tin khác
nhau như báo chí, truyền hình, internet...
<b>-</b> Thứ hai các em phải tập thói quen ghi chép, đặc biệt là các sự kiện xã hội
xảy ra xung quanh chúng ta, nâng cao nền tảng văn hóa, tri thức cho bản
thân.
<b>-</b> Thứ ba các em phải thường xuyên tham khảo các bài xã luận, phóng sự điều
tra để học tập cách lập luận về một vấn đề xã hội.
<b>-</b> Thứ tư các em phải học cách hệ thống hóa các vấn đề, so sánh , đối chiếu
các quan điểm khác cùng chiều hoặc ngược chiều xung quanh một vấn đề,
và đưa ra ý kiến của bản thân.
* Trong khi làm bài văn nghị luận, các em cũng cần lưu ý một số điểm như sau :
<b>-</b> Trình bày mạch lạc, rõ ràng, lập luận lơ-gic.
<b>-</b> Vì đây là kiểu bài nghị luận về một vấn đề mang tính xã hội ( một tư tưởng
đạo lí hay một hiện tượng trong đời sống ) nên việc đưa ra các ý kiến bàn
luận của bản thân phải tuân theo quy luật khách quan, không đi ngược với
thực tế xã hội cũng như đạo đức, văn hóa mang tính truyền thống.
<b>-</b> Dẫn chứng đưa ra thường lấy từ thực tế đời sống, địi hỏi phải mang tính
chính xác, tiêu biểu, chọn lọc,phù hợp với các vấn đề trong xã hội và chuẩn
mực của chúng.
<b>-</b> Để bài văn nghị luận thuyết phục, khi viết các em cũng cần thiết phải có sự
liên hệ với bản thân, chỉ ra được giải pháp, hướng phát triển cho vấn đề
đang bàn luận.
******* Như vậy, một bài văn nghị luận xã hội thành công phải là một bài
nghị luận đặt ra được vấn đề, thể hiện được sự suy ngẫm tích cực. Đồng thời đó
cịn phải là một bài nghị luận có ý nghĩa và tác động thiết thực đến vấn đề xã
5. QUI TRÌNH DẠY HỌC
Đối với đề tài này chúng tôi thực hiện trong những tiết học phụ đạo ( tiết học
ngoài giờ chính khóa ) do nhà trường tổ chức. Vì các tiết học về văn nghị luận
xã hội rất ít theo phân phối chương trình chỉ có 6 tiết nên học sinh không thể
nắm bắt hết được yêu cầu, do vậy việc khắc sâu kiến thức cho các em chỉ được
giáo viên thực hiện trong các giờ học phụ đạo .
Qui trình dạy học được thực hiện như sau :
Hướng dẫn cho học sinh về một số kĩ năng
Tiết 1: Phân tích đề, tìm hiểu đề
Tiết 3-4-5-6 hướng dẫn các thao tác lập luận trong việc làm bài văn nghị
luận xã hội
Tiết 7-8-9 Hướng dẫn cách làm các dạng đề nghị luận nghị luận xã hội
Tiết 10 Hướng dẫn vài lưu ý cho học sinh khi viết văn nghị luận xã hội
** Trong quá trình dạy giáo viên đọc cho học sinh nghe một vài bài văn nghị
luận xã hội của học sinh THCS đã làm và đạt yêu cầu cao để học sinh tham
khảo và học tập cách viết .
<b>VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU</b>
<b> 1. Kết quả định tính:</b>
<b> Theo bản thân, nếu đề tài được nghiên cứu, áp dụng một cách tích cực,hợp lí</b>
<b>-</b> Học sinh nắm kiến thức cơ bản, suy luận lô-gic. Biết vận dụng viết đoạn văn
nghị luận xã hội . Đồng thời , học sinh khá giỏi, học sinh có năng khiếu văn
cịn viết khá hay về kiểu văn nghị luận xã hội
<b>-</b> Trình độ học sinh yếu, trung bình được nâng dần, tự mình biết cách tháo gỡ
những khó khăn khi viết bài văn nghị luận.
<b>-</b> Đa số học sinh không những nắm vững kiến thức về văn nghị luận xã hội
mà còn vận dụng các kiến thức một cách thành thạo.
<b>-</b> Phát huy được năng lực tự học, sáng tạo của học sinh trong việc viết bài
văn nghị luận xã hội.
