Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

SANG KIEN KINH NGHIEM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.04 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>A.</b> <b>PHẦN MỞ ĐẦU</b>
<b>I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI</b>


<b>1. Lý do khách quan</b>


<i><b>a. Tầm quan trọng của cơng nghệ thơng tin:</b></i>


<i><b>* Máy tính, mạng Internet và thơng tin trên Internet</b></i>


Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng dụng
trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như cơng dụng của
máy tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính tồn cầu (Internet) đem lại
những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được. Một máy tính nối mạng khơng phải
chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế
giới. Chúng ta có thể tiếp cận tồn bộ tri thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau
hoặc tham gia những tổ chức ở xa nửa vòng trái đất. Mạng máy tính tồn cầu thực sự đã tạo
ra một thế giới mới trong đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại
điện tử (ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các
diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),…
<i><b>* Lợi ích mà thơng tin trên Internet mang lại</b></i>


Thông tin trên Internet tuy được gọi là thế giới ảo, nhưng nó đem lại lợi ích thực sự
cho những người tham gia, thậm chí những lợi ích đem lại còn nhiều hơn so với trong thế
giới thật. Ví dụ những cá nhân tham gia thương mại điện tử có thể ngồi ở nhà, thơng qua
máy tính nối mạng để bn bán trao đổi và có thể thu được rất nhiều lợi nhuận. Học sinh có
thể tham gia các hệ thống học trực tuyến trên mạng mà khơng phải tốn một đồng học phí,
mà kiến thức thu được có thể nhiều hơn là theo lớp học thật. Một học sinh ở Hà tĩnh có thể
thơng qua một hệ thống học trực tuyến để theo học một thầy giáo ở tận TP Hà Nội. Một
thầy giáo có thể dạy cùng một lúc hàng vạn học sinh...


Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ với


nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc và trong đời sống . Ví dụ
mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát, có thể chia sẽ các bài viết về
những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc phụ huynh trên cả nước có thể chia
sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái, có thể quản lí tình hình học tập của con em thông
qua trang web của nhà trường. Các giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài
giảng và giáo án với nhau, để xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng
dạy của mỗi người. Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến
thức về học tập và thi cử.


Trong nhiều lĩnh vực, các hoạt động của thế giới ảo trên mạng Internet tỏ ra có nhiều
ưu điểm vượt trội so với ở thế giới thực. Bởi vì đó là một “Thế giới phẳng” nơi mà tất cả
mọi người tham gia sẽ ở cùng một điểm xuất phát, không phân biệt vị trí địa lý, nghề
nghiệp, tuổi tác, địa vị xã hội. Trong thế giới này, các hoạt động có thể diễn ra vô cùng lớn
mạnh với hàng triệu người tham gia. Các kết quả mà thế giới ảo đạt được có thể khơng bao
giờ làm được trong thế giới thật (ví dụ xây dựng thư viện trực tuyến khổng lồ hoặc các cơng
cụ tìm kiếm tri thức tồn cầu...).


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Mặc dù ở nhiều lĩnh vực thì hoạt động của thế giới ảo trên Internet không thể thay thế,
mà chỉ có thể hỗ trợ cho các hoạt động thật, tuy nhiên thực tế nó đang phát triển mạnh mẽ
và ở nhiều lĩnh vực đã lấn át các hoạt động thật (ví dụ: Giáo án điện tử, đọc báo điện tử,
nghe nhạc trực tuyến...). Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, mỗi chúng ta đều phải nhanh
chóng thích nghi với những thay đổi mới của thế giới nếu như không muốn tụt hậu.


Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng
với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá,
xã hội của thế giới hiện đại.


Trong thời đại của chúng ta, ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta
nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của tồn dân tộc, thúc đẩy
cơng cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực


cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phịng và tạo
khả năng đi tắt, đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
<i><b>* Tầm quan trọng của Cơng nghệ thơng tin (CNTT) trong nhà trường</b></i>


Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào tất
cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã
được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập.
Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các
trường còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ
giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta khơng nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực
CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành cơng cụ hiệu quả cho
cơng việc của mình, mục đích của mình.


Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, cơng nghệ thơng tin có tác dụng mạnh mẽ, làm
thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học
tập”.


Hiện nay, các em học sinh đã làm quen với máy tính rất nhiều trong các tiết học tin học
ở nhà trường, trong các giờ lên mạng Internet ở nhà, ở các tụ điểm kinh doanh mạng … Kết
quả đã có những em đạt giải tin học quốc gia, thậm chí có em học sinh tiểu học đạt cả giải
tin học quốc tế… Sự thâm nhập của công nghệ thông tin đã làm thay đổi tận gốc rễ nhiều
hoạt động kinh tế, xã hội ví dụ như báo điện tử, thư viện điện tử, chính phủ điện tử, thương
mại điện tử… Trong giáo dục, các ứng dụng công nghệ thông tin đã thực sự trao quyền chủ
động học tập cho học sinh.


Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Đảng và nhà nước ta đã đưa môn tin
học vào trong nhà trường và ngay từ tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin học để làm
quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần
nâng cao trong các cấp tiếp theo. Nhất là trong năm học này, năm học 2011-2012 được


ngành GD&ĐT huyện ta chọn là “Năm tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
<i>trong giáo dục” ở các cấp học, bậc học và thực hiện “xã hội hóa giáo dục” trong nhà trường</i>
. Xem CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học và
quản lý ở tất cả các môn học, trường học.


<b>2. Lý do chủ quan</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn nhưng vẫn
cịn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả đúng với
vai trị của nó.


Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và
học đã được nhiều CBGV hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con đường ngắn nhất để đi
đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.


Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trong trường. Mặc dù trình độ
giáo viên của trường đạt trên chuẩn cao, số ít vẫn dạy theo phương pháp truyền thống, nặng
về phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là việc
ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Ở nhà trường THCS công nghệ thông tin đã được sử dụng
vào hầu hết các bộ môn với sự hỗ trợ của các phần mềm: PowerPoint, ViOlet... Tuy nhiên,
trong quá trình ứng dụng CNTT, nhất là đối với việc thiết kế bài giảng điện tử vẫn cịn gặp
khơng ít những khó khăn như: Việc thiết kế bài giảng một cách công phu bằng các dẫn
chứng sống động trên các trang trình chiếu là một điều khơng phải dễ dàng với nhiều giáo
viên. Để có một bài giảng như thế địi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị trong khi khơng
phải giáo viên nào cũng thành thạo vi tính. Số tiết thực dạy của mỗi giáo viên trong tuần là
khá lớn, nên giáo viên còn ngại áp dụng CNTT vào công tác chuyên môn nghiệp vụ. Mặt
khác một số giáo viên bước đầu làm quen với việc soạn giảng bằng giáo án điện tử nên chưa
có những kinh nghiệm xử lí sao cho bài giảng tốt nhất, tốn ít thời gian mà hiệu quả cao. Vì
những khó khăn trên mà việc sử dụng giáo án điện tử trong dạy học còn hạn chế.



Trong các năm học tới phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học chắc
chắn sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa và đó cũng là yêu cầu cấp thiết của đổi mới phương
pháp dạy học trong nghành giáo dục, trong công tác quản lý và dạy học ở các trường THCS.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà bất cứ
một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong bản sáng
kiến này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như một số tiết
dạy bằng giáo án điện tử tôi đã thử nghiệm trong các tiết thao giảng, và một số tiết tôi dự
giờ thăm lớp của đồng nghiệp để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải
pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình.


<b>II. MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI</b>


<b>- Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp vai trị của ứng dụng công nghệ</b>
thông tin trong dạy học.


- Cung cấp kiến thức ban đầu về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và việc
đổi mới phương pháp dạy học.


- Hình thành những kĩ năng cơ bản khi thực hành trên máy tính và biết vận dụng phương
pháp dạy học mới trong giảng dạy


- Luôn say mê và nghiên cứu công nghệ thông tin phục vụ cho giảng dạy.


- Thực hiện đề tài này nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy
của bản thân và của đồng nghiệp.


- Đồng thời là một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo, vận dụng trong q trình
cơng tác và trong giảng dạy để đảm bảo việc đổi mới phương pháp dạy học.


- Bên cạnh đó cịn góp phần khắc phục những khó khăn cho một số giáo viên khi sử dụng


giáo án điện tử để dạy học.


<b>III. NHIỆN VỤ NGHIÊN CỨU:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi soạn giáo án điện tử
- Những yêu cầu cơ bản để soạn được một giáo án điện tử.


- Xây dựng quy trình soạn giáo án điện tử


- Đưa ra một số kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong dạy học, đề xuất một số biện pháp nâng
cao hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học và đẩy mạnh phong trào ứng dụng CNTT
trong năm học mới.


<b>IV. PHƯƠNG PHÁP, BIỆN PHÁP NGHIÊN CỨU:</b>


Để thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu, tôi vận dụng kết hợp
các phương pháp sau:


<b>1. Phương pháp điều tra: Sau các tiết dạy có ứng dụng CNTT trong soạn, giảng bằng giáo</b>
án điện tử và các tiết dạy không ứng dụng CNTT ở mơn học của mình dạy củng như một số
mơn học khác


- Tổng hợp điều tra và có so sánh về mức độ học sinh thích học, mức độ học sinh hiểu bài
trong các giờ học có ứng dụng CNTT


- Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới)
- Kiểm tra chất lượng sau giờ học.


- Chất lượng các tiết học thực hành môn tin sau những tiết có ứng dụng CNTT
<b>2. Xây dựng tư liệu: </b>



Hiện nay việc ứng dụng CNTT giúp cho giáo viên xây dựng tư liệu tương đối phong
phú. Việc khai thác tư liệu có thể từ nhiều nguồn như: Khai thác thông tin tranh ảnh từ
mạng Internet, từ sách báo tài liệu, tạp chí, băng hình, phim, các phần mềm, khai thác hình
ảnh tĩnh, động,…


<b>3. Xây dựng giáo án điện tử:</b>


- Tập huấn công nghệ thông tin cho giáo viên: Tổ chức các lớp bồi dưỡng công nghệ thông
tin và phương pháp giảng dạy bằng CNTT


- Khuyến khích động viên giáo viên tích cực ứng dụng CNTT (soạn giáo án điện tử) và vận
dụng vào giảng dạy


- Thực hành trên máy


- Tập huấn phương pháp soạn, giảng bằng ứng dụng CNTT
- Dự giờ, xem băng hình qua các tiết dạy mẫu trên Internet
- Trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm


<b>V. Ý NGHĨA THỰC TIỄN</b>


Tổng kết đưa ra một số kinh nghiệm để cải tiến phương pháp dạy học bằng ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học thông qua các bài soạn, giảng bằng giáo án điện tử.


<b>B. NỘI DUNG</b>


I. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI


<b>1. Thuận lợi</b>



<i><b>* Nhà trường:</b></i>


- Nhà trường đã trang bị được phịng giảng dạy cơng nghệ thơng tin bằng màn hình LCD và
đầu chiếu Projector . Với những trang thiết bị trên hỗ trợ rất tốt cho công tác dạy và học
bằng bài giảng điện tử .


<i><b>* Giáo viên:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- Giáo viên tự học và nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ để phục vụ cho công tác
giảng dạy tốt hơn .


