Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Di tim dau tich thoi nien thieu cua Bac Ho o Hue cua Nguyen Dac Xuan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.27 KB, 138 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>ĐI TÌM DẤU TÍCH THỜI NIÊN THIẾU CỦA BÁC HỒ Ở HUẾ Nguyễn Đắc Xuân ( Nguồn www.gactholoc.net ) LỜI GIỚI THIỆU Tập bút ký có 13 chương chính mà nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân phải thực hiện trong một quãng thời gian trải dài đến 20 năm. Đây là một công trình làm rõ thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thuở mới theo gia đình đặt chân lên đất Huế năm 1895 cho đến lúc Người tử giả Huế để vào các tỉnh phía Nam bắt đầu hành trình đi tìm đường cứu nước vào năm 1909. Những sự kiện được làm rõ là ngôi nhà đầu tiên của bác và gia đình thuê tại đường Đông Ba (nay nhằm vào số 112 Mai Thúc Loan), những tháng năm Bác theo cụ thân sinh về làng Dương Nổ (1898-1900), sự kiện thân mẫu của Bác qua đời (1901) tại Huế, những năm tháng bác học trường Pháp Việt Đông Ba và trường Quốc Học Huế (1905-1909) và đặc biệt soạn giả làm rõ được sự kiện Bác đã tham gia cuộc đấu tranh chống thuế tháng 4-1908 tại Huế như thế nào. Thời gian sinh sống và học hành tại Huế Bác đã chứng kiến được sự bất lực của các vua cuối triều Nguyễn, thấy được tội ác của thực dân Pháp, học được văn minh văn hoá phương Tây và tiếp xúc được với đồng bào yêu nước (trong đó có các thầy giáo của bác như thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến v.v…). Tất cả những gì Bác tiếp nhận được ở Huế cộng với truyền thống yêu nước của quê hương xứ Nghệ, Bác đã hình thành được tư tưởng yêu nước từ lúc mới bước vào ngưỡng cửa trường Trung học. Thực hiện công trình này, soạn giả đã gặp và hỏi chuyện những người bạn học của Bác như cụ Lê Thiện, Nguyễn Viết Nhuận, những người học cùng trường và quen biết Bác như cụ Nguyễn Đạm, những người thân quen của bà Nguyễn Thị Thanh và của ông Cả Nguyễn Sinh Khiêm như ông Nguyễn Phú Phu, ông Lê Xuyến, bà Nguyễn Thị Khôi v.v… Về tài liệu tham khảo, ngoài tài liệu của triều Nguyễn, soạn giả còn tiếp xúc được với toàn bộ Bộ hồ sơ mật của Mật thám Pháp, tìm hiểu Bác từ tuổi ấu thơ cho đến năm 1920. Đây là một công trình khoa học được thể hiện bằng ngoài bút của một nhà văn có con tim tràn đầy niềm tự hào Huế của anh là quê hương thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên đọc rất hấp dẫn và cảm động. Kết quả nghiên cứu của công trình đã được soạn giả giới thiệu một phần trên báo chí trong hai mươi lăm năm qua, phổ biến trong hàng trăm cuộc thuyết trình ở Huế và nhiều cơ quan nghiên cứu trên ba miền đất nước, đưa vào trưng bày tại Bảo tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Huế. Đặc biệt , khi thực hiện công trình Ho Chí Minh, A Life (698 trang. New York. 2000), nhà sử học Mỹ William J. Duiker đã trích dẫn tài liệu của Nguyễn Đắc Xuân đến 12 lần. Về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Các nguồn tài liệu thành văn mà soạn giả Nguyễn Đắc Xuân sử dụng của các nhà nghiên cứu rồi ra có thể tìm được nhiều hơn thế nữa. Nhưng có thể nói Nguyễn Đắc Xuân được tiếp xúc với những người bạn học của Bác mà nay hầu như đã qua đời hết thì tài liệu có thể nói là vô giá. Cuốn sách là một đóng góp mới vào việc nghiên cứu cuộc đời - sự nghiệp tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (“Hồ Chí Minh học”) - Người mà thế kỷ XXI đầy biến động, thách thức vận hội vẫn thấy ở đấy một ngọn cờ tư tưởng lớn, không chỉ cho Việt Nam, mà cho toàn nhân loại. Vì khi nào mà hoà bình, độc lập, tự do, dân chủ, “cơm ăn, áo mặc”, “học hành”, vẫn còn là ước nguyện của nhân loại thì tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đuốc soi đường. GS-TS Mai Quốc Liên.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Cuốn bút ký lịch sử Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế của nhà văn và nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân gồm 13 chương chính, nhưng tác giả đã phải thực hiện trong khoảng 20 năm. Nguyễn Đắc Xuân là người Huế, ông đã sưu tập, biên chép các sự kiện về Bác ngay từ hồi còn trẻ, trong kháng chiến chống Pháp. Bằng nhiều cách tiếp cận: 70 cuốn sách, bài báo, thư từ tài liệu, đặc biệt là hơn 20 tư liệu gốc của mật thám Pháp về Bác và gia đình Bác; 26 bài viết về Bác của các tác giả trong và ngoài nước; 18 tài liệu lịch sử về thời niên thiếu của Bác; phỏng vấn 50 người cùng thời hoặc quen biết gia đình Bác Hồ thời niên thiếu, những người quen biết hoặc cùng thời với bà Thanh và ông Cả Khiêm - anh, chị ruột của Bác; của các nhân sĩ, trí thức được nghe Bác kể chuyện; những cán bộ, trí thức, nhà nghiên cứu đã quan tâm đề tài về thời niên thiếu của Bác Hồ... qua hàng trăm tư liệu lời kể (đều có địa chỉ, tên tuổi cụ thể) và hàng trăm cuộc nói chuyện về Bác... Nguyễn Đắc Xuân đã góp phần làm sáng rõ, cụ thể và sinh động khoảng thời gian Bác ở Huế từ năm 1895 cùng gia đình cho đến năm 1910, Người rời Huế vào Sài Gòn đi tìm đường cứu nước. Những sự kiện đã được làm rõ là ngôi nhà đầu tiên Bác và gia đình thuê tại đường Đông Ba (nay là số 112 Mai Trúc Loan). Những tháng năm Bác theo cụ thân sinh về làng Dương Nổ (1898-1900) sự kiện thân mẫu Bác qua đời (1901) tại Huế; Những tháng năm Bác học trường Pháp Việt Đông Ba và trường Quốc học Huế (1905-1908) và đặc biệt soạn giả làm rõ được sự kiện Bác đã tham gia cuộc đấu tranh chống thuế tháng 4-1908 tại Huế. Cuốn sách dày đặc tư liệu viết với một tình cảm xúc động, chân thực của Nguyễn Đắc Xuân là một đóng góp mới và lớn vào việc nghiên cứu cuộc đời sự nghiệp, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - một con người, một lãnh tụ Cách mạng vĩ đại, một nhân cách lớn, một nhà văn hoá lớn, một ngọn cờ tư tưởng lớn không chỉ cho Việt Nam. Nhà sử học Mỹ William J. Duiker khi thực hiện công trình nghiên cứu Hồ Chí Minh, A Life (698 trang) đã trích dẫn tài liệu của Nguyễn Đắc Xuân tới 12 lần. Về cuộc đời của Bác, các nhà nghiên cứu có thể tìm được nhiều nguồn tài liệu nhiều hơn nữa. Những cuốn Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế của Nguyễn Đắc Xuân chắc chắn là một cuốn sách hấp dẫn, bổ ích, nó là một công trình nghiên cứu công phu, tận tình, khoa học. Viễn Triều (Một bút danh khác của nhà thơ Triều Dương) Báo Văn Nghệ số 35+36 /9-2003 Tôi đọc một mạch cuốn Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế suốt cả buổi chiều, may mà mùa hạ rất dài. Tập bút ký lịch sử của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân gồm có 13 chương, ghi lại một cuộc tìm kiếm trải dài đến 25 năm. Khép 225 trang sách lại, người đọc cảm nhận trước hết là mỗi trang văn đều thấm đẫm một mạch nguồn cảm xúc hết sức chân thành nhưng vẫn giữ được sự minh triết của một công trình khoa học. Tác phẩm hội đủ các tính chất tưởng chừng như đối nghịch - ký sự lịch sử rõ ràng minh bạch đang xen xencá tính nghệ thuật của một nhà văn. Tác giả, ngày ấy - lúc “cầm bút ngi hàng giờ trước trang giấy mà vẫn chưa biết viết cách nào để có thể thông tin được những tư liệu mới tìm được…”. Hẳn ông đã dự cảm, đã sẵn sàng đối diện trước những khó khăn, sẽ đến với cách làm, cách nghĩ độc lập của mình. Có thể nói, chính sự hăm hở của tuổi trẻ, con tim tràn đầy nhiệt huyết và niềm tự hào về quê hương đã giúp ông khởi đầu và kết thúc cuốn sách tâm huyết bằng một phần đời cầm bút hào sảng, đôi.