<b>-</b> Giúp học sinh phát huy vai trò chủ động, tính tự học trong học tập, phát
triển năng lực tư duy, tinh thần vượt khó tự nghiên cứu, vận dụng có hiệu
quả kiến thức đã học.
<b>-</b> Tuy nhiên, qua q trình thực hiện cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách
quan cũng như chủ quan của học sinh. Song thực tế qua nghiên cứu và áp
dụng đề tài, tôi thấy học sinh nâng cao nhận thức và kĩ năng viết một bài
văn nghị luận xã hội, tạo điều kiện học tốt hơn ở những năm THPT.
<b> 2. Kết quả định lượng :</b>
<b> Qua việc nghiên cứu và áp dụng đề tài trên, tôi đã đạt được kết quả chất lượng</b>
đại trà về bài kiểm tra viết tại lớp phần này và kiểm tra HKII với kết quả khả
quan.
Loại
Năm học
Giỏi Khá TB Yếu
2006-2007 8/42
19,04%
15/42
23.8%
17/42
40.5%
2/42
4,8%
2007-2008 10/40
25%
16/40
40 %
13/40
32,5%
1/40
2.5%
2008-2009 12/41
29,3%
18/41
43.9%
10/41
24,3%
1/41
2,4%
So sánh với năm 2005-2006 khi chưa vận dụng đề tài kết quả bài kiểm tra số bài
điểm yếu nhiều hơn so với bài điểm khá giỏi:
Loại
Năm học
Giỏi Khá TB Yếu
2005-2006 3/40
7,5%
7/40
17,5%
15/40
37,5%
15/40
37,5%
Nhận xét chung qua kết quả trên :
Qua quá trình dạy-học và tiến hành khảo sát thực nghiệm theo sự nghiên cứu
đề tài, chúng tôi nhận thấy một số điểm sau:
Đối với việc tổ chức dạy-học khi chưa vận dụng đề tài số bài khá giỏi chiếm
tỉ lệ thấp , số bài điểm yếu kém chiếm tỉ lệ cao.
Rõ ràng nếu người thầy khơng có sự nghiên cứu, đầu tư cách dạy học, ơn
luyện cho học sinh thì hiệu quả thực hành viết văn nghị luận xã hội của các em là
rất thấp . Nếu không tổ chức các buổi ôn tập một cách bài bản, khoa học đúng
theo phương pháp đổi mới thì sẽ khơng tạo cho các em sự hứng thú,say mê tích
cực trong việc học văn nói chung, học văn nghị luận xã hội nói riêng .
Ngược lại khi đã vận dụng triệt để các bước dạy học như đề tài nghiên cứu thì
học sinh hồn tồn chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng các kĩ
năng làm văn vào quá trình viết văn nghị luận xã hội. Và tất yếu học sinh sẽ
thích học phân mơn Tập làm văn. Hiệu quả dạy học sẽ cao hơn. Qua đây chúng
ta thấy : thời lượng giành cho luyện tập và viết văn nghị luận xã hội trong tiết
dạy chính khóa là q ít. Vì vậy, học sinh chưa được rèn luyện nhiều để viết
đoạn, tạo lập văn bản. Điều cốt lõi là làm sao đó trên mỗi trang giáo án, mỗi tiết
dạy học thực hành rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh đều thể
hiện tính nghiêm túc của người dạy và những nét tình cảm nghề nghiệp, tình yêu
con trẻ, những dấu ấn cảm xúc cá nhân trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu,
soạn giảng.
<b>VII. KẾT LUẬN </b>
người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho học sinh học ở bậc cao
hơn, hoặc vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Xét về môn học, đây là phân môn thực hành tổng hợp ở mức độ cao của phân
môn Văn và Tiếng Việt, nó có mối tương quan chặt chẽ . Dạy luyện viết một bài
văn nghị luận xã hội là dạy cho học sinh nắm bắt văn bản, biết xây dựng một bài
văn nghị luận xã hội thông thường. Viết đúng,viết hay là nhiệm vụ hàng đầu mà
giáo viên quan tâm, yêu cầu viết đúng về đề tài thể loại, những vấn đề khác nhau
trong cuộc sống đặt ra cho các em. Ngoài ra, qua việc rèn kĩ năng làm văn nghị
luận xã hội người thầy cũng trực tiếp tham gia rèn luyện một số đức tính cho học
sinh như :lịng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì, lịng dũng cảm.... Viết văn
nghị luận xã hội cũng góp phần phát triển trí tưởng tượng, óc sáng tạo để từ đó
giúp các em biết phân biệt cái sai, tốt, xấu... Và cũng từ đây các em được nuôi
dưỡng tâm hồn vươn tới cái tốt đẹp hơn.