- Hiện nay nhiều nhà trường đã nối mạng Internet nên việc nghiên cứu tài liệu soạn giảng
tương đối thuận lợi.


- Mỗi trường đã có một trang Website riêng trên thư viện ViOlet.vn, rất tiện lợi cho giáo
viên chia sẽ, học hỏi và đúc rút kinh nhiệm lẫn nhau


<i><b>* Học sinh:</b></i>


- Vì được học trên các phương tiện trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực
mới nên học sinh rất hứng thú học tập và u thích bộ mơn tin học .


- Đa phần các em hiện nay đã được tiếp xúc với máy tính và các dạng thơng tin trên Intenet
từ rất sớm. Một số khơng ít học sinh đã được làm quen với máy tính và chương trình
Violympic tốn, tiếng anh quan mạng từ lớp 1.


- Đời sống kinh tế gia đình của một số em học sinh ở nhà đã có máy vi tính nên cũng có
những thuận lợi nhất định đối với việc tiếp cận các mơn học khi có ứng dụng CNTT.


<b>2. Khó khăn:</b>



- Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng bài giảng điện tử vì cho rằng mất nhiều thời gian để
chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng
sống động trên màn chiếu (slide) là một điều không phải dễ dàng với nhiều giáo viên. Để có
một bài giảng như thế địi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị.


- Khả năng đọc, nói Tiếng anh cịn hạn chế gây khó khăn trong quá trình soạn, giảng.
<b>3. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay</b>


<i><b>a. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử </b></i>


Qua những tiết dự giờ thăm lớp giáo viên các bộ môn trong trường, tơi nhận thấy giá
như những tiết dạy đó được ứng dụng CNTT, khai thác 1 cách triệt để các hình ảnh củng
như băng hình thì tiết dạy chắc sẽ sinh động hơn, học sinh chắc sẽ nhớ lâu hơn và giờ dạy sẽ
hay hơn biết bao (Ví dụ: tiết dạy sử, địa...)


Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian để
chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn
chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các giáo viên
khơng muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn
bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Thực ra, muốn “click” chuột để
tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền
thống. Ngồi kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point,
Violet,… giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với cơng việc thiết kế địi hỏi sự sáng
tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn.


Hơn nữa trong q trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá nhân giáo
viên còn gặp khơng ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh sôi động,
tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân
mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện soạn, giảng có ứng dụng


CNTT.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Thường trình chiếu nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt, đưa
vào tình trạng mệt mỏi, kém tích cực. khơng thích hợp với phương pháp dạy học tích cực
hiện nay.


Có một số nội dung khơng nhất thiết phải trình chiếu cũng thể hiện lên. Chưa chắt lọc
được phần kiến thức nào thì nên dùng phần mềm để hỗ trợ.


Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc, tiếp cận định lý chưa
biết khai thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point, Sketchpat, ViOlet. . .


Qua thăm dò, đánh giá học sinh thì các em làm phần trắc nghiệm trả lời rất tốt nhưng
cho làm bài toán tin học ở Excel có tính suy luận thì gặp rất nhiều khó khăn.


Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ soạn, giảng có ứng dụng CNTT khi
có nhu cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất
đối phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng máy
tính phục vụ cho cơng tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.


<i><b>b. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay</b></i>


Từ khá sớm, các trường học trên địa bàn trong huyện, tỉnh đã bắt đầu đưa công nghệ
thông tin vào giảng dạy. Tuy nhiên rất ít trường có phịng máy tính riêng, có chăng những
trang thiết bị này thường chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực hành môn tin học hoặc ứng
dụng trong công tác lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể
thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng
to lớn của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần
mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các mơn văn hố khác như: Toán, Vật
lý, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ, Cơng nghệ.v.v...



Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn. Hầu hết
các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các sinh viên sư phạm
cũng đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một tiêu chuẩn nâng cao giá trị
của mình khi xin việc vào các trường tốt. Các lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục
đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của
giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet, và các phần mềm dạy
học khác... (nên xẩy ra thường xuyên) phải được các giáo viên tham gia đông đủ. Trong các
cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% các bài soạn - giảng có ứng dụng CNTT là đạt kết
quả tốt hơn rất nhiều so với soạn giảng truyền thống. Ở các tỉnh thành lớn, đa số các trường
học đều đã trang bị phịng chức năng có lắp đặt đầy đủ hệ thống máy chiếu cố định, để phục
vụ việc giảng dạy bằng máy tính cho giáo viên, giảm bớt rất nhiều thời gian chuẩn bị máy
móc trước giờ dạy.


Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các tiết
giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được hiệu quả, vì
sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây dựng rất lớn (tiền triệu
/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau được. Nó thậm chí cịn có thể gây phản tác
dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án
mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của giáo viên trong việc giảng dạy, chúng ta chỉ xem các video
giáo án mẫu như là để tham khảo, trao đổi, rút kinh nghiệm.


<b>II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG VIỆC</b>
<b>SOẠN - GIẢNG GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ (GAĐT)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

- Tham mưu cùng Tổ chuyên môn và Ban giám hiệu, đề nghị các cấp quản lí giáo dục tạo
điều kiện trang bị những thiết bị cần thiết cho việc thực hiện giáo án điện tử (GAĐT) như
máy tính, máy chiếu đa năng (Multimedia projector), nối mạng Internet cho phòng bộ môn
tin học.