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> khi là dữ dội. Ngay từ chương đầu “Ngôi nhà cũ đường Đông Ba”, tôi tìm thấy nơi ông một con người yêu quê nhớ quê chân chất, không màu mè tình cảm. Từ ấy, hình thành mạnh mẽ ước mong thầm kín mà cháy bỏng là viết về Huế - quê hương thứ hai của Bác Hồ. Sống và viết trong hoàn cảnh cực kỳ thiếu thốn, tác giả đã làm một cuộc tìm kiếm đơn độc, hành trang là tâm tình hiến dâng và cá tính nghệ thuật rất riêng. Trong quá trình lục lọi lớp bụi thời gian, may mắn đến với ông là được nhiều người thông cảm, sẻ chia, may mắn đó không đến hai lần do đó tài liệu thành văn này trở nên vô cùng giá trị. Cái vẻ hăm hở đi tìm bừng bừng khí thế của tác giả thật ra ẩn giấu bên trong tác phẩm những khoảng lặng phản phất một chút ngậm ngùi và trong công việc, thảng thốt ông thú nhận “bên cạnh những kỷ niệm ngọt ngào, tôi không thể xoá mờ trong ký ức nhiều nỗi xót xa”. Những cảm xúc riêng tư ấy là nguồn cảm hứng tiếp thêm sức mạnh cho ông âm thầm hoàn thành một công việc lặng lẽ đến một phần tư thế kỷ. Tôi nghĩ ông có thế mạnh mà các nhà văn hay các nhà khoa học khác phải vất vả, nếu như họ đi cùng một đường, cùng làm một việc như ông đấy là con tim thổn thức tự hào về Huế. Giá như ông hoàn toàn tin tưởng vào bản lĩnh nghệ thuật của mình, tin lời bác Vũ Kỳ: “Anh được quần chúng tin cậy ủng hộ” thì tác phẩm này sẽ còn gây nhiều bất ngờ thú vị, nếu nó ra đời sớm hơn. Tuy nhiên đòi hỏi như thế là quá nhiều... Những gì tác giả Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế đã làm được, là một đóng góp không nhỏ. Dù mai kia, có thể còn tìm được các nguồn tài liệu mới hơn, nhiều hơn... Song những gì mà ông đã làm giữa một thời “rau dưa, củi lửa” cũng đủ cho ông có một chỗ đứng đáng trân trọng, trong việc nghiên cứu cuộc đời - sự nghiệp - tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phú Xuân Báo Văn & Hoá Đời Sống TTH, số 39/ từ 30-6 đến 7.7.2003.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> LỜI NÓI ĐẦU Cuốn sách Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế này tôi đã viết xong từ năm 1983, nhưng phải chờ tư liệu để kiểm tra cho nên mãi đến năm nay sách mới có điều kiện ra mắt độc giả. Hồi kháng chiến tôi làm báo ở chiến khu Thừa Thiên Huế. Hằng năm cứ vào cuối tháng tư tôi lại phải tham gia viết một vài tài liệu hoặc viết một bài báo về Bác Hồ để phục vụ tuyên truyền. Những lần ấy, chúng tôi lại có dịp đề cập đến Huế-thành phố Bác Hồ đã sống thời niên thiếu. Nhưng những năm tháng Bác đã sống ở Huế như thế nào? Thời gian nào? Những nơi nào Bác đã sống qua? Huế còn đọng lại những gì trong ký ức Bác? Những câu hỏi ấy núi rừng Trường Sơn không thể trả lời cho tôi. Trong cuốn sách chính thức viết tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh do nhà Sự Thật xuất bản cũng chỉ ghi được vỏn vẹn nửa câu “… nhất là trong thời gian người học ở trường Quốc Học Huế (1905-1910)” (1). Nếu đúng như thế thì Bác đã sống và học hành ở Huế từ năm 15 tuổi đến năm Bác lên hai mươi tuổi (1905 đến 1910). Tuổi 15 đến 20 là tuổi hình thành nhân cách của một người bình thường. Đối với các người xuất chúng thì tuổi đó là tuổi định hướng của cả một cuộc đời. Sự kiện quan trọng ấy chỉ được ghi có nửa câu văn trong một tác phẩm chính thức như thế thì quả thật không thể chấp nhận được. Là một người cầm bút xứ Huế, tôi đã “hạ quyết tâm”: “Ngày hoà bình lập lại thế nào tôi cũng phải tìm cho được các câu trả lời cho tôi.” Năm 1974 được đi dự Đại hội Sinh viên Quôc tế (IUS) lần thứ 11 ở Budapest, tôi có dịp ghé ngang qua Moscou, được xem một số sách hướng dẫn du lịch nước Nga viết bằng tiếng Pháp. Khi xem ảnh tượng Lê-nin lúc lên 17 tuổi đứng trong sân trường Đại học Kazan, tôi nghĩ đến cái tượng của Bác đứng trong sân trường Quốc Học trong tương lai; nhìn cái bến nước Lê-nin khi rời Simbirsk tôi nghĩ đến cái bến đò Thừa Phủ - nơi Bác Hồ đã từ biệt Huế ra đi! Rồi từ đó, đi đến bất cứ nơi đâu tôi cũng cố tìm tài liệu, suy nghĩ để viết về thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Nhiều người biết tôi có ý định đó khuyên tôi không nên làm cái phần việc của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương. Tôi vốn thích suy nghĩ độc lập cho nên tôi có cách nghĩ và cách làm của tôi. Tôi không nãn lòng. Tôi biết kiến thức của tôi có nhiều hạn chế, ngôn ngữ nghèo nàn, nhưng khi đứng trước người ngoại quốc biết nói và viết tiếng Việt, tôi không bao giờ có mặc cảm mình thua kém họ về Việt Nam. Vậy tại sao có biết bao người ngoại quốc viết sách về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tôi lẽ nào lại không dám viết về cái thời niên thiếu Bác đã sống qua ngay trên đất Huế của tôi? Người ta có thể hơn tôi vì tiếp cận dược những tài liệu sách vỡ lưu trữ ở nước ngoài về cuộc đời chính trị của Bác Hồ, nhưng chuyện Bác Hồ lúc còn để chỏm thì làm gì đã có tài liệu? Chuyện ấy chắc chắn chỉ có người Huế mới biết thôi. Mà người Huế biết thì tôi có thể biết được. Đúng như thế, sau này đi vào thực tế, tôi thấy không những người Huế mà ngay cả người làng tôi (Dã Lê Chánh xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên), bà con họ hàng của tôi cũng biết về gia đình và thời niên thiếu của Bác. Làng tôi có ông Nguyễn Viết Song (Thông) đỗ Tấn sĩ khoa Tân sửu (1901) cùng khoa với ông Phó bảng Nguyễn Sinh Huy - thân sinh Bác Hồ (2) .Ông Song có một người cháu là Nguyễn Viết Nhuận học cùng lớp với Bác tại trường Pháp Việt Đông Ba và trường Quốc Học Huế. Một người em cô cậu với ông Nguyễn Viết Nhuận là Nguyễn Đắc Vọng từng tháp tùng vua Khải Định Tây du năm 1922. Ông Vọng đã chứng kiến việc Phan Chu Trinh và Nguyễn Ái Quốc làm nhục vua Khải Định ngay trên đất Pháp. Đặc biệt làng Dã Lê Chánh là quê hương của ông Lê Đình Mộng người lãnh đạo cuộc đấu tranh kháng thuế năm 1908 tại Thừa Thiên-Huế - cuộc đấu tranh mở đầu cuộc đời tranh đấu cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này. Tôi nghĩ là các nhà nghiên cứu về Bác Hồ chưa bao giờ gặp những người Huế quen thân với Bác ngày xưa trước tôi. Do đó mỗi lần cầm trên tay tập sách.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> dày do Jean Lacouture viết về Bác (3) tôi lại vững tin mình hơn. Tôi có thể bổ sung cái phần Thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Jean Lacouture muốn viết mà chưa viết được. * *. *. Ông Nguyễn Đình Hoan - công tác tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, có lần được gần Bác, khẩn thiết yêu cầu Bác kể chuyện Thời niên thiếu của Bác để đồng chí viết, Bác bảo: - “Chú không còn việc gì làm nữa phải không?”. Ông Hoan không nản chí, đã tìm mọi lời lẽ khẩn thiết muốn được nghe Bác kể. Cuối cùng Bác bảo: - “Thời thơ ấu của Bác cũng giống như các cháu nhỏ bây giờ thôi. Bác cũng nghịch ngợm, cũng vọc đất, cũng nhác học và cũng bị mẹ đánh đòn. Các chú thấy các cháu bây giờ như thế nào thì thời thơ ấu ngày xưa của Bác cũng như thế ấy!” Chuyện riêng của Bác mà Bác không chịu kể thì ta biết làm sao! Lục lọi trong lớp bụi thời gian hơn ba phần tư thế kỷ để tìm những “thông tin” về Thời niên thiếu của Bác là một chuyện mò kim đáy biển. Những ai ở Huế còn nhớ được một lớp học ngày xưa ra sao? Một cậu bé tóc trái đào như thế nào? Những sinh hoạt, những ý nghĩ của người Huế đầu thế kỷ XX đã bị lãng quên qua bao thế hệ. Một viên gạch ở cửa Đông Ba mang biết bao tâm sự. Ngày nay còn mấy ai nghe được tiếng lòng của nó? Muốn bắt được đầu óc mình suy nghĩ, nhìn ngắm như một người trẻ đồng thời với Bác những năm ở Huế, tôi phải đọc nhiều sách báo, tài liệu cũ, đã phải hàng tháng, hàng năm nghe các cụ già “cổ lai hy” nói chuyện. Mỗi lần tôi được xem một cuốn An-bom cũ hoặc một cuốn hồi ký của những “gia đình lớn” ở Huế tôi cố tìm trong ấy những nắng, mưa, cái ăn, cái mặc, nói năng, tiếng đàn, giọng hát, niềm vui, nỗi buồn, và cái nhìn về những sự kiện chính trị lúc bấy giờ. Vì thế, nghiên cứu Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế tôi bổng trở thành người nghiên cứu Huế đầu thế kỷ XX. * *. *. Trước khi đặt bút viết dòng mở đầu cho tập sách này, tôi đã viết gần năm mươi bài báo, và thực hiện hàng trăm buổi báo cáo, thuyết trình cho nhiều cơ quan, đoàn thể ở Huế và ngoài Huế về Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Qua đó tôi phổ biến dần những tài liệu tôi vừa tìm được để quần chúng ủng hộ tinh thần cho tôi. Tôi muốn bạn đọc của tôi không những được nghe tôi “thông báo” một cách đơn thuần mà còn muốn họ cùng tôi tham dự vào “cuộc tìm hiểu khoa học này”. Qua cách làm ấy quần chúng trí thức đã góp cho tôi nhiều ý kiến, nhiều tư liệu hay để tôi hoàn chỉnh những tư liệu khoa học của tôi. Đáng lẽ tôi mở đầu cuốn sách này ở Trại viết Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức giữa mùa hè năm Bác Hồ 90 tuổi (1980) có cả nhà văn Nguyễn Tuân tham dự. Nhưng rất tiếc gặp phải.