Qua tiết học, người thầy nắm được ưu thế của học sinh và phát huy được những
Việc làm này, bước đầu đem lại hiệu quả đáng mừng,tôi rất mong và hy vọng
sự hợp tác của q thầy, cơ tâm huyết dạy học Ngữ văn để môn Ngữ Văn ngày
càng khởi sắc.Rất mong được sự đóng góp chân tình của quí đồng nghiệp.
<b> VIII. ĐỀ NGHỊ </b>
<b>1. Nhà trường:</b>
<b> - Ngay từ đầu năm học nên tổ chức dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém hoặc cho</b>
dạy chủ đề tự chọn môn Ngữ Văn.
<b>- Tập trung chú ý về thời gian và kinh phí cho việc giảng dạy bồi dưỡng học sinh</b>
có khiếu viết văn để phát hiện nhân tài.
<b>- Hằng năm thường xuyên phối hợp với các cấp quản lí giáo dục mở các lớp bồi</b>
dưỡng chuyên môn, chuyên đề, tập huấn...môn Ngữ Văn để nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ cho giáo viên.
- Nhà trường mua sách tham khảo phục vụ cho giảng dạy bộ môn Ngữ Văn và
bổ sung kịp thời một số sách mới xuất bản phù hợp với chương trình , đặc biệt là
các sách về văn nghị luận xã hội.
<b>2. Giáo viên :</b>
<b> - Gv bộ môn phối hợp GVCN hướng dẫn cách làm việc khoa học có hiệu quả</b>
cho ban cán sự bộ mơn Văn và có biện pháp giáo dục ý thức học tập của học
<b> - Mỗi giáo viên cần phải có tinh thần tự học, tự nghiên cứu, tích lũy chun</b>
mơn cho bản thân, tích cực ứng dụng cơng nghệ thông tin trong giảng dạy,
nghiên cứu soạn giảng môn Ngữ Văn.
- Gv đảm nhận giảng dạy phải sắp xếp số lượng kiến thức hợp lí cho một tiết
dạy có khả năng phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh mà các em
không bị nhàm chán.Khi đưa các bài văn, đoạn văn phải đa dạng phong phú hơn
về từng lượng kiến thức.
Nên cho học sinh thực hành viết đoạn văn nghị luận xã hội ( tất nhiên không
quá thời gian tiết học và sức tiếp thu của học sinh)
Trong việc đánh giá, giáo viên cần quan tâm, nhận xét đúng năng lực thực
hành của mỗi học sinh. Yêu cầu giáo viên dày công luyện tập cho các em, kiên
trì trong việc đánh giá kết quả,khơng nên nóng vội, có tinh thần trách nhiệm cao.
Tùy từng đối tượng, từng vùng để có phương pháp vận dụng đúng đắn. Với
phương châm là người truyền đạt kiến thức và học sinh là chủ thể tiếp nhận kiến
thức và mục đích cuối cùng là học sinh viết được các bài văn nghị luận xã hội
sáng tạo với đầy đủ kĩ năng mà các em tiếp thu được.
<b>IX.PHỤ LỤC : </b>
<b> MỘT VÀI BÀI VĂN , ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TIÊU BIỂU</b>
<b>1.Đề bài : Cuộc sống mang lại cho ta nhiều thú vị, trong đó được cắp sách</b>
<b>đến trường là một niềm hạnh phúc.</b>
Cuộc sống có biết bao điều kì diệu, nó ln ban tặng cho ta nhiều thú vị,
nhiều bất ngờ. Nó cho ta cảm giác bình yên và vui vẻ, mở ra cho ta một thế giới
mới để khám phá. Nhưng điều hạnh phúc hơn cả là khi ta được cắp sách đến
trường.