- Tổ chức một số buổi học tập về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong
PowerPoint, khai thác mạng Internet cho giáo viên để họ có thể tự thiết kế GAĐT cho mình.
- Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong việc sử dụng
GAĐT, khai thác mạng Internet để làm phong phú thêm những dạng bài tập khác nhau.
- Trường nên kết hợp với phòng tham gia các buổi thao giảng, hội thảo, tập huấn để thu
nhận những góp ý chân thành từ đồng nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo
phương pháp soạn – giảng có ứng dụng CNTT


- Thăm dị và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được thực chất chất
lượng của các em.


Tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm một ít bồi dưỡng về kiến
thức tin học, các giáo viên hoàn tồn có thể thiết kế được bài giảng điện tử để thể hiện tốt
hơn phương pháp sư phạm, truyền đạt hết kiến thức trực tiếp lên màn chiếu, góp phần đổi
mới phương pháp giảng dạy, phù hợp với mục tiêu ứng dụng CNTT hiện nay.


<b>2. Các biện pháp cụ thể: </b>


<i><b>Biện pháp 1: Ngồi kiến thức chun mơn cần phải trang bị những kiến thức tin</b></i>
<i><b>học cơ bản nhất:</b></i>


Mặt dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rải, chưa thực sự phổ biến
bắt buộc nhưng bước đầu đã tạo ra một khơng khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và
cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẻ giúp người giáo viên đỡ
vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Nhưng thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự
hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ ra nhiều cơng sức tìm hiểu và làm quen với cách
soạn - giảng theo kiểu mới này. Cụ thể người giáo viên cần phải:


- Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.



- Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint (và đối với mơn Tốn: Phần mềm
Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, …..)


- Biết cách truy cập Internet


- Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt dắn phim, làm các ảnh
động bằng Flash, cắt các file âm thanh,…


- Biết sử dụng máy chiếu Projector


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẳn trên giấy và được trình bày
lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên màn chiếu
projector một cách sinh động, có chất lượng hơn? Điều này địi hỏi người giáo viên trước
hết phải biết sử dụng phần mềm PowerPoint dùng để tạo các trình chiếu đa dạng trên máy
tính. Ngồi ra có các phần mềm Cabri (Tốn), Geogebra,GEOSPACW (Tốn), GraphCalc
(Tốn), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP), ViOlet...Nếu chỉ
dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định dạng về
màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên nếu chỉ
có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của PowerPoint và cũng như
một số phần mềm kể trên lúc đó có nghĩa chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng
dạy mới này. Ví dụ trong một tiết toán “ Đồ thị hàm số y = ax2<sub> + b (a≠0)” đại số lớp 9 thay</sub>
vì giáo viên hay học sinh lên bảng lập bảng giá trị và vẽ đồ thị hàm số thì bây giờ trên màn
hình lớn hiện ra công thức và bảng giá trị, học sinh chỉ cần thảo luận tại chổ và trả lời (phần
mềm PowerPoint) và vẽ đồ thị (phần mềm GSP), tiết tốn hình học lớp 8 “hình lăng trụ ,
hình chóp” thay vì giáo viên vẽ trên bảng hay trên bảng phụ thì bây giờ hiện trên màn hình
với những hình rõ nét và chuyển động theo không gian (Cabri, YanKa, GEOSPACW,
GraphCalc,Geometer’s Sketchpad…). Với môn Lịch sử khi dạy về các trận chiến của quân
ta và địch, thay vì giáo viên diễn thuật các trận đánh dựa trên bản đồ vẽ sẳn thì bây giờ học
sinh nhìn vào trên màn hình lớn các trận đánh sẽ diễn ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo
viên chèn vào...



Với hình thức giảng dạy như thế, tôi tin rằng các em học sinh sẻ cảm nhận và khắc
sâu, dể hiểu về bài học, qua đó giáo viên khỏi mất thời gian vẽ hình, khơng mất thời gian
xóa bảng mà chỉ khắc sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh …


Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao tác
cơ bản đòi hỏi người giáo viên phải nắm được, thiết lập được các hiệu ứng để làm sao cho
bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sơi động và mới mẻ. Vậy các hiệu
ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh,...) được thiết lập có
thứ tự, có thể là dịng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dịng chữ hay hình ảnh kia, hay
có thể là dịng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dịng chữ hay hình ảnh xuất hiện
sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn
đúng hoặc Sai: (Phần mềm Violet hay PowerPoint sẻ làm được điều đó) sau đó mới kiểm
nghiệm kết quả trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng,
đồng thời tăng khả năng tư duy của học sinh. Với đặc điểm này giáo viên tiết kiện được thời
gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu giáo viên giảng đến đó, làm cho thời
gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , học sinh hiểu bài sâu hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh cần lấy từ sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta
phải Scaner(quét ảnh), chụp ảnh và chỉnh sữa ảnh …. Nói tóm lại để có được một GAĐT
tạm gọi là hiệu quả thì mỗi giáo viên cần phải có chút ít về kĩ thuật tin học.


Bài giảng sau khi được thiết kế sẻ được trình chiếu lên màn hình thơng qua đầu
projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi giáo viên buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây
là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên chỉ cần một vài thao tác lắp máy
chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ nét, độ lớn
trên màn hình, lúc này giáo viên chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, học sinh sẽ có một
tiết học thoải mái và sơi động.


Điều cuối cùng tơi muốn nói đến ở biện pháp này là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã


tạo ra một khơng khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung
nghe giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người
dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu
PowrPoint, ViOlet để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ
thuật đã được đề cập là các phương tiện hổ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế
được vai trò chủ đạo của người giáo viên trong giờ lên lớp.


<i><b>Biện pháp 2: Quy trình và nguyên tắc khi thực hiện GAĐT</b></i>


Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt ra
là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng thế nào cho
đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?