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> nhiều chuyện bất tiện nên cuốn sách được viết vào những giờ tối thiểu mà người khác dùng để nghỉ ngơi. Sách viết trong vòng ba năm. Trang cuối cùng được viết vào chiều ngày 29.9.1983 trong lúc tôi đang nằm Bệnh viện Huế để chữa bệnh gan. Hăm hở cho hoàn thành cuốn sách tâm huyết của mình. Khi viết xong đọc lại nhiều lần tôi hết sức náo nức nhưng chưa dám nghĩ đến việc gởi bản thảo đến một nhà xuất bản nào. Có nhiều lý do, nhưng lý do quan trọng nhất là nguồn tư liệu lịch sử. Tư liệu của tôi phần lớn là tư liệu sống, tư liệu viết trước 1975 ở miền Nam. Khi những tư liệu ấy chưa được xác minh (vérifier) bởi một nguồn tư liệu thành văn đầu tay thì tôi chưa yên tâm. Vì thế mà tập bản thảo dày cộm cứ nằm chờ tôi trên bàn viết. Nhưng rồi những gì tôi chờ đợi cũng đã đến. Tôi may mắn sao chụp được bộ Hồ sơ của Mât thám Pháp theo dõi Bác và gia đình Bác thực hiện vào năm 1920 (4). Bóc hết cái ý tưởng phản động, những nhận xét sai lạc của Mật thám Pháp về Bác và gia đình Bác, tôi tìm được trong ấy những con người, những sự kiện và đặc biệt là thời gian các sự kiện xảy ra để so sánh với những gì tôi đã ghi chép được qua các hồi ức của những người thân quen, những người biết Bác thời niên thiếu ở Huế. Cho đến nay tôi tin là công việc sưu tầm nghiên cứu của tôi có thể tin được. Cuốn sách đã đến lúc phải ra mắt bạn đọc. Gởi bản thảo đến nhà xuất bản tôi mang trong đầu những ý tưởng sau đây: 1. Những nhân vật tôi hân hạnh được gặp để hỏi chuyện Thời niên thiếu của Bác Hồ đến nay hầu như đã qui tiên. Những điều các vị đã kể với tôi hết sức tâm huyết, nếu tôi để thất lạc những điều tâm huyết ấy là tôi có tội. Tôi thật sự không muốn mang cái tội ấy khi gặp lại các vị ở cõi vĩnh hằng; 2. Cơ hội hỏi chuyện các vị ấy không bao giờ có lại được nữa. Trong lúc đó sự nghiệp nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì con dài. Tôi không dám cam đoan tất cả những thông tin tôi ghi trong cuốn sách này đều quí và chính xác trăm phần trăm, nhưng chắc chắn cũng có nhiều điều bổ ích để cho các nhà Hồ Chí Minh học tham khảo. Nếu tôi để mai một những thông tin có giá trị tham khảo ấy là tôi có tội với khoa học lịch sử; 3. Với tuổi tác của tôi hiện nay không cho phép tôi chờ đợi thêm nữa. Cuốn sách tôi viết với tâm huyết của một phần đời tôi. Để cho tập bản thảo này mai một là tôi tự hủy cái phần đời quý báu ấy của tôi; 4. Tôi cũng muốn để lại cho các con tôi và bạn bè thế hệ của chúng biết lý tưởng của tôi trong những năm tháng ấy. Tôi làm việc trong điều kiện hết sức khó khăn mà vẫn làm đến cùng. Làm vì lý tưởng, vì khoa học chứ không vì bất cứ một điều gì khác. Đọc lại bản thảo tôi không ngờ trong những năm tháng mà bây giờ nhiều người không muốn nhắc lại tôi lại có thể nhiệt tình làm khoa học một cách năng nổ đến thế. Sự nhiệt tình đó có lẽ không bao giờ còn trở lại với tôi hôm nay. Bởi thế, cuốn sách này là một công trình nghiên cứu đồng thời cũng là một kỷ niệm lớn. Tôi giữ nguyên bản thảo cũ hoàn tất năm 1983 và những gì mới viết tôi ghi rõ là phần viết bổ sung của năm 2003. Nếu độc giả phê phán cái văn phong bất nhất ấy, tôi xin nhận hết khuyết điểm. Tôi hết sức cố gắng trong gần hai mươi năm để trả lời những câu hỏi đặt ra cho tôi giữa rừng núi Trường Sơn năm xưa. Nhưng với tư cách là một nhà văn đi nghiên cứu lịch sử chắc chắn tôi không thể tránh được những chỗ bất cập. Kính mong các bậc thức giả cao minh chỉ giáo để qua việc góp ý với tôi giúp cho các thế hệ tương lai tiếp cận được với chân lý. Nguyễn Đắc Xuân Gác Thọ Lộc, Đầu năm 2003.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> (1) Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và Sự nghiệp (in lần thứ ba), Nxb Sự Thật, Hà Nội 1975, tr.13 vẫn còn giữ nửa câu văn trên. (2) Cao Xuân Dục, Quốc Triều Đăng Khoa Lục, quyển 4, Lê Mạnh Liêu dịch, Bộ QGGD. Sài gòn, 1962, tr.234. (3) Jean Lacouture, Hồ Chí Minh, Édition du Seuil, Paris 1967, 262 trang. (4) Xem phần sách và tài liệu tham khảo..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Chương 1: Ngôi nhà cũ đường Đông Ba Sau chín năm xa cách, một buổi trưa mùa hè năm 1975, tôi trở về nhờ một chuyến chuyên cơ từ Hà Nội vào Huế. Trong những năm kháng chiến nhiều lần tôi đã ngồi ở nguồn Tả nguồn Hữu Trạch mà gửi nỗi nhớ của mình về sông Hương. Vì thế lúc về đến Huế, tôi ra sông tắm ngay. Dòng nước đã trải qua nhiều bờ bãi Thach xương bồ thơm thơm, mát dịu thấm vào da thịt tôi. Nước sông Hương giúp tôi giũ được đất bụi đường dài kháng chiến và thức dậy trong tôi những mơ ước hòa bình. Tôi vội vàng đi thăm một vài người bạn thân rồi mượn một chiếc xe đạp, đạp vào Thành nội cũng có nghĩa là đạp vào dĩ vãng bí mật đang muốn vỡ tung ra trong tim tôi. Trong thời gian ngắn ngủi ở Hà Nội - cuối năm 1974, tôi đã đọc được tác phẩm văn vần viết về thời niên thiếu của Bác - cuốn Đi Từ Giữa Một Mùa Sen (1) của Thanh Tịnh. Những câu văn vần giàu hình tượng, ngọt lịm đính ngay vào ký ức tôi. Suốt một thời gian trí tưởng tượng của tôi bị căng ra để hình dung mấy câu văn vần Thanh Tịnh viết về Ngôi nhà đầu tiên của gia đình Bác Hồ ở trong Thành nội Huế: “Ăn nhờ ở đậu lân la Mới thuê được một gian nhà hướng Nam. Xế hiên một gốc mai vàng Trước sân bông bụt một hàng dậu thưa Bên này nhà chú thợ cưa Bên kia nhà một viên Thừa bộ Binh Dãy nhà gian ngói, bếp tranh Chênh chênh nhìn phía cổng thành Đông Ba” (2) Những câu văn đó cứ lấp lánh trong tâm trí tôi. Tôi đến xóm nhà trườc Viện Đô Sát (đã sửa chữa lại thành trường Đoàn Thị Điểm) - nơi, theo Thanh Tịnh, gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc đã ở nhờ trước khi mướn được nhà riêng (khi cụ mới đưa gia đình vào Huế). Khởi đi từ đó tôi dắt xe đi ngược đường Đoàn Thị Điểm về phía Nam. Đi một đoạn tôi rẽ vào đầu đường Mai Thúc Loan (trước kia là đường Đông Ba) cho đúng với cái hướng “Chênh chênh nhìn phía cổng thành Đông ba”. Con đường ấy đối với tôi có biết bao kỷ niệm. Để có đủ cơm ăn học thi Tú tài hai tôi đã đến làm gia sư trong một gia đình công chức trên đường phố này! Con đường quen thuộc trải dưới chân tôi tắm trong ánh nắng đỏ rực. Cờ cách mạng cắm hai bên đưòng phố như những cành phượng vĩ nghiêng xuống trang điểm cho con phố cũ. Tôi đến từng số nhà, dùng ký ức để tìm ra những người chủ xem thử còn ai biết được chuyện cũ năm xưa không? Tôi dán mắt vào những tường gạch, mái ngói trát vôi ghi dấu ấn của cái thời xi-măng chưa xuất hiện với một nỗi hy vọng náo nức tìm ra ngôi nhà thời thơ ấu của Bác. Tôi vào thăm hỏi một vài cụ già râu tóc bạc phơ, các cụ bảo khó quá, đường Đông Ba đã đổi thành đường Mai Thúc Loan từ lâu và các dãy nhà đã đổi chủ đến ba bốn lần..