Khi còn thơ bé được cha mẹ chăm sóc, ni nấng, bế bồng, chiều chuộng,
ta thấy thật hạnh phúc. Với ta lúc ấy, gia đình thực sự là thiên đường của hạnh
phúc. Lớn hơn chút nữa, nhìn thấy các anh chị cắp sách đến trường với vẻ mặt
tươi cười rạng rỡ, ta tò mò tự hỏi cịn có nơi nào vui hơn thiên đường ở nhà ?
Rồi cũng đến ngày ta hồi hộp được mẹ đeo vào vai chiếc cặp nhỏ xinh, dắt tay
tới trường. Bàn chân nhỏ xíu của ta bước qua cánh cổng trường trước ánh mắt
yêu thương hi vọng của mẹ. Ta đọc được trong ánh mắt ấy lời động viên:
“Vững vàng lên con! Tự tin lên con! Một thế giới mới với bao điều kì diệu đang
chờ con ở phía trước...”
Thật vậy ! Trong thế giới ấy, ta được học tập, được thầy cô truyền đạt kiến
thức, sẳn sàng chia sẻ tâm sự.. Những lời hỏi han dịu dàng, ân cần, mỗi khi ta bị
mệt, ốm hay gặp chuyện buồn...đã cho ta thấy thầy cô luôn dành sự quan tâm đặc
biệt cho ta, là “ chuyên gia tâm lí” của ta. Và bất chợt, ta nhận ra : hạnh phúc
đơn sơ và giản dị vô cùng.
thẳng. Một câu chuyện cười của lũ bạn có thể làm cho ta vơi đi nỗi buồn mỗi khi
bị điểm kém. Một món quà nhỏ của nhóc nào đó có thể làm cho ngày mồng tám
tháng ba của ta hạnh phúc hơn, ý nghĩa hơn. Một thanh sô-cô-la của đứa bạn
thân có thể làm cho ta quên đi cảm giác đắng cay khi thất bại. Và từ đó, ta thấy
cuộc sống mới hạnh phúc và đáng yêu làm sao !
Tri thức lồi người mênh mơng như biển cả, mỗi người chúng ta chỉ là một hạt
cát nhỏ bé trong cái đại dương bao la ấy mà thơi. Dẫu chúng ta có miệt mài học
tập suốt đời thì cũng chưa bao giờ khám phá hết kho tàng kiến thức của nhân
Đúng như vậy, con đường học vấn luôn mang đến cho ta nhiều điều bổ ích và
lí thú . Ta hãy nghĩ xem tại sao có những người thợ sau một ngày lao động vất vả
và mệt nhọc mà vẫn đến trường. Rồi những người lính ở thao trường trở về vẫn
miệt mài với những trang sách. Hay thầy Nguyễn Ngọc Kí- người bị liệt cả hai
tay vẫn ham học tập, vẫn nuôi ước mơ trở thành nhà giáo. Sau bao nỗ lực khổ
luyện viết bằng bàn chân, cuối cùng thầy đã thành công.
Được cắp sách đến trường là một niềm hạnh phúc nhưng chưa chắc hạnh
phúc đó là mãi mãi nếu như chúng ta không hiểu được giá trị của nó.
Hiện nay, một số bạn trong chúng ta vẫn đang mãi chìm đắm trong vui chơi
giải trí mà bỏ bê việc học hành.Thử hỏi, tương lai của các bạn ấy sẽ ra sao đây?
Câu trả lời thật khó nhưng cũng rất dễ thấy. Thời gian không thể giúp chúng ta
quay trở lại để làm lại từ đầu, nhưng thời gian có thể cho ta ý chí và nghị lực,
giúp ta nhìn nhận lại mình và tự cố gắng hồn thiện mình.
Nếu kí ức của mỗi chúng ta mà khơng có mái trường, không được học tập, vui
chơi bên bạn bè và thầy cơ thì thật là đáng tiếc. Cuộc sống sẽ trống trải và vô vị
biết bao.
Chúng ta được đi học, được hưởng hạnh phúc, Vì vậy, trách nhiệm của ta là
phải giữ gìn và trân trọng niềm hạnh phúc ấy . Bằng cách nào ư ? Chỉ cần ta học
tập và rèn luyện tốt, phấn đấu trở thành một người có ích thì niềm hạnh phúc sẽ
mãi là vô biên.
Bài làm của em : Nguyễn Thị Bích Chi
Lớp 9/4 – Năm học 2009-2010
<b>2. Đề bài : Từ việc cảm thụ câu thơ sau trong bài Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của</b>
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Em hãy phát biểu suy nghĩ của mình về tình mẫu tử trong xã hội hiện đại ngày
nay.