Khi chuyển từ soạn giảng bài giảng truyền thống sang việc soạn giảng bài bằng
GAĐT ứng dụng CNTT trong dạy học, hầu hết các giáo viên ở trường nói chung và tổ Tự
nhiên nói riêng trong đó có tơi thường mang một tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào.
Nghĩa là nghĩ và sẻ trình bày những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide.
Điều này hồn tồn sai lầm vì như thế học sinh sẻ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều
trong sách, khơng mở rộng các kiến thức ngồi, gây cho học sinh sự nhàm chán.


Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó) là
nơi chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng.Tùy theo
từng mơn học, chúnh ta có thể bổ sung các cơng thức, hình ảnh minh họa một cách hợp lý.
Đây là bước mà giáo viên cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học của mình để xây
dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh để
chèn vào, hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế...
Cơng đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên luu ý về số lượng chữ, màu sắc, kích thước
trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muồn trình bày một cách rỏ ràng, dể
hiểu. Nhìn vào Slide giáo viên có nhiệm vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ khơng
phải đọc các dịng chữ trên Slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này,giáo viên cảm thấy


khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẻ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể
in ra một bảng để vừa giảng vừa nhìn vào nhằm xác định vấn đề tiếp theo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

nhấn mạnh? Dành thời gian cho từng vấn đề là bao nhiêu? … Sở dĩ cần chuẩn bị kỹ lưỡng
như vậy là vì nếu tiết giảng dạy đó người giảng chưa nói hết nội dung các slide hay đã trình
bày hết nhưng thời gian cịn thừa là đồng nghĩa với việc “cháy giáo án” và không đảm bảo
được yêu cầu của bài dạy. Kết hợp đề cương này cùng một bản in cầm tay một cách hợp lý
chắc chắn sẽ không mắc phải sự cố này.


<i><b>* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.</b></i>


Thật ra, ta phải giải quyết khó khăn của học sinh ngay từ người giáo viên và giải quyết
ở ba khâu: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng dẫn học sinh ghi chép.


Mỗi lớp học có trung bình từ 30 - 40 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy GAĐT thường
phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh trên màn rõ hơn.
Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn
khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay cơng thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi
chép được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn - giảng giáo án điện tử cần
chú ý một số nguyên tắc về hình thức sau:


- Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng


- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang trình diễn
- Về màu sắc của nền hình:Màu sắc khơng lịe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập trung cho
học sinh.Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản , chỉ nên sử dụng chữ màu sậm (đen, xanh
đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ
nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.


<i>- Về font chữ:</i>



+ Dùng các phơng chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục có
vai trị ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau”, màu xanh mực cho học sinh ghi vào
vở…)


+ Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Arial, Tahoma, Time New Roman…) hạn chế
dùng các font chữ có đi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.


<i>- Về cỡ chữ: Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có</i>
khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu trên màn hình TV
(25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho khoảng 50
người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được.


<i>- Về trình bày nội dung trên nền hình:</i>


Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống, từ trái qua
phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp, để đảm bảo
tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Các dạng đồ họa (hình
ảnh, âm thanh, hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân
tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù
hay nhưng mờ nhạt, khơng rõ ràng thì cũng khơng nên sử dụng vì khơng có tác dụng cung
cấp thơng tin xác định cho học sinh như ta mong muốn.


<i>- Trình chiếu giáo án:</i>


Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung
trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dịng hay phân đoạn
thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội dung dài mà
nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau
đó đưa về trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

+ Cần thể hiện bố cục của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy. (vd: Tên bài dạy, các đề
mục) để học sinh dễ dàng củng cố.


+ Cần quy định màu chữ cho học sinh ghi vào vở. (vd: màu xanh mực)


+ Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định của Bộ GD&ĐT
và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và giảng bài, giáo viên hướng dẫn học
sinh cách ghi bài học vào vở như sau:


Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm trong các slide có
ký hiệu riêng. Ví dụ ký hiệu (@, đặt ở góc trên bên trái). Học sinh phải chép đầy đủ nội
dung trong các slide này. Tập hợp nội dung các slide có ký hiệu riêng tạo nên kiến thức yêu
cầu tối thiểu của tiết học.


Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ nằm trong các
slide khác, khơng có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh tự chọn lọc nội dung để
chép tùy theo sự hiểu bài của mình.


Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng đến tiến độ
của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh đánh dấu trong sách giáo
khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng trống thích hợp).


Nguyên tắc giáo dục chủ động là lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên trong quá trình
giảng dạy là phải đảm bảo được việc học sinh nắm được kiến thức trọng tâm, nhưng giáo
viên không phải là người bao tiêu mọi kiến thức cung cấp cho học sinh. Chính bản thân học
sinh, trong khi tham gia tích cực vào tiết học, sau khi tìm hiểu lại sách giáo khoa và tìm tịi
ở các phương tiện multimedia (nghe - nhìn), sẽ chọn lọc đúc kết những kiến thức của tiết
học và ghi chép, lưu trữ cho riêng mình.



<i><b>* Các tiêu chí đánh giá việc soạn - giảng giáo án điện tử:</b></i>


- Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu, nội dung, tiến
trình bài giảng.


- Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính tích cực của
học sinh.


- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định, có tính hệ
thống và khoa học.


- Sử dụng và tích hợp các cơng cụ cơng nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối ưu nhằm phát
huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo mơi trường tương tác tích
cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.


- Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
- Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với mơi trường giáo dục.


<i><b>Biện pháp 3: Tích cực sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần mềm dạy
học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là giáo viên, không
phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa trên giao tiếp thầy-trị, chứ
khơng phải giao tiếp máy-người. Mặt khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều hành việc sử
dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được những kiến thức cần chuyển tải trong phần
mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên.


Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các tiết dạy
của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền
thống và của công nghệ hiện đại.



Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT” khi các
giáo viên xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên giáo viên thường
hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ như sử dụng Powerpoint
“bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần như đọc lại nội dung đó, hay khi
dạy một bài văn có sử dụng CNTT, giáo viên trình chiếu hồn tồn nội dung bài dạy.
Phương pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu quả tiếp thu khi phải đồng thời
nghe giảng, vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và
âm thanh kèm theo.


Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu được rằng:
cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai thác triệt để các nội
dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu (âm thanh, hình ảnh, phim, Flash,...). Một lý do quan
trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì cũng khó có thể thực hiện, vì việc giáo viên
đưa một đoạn văn bản vào phần mềm thì dễ, chứ nếu tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm
kiếm tư liệu bên ngồi thì sẽ rất khó khăn.


Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các cơng cụ tìm kiếm tư liệu trên Internet như
Google hay Yahoo, địa chỉ http:// www.dayhoc.vn; hoặc tìm
kiếm thơng tin tại http:// www.google.com.vn với từ khóa (nội dung cần tìm) thích hợp


hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như Wikipedia, YouTube,... đặc biệt là
các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục và đào tạo như “Thư viện tư liệu giáo dục” tại


(cung cấp các tư liệu giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và “Thư
<i><b>viện bài giảng điện tử” tại </b></i> (cung cấp các bài giảng tham khảo có
chất lượng để giáo viên học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy)…


<i><b>Biện pháp 4: Sử dụng các phần mềm tiêu biểu phục vụ cho cơng tác giảng dạy</b></i>
Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi tính. Có thể


phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản, xử lý ảnh, bảng tính, gõ
tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử...) và các phần mềm chuyên dụng, cụ thể đối với
giáo viên đó là những phần mềm tạo bài giảng như Powerpoint, Violet, tạo các hình ảnh mơ
phỏng để dạy học như Macromedia Flash, Swish, v.v...Tất cả các phần mềm ứng dụng vào
để dạy học có thể được tải về từ địa chỉ


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

nữa. Do vậy mỗi cá nhân nên có một địa chỉ thư điện tử riêng và Gmail, Yamail là phần
mềm hỗ trợ việc quản lý và gửi nhận thư điện tử rất dễ dàng và thuận tiện.


<b>UniKey, Vietkey…: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong</b>
các văn bản, thư tín,... Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là
Unicode hay TCVN,... Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện lợi, giúp có
thể đọc được những văn bản khơng dùng Unicode mà máy tính khơng có font chữ tương
ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược lại thì đều khơng
thể đọc được, vì miền Bắc dùng kiểu gõ TELEX, cịn miền Nam thì dùng mã VNI.


<b>Adobe Photoshop, High Quality photo resizer, Paint: Là phần mềm xử lý ảnh thông</b>
dụng nhất, với rất nhiều tính năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được.
Với những chức năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó
hiện nay dù làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư liệu ảnh (ảnh
chụp hoặc hình vẽ).


<i><b>*) Các phần mềm phục vụ cho giáo dục</b></i>


Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tơi khuyến khích học và sử dụng các phần
mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ cho việc giảng dạy.


<b>Microsoft Powerpoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn để làm</b>
bài giảng điện tử. Powerpoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho phép tạo được
các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện đẹp.



Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử dụng phần
mềm Powerpoint, tuy nhiên, xu hướng đang chuyển dần sang các phần mềm khác hiện đại
hơn, dễ dùng hơn và không gặp phải vấn đề bản quyền.


<b>Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được những bài</b>
giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên lớp (sử dụng với máy
chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet. Tương tự như Powerpoint nhưng
Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện tiếng Việt, dễ dùng, có những tính năng
chuyên dụng cho bài giảng như tạo các loại bài tập, chức năng thiết kế chuyên cho mỗi môn
học, và đặc biệt là khả năng gắn kết được với các phần mềm công cụ khác.


<b>Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh động, các</b>
hiệu ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô phỏng và tương tác
sinh động, hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi hỏi trình độ người sử dụng cũng phải ở mức
khá và phải thực hành nhiều. Thông thường không dùng Flash để tạo cả một bài giảng vì nó
sẽ tốn khá nhiều công sức, mà chỉ dùng để tạo ra các tư liệu rồi kết hợp với Violet hoặc
Powerpoint để tạo thành một bài giảng hoàn chỉnh.


<i><b>Biện pháp 5: Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thơng tin trực tuyến</b></i>


Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư liệu, nhưng
như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ khơng cịn là vấn đề cần lo lắng vì Internet
chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân loại với hàng tỷ tư
liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc biệt các thông tin trên đó ln được cập nhật từng
ngày, từng giờ. Như vậy một vấn đề quan trọng và bắt buộc đối với giáo viên trong việc ứng
dụng CNTT trong dạy học là phải biết khai thác nguồn tài nguyên phong phú trên Internet
bằng các phần mềm Google hay Mozill firefox với từ khóa (nội dung cần tìm) thích hợp


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

- Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách khoa toàn thư khổng


lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng chục triệu người tình nguyện viên
trên thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây từ các kiến thức khoa học phổ thông đến
các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, tìm hiểu về tiểu sử những người nổi tiếng cho đến
những vấn đề thời sự được cập nhật hàng ngày v.v...


- Http://Youtube.com, là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây chúng ta có thể dễ
dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy học. Ở Việt Nam cũng có
trang chia sẻ video riêng ở địa chỉ


- Thư viện tư liệu giáo dục là trang web chia sẻ các tư liệu phim, ảnh,
flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam


- Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là . Đây là trang web
cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình, đồng thời tham khảo các bài
giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên cả nước. Thư viện tư liệu giáo dục và thư
viện bài giảng điện tử là các hệ thống mở, không những giúp giáo viên có thể download các
tư liệu dạy học và các bài giảng mẫu mà còn cho phép giáo viên có thể đưa các tư liệu và
bài giảng của mình lên để chia sẻ với mọi người. Việc sử dụng các hệ thống mở như trên
hiện nay đang là xu hướng tất yếu của ngành CNTT, với những ưu điểm vượt trội là:


+ Hồn tồn miễn phí.