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Không có một tia hy vọng nào để tìm ngôi nhà Thời niên thiếu của Bác Hồ hé ra trong cái buổi chiều đầu tiên sau khi tôi trở về Huế ấy! Nhưng tôi không hề khó chịu, vì lồng ngực tôi hôm ấy đang căng đầy nỗi mừng vui thống nhất quê hương. Thời gian sau đó tôi lại tiếp tục dắt xe đi trong cái hướng “chênh chênh nhìn phía cổng thành Đông ba” ấy và tìm mọi cách vô hỏi chuyện từng gia đình. Sổ tay tôi ghi chép được biết bao điều mới lạ, nhưng vẫn chưa tìm được ngôi nhà Thanh Tịnh mô tả nêu trên. Tôi miệt mài làm việc như thế trong nhiều năm. Một hôm nghe tin nhà văn Thanh Tịnh về thăm quê và ở lại trong nhà một bà chị gần chợ Vỹ Dạ tôi tìm đến thăm và hỏi chuyện anh: - “Trong tác phẩm Đi Từ Giữa Một Mùa Sen anh có mô tả ngôi nhà gia đình Bác Hồ thuê ở hướng “Chênh chênh nhìn phía cổng thành Đông Ba”, vậy ngôi nhà đó ở đâu xin anh chỉ hộ?”. Nhà văn Thanh Tịnh nhìn tôi xuýt xoa: - “Hồi kháng chiến chống Pháp tôi và anh Hoài Thanh về thăm quê Bác nghe cô Thanh - chị Bác và ông cả Khiêm - anh Bác, kể chuyện rồi tôi viết như thế chứ tôi chưa biết đích xác là ngôi nhà nào. Đúng là ngôi nhà đó ở trên đường Đông Ba, lần này về tôi cũng có ý định đi tìm đây!”. Niềm hy vọng bỏng cháy trong tôi bắt đầu hạ nhiệt độ. Phải chăng Thanh Tịnh đã “hư cấu” nên ngôi nhà ấy? Không thể như thế được. Thanh Tịnh là một nhà văn rất có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Hơn nữa viết về Bác lẽ nào Thanh Tịnh lại nói mà không có cơ sở! Sau một thời gian “đi lại” với con đường Đông Ba cũ, tôi phát hiện thấy mình đã “phải lòng” con đường này. Những lúc bận quá không “gần gũi” nó được tôi cảm thấy buồn. Cuối cùng để tiện việc, tôi đã dọn nhà sang ở tại 108 Mai Thúc Loan để hằng ngày tôi có thể lắng nghe cái âm thanh rộn rã của nó hay lúc nó lặng lẽ trầm ngâm, để tôi được hít thở cái không khí ngày xưa Bác đã thở, để tôi ngắm mảnh trăng trên khoảng trời trong năm xưa Bác đã ngắm và tôi có thể dành hoàn toàn thời giờ rảnh rổi - dù chỉ một tiếng đồng hồ - để “la cà” bắt mối hỏi chuyện cũ. Thấy tôi say sưa tìm tòi trong sự thiếu thốn mà chưa tìm được một manh mối nào, có người khuyên tôi nên chọn viết một đề tài khác để có thể kiếm sống được. Tôi tìm mọi cách để tự động viên mình đừng buông xuôi theo lời khuyên chân tình ấy. Để cho những người thật tình với mình khỏi ái ngại, tôi thường đáp: - “Không sao, nếu chưa tìm được tài liệu về thời thơ ấu của Bác để viết thì tôi sẽ viết về tình cảm của tôi trong những ngày “phiêu lưu” này!” Một hôm ra Hà Nội công tác tôi gặp anh Đào Thế Hùng ở nhà xuất bản Ngoại Văn, nghe tôi muốn tìm hiểu về Bác, anh Hùng cho tôi mượn tờ báo Le Courrier du Việt Nam (số 46 năm 1976) có đăng bài Les Années de l’Enfance de l’Oncle Ho à Hué của Sơn Tùng. Đọc cái “tít” bài báo tôi mừng rơn. Bài báo ghi lại hồi ức của bà Công Tôn nữ Huệ Minh (?) về người bạn thông minh, hóm hỉnh của bà tại đường Đông Ba Huế. Tôi đọc kỹ bài báo thì thất vọng, những “thông tin” trong ấy chung chung quá không thể kiểm chứng được. Các anh trong Ban nghiên.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> cứu Lịch sử Đảng ở Bình Trị Thiên cũng đồng ý với tôi như thế. Cuối cùng bài báo chỉ còn đọng lại trong tôi cái tên “Công Tôn nữ Huệ Minh” - theo Sơn Tùng là tên người bạn thân tình buổi thiếu thời của Bác. Công Tôn nữ Huệ Minh là người Hoàng phái. Theo cách đặt chữ lót của Nhà Nguyễn thì: con gái vua (hoàng nữ) lúc hạ giá (tức lấy chồng) được một ông quan tước Công làm chủ hôn nên gọi là công chủ, đọc trại ra là công chúa; con gái một ông hoàng (tức cháu nội gái của một ông vua) là Công nữ; cháu nội gái một ông hoàng (tức chắt nội một ông vua) là Công tôn nữ, tiếp theo là Công tằng tôn nữ, Công huyền tôn nữ (3). Như thế bà Công Tôn nữ Huệ Minh mà Sơn Tùng đã gặp (?) phải là cháu nội một ông hoàng nào đó. Theo tác giả đầu thế kỷ XX bà Huệ Minh đã trên 10 tuổi. Tôi làm một bảng thống kê và loại dần những ông hoàng con các ông vua sau Tự Đức, tôi thấy nếu có bà Huệ Minh thì bà phải là chắt nội vua Minh Mạng hoặc vua Thiệu Trị (vua Tự Đức không có con nên không tính). Có được cái kết luận thứ nhất này tôi tìm đến gặp các cụ Hoàng phái con cháu thuộc các hệ nhì chánh (Minh Mạng) và hệ tam chánh (Thiệu Trị) nhờ họ dò trong gia phả các hệ ấy có ai tên là Công tôn nữ Huệ Minh lưu lạc vào đồng bằng Nam bộ không? Thấy tôi tha thiết muốn biết, các vị ấy đã tích cực tìm giúp tôi. Sau một thời gian tra cứu các vị ấy trả lời là “không có một người nào mang tên ấy và lưu lạc vào Nam bộ như thế cả” (4). Mãi đến mùa hè năm 1979 tôi cùng nghệ sĩ Nguyễn Hữu Ba lên thăm một gia đình chắt nội Tương An quận vương (5) để tìm tư liệu về ông Hầu Biều một nghệ sĩ đàn Huế xuất sắc hồi đầu thế kỷ XX. Nhân thể tôi hỏi người chắt nội Tương An: - “Trong gia đình bác có người nào mang tên Huệ Minh là bạn thuở thiếu thời với Bác Hồ ở Huế không?”. Người chắt nội Tương An đáp một cách bất ngờ rằng: - “Các bà, các cô của tôi không ai có tên là Huệ Minh cả. Nhưng tôi có một bà cô tên là Ưng Lệ là bạn hàng xóm của Bác Hồ thuở xưa!”. Tôi thích thú quá nhưng cứ nghĩ là tai mình nghe nhầm, tôi phải hỏi đi hỏi lại nhiều lần và tôi được nghe người chắt nội của Tương An kể thêm gốc ngọn như sau: - “Lúc sinh thời cô tôi lấy chồng xa, nhưng không có con, nên khi lớn tuổi bà về Huế sống với ông anh là nhạc sĩ Hầu Biều. Tôi chỉ thấy cô vui mỗi lần ngồi nghe anh đàn. Đầu năm 1926, cụ Phan Bội Châu vừa bị Pháp bắt về an trí ở Huế cho biết nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động yêu nước ở bên ngoài là con trai thứ của cụ Phó bảng Sắc - người đã sinh sống nhiều năm trong Thành nội Huế. Bà Đạm Phương nữ sử đưa cái tin ấy đến tai cô tôi. Lần đầu tiên tôi được nghe cô tôi nói với cái giọng vui vui rằng: “Lúc nhỏ ông Quốc ấy là bạn của cô đó. Ông ta nghịch ngợm và hóm hỉnh lắm!” Không để cho người cháu bà Ưng Lệ kể hết, tôi hỏi tắt ngang: - “Xin lỗi, thế thì ngày xưa nhà của bà Ưng Lệ ở đâu trong Thành nội ấy?” - “Ở đường Đông Ba, bây giờ là số nhà 106 Mai Thúc Loan đó!” Thật là một sự trùng hợp hết sức kỳ lạ. Cái nhà của ông Hầu Biều (anh ruột bà Ưng Lệ) ngày xưa chính là cái nhà ở sát cạnh nhà tôi ngày nay (1978). Tôi tự thầm khen mình là người rất có duyên trong sự lựa chọn nhà ở này (108 Mai Thúc Loan). Tôi hỏi tiếp:.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> - “Thế chú có nghe bà kể ngày xưa nhà của Bác Hồ ở đâu không?” - “Rất tiếc lúc đó tôi còn nhỏ nên không dám hỏi?” * * * Những điều người cháu bà Ưng Lệ kể qua kiểm chứng tôi thấy đều đúng cả. Đó là những hạt “bụi vàng” quí giá, nhưng chúng chưa thỏa mãn được điều tôi đang tìm. Trở lại đường Mai Thúc Loan, tôi đứng tần ngần trước dãy cửa bàn khoa căn nhà cũ của người bạn gái buổi thiếu thời của Bác. Nhà bạn của Bác ở đây còn nhà Bác ở đâu? Câu hỏi ám ảnh tôi mãi. Tôi nhớ lại cái tuổi lên chín lên mười cực nhọc của mình ở Đà Lạt, tôi quan sát mấy đứa con người bạn tôi đang ở trong nhà, tôi thấy rằng cái tuổi ấy - bọn trẻ chỉ làm bạn nhất là bạn gái, với những người ở gần nhà mà thôi. Mà nhà cửa trong Thành Nội hồi xưa thưa thớt không ở sát cạnh nhau như bây giờ nên không thể tính theo số nhà hiện có, mà phải tính bằng tiếng gọi. Khi cần mời bạn qua ăn cơm nguội có thể đứng ở nhà mình ơi một tiếng bạn có thể nghe và sang được. Tôi cho rằng nhà của Bác năm xưa ở loanh quanh đâu chỗ nhà bà Ưng Lệ đây thôi. Tôi giở sổ tay xem lại, để nghiên cứu sâu thêm về những ngôi nhà lân cận nhà bà Ưng Lệ. Những người chủ cũ phần nhiều là quan lại triều Nguyễn. Nhà nào cũng ghi dấu trong lòng dân chúng những chuyện không thể nào quên. Chuyện vui nhất là chuyện của ông Tiền quân Đô thống Phủ Đô thống Lê Bá - nhà ông ở ngay ngã tư Anh Danh, cách nhà bà Ưng Lệ chừng 50 mét. Ông này dù làm quan võ to nhất nhì trong Triều nhưng ông nổi tiếng là người sợ vợ. Người Huế nghe đến tên ông Lê Bá râu quặp không ai là không bật cười. Nhờ những chuyện vặt vảnh ấy mà tôi bớt nãn chí. Đồng thời, nếu sa vào những chuyện vặt ấy tôi có thể lạc hướng nghiên cứu. Chút ánh sáng loé lên từ người chắt nội Tương An bỗng mờ đi trong tôi. Một buổi sáng Chủ nhật nằm trên căn gác gian nhà 108 đường Mai Thúc Loan nhìn cái lầu nhà bà Ưng Lệ - nơi ông Hầu Biều hay ngồi đánh đàn năm xưa, tôi sực nhớ đến một chi tiết trong bài báo “Một Gia Đình Đẹp” (6). “Cụ Nguyễn Sinh Huy (tức Sắc) đã từng làm Thừa biện bộ Lễ”. Tôi nẫy ra ý nghĩ: “Ông Huy làm Thừa biện bộ Lễ dưới triều Thành Thái. Thượng thư bộ Lễ lúc ấy là ông Lê Trinh.