Bài làm
trên lưng, được mẹ ru con ngủ. Con nhớ quá mẹ ơi, con muốn bé lại để được
nằm trên lưng mẹ , để lại được mẹ ru ạ ời....
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Câu thơ của Nguyễn Duy rất trữ tình mà vẫn đậm chất triết lí xâu xa. Dẫu có
“ đi trọn kiếp con người” con cũng chẳng thể đi hết “ mấy lời mẹ ru” bởi tình mẹ
là thiêng liêng, bao la vơ tận, là bất tử: dẫu có “đi trọn kiếp con người” con vẫn
mãi chỉ là một đứa bé trong lời ru ầu ơ của mẹ. Lời thơ lắng đọng lại một tình
u thương vơ bờ của đứa con với mẹ mình. Con bối rối,con bâng khuâng và con
yêu biết mấy lời mẹ thiết tha trong tận sâu trái tim con. Nhà thơ đã nói hộ lịng
con rằng : “ Mẹ ơi,con yêu mẹ biết nhường nào !”. Con vẫn biết “ con dù lớn vẫn
là con của mẹ/ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” , bước chân mẹ sẽ luôn theo
chúng con đến trọn kiếp người. Mẹ bên con, mẹ ru con mãi mãi. Mẹ ru con bằng
cả tấm lịng, bằng cả tình thương, mẹ ru con bằng cả trái tim mẹ ơi ! Hỡi tất cả
những đứa con yêu quí, hãy ghi nhớ lấy những lời thơ như một chân lí ấy : “ Ta
đi trọn kiếp con người /Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”.
“ Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”, mẹ đã cho con cuộc sống đầy
chứ gì”. Lúc ấy con cứ nghĩ mình “ chẳng có lỗi gì cả, đâu phải tại mình lười”.
Nhưng cả ngày hơm đó con đã đóng kín cửa phịng hối hận “ tại sao mình lại có
thể hỗn láo với mẹ như thế được…” Cho đến khi mẹ gọi con xuống ăn cơm và
thủ thỉ : “ Con gái của mẹ đã lớn rồi, con cần làm những việc vặt trong nhà, dù
nhiều bài tập thế nào nếu con biết sắp xếp thời gian biểu của mình hợp lí thì con
vẫn có thể giúp mẹ cơ mà, đúng khơng con yêu !” . Mẹ thật tuyệt vời, mẹ là
người tuyệt vời nhất của con. Mẹ đã ở bên con, nhắc nhở và dạy bảo con cách
làm người. mẹ luôn là người đỡ con dậy mỗi lần bị điểm kém. Mỗi lúc con gặp
khó khăn. Nhưng mẹ ơi, con chợt thấy sợ, sợ một ngày khơng có mẹ ở bên con
nữa, lúc ấy con biết phải làm sao ? Mẹ có biết rằng :
Thêm một người quả đất sẽ chật hơn
Nhưng thiếu mẹ thế giới đầy nước mắt
( Đồng dao trước hồng hơn)
Làm sao con có thể sống hạnh phúc được nếu thiếu mẹ. Hỡi những người con
trên trái đất này, đừng bao giờ để mẹ mình phải buồn phiền, hãy yêu mẹ nhiều
hơn nữa và đừng để tình yêu muộn màng sẽ biến thành ân hận…
Con không thể tưởng tượng được nỗi đau xé ruột của một người mẹ khi mất đi
đứa con của mình. Vậy mà hiện nay con thấy có những người mẹ lại có thể bỏ
rơi con. Tất nhiên họ cũng chẳng dễ gì mà dứt đi đứa con thân u của mình như
thế. Có người vì khơng đủ khả năng để cho con một cuộc sống tốt đẹp, có người
vì hồn cảnh ép buộc khơng thể ni con ở bên, lại có người vì khơng thể sống
chung với chồng....Tại sao họ không thể vượt qua hồn cảnh? i oăm hơn, lại
có cả người mẹ coi con như người dưng nước lã. Tất cả đã để lại cho những đứa
con của họ nỗi đau đớn nặng nề, những đứa trẻ đó thật bất hạnh vì chúng thiếu
thốn tình cảm vơ cùng. Cuộc sống như thế chỉ đầy những đắng cay mà thôi.