+ Có hệ thống dữ liệu khổng lồ vì là do cộng đồng cùng xây dựng.
+ Luôn được cập nhật thường xuyên, từng ngày, từng giờ.


+ Các tư liệu cũng như bài giảng có chất lượng cao vì được chọn lọc và tổng hợp từ nhiều
nguồn khác nhau. Ngồi ra cơng ty Bạch Kim cũng ln có một đội ngũ kỹ thuật thường
xuyên xây dựng các tư liệu mới và bài giảng mới theo yêu cầu của giáo viên các nơi để đưa
lên Thư viện.



- Thư viện cũng là kênh kết nối các giáo viên trên cả nước, giúp mọi người học hỏi và chia
sẻ với nhau nhiều vấn đề trong công việc của mình.


Các phần mềm tìm kiếm trực tuyến trên Internet đã thu nhỏ kho kiến thức khổng lồ của
nhân loại thành cuốn cẩm nang đầu giường đối với mỗi con người hiện nay. Với giáo viên
thì cũng nên coi như việc ngồi máy tính để soạn bài giảng giáo án là phải kết nối Internet và
sử dụng công cụ tìm kiếm Internet thì mới có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng . Mỗi
giáo viên chỉ cần là người có tư duy tốt, nhạy bén, sáng tạo thì sẽ phát huy được hiệu quả
trong cơng việc và nâng cao chất lượng dạy học.


<i><b>Biện pháp 6: Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội</b></i>


Kết nối mạng Internet, giáo viên khơng những tìm thấy ngay những kiến thức, những
tài ngun mình cần mà cịn có thể chia sẻ, trao đổi thơng tin với nhau. Hình thức trao đổi,
chia sẻ thơng tin với nhau đơn giản và phổ biến nhất hiện nay là thông qua các diễn đàn
(forum) trên mạng.


Diễn đàn lớn nhất Việt Nam về giáo dục là trang diễn đàn Mạng giáo dục của Bộ
GD&ĐT, địa chỉ trong đó trao đổi về mọi vấn đề liên quan đến
giáo dục như giảng dạy, quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong giáo dục, các chính sách
mới của Bộ GD&ĐT.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia các mạng
xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể coi là trang web riêng)
cho mình. Tại các blog, giáo viên có thể chia sẻ các kinh nghiệm trong dạy học và trong
cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem các blog của nhau và gửi lên ý kiến của
mình. Hiện nay tại các trường học trên cả nước, các giáo viên sử dụng rất nhiều blog phục
vụ cho cơng việc của mình.


Các địa chỉ mạng xã hội để tạo blog được dùng nhiều mà thông dụng nhất hiện nay ở


Việt Nam là:


Thư viện trực tuyến ViOlet: Violet.vn: Mạng xã hội của cộng đồng giáo viên Việt
Nam, nơi giao lưu kiến thức và chia sẽ tài nguyên dạy học


<i><b>: Là mạng xã hội phổ biến hiện nay vì tính dễ dùng và nó gắn</b></i>
liền với chương trình chat Yahoo Messager.


<i><b>: Đây là mạng xã hội mà giáo viên và trí thức sử dụng củng nhiều</b></i>
do có giao diện đẹp và nhiều tính năng hấp dẫn.


<i><b>Biện pháp 7: Soạn giáo án đánh máy một cách tích cực, chi tiết và có sự chỉnh sửa</b></i>
cần thiết hợp lý trước và sau mỗi tiết dạy để giáo án đánh máy có thể làm nền móng vững
chắc cho giáo án điện tử, nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy cũng như chất lượng dạy học. Có
kế hoạch lưu trữ cẩn thận khoa học hay đưa lên blog để sử dụng cho những năm học sau,
đồng thời trao đổi giáo án với đồng nghiệp để có được những bộ giáo án tốt nhất cho công
tác giảng dạy.


<i><b>Biện pháp 8: Cần tham gia tích cực vào các câu lạc bộ, diễn đàn, các trung tâm tài</b></i>
nguyên của giáo dục trên mạng để khai thác hiệu quả mạng internet nhằm nâng cao trình đọ
chun mơn nghiệp vụ đồng thời nâng cao chất lượng dạy học.


<b>III. KẾT LUẬN</b>


Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ của khoa học và công nghệ. Sự chuẩn bị
nguồn nhân lực cho thời kỳ mới của đất nước là một trong những nhiệm vụ trọng đại của
toàn xã hội và của ngành giáo dục đào tạo nói riêng. Muốn theo kịp với các nước tiên tiến,
đón đầu sự phát triển địi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách đồng bộ: Chương trình, sách
giáo khoa, kiểm tra đánh giá và đặc biệt là cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy học hiện
đại.



Sự ra đời của phương pháp dạy học mới bao giờ cũng gặp những khó khăn, địi hỏi
phải có ý thức và quyết tâm tìm tịi, thử nghiệm với những bước đi vững chắc mới có thể đạt
hiệu quả cao.


Áp dụng phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thơng tin địi hỏi giáo viên phải
dành thời gian đầu tư vào mỗi bài dạy. Từng bước áp dụng các phương tiện hiện đại như
máy chiếu đa năng, đầu Ptojector, băng hình, tranh ảnh vào trong giảng dạy các bộ mơn , đó
là con đường hữu hiệu, có tác dụng tăng hiệu quả tiết học lên gấp đôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

các văn bản mang tính pháp quy để các trường có cơ sở lập đề án, huy động nguồn vốn đầu
tư cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và
quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội thơng qua mạng,
làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập.