Ông Huy là người có tài, có khí tiết, đỗ đại khoa và không thích cuộc đời làm quan nộ lệ, lẽ nào ông Lê Trinh không chú ý đến ông? Mà khi ông Lê Trinh đã chú ý đến thì chắc chắn ông sẽ kể chuyện cụ Phó bảng với con cháu trong gia đình. Thế thì nên tìm đến nhà họ Lê. Sáng hôm đó tôi nhờ ông Nguyễn Phú Phu (trên 90 tuổi) - bạn vong niên của ông nội tôi, nhà ở đường Ngô Sĩ Liên (bên cạnh Hộ Thành cũ) hướng dẫn, tôi tìm được nhà họ Lê núp sau một dãy phố hẹp cũ kỹ ở ngay trước đồn Hộ Thành (nay là trường Phổ thông Trung học Nguyễn Huệ). Ngôi nhà rường ba gian hai chái lợp ngói âm dương lặng lẽ đứng ngắm cái sân rộng có bể cá, hòn non bộ và nhiều loại cây ăn trái nổi tiếng. Ngôi nhà xây lưng lại với dãy phố nên nó còn giữ được hầu như nguyên vẹn cái dáng dấp cuối thế kỷ trước. Trong ngôi nhà bày biện tràng kỹ, liễng, trướng óng ánh xa cừ và vàng thếp. Tôi chú ý nhất là chiếc ảnh lớn để trên bàn thờ chụp sáu ông đại thần đội mũ cánh chuồng, mặc đại bào (7).Tôi gặp ông Lê Du (trên 90 tuổi) - con trai thứ ông Lê Trinh. Ông Du lãng tai, tôi lấy giấy bút viết mấy dòng đưa yêu cầu cho ông, ông đáp:.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> - “Ngày xưa ông tôi hay nhắc đến ông Phó bảng luôn. Chúng tôi cũng có gặp Bác Hồ lúc nhỏ. Khi cô Thanh bị mật thám Pháp đưa về an trí ở gần Hộ Thành, cô cũng hay vô ra đây chơi. Anh muốn biết cụ thể anh sang gặp Lê Xuyến (đã trên 75 tuổi) cháu đích tôn của ông tôi ở nhà thờ bên cạnh”. Tôi sang gặp ông Lê Xuyến. Ông Xuyến bị huyết áp cao phải ăn nằm một chỗ. Ông quen biết tôi trong những năm tranh đấu ở đô thị miền Nam, nên bây giờ gặp lại, ông rất mừng. Nằm trong phòng tối gặp lại người quen, ông thú vị lắm và ông kể chuyện xưa với tôi bằng cái giọng rất nóng sốt: - “Tôi thuộc lứa tuổi hậu sinh. Sở dĩ tôi biết được chuyện gia đình cụ Phó bảng là nhờ tôi may mắn được gần gũi ông nội tôi là cụ Lê Trinh và gần gũi với bà ngoại tôi là người chị em cô cậu với bà cụ Ba - người đã từng mời gia đình cụ Huy lúc cụ còn hàn vi về ở trong nhà mình”. Tôi mừng quá - như vậy là “trúng số độc đắc” rồi! Không giấu được niềm vui tôi hỏi: - “Thưa bác, vậy nhà bà cụ Ba ở đâu?” Ông Lê Xuyến muốn nói cho có đầu có đuôi, bị tôi hỏi đâm ngang làm cho ông có vẻ mất hứng, tuy vậy ông vẫn chìu tôi. Tay ông chỉ về phía hàng rào chè tàu ở phía Nam ngôi nhà, miệng bảo tôi: - “Ở ngay ngoài phía hàng rào đó. Hồi trước chưa có dãy nhà phố đường Đông Ba, vườn nhà tôi thông với đường Đông Ba bằng một con đường đi ngang qua nhà bà cụ Ba!”. Ông Lê Xuyến trông tôi có vẻ ngơ ngác chưa tưởng tượng được ngôi nhà nào, ông nghiên người rướn tới kéo cuốn sổ ghi chép trên tay tôi đặt xuống chiếu rồi giành lấy bút tôi vẻ một cái sơ đồ đường Đông Ba cũ. Ông đánh dấu vào gian sau ngôi nhà 112 Mai Thúc Loan rồi bảo tôi: - “Ngôi nhà này đây. Sau khi bà cụ Ba bán lại cho ông Hường Nghĩa (thầy thuốc Tây y của vua Khải Định), ông Hường Nghĩa làm thêm một cái nhà lớn trước sân, nên ngày nay nó trở thành nhà sau. Vì thế mà người lạ không ai ngờ phía sau cái nhà tân thời như thế lại có một cái nhà cũ kỹ đến như thế! Khoản sau năm 1920, cô Thanh mới mãn hạn tù ghé về, chính tôi đã đưa cô ra thăm!” Tôi ngạc nhiên: - “Cô Thanh không biết ngôi nhà đó sao?” - “Không biết - Ông Xuyến đáp - Khoản năm 1896 hay 1897 gì đó cụ Bảng còn hàn vi, cô Thanh chưa được theo cha mẹ vào Huế. Bà ngoại tôi kể ở trong gian nhà đó chỉ có ông bà Cử và hai người con trai thôi!”. ... Người nghiên cứu Huế có cái thú là con người và sự việc rất gần nhau. Muốn “kiểm chứng” trên thực địa có thể thực hiện được ngay. Trưa hôm đó tôi đã có mặt trong ngôi nhà ông Xuyến chỉ (nó chỉ cách nhà tôi đang ở trọ chỉ hai gian phố). Chủ nhà là đồng chí lái xe Công ty chế biến lâm sản Bình Trị Thiên. Đúng như lời ông Xuyến kể, phía trước ngôi nhà là một.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> cái biệt thự nhỏ có giàn hoa giấy màu tím rất thơ mộng (năm 1980 còn thuộc Công ty chế biến lâm sản BTT). Kiến trúc của ngôi nhà cũ rất đơn sơ. Cột, kèo, rui, mèn đều bằng gỗ quí đen bóng, nhưng không thấy một nét chạm trổ nào. Ngôi nhà mang tính đơn giản rất khác với các kiến trúc nhà quan quyền ta thường thấy trong Thành Nội. Ngay buổi chiều hôm đó, tôi nhờ ông Ưng Tuệ (trên 90 tuổi mà còn mạnh) đến xem xét và phát biểu về ngôi nhà trên. Ông Ưng Tuệ cho biết ngôi nhà trên đã có từ cuối thế kỷ trước. Cũng buổi chiều hôm đó tôi trở lại gặp ông Xuyến và được biết thêm: Bà Ba làm nhà này từ trước ngày Kinh đô thất thủ (1885). Bà có họ hàng với Đoàn Trưng - Đoàn Trực (những người cầm đầu cuộc biến động lật đổ vua Tự Đức năm 1866). Vì thế bà rất lưu tâm giúp đỡ những người có khí tiết trong buổi cơ hàn. Gian nhà sau 112 Mai Thúc Loan hiện nay (1980) có bốn yếu tố có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến gia đình Bác Hồ thuở trước như sau: - Ngôi nhà được người cùng thời - như gia đình ông Lê Du chỉ dẫn; - Nó nằm đúng vào cái hướng “chênh chênh nhìn hướng cổng thành Đông Ba” như Thanh Tịnh đã viết theo lời kể của bà Thanh và ông cả Khiêm; - Nó lại nằm gần nhà một người bạn buổi thiếu thời của Bác (nhà 106 Mai Thúc Loan); - Nhà được một người đồng thời am hiểu xác nhận là nhà làm từ cuối thế kỷ trước. Với bốn yếu tố đó cho phép tôi có thể tin gian sau ngôi nhà 112 Mai Thúc Loan là nơi buổi thiếu thời Bác đã sống qua một thời gian. Nhưng vì đây là lần đầu tiên nói về một di tích cụ thể ở Huế có liên quan đến Bác, nó quan trọng quá nên không thể dễ dãi được. Ý nghĩ đó làm cho tôi phải dè dặt chờ cơ hội kiểm chứng thêm. Tôi đọc lại từng trang ghi chép, đánh dấu những chỗ thiếu cần bổ sung cũng như khai thác thêm những điều mình chưa khai thác hết. Thời gian trôi qua, sổ tay tôi ghi thêm nhiều thông tin về thời niên thiếu của Bác ở Huế. May mắn một cơ hội nữa đến, ngày 18.5.1979, tôi được nghe ông Vũ Kỳ - người thư ký riêng rất gần gũi với Bác Hồ lúc sinh thời, nói chuyện với cán bộ lãnh đạo tại hội trường UBND tỉnh Bình Trị Thiên (nay là tỉnh Thừa Thiên Huế). Trong bài nói chuyện tôi lưu ý nhất đoạn văn ghi lại trong băng ghi âm như sau: - “Thành phố Huế đối với thời niên thiếu của Bác rất quan trọng. Huế còn để lại trong ký ức của Bác nhiều kỷ niệm sâu sắc. Có lần Bác kể với chúng tôi: Lúc bé Bác ở Thành nội, bên cạnh nhà Bác có ông tướng mặt đỏ râu ba chòm, oai phong lẫm liệt. Dân chúng nhìn thấy ông sợ lắm. Lúc ấy các quan văn võ, ai cũng có một cái tráp đen đựng tài liệu. Đi đâu các Ngài thường đeo tráp bên hông hoặc giao cho lính hầu mang theo. Nhưng ông tướng này không làm thế, đi đâu ông cứ khệ nệ bưng cái tráp trước ngực. Không ai biết vì sao! Ít lâu sau, vì ở gần nhà, Bác biết ông này có hai người vợ, bà vợ thứ trẻ đẹp, hay ghen và rất có uy quyền với ông. Mỗi lần bà phải đi vắng bà hay lấy râu ông tướng quấn vào tráp rồi khóa lại, làm như thế để cho ông tướng râu ba chòm khỏi đến nhà bà vợ cả. Những lúc ấy có việc công cần phải đi nên ông phải bưng cái tráp trước ngực đi luôn. Bác kể chuyện đó với các bạn cùng lứa tuổi, các bạn của Bác rất thích thú. Từ đó, mỗi lần thấy ông tướng râu ba chòm bưng tráp đi, đám trẻ con không những không sợ mà còn chạy theo gọi “ê ê” rất vui nữa!” Tôi ghi chép mẩu chuyện trên qua băng từ máy ghi âm và đem mở cho các cụ Phan Văn Dật, cụ Ưng Tương nghe, các cụ cười bảo tôi:.