Người bạn của con đã phải sống cực nhọc, vất vả cũng vì lẽ đó. Bố mẹ Ngân li
hôn khi mới sinh Ngân ra, bố bỏ lên TâyNguyên lấy vợ lẽ được mấy tháng thì bị
nghiện, mẹ thì về nhà chị gái, hai con người ấy để lại đứa con bé bỏng sống với
ông bà đã già yếu. Cuộc sống của Ngân rất khổ cực với những nỗi đau chất đầy.
Bố Ngân mất vì nhiễm HIV giai đoạn cuối, người bà quá đau khổ cũng đi theo
con. Ngân bơ vơ, lạc lõng, sống với người ông bị dị tật, cuộc sống lại càng thiếu
thốn , lam lũ hơn. Ngân phải tự đi kiếm sống. Đến nước này mà mẹ Ngân vẫn
thờ ơ. Cảnh ngộ éo le đến thế là cùng. Xã hội đang trên đà thay đổi với những
hiện đại hóa. Xã hội cũng làm thay đổi cả con người. Bây giờ, có một hiện thực
rất phổ biến trong suy nghĩ của nhiều người mẹ. Họ nghĩ rằng chỉ cần cố cho con
một cuộc sống tiện nghi, giàu có là đủ, họ chỉ cố kiếm thật nhiều tiền mà quên
một điều rằng : Những đứa con của họ cần hơn bao giờ hết tình u của mẹ dù
cuộc sống có khó khăn.
mẹ,yêu mẹ rất nhiều” . Nếu chỉ có một điều ước, con sẽ ước mãi được ở bên mẹ,
Đề 3.
Theo em làm thế nào để môi trường sống của chúng ta ngày càng sạch đẹp ?
Bài làm
Nếu đặt ra câu hỏi : ai là người tác động lên môi trường tự nhiên nhiều nhất ?
Câu trả lời sẽ là con người. Không thể phủ nhận một điều rằng tất cả những ô
nhiễm trên trái đất này đều do bàn tay con người và tất nhiên con người cũng là
nạn nhân của những ô nhiễm đó do mình tạo ra. Tất cả là ở con người. Vậy
chúng ta cũng hồn tồn có thể thay đổi, cải thiện lại mơi trường, làm cho nó
ngày càng sạch đẹp. Vấn đề là ở chỗ phải thực hiện tất cả những điều đó như thế
nào ?
“ GDP tăng 1 % , chất thải tăng 3%. Nếu tiếp tục tình trạng này, chúng ta
sẽ phải trả giá rất đắt trong hiện tại cũng như mai sau..” Đó là những ý kiến của
Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa Học- Cơng nghệ và Mơi trường Quốc hội Nghiêm
Vũ Khải. Ơ nhiễm mơi trường đã là vấn đề quan trọng mang tính tồn cầu chứ
khơng cịn nằm ở riêng quốc gia nào. Con người đang đứng trước những hiểm
họa vô cùng lớn liên quan đến môi trường . Nạn cháy rừng, kéo theo sự suy thoái
và tuyệt chủng của các loại động thực vật. Trái đất đang nóng lên, nguy cơ thiên
tai và lũ lụt ngày càng tăng. Nguồn nước sạch bị ô nhiễm, ơ nhiễm bầu khơng
khí...Sức khỏe con người đang bị đe dọa. Ơ nhiễm khơng khí gây nên các bệnh
về hơ hấp , da liễu. Ơ nhiễm nguồn nước gây nên các bệnh chủ yếu về đường
ruột. Điều đáng nói là những hậu quả lâu dài của nó. Những năm gần đây, tỉ lệ
người bị mắc bệnh ung thư ngày càng tăng cao. Và tất nhiên, nguyên nhân chủ
“mòn mỏi” đứng chờ . Một chậu nước bẩn tiện tay hắt thẳng ra đường... Tất cả
đều bắt nguồn từ cái “ tiện tay” , “ cái ngại” nhưng hậu quả lại khôn lường. Nó
đã trở thành thói quen xấu của người Việt Nam, thậm chí nếu ai có phá vỡ thì
cũng dễ bị coi là...gàn dỡ. Sự thiếu ý thức gây ra ô nhiễm đã đành, lại có những
kẻ mặc dù ý thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường nhưng vì lợi
ích cá nhân mà bất chấp tất cả. Đó chính là những trường hợp vi phạm ở các khu
cơng nghiệp như đã nói ở trên. Bên cạnh đó là do sự quản lí thiếu chặt chẽ của
nhà nước. Nhà nước chưa thực sự mạnh tay trong việc xử phạt các trường hợp vi
phạm, gây ô nhiễm môi trường. Thế nên mới có chuyện các doanh nghiệp thà
trả 70 triệu đồng( mức phạt tối đa cho các vi phạm về môi trường) để tiếp tục xả
nước thải trực tiếp ra mơi trường thay vì đầu tư vốn lớn cho cơng nghệ xử lí rác
thải. Các chính sách và pháp luật nhà nước còn nhiều lỗ hổng với những điều bất
cập, khiến cho những kẻ chủ nghĩa cơ hội có điều kiện lách luật, vi phạm luật
bảo vệ mơi trường. Việc tuyên truyền, tổ chức các cuộc vận động vì mơi trường
vẫn chưa thực sự phát huy được hết vai trị của mình...
Trước những ngun nhân và thực trạng đó địi hỏi nhà nước và tồn xã hội
phải tìm ra giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế ơ nhiễm từ đó góp phần làm cho
mơi trường ngày càng xanh, sạch ,đẹp. Chiến dịch 3R thu gom và phân loại rác
biết, để tự bảo vệ cuộc sống của mình và những người xung quanh. Bạn đã làm
được những gì ?./.
Đề4 : Viết đoạn văn ngắn nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của tình yêu thương
Bài làm :
Kết thúc truyện “ Những người khốn khổ”, trước khi qua đời, Huy-gơ đã gửi
gắm triết lí tình thương của mình trong câu dặn dò của Giăng-văn-giăng :” Trên
đời này chỉ có một thứ tồn tại thơi, đó là tình u thương”. Tình u thương có ý
Tình yêu thương là một phẩm chất thẫm mĩ, thuộc về cái đẹp, là những tình
cảm tốt đẹp con người giành cho nhau. Đây là một khái niệm mang tính trừu
tượng nhưng lại được biểu hiện ở điều cụ thể, nhiều khi rất là giản dị. Tình cảm
ấy dù có được biểu hiện như thế nào cũng phải là những tình cảm chân thành
trong sáng, xuất phát từ trái tim, khơng tính tốn vụ lợi. chúng ta biết rằng, tình
yêu thương là một nhu cầu tình cảm khơng thể thiếu của mỗi người. Con người
khơng thể sống đặt ngồi các mối quan hệ từ đó tất yếu nảy sinh nhu cầu về tình
cảm, dù là theo chiều hướng nào. Trong những tình cảm ấy, tình u thương là
một thứ tình cảm tích cực có tác động lớn lao đến đời sống của con người khơng
chỉ về mặt tinh thần. Tình u thương giúp vực con người dậy khi họ vấp phải
những khó khăn, gian khổ, khi họ gục ngã. Tình yêu thương giúp con người có
thêm ý chí, sức mạnh để vượt qua khó khăn. Một bàn tay đưa ra cho người đang
chới với có thể cứu rỗi được một linh hồn, được một cuộc đời. Một nụ cười, một
cử chỉ âu yếm cũng đủ cho ta có thêm động lực để sống và sống tốt hơn. Một
hành động cảm thơng có thể khiến cho con người gần nhau hơn. Yêu thương và
sẻ chia tiếp thêm cho con người sức mạnh để sống thêm có ý nghĩa. Khơng chỉ
như vậy, tình u thương giúp định hướng cho con người để họ có đời sống tinh
thần mạnh. Một người được sống trong vòng tay yêu thương của gia đình, bạn bè
thường có sự phát triển nhân cách hoàn thiện. Ngược lại, người sống trong cảnh
thiếu thốn tình yêu thương nhất là những tình yêu thương chân thành sẽ là những
người phải chịu những khuyết tật về mặt tinh thần. Cuộc sống khơng có tình u
thương sẽ mang rất nhiều những gam màu xám xịt, và tâm hồn con người sẽ luôn
già cỗi.
Yêu thương và được yêu thương sẽ luôn và cần là ước mơ chính đáng, là
quyền lợi của mọi người. Hãy để cho thế giới này được tỏa sáng bằng tình yêu
thươngg ấy và ngày càng trở nên đẹp hơn ./.
<b> Đề 5 : Viết một văn bản nghị luận trình bày suy nghĩ về lòng vị tha.</b>
Từ xa xưa, cha ông ta đã luôn căn dặn cháu con :
“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người trong một nước phải thương nhau cùng”;
“ Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người”…
Tất cả những lời khuyên ấy tựu chung lại trong mong ước hậu thế mai sau sẽ
biết sống vị tha giữa cuộc đời.
Vị tha là có tinh thần chăm lo một cách vơ tư đến lợi ích của người khác mà hi
sinh lợi ích của cá nhân mình. Như vậy lịng vị tha ở con người chứng tỏ một
tinh thần vô cùng bao dung, nhân ái.
Lòng vị tha thể hiện ở thái độ vơ tư, khơng mưu toan tính tốn khi giúp đỡ
người khác làm một việc gì đó. Trong lớp học có học sinh học kém hơn, bạn
khơng dè bỉu, xa lánh mà lại gần sẻ chia, giúp đỡ bạn ấy học tốt. Trong tập thể
có thành viên mắc lỗi, làm điều sai trái, bạn không lên án gay gắt mà ngược lại,
bạn giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để giúp họ sửa sai… Trong những hoàn cảnh ấy,
nếu bạn làm được như vậy, có thể khẳng định rằng bạn là người có lịng vị tha.
Trong đời sống xã hội, ta có thể nhìn vào hoạt động tình nguyện của thế hệ thanh
niên đất nước mỗi khi mùa hè đến. Họ khơng quản ngại gian khó đi về với vùng
cao, vùng gặp khó khăn… để hịa mình với đồng bào, cùng đồng cam cộng khổ
giúp đỡ họ vươn lên.
Có được lịng vị tha, con người sẽ cảm thấy thanh thản trước cuộc đời bởi thấy
rằng mình có ích. Hơn thế, họ còn được mọi người mến yêu, quí trọng. Những
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, còn rất nhiều gia đình nghèo khó. Lịng
vị tha của học sinh chúng ta được thể hiện trong việc đóng góp ủng hộ những gia
đình ấy. Thiết thực nhất , ta hãy sống vì những người thân yêu quanh mình : học
tốt, chăm ngoan để ơng bà, bố mẹ, thầy cơ vui lịng. Nếu có thể, chúng ta giúp đỡ
bạn bè cùng trang lứa trong học tập,lao động…Như vậy, sống vị tha khơng có
nghĩa là phải làm những điều gì phi thường, lớn lao. Ngược lại, đức tính ấy được
ghi nhận ở những việc làm đơn giản nhất. Vậy thì tại sao chúng ta khơng xây
dựng cho mình lối sống đẹp !
* Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng - Bộ GD& ĐT
Rèn kĩ năng Tập làm văn THCS- TS Lê Anh Xuân- NXB đại học Quốc Gia
Hà Nội
Nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận ( 2005, 2006)- NXB Hà Nội
Rèn kĩ năng làm văn Nghị luận Xã hội- TS Lê Anh Xuân- NXB Quốc Gia
Hà Nội
Tuyển tập đề bài và bài văn nghị luận xã hội – Nhiều tác giả- NXB Giáo dục
Việt Nam
Rèn kĩ năng làm bài thi vào lớp 10 Môn : Ngữ Văn- TS Lê Anh
I.Tên đề tài... ..Trang 1
II. Đặt Vấn đề- ………... Trang 1
a.Tầm quan trọng của đề tài... Trang 1
b.Thực trạng liên quan ... .Trang 2
c. Lí do chọn đề tài... .Trang 2
d. Giới hạn nghiên cứu...Trang 3
III. Cơ sở lí luận...Trang 3-4
IV. Cơ sở thực tiễn...Trang 4-5
V.Nội dung nghiên cứu……… Trang 5- 20
1. Hưỡng dẫn một số kĩ năng làm văn nghị luận xã hội...Trang5--6-7
1.1.Phân tích đề………...…Trang 5
1.2. Lập dàn ý………... Trang 6-7
2. Các thao tác lập luận trong bài nghị luận xã hội...Trang 7-12
3. Cách làm các dạng đề nghị luận xã hội... Trang 13-15
4. Một số lưu ý khi làmvăn nghị luận nghị luận xã hội...Trang 18-19