Để ứng dụng CNTT trong nhà trường có nhiều cách tiếp cận, nhưng thực tiễn cho
thấy cách tiếp cận thích hợp là đi từ thấp lên cao, từ tổng thể đến chi tiết, từ môi trường
thông tin đến môi trường làm việc chuyên nghiệp. Vì thế cần cho giáo viên thấy được tầm
quan trọng của CNTT được ứng dụng trong giảng dạy và học tập. Kinh nghiệm cho thấy ở
đâu cán bộ lãnh đạo và quản lý nhận thức được vai trò của CNTT, hiểu biết về CNTT, quan
tâm sử dụng thật sự CNTT phục vụ cho công tác giáo dục (giảng dạy, học tập, quản lý …)
thì ở đó CNTT phát huy được tác dụng . Khơng ai địi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải trở
thành nhà CNTT nhưng cần có hiểu biết khái quát về các vấn đề cơ bản, về phương pháp tổ
chức và khai thác các hệ thống thông tin . Từ đó họ biết địi hỏi những gì mà CNTT có thể
đáp ứng, chủ động đề xuất và thúc đẩy thực hiện kế hoạch ứng dụng CNTT trong giảng dạy
và học tập có hiệu quả ./.


Việc ƯDCNTT trong day - học các trường phổ thông là rất cần thiết nó có tác động
mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học theo một chương
trình thay sách giáo khoa hiện nay. Do đó việc soạn GAĐT là khơng thể thiếu, để có được


một GAĐT chất lượng thì giáo viên phải tự tìm tịi, học hỏi, nghiên cứu và mất nhiều thời
gian mới có được. GAĐT là một phương tiện dạy - học theo phương pháp mới hiện nay, nó
địi hỏi phải có sự đầu tư khơng chỉ kiến thức mà cịn là thời gian. Trên đây là một số quan
điểm và kinh nghiệm của tôi trong suốt thời gian thực hiện, các thầy cơ và các bạn đồng
nghiệp xem xét và góp ý thêm để q trình thực hiện GAĐT có hiệu quả.


Qua thực tế giảng dạy và học tập, được sự giúp đỡ của các thầy cô, các bạn đồng
nghiệp, bản thân tơi đã tiếp thu được nhiều điều bổ ích, thiết thực cho q trình giảng dạy và
cơng tác. Tơi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn được đóng góp một phần cơng sức
nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục toàn ngành trong việc đổi mới phương pháp dạy
học.


<b>IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: </b>


Năm học 2010-2011 và 2011-2012, đã có rất nhiều giáo viên đã có ứng dụng CNTT
trong soạn giảng giáo án điện tử ở một số tiết dạy, nhưng mới chỉ là mang tính tự phát.
Riêng đối với mơn tin học mà bản thân tơi dạy thì nó lại địi hỏi việc sọan giảng có ứng
dụng CNTT trực tiếp hơn. Có thể nói môn học này việc soạn giảng ứng dụng CNTT lại thực
tế trên các bài học, các phần mềm học tập, truyền đạt kiến thức tin học cho học sinh và có
thể coi như là cơng cụ để chỉ cho học sinh việc tiếp cận CNTT để học sinh tiếp thu và thích
nghi nhanh các mơn học khác có ứng dụng CNTT. Cịn với đồng nghiệp giảng dạy các mơn
học khác, việc ứng dụng đề tài này để soạn giảng giáo án điện tử lại cần thiết hơn, nó hồn
tồn có thể tạo ra được các giáo án theo phương pháp giảng bài của mình.


Trên thực tế, việc ứng dụng sáng kiến này mới chỉ trong một phạm vi hẹp, vì thế
cũng chưa thể đánh giá được tồn diện và chính xác nhất những ưu điểm và hạn chế của
việc ứng dụng CNTT trong dạy học.


<b>V. KIẾN NGHỊ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

vật chất, tinh thần và thời gian cho những giáo viên giảng dạy đồng thời tạo điều kiện cho
họ được đi tập huấn các chương trình ứng dụng CNTT trong soạn - giảng để bổ sung thêm
kiến thức và học hỏi thêm kinh nghiệm của đồng nghiệp.Tôi mong rằng với kiến nghị này,
các cơ quan ban nghành luôn tạo điều kiện và giúp đỡ.


<i>Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong những năm tiếp cận và ứng dụng CNTT</i>
<i>ở trường học. Mặc dù chưa được đầy đủ, mang tính thuyết phục cao, song tôi mong rằng</i>
<i>các thầy cô giáo cùng tham khảo và chia sẻ kinh nghiệm để cùng nhau thực hiện tốt việc</i>
<i>soạn - giảng giáo án điện tử góp phần đổi mới phương pháp dạy học có ứng dụng CNTT.</i>
<i>Đặc biệt cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực trồng người ngày càng đáp ứng với</i>
<i>yêu cầu hội nhập quốc tế, đưa nước ta trở thành nước CNH-HĐH trên mọi lĩnh vực.</i>


<i> Trong quá trình viết đề tài, do điều kiện về thời gian và năng lực có hạn, đề tài khơng</i>
<i>tránh khỏi những sai sót hạn chế. Tơi rất mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của các</i>
<i>thầy cô giáo và các đồng nghiệp để làm kinh nghiệm quý báu cho bản thân trong quá trình</i>
<i>giảng dạy. </i>


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /> Sáng kiến kinh nghiệm Mái nhà xanh
  • 10
  • 853
  • 1
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×