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> - “Ông tướng râu ba chòm Bác kể với ông Vũ Kỳ là ông Tiền quân Đô thống Phủ Đô thống Phủ sự Lê Bá (8) thường gọi là ông Tiền Bá. Ông có bà vợ hai người Hà Tĩnh rất đẹp nhưng phải cái tội hay ghen. Nhà ông ở Ngã tư Anh Danh (năm 1979 dùng làm cơ quan của Công ty chế biến lâm sản BTT). Vì chuyện ông Tiền Bá bị vợ khóa râu nên ở Huế có danh từ râu quặp (sợ vợ) anh biết không?” Câu chuyện của ông Vũ Kỳ kể lại một cách vô tình lại khớp với việc nghiên cứu của tôi trước đây. Bước đầu tôi có thể tin gian nhà sau 112 Mai Thúc Loan là nơi gia đình của Bác đã ở thời niên thiếu. Tôi vội vàng tóm tắt những công việc tìm tòi của mình viết một bài báo ngắn trên tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật (9).. (1) Thanh Tịnh, Đi Từ Giữa Một Mùa Sen, Kim Đồng, HN.1973, tr.22. (2) Như chú thích (1). (3) Nguyễn Phước Tộc lược biên, tr.17. Tài liệu của bà Nguyễn Phước Lương Linh, con gái vua Thành Thái. (4) Sau này có người cho tôi biết Sơn Tùng đặt cái tên Huệ Minh vì muốn hư cấu chuyện Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích hoa Huệ để viết tiểu thuyết (5) Con thư 12 của vua Minh Mạng. (6) Tôn Quang Duyệt, Một Gia Đình Đẹp, báo Nhân Dân, số ngày 19.6.1977. (7) Ảnh này cũng được đăng trong bài Images du Passé do M.Mahé cung cấp cho L. Sogny (BAVH số 1 Janvier-Mars 1942) Planche XVIII, gồm các ông Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, An Thành Vương Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục. (8) Ông Lê Bá nguyên họ Đoàn. Nhưng sau khi có cuộc biến động ở Kinh thành do Đoàn Trưng-Đoàn Trực lãnh đạo họ Đoàn bị tru di tam tộc. Ông Bá trốn được ra Hương Cần và từ đó lấy họ mẹ là họ Lê. Ông Lê Bá và bà cụ Ba chủ căn nhà gia đình Bác thuê là chị em chú bác. (9) Đi Tìm Mái Nhà Thời Thơ Ấu Của Bác Hồ Ở Huế, bđd, số 2/1980..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Chương 2: Đường vô xứ Huế Đôi dép cao-su là một đặc sản của Bình Trị Thiên, nó ra đời từ trong kháng chiến chống Pháp, được phát huy tác dụng mãi cho tới thời kỳ chống Mỹ, và nó vẫn tồn tại một cách “hài hoà” giữa cái thời đại dày da và sa-bô bóng láng sau năm 1975. Dép cao-su đi vào đời sống kháng chiến quen thuộc quá nên không có ai để ý đến nguồn gốc của nó nữa. Người ta nói chính Bác Hồ là người đã mang dép cao-su đầu tiên. Điều đó còn phải kiểm chứng, song có thể nói chắc chắn rằng chính Bác là người đã làm cho thế giới biết đến nó và trân trọng nó. Bởi thế đôi dép cao-su của Bác Hồ đã được giữ gìn trong Bảo tàng cách mạng Việt Nam. Hồi theo học Đại học Văn khoa Huế tôi được nghe cụ Tiến sĩ Hán học Nguyễn Huy Nhu (1) (người Nghệ An) - thầy dạy Hán văn, kể chuyện rằng: - “Ngày xưa các sĩ tử trẩy Kinh thi Hội, thi Đình bằng đường Thiên lý. Con đường này vốn nhỏ hẹp, khập khễnh, khi thì trèo dốc qua đèo, khi thì bị ngắt quãng vì sông sâu, và có khi thì nhễ nhại mồ hôi vượt qua những truông cát. Đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn cho sửa sang con đường ấy làm đường liên lạc thống nhất giữa ba kỳ. Cứ cách 15 cây số thì đặt một nhà Trạm, và có phu trạm mang công văn đồ đạc và khiêng cáng kiệu cho các quan. Núi cao thì trèo cũng qua, sông sâu thì có đò ngang. Điều mà ai cũng sợ chính là các truông cát Quảng Bình và Quảng Trị. Nhiều truông cát đi hàng mươi cây số, đi tối ngày mới qua khỏi. Có lẽ Nguyễn Du khi đi qua đây, cái kinh khủng của các truông cát đã để lại trong tâm hồn ông một ấn tượng sâu sắc, nên khi ngồi trên đất Huế tả nỗi bơ vơ của nàng Kiều ông đã hạ bút viết: “Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” Và không riêng gì Nguyễn Du, Cao Bá Quát cũng từng than trong “Bài đi trên cát”: “Bãi cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây?” Không để cho cát khuất phục, hai đầu truông cát đều có hai cái quán nhỏ bán dép mo neo giúp cho bộ hành vượt qua truông. Đôi dép thật giản dị gồm hai miếng mo cau hay da trâu, da bò cắt theo hình bàn chân. Mỗi chiếc có một cái quai hậu và hai quai từ lưng mép bàn chân quàng lên rồi chụm lại ở kẻ phía trong ngón chân cái. Buổi sáng dép còn mới nguyên, buổi chiều vượt qua đại tràng sa rồi dép tơi tả như nỗi mệt mỏi của lòng người trẩy Kinh, bị vứt thành đống bên vệ đường.” Cụ Nhu kết luận: - “Người sáng tạo ra đôi dép cao-su ngày nay có lẽ là một người đã từng gắn bó đôi chân mình với đôi dép neo ấy!” Khi nghiên cứu biết được hồi cuối năm 1895(2) Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào Huế, những điều tôi đã nghe cụ Nhu kể khi còn cắp sách đến trường Văn Khoa (1962) bỗng sống dậy trong tôi. Tôi tin chắc nỗi vất vả của Nguyễn Du, Cao Bá Quát năm xưa cũng là của gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc trên đường vô Huế. Rồi tôi tự nhiên không gỡ ra được khỏi lòng mình niềm tin chính Bác Hồ là người đã từng đi dép mo qua đại trường sa rồi từ kinh nghiệm đó Bác đã sáng tạo ra đôi dep cao-su giúp cho người chiến sĩ vượt qua các cuộc trường kỳ kháng chiến!.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> * *. *. Hồi ấy trẩy Kinh khó khăn như một cuộc trường chinh. Thảo nào mà người xưa đã đặt tên cho con đường nối liền ba kỳ là con đường vạn dặm (thiên lý). Lòng người dám vượt qua con đường vạn dặm ấy là vì sự hấp dẫn của đất “Nhất Kinh kỳ, nhì phố Hiến”. Kinh thành Huế là một tiêu bản của những thành thị ngày xưa, nó được thiết lập vì mục đích chính trị chứ không phải yêu cầu Kinh tế. Tuy vậy, vì nhu cầu tiêu dùng của giai cấp thống trị ở Kinh đô, một thành phố đã mọc lên bên ngoài Hoàng thành Huế. Theo Đào Duy Anh (3) và những người đã sống ở Huế từ cuối thế kỷ trước cho biết: “Lúc chưa bắc cầu Trường Tiền, phố xá buôn bán chỉ có hai khu Đông Ba và Gia Hội, gồm những dãy nhà tranh lụp xụp, rải rác chen vào đôi mái ngói cao ráo của Hoa kiều. Ngoài cửa Chính Đông là chợ Đông Ba. Dọc sông Hương, từ cầu Gia Hội lên đến Phu Văn Lâu là nhà vườn của các Hoàng gia và các quan. Trên bờ sông-ngay truớc cửa Thượng tứ là bến Thương Bạc - bến thuyền dành cho các quan Tây ở bờ nam sông Hương qua nhà Thương Bạc bàn việc “bảo hộ” với triều đình Huế. Đối diện qua bên kia sông Hương - về phía hạ lưu là Toà Khâm và doanh trại lợp ngói của 15 đội thủy binh. Cuối thế kỷ trước khu vực hữu ngạn thuộc Pháp với nhà cửa, dinh thự, đường sá đều làm theo kiểu Tây. Từ ngày bắc cầu Trường Tiền (1897) (4) và “chợ Đông Ba đem ra ngoài Giại” (1899) (5) sự buôn bán phồn thịnh của hai khu Đông Ba - Gia Hội chuyển lên đường Paul Bert (Trần Hưng Đạo ngày nay), các nhà vườn của họ hàng nhà vua, của các quan theo lệnh vua Thành Thái phải di chuyển hết ra vùng ngoại ô”. Sự thay đổi của Huế trước mắt cậu bé Nguyễn Sinh Cung trong những năm cuối cùng của thế kỷ XIX như thế! So với quê hương Nghệ An, Huế thật là một nơi hoa lệ chói ngời. Cung điện, thành quách, phố xá rất hấp dẫn đối với tâm hồn một cậu bé rất ham hiểu biết. Nhưng chắc chắn nó không làm cho cậu sớm bắt cái đầu óc non nớt của mình phải nghĩ ngợi về những sự kiện có thật trong chiều sâu của xứ Huế lúc ấy. Việc thất thủ Kinh đô (1885) đã lùi vào dĩ vãng mười năm, để trấn an dân, giặc Pháp đã đưa vào Đại Nội hai ông vua. Một ông cúc cung tận tụy làm tay sai cho Pháp (Đồng Khánh, 1885-1888), một ông “cứng đầu” với Pháp liền bị dán cho cái “nhãn” điên. (Thành Thái, 1888-1907). Vì thế lòng người trên mảnh đất đã nhóm lên ngọn lửa Cần Vương vẫn hướng về Hàm Nghi - vị vua trẻ đã sớm có tinh thần chống giặc Pháp. Tục ngữ có câu “Đá thử vàng, gian nan thử sức”, sau khi giặc Pháp chiếm Kinh thành Huế, bọn vua quan khiếp nhược, bọn quan lại cơ hội xu thời theo Pháp bị lộ mặt, đồng thời những người yêu nước thương nòi cũng ngời tỏ tấm lòng trung của mình. Đến Huế vào những năm ấy, làm sao bên tai cậu bé Nguyễn Sinh Cung không từng nghe những lời than: “Từ ngày Tây lại, sứ sang Vì đồng xu giác bạc thiếp với chàng xa nhau” Hoặc lời phê phán sự bất lực của triều đình: “Lập trường ra văn võ thi tài.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Cớ làm răng cửa Thuận An Tây lấy, Trấn Bình đài cờ Tây treo?” * *. *. Gần đây ở quê Bác các nhà nghiên cứu đã viết nhiều về sự kiện gia đình ông Nguyễn Sinh Sắc “trẩy Kinh” (6). Nhờ sự giúp đỡ của gia đình bên vợ và bàn tay làm ruộng, dệt lụa của bà Hoàng Thị Loan mà ông Nguyễn Sinh Sắc đã có dịp ăn học để năm Giáp Ngọ (1894) ông thi đỗ Cử nhân tại trường Vinh. Theo lệ xưa, cứ năm trước (7) các tỉnh (8) tổ chức thi Hương (9) thì năm sau tại Kinh đô, Triều đình tổ chức thi Hội, thi Đình (10). Cũng như sĩ tử trong khắp cả nước, mùa xuân năm Ất mùi (1895) ông Sắc mang yên trại vào đến trường thi phường Tây nghị trong Kinh thành Huế (11). Nhưng khoa ấy, bảng vàng treo ở lầu Phu Văn Lâu chưa đề tên ông. Ông Cao Xuân Tiếu - người bạn đồng hương đã từng giúp ông chút ít chi phí trên đường trẩy Kinh (12), đỗ Phó bảng (13). Ông Tiếu cảm thông sự khó khăn của bạn đã nhờ thân sinh là ông Cao Xuân Dục - Toản tu Quốc sử quán, can thiệp với ông Tề tửu Quốc tử giám Khiếu Năng Tĩnh thâu nhận Nguyễn Sinh Sắc vào học Quốc Tử Giám - trường Đại học độc nhất ở Việt Nam. Nhiều tài liệu cho biết thêm rằng ông Cao Xuân Dục là bạn thân với ông Hoàng Đường - người thầy - người cha vợ của Nguyễn Sinh Sắc. Cụ Cao biết Sắc từ buổi thiếu thời, rất mến tài năng và ý chí của Sắc. Khi hay tin Sắc thi hỏng khoa Ất mùi (1895) cụ Cao rất tiếc. Quốc tử giám xây dựng từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) cho mãi đến năm 1895 trường vẫn đặt tại làng An-Ninh-phía Tây Kinh thành Huế. Trường gồm có một Di luân đường đứng giữa, phía sau là giảng đường. Hai bên trái phải có hai dãy nhà ngang chia làm nhiều phòng, ốc dành cho giám sinh ăn, ở, học hành (14). Số phòng ốc ít ỏi chỉ đủ sức thu nhận những tôn sinh, ấm sinh con cái các hoàng thân, các quan trong Triều. Số giám sinh con bình dân bách tính từ các nơi về dù học giỏi đến mấy cũng phải ở nhà trọ bên ngoài. Hằng tháng các giám sinh được nhà trường phụ cấp cho một ít gạo, tiền (ligature) và dầu (để thắp đèn học ban đêm) (15). Với số học bổng ít ỏi đó, Nguyễn Sinh Sắc không thể sống ở Huế được. Muốn vượt qua khó khăn này không còn cách nào tốt hơn là việc ông trở lại quê nhà Nghệ An đưa vợ và các con vào Huế kiếm sống và giúp đỡ cho cụ ăn học. Vào một ngày cuối năm 1895, ông Sắc đưa gia đình vợ con vào Huế, trong đó có cậu bé Nguyễn Sinh Cung. Nhờ Huế là trung tâm chính trị, trung tâm văn hóa và nhờ hoàn cảnh khó khăn của ông Sắc lúc ấy mà thành phố sông Hương mãi mãi lấp lánh niềm tự hào-thành phố thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này. Đến Kinh đô gia đình ông Sắc trú chân trong một ngôi nhà trước Viện Đô sát (16). Sau lưng Viện là Quốc Sử Quán - nơi làm việc của ông Cao Xuân Dục (người đã xin cho cụ Sắc vào học Giám). Các quan Ngự sử Viện Đô Sát, các quan Toản tu Quốc sử quán phần lớn là người Nghệ Tĩnh. Có lẽ gia đình ông Sắc đã trú chân trong nhà của một người cùng quê làm việc ở hai cơ quan này. Nhưng lớp bụi thời gian gần một thế kỷ nay khá dày, đến nay chưa ai biết đích xác ngôi nhà ấy là ngôi nhà nào và chủ nhà có mối liên hệ với ông Sắc ra sao? Gia đình ông Sắc ở lại đó trong bao nhiêu ngày(?). Điều chúng ta có thể nghĩ đến: một gia đình bốn người ở trọ trong nhà một người quen chắc chắn không thể ở lâu được. Nhà cửa lúc ấy chật hẹp, cho dù tấm lòng của người chủ có rộng đến mấy cũng không dung nỗi một đám khách.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> đông đến thế! Hơn nữa, theo lời người xưa kể lại, lúc ông Sắc đến thuê gian nhà ở đường Đông Ba (đã trình bày ở chương trước) hai anh em Khiêm, Cung còn rất bỡ ngỡ với cảnh quan trong Thành Nội. Điều đó chứng tỏ thời gian ông Sắc ở trọ trong nhà người bạn đồng hương không lâu. Những kỷ niệm sâu sắc của Huế còn lưu lại trong tâm hồn cậu bé Nguyễn Sinh Cung có lẽ đã gắn liền với đường Đông Ba. Ổn định nơi ăn chốn ở xong, hằng tháng vào những ngày quy định ông Sắc lên làng An Ninh dự các buổi bình văn hay nghe các ông đại thần giảng sách Thượng thơ hay Trung dung tại trường Giám. Phần lớn các sĩ tử Nghệ An vào Kinh học Giám ai cũng có làm thêm nghề phụ như nghề Y (thầy thuốc), Nho (dạy học), Lý (thầy địa), Bốc (thầy bói). Ông Sắc cũng thế. Ngoài thời gian ôn tập, ông cũng nhận dạy dăm cậu học trò. Những người có tiền thuê ông Sắc dạy xuất thân trong các nhà quan hoặc Hoàng phái. Bà Mai thị Vàng - Đức phi của vua Duy Tân (dâu vua Thành Thái) (17) nhiều lần cho tôi biết: - “Mẹ chồng tôi là bà Nguyễn Thị Định thường kể rằng: Thuở hàn vi vào Huế học để thi Hội, ông Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh của ông Nguyễn Ái Quốc hay đến nhà ông Kiêm (18) để dạy học. Ông Sắc là người tốt bụng, rất cương nghị. Thấy ông Sắc sống quá đạm bạc, nhiều lần cô tôi muốn giúp đỡ, nhưng đều bị ông từ chối. Gia đình tôi rất mến đức độ của ông nên xem ông như một người thân. Khi ông đã vào Nam kỳ, con trai của ông sang Pháp, người con gái là bà Nguyễn Thị Thanh nhớ mối tình cảm của cha xưa nên bà hay ghé lại thăm ngôi nhà cũ của cô!”. Qua lời thuật của bà vợ vua Duy Tân khiến tôi nhớ đến một đoạn hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Huế là nơi Bác đã ở trong những ngày thơ ấu và buổi thiếu thời. Vào những năm thế kỷ trước, khi còn là một cậu bé đầu để trái đào, Bác đã tới Huế với gia đình. Cụ Phó bảng ngày đó mới thi đỗ. Cũng tại đây, năm 1900 cậu Cung đã chứng kiến những phút cuối cùng của bà mẹ. Sau khi mẹ mất, cậu Cung trở về Nam Liên. Năm năm sau, trở lại Huế, cậu Cung đã trở nên anh thanh niên Nguyễn Tất Thành. (...) Ở đây, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành bắt đầu ra đi chặng “đường muôn dặm”. Trước ngày tôi tới Huế một tháng, anh Lê Văn Hiến cũng được Chính phủ phái vào Nam công tác, đã qua Huế. Theo lời căn dặn của Bác, anh Hiến đã tới thăm bà Thành Thái và bà Duy Tân. Hai bà vợ của những ông vua nhà Nguyễn bị thực dân Pháp truất phế, rất bất ngờ và cảm kích trước sự quan tâm của Hồ Chủ tịch. Bà Thành Thái nói từ khi Chính phủ ta lên, hằng ngày tụng kinh, bà đã thay những lời cầu chúc cho Hoàng tộc bằng lời cầu chúc cho Chính phủ cụ Hồ. Người con dâu của bà, vợ vua Duy Tân, nói là từ ngày chồng bị Pháp đưa đi đày đến giờ, bà không được Hoàng tộc nhòm ngó tới” (19)..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Phải chăng trong những ngày đến nhà ông Kiêm dạy học, tiếp xúc với người cô ruột vua Thành Thái, ông Sắc đã bắt được những tín hiệu chống Pháp của vua Thành Thái? Và phải chăng, từ buổi thiếu thời cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã được cha kể cho nghe một hành vi, một cử chỉ chống Pháp nào đó của vua Thành Thái? Và chính hành vi ấy đã lưu lại trong tâm khảm cậu bé xuất chúng mang tên Cung một chút cảm tình dành cho vua Thành Thái chăng! * *. *. Ông Sắc có hoa tay, viết nhanh và viết đẹp. Cho nên ngoài việc dạy học, ông Sắc còn nhận chép bài thuê. Lúc ấy việc in ấn còn khó khăn, phần lớn bài học, học sinh phải chép tay. Nhiều cậu tôn, cậu ấm vì bị cha mẹ ép, phải học, nhưng lại nhác chép bài. Các cậu thường thuê các ông đồ Nghệ chép bài vừa rẻ lại vừa đẹp. Tài viết chữ đẹp của ông Sắc có một lai lịch rất cảm động. Nguyễn Sinh Sắc là con ông Nguyễn Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy (vợ thứ). Năm lên bốn tuổi Sắc mồ côi cả cha lẫn mẹ, cậu phải sống nhờ gia đình ông Nguyễn Sinh Thuyết - người anh cùng cha khác mẹ với Sắc. Vì gia đình anh nghèo, Sắc phải lao động rất sớm để kiếm miếng ăn. Hết việc cấy hái thì chăn trâu chăn bò, hết việc đồng án đến việc vườn tược, việc nhà. Bốn mùa tám tiết ít khi đôi tay Sắc được nghỉ ngơi. Một chữ nhất không biết thật khổ thân. Lúc nhỏ ở làng Hoàng Trù bên cạnh có ông Tú Hoàng Đường không những nổi tiếng là một thầy đồ dạy học giỏi mà ai cũng biết tiếng ông là một người có đức độ cao. Những khi thả trâu qua ăn cỏ làng Hoàng Trù, Sắc thường ngấp nghé ngoài cửa nhà học lắng tai nghe cụ Tú giảng bài bên trong. “Thông minh vốn sẵn tính trời”, những gì ông Tú dạy Sắc nghe lóm được và thuộc cả. Học trò biết được đều lấy làm lạ bèn đem kể với thầy. Ông Tú cũng ngạc nhiên. Một hôm ông Tú thấy Sắc ngấp nghé ngoài cửa, ông gọi vào hỏi chuyện. Ông hỏi gì Sắc cũng đáp lại một cách lễ độ, rành rẽ. Điều đó làm cho ông đồ không có con trai này xúc động. Sau đó ông sang làng Sen-gặp ông Nguyễn Sinh Thuyết, nói: - “Sắc là người thông minh rất ham học. Nếu được dạy dỗ cậu ấy cũng Hương, Hội với người ta chứ không phải thua ai đâu! Sắc không được đi học tiếc quá! Vậy chú có muốn tôi nuôi dạy cho Sắc học không?” Ông Thuyết vốn rất thương em, muốn em biết được năm ba chữ Thánh hiền để biện bát với người ta, nhưng khổ một nỗi là nhà nghèo, chị dâu không muốn cho em chồng đi học. Nay được nghe ông Tú nói thiệt hơn như thế, ông Thuyết rất mừng. - “Nhưng ông cũng nghèo quá lấy gì nuôi cháu được?” - “Không sao - ông Tú giải thích - Sắc ở nhà giữ trâu bò, cày bừa vườn tược cho anh, về nhà tôi cậu ấy cũng phải làm việc để kiếm ăn. Chỉ khác một điều là khuya sớm nghỉ việc tôi dạy cho Sắc học. Với trí thông minh sẵn có, cậu ấy chỉ học như thế cũng hơn người ta rồi!” Ông Thuyết đồng ý. Thế là Sắc rời làng Sen ôm áo quần sang làng Hoàng Trù. Cuộc đời Sắc cũng thay đổi từ ấy. Ở Hoàng Trù, trước khi Sắc đi lao động, anh thường được ông Tú gọi lại bảo xăng tay áo bên phải lên ông viết cho một đoạn Tam Tự Kinh chừng bốn năm hàng dọc cánh tay. Cánh tay phải trở thành trang giấy học trò, mọi việc Sắc phải làm bằng tay trái. Cậu tập viết trên mặt.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> đất phẳng cũng bằng tay trái. Lúc cậu bắt đầu học sang sách Tứ Thư, cậu được học bài trong sách, cánh tay phải được “giải phóng’ khỏi chức năng trang giấy học trò. Lúc ấy Sắc bắt đầu tập viết bằng tay phải thì tay trái của cậu đã viết được khá đẹp rồi. Lúc trưởng thành Sắc có thể viết được cả hai tay (20). Cô cháu dâu của ông Cao Xuân Dục - bà Hồ Thị Hạnh (tức Sư bà Diệu Không sau này) đã từng thấy vết tích chữ viết “rồng bay phượng múa” của Nguyễn Sinh Sắc còn để lại trên vách tường bộ Học trong những năm 20 của thế kỷ này. Khổ công luyện tập, khi viết được giỏi thì mừng chứ có lẽ ông Sắc không bao giờ nghĩ rằng có một ngày nào đó ông lại dùng cái “tài hoa” ấy để đi viết thuê kiếm ăn! Ông Sắc đem gia đình vào Kinh được hơn một năm, đầu năm 1897, người bạn đồng song, đồng học của ông là Phan Văn San bị can án “hoài điệp văn tự nhập trường” (21) cũng vào Huế dạy học trong nhà ông Võ tại làng An Hòa. Phan Văn San được trí thức Huế rất kính nể, nhất là khi họ hay tin ông là tác giả bài phú nổi tiếng Bái thạch vi huynh (22). Gặp được bạn thân như thế giữa chốn Kinh thành xa lạ cảm động biết chừng nào! Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền rất tán thưởng câu văn của ông Phan Văn San: “Bất như ý thường bất cửu sự, sầu sinh liêm ngoại Tây phong; Hỗn thiết xuy ư tam bách nhân, quý tử môn tiền Nam Quách” (23). Là bạn thân của Phan làm sao Nguyễn Sinh Sắc không thổ lộ lòng ngưỡng mộ của mình với ông Phan mỗi khi ông Phan đến thăm tại ngôi nhà thuê ở đường Đông Ba? Và có lẽ không ai hiểu một cách sâu sắc tâm trạng của ông Phan qua bài thơ này bằng ông Nguyễn Sinh Sắc: “Vào Thành ra cửa Đông: Xe ngựa chạy tứ tung Vào Thành ra cửa Tây: Sa gấm rực như mây. Vào Thành ra cửa Nam: Aïo mũ đỏ pha chàm. Vào Thành ra cửa Bắc: Mưa gió đen hơn mực Dạo khắp trong với ngoài: Đàn địch vang tai trời. Đau lòng có một người! Hỏi ai? Ai biết ai?” (24) Đối với ông Sắc, ông Phan là bạn đồng hương, đồng học và đồng song; đối với bà Loan thì ông Phan là một tài tử đã quen nhau trong bao lần đi Hát Dặm ở quê nhà. Nếu bạn đọc đã có.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> một lần đọc tài liệu hoặc về thăm làng Sen, chắc các bạn đã từng nghe nói tới hai cô gái cụ Hoàng Đường là bà Loan và bà An. Hai cô đếu hát hay, có tài “bẻ chữ” làm cho nhiều bậc mày râu phải sững sờ. Đến nay người ta vẫn còn truyền miệng câu chuyện này: Hôm ấy hai ông Tú San (tức Phan Bội Châu) và ông Hoe Ba làng Bố An vế tham dự Hát Dặm ở làng Hoàng Trù, nhưng hai ông cố giấu tên để cho buổi hát được tự nhiên. Nhưng không ngờ đến lúc hát người ta nghe bà An cất giọng: “Đàng xa em đã ngóng chừng Nhìn trăng nhớ tán, trông rừng nhớ hoa” Hai ông hiểu ngay “Tán là tán su nói lái lại là Tú San. Hoa là hoa be nói lái lại là Hoe Ba”, hai ông giật mình: - “Ấy chết, cô ấy đã xướng danh mình rồi.” Câu hát ý nhị mà bà An vừa sáng tác có sự đóng góp của bà Loan. Hai ông không giấu nổi sự ý nhị của hai người con gái ông Hoàng Đường. Câu chuyện ấy nếu không được nhắc lại thì nó cũng trổi dậy trong lòng ông Phan khi cụ gặp lại bà Loan giữa chốn Kinh kỳ này. Đối với bà Loan chắc cũng thế. Giữa lúc bà Loan đang nhớ mẹ, nhớ con gái còn ở quê nhà, gặp được người cùng quê thân thương, khả kính bà mừng rỡ vô cùng. Tuy vậy bà cũng không vồ vập một cách nồng nhiệt. Xưa nay bà nổi tiếng là một người đàn bà điềm đạm hay làm chứ không hay nói. Ông Phan đến nhà chơi, bà bảo con đi mua một cốc rượu để chồng mời bạn, còn bà sau mấy câu chào hỏi khách lại lui về với khung cửi dệt vải. Tiếng thì thầm nóng bỏng của hai ông Phan Nguyễn nói về quê hương đất nước vẳng đến tai bà, bà đều hiểu hết. Nhưng đó là việc của đàn ông. Có lẽ lúc ấy bà chưa thoát được quan niệm thường tình của đa số phụ nữ Việt Nam - việc nước là việc của đàn ông, đàn bà chỉ có canh cửi, làm sao cho chồng con có đủ điều kiện ăn học là bà đã mãn nguyện rồi. Cái hơi ấm thân mật của tình bạn, tình đồng hương, đồng song giữa gia đình ông Sắc và ông Phan đã lan tỏa đến hai người con trai ông Sắc. Phải chăng sự mến phục lòng yêu nước của ông Phan trong lòng Nguyễn Ái Quốc sau này đã bắt nguồn từ đó?. (1) Thân sinh của nhà văn Huy Phương ngày nay. (2) Hồ Chí Minh Toàn Tập, Tập I, Sự Thật. Hà Nội, 1980, tr.543. (3) Đào Duy Anh, Việt Nam Văn hoá Sử cương, Bốn Phương tái bản, Sài Gòn, 1951, tr.76. (4) Quốc Sử Quán, Đại Nam nhất Thống chí tập Thừa Thiên (thượng) Nha văn hóa Bộ QGGD Sài Gòn 1961, tr.107. (5) Quốc Sử Quán, Sđd, tr.135-136. (6) Những mẫu chuyện về Thời niên thiếu của Bác Hồ, Ban NCLS Đảng tỉnh ủy Nghệ An, Sự Thật. Hà Nội, 1980, tr.16 trở đi ..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> (7) Các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu. (8) Các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu. (9) Ai đỗ cao là Cử nhân, ai đỗ thấp làTú tài. (10) Ai đỗ cao là Tiến sĩ (người đỗ đầu là Hoàng giáp), ai đỗ thấp ghi tên vào bảng phụ bên cạnh gọi là Phó bảng. (11) Theo Đại Nam Nhất Thống chí; Thừa Thiên phủ, tập thượng, tr.37. (12) Võ Quang Sự, Tuổi thơ của Bác Hồ ở làng Dương Nổ, tập san Văn Hóa BTT, số Xuân năm 1979, tr.16. (13) Xem Quốc Triều Đăng Khoa Lục. (14) Đại Nam Nhất Thống Chí, tập Kinh sư, tr.80. (15) Vĩnh Nhân, Trường Quốc tử giám Kinh đô Huế, Văn Hóa Nguyệt san, Sg, số Xuân Nhâm dần.1967, tr.1650/14 . (16) Hiện nay là khuôn viên trường PTCS Thuận Thành. (17) Bà được vua Duy Tân cho về sống với cha mẹ tại Hậu thôn làng Kim Longû và bà qua đời vào năm 1979. (18) Tức ông Diệp Văn Cương chồng bà Thiện Niệm - cô của vua Thành Thái. Ông Cương làm việc cho Nam triều, kiêm luôn việc Bảo hộ nên thường gọi là ông Kiêm. (19) Võ Nguyên Giáp, Những Chặng Đường Lịch Sử, Văn Học, Hà Nội, 1977, tr.325-326. (20) Thuật theo Thanh Tịnh (*) Trong việc kiếm sống, ông Nguyễn Sinh Sắc đã đi làm thục sư cho nhiều gia đình quí tộc ở Huế. Bà Lương Linh - Công chúa con vua Thành Thái (thường gọi Mệ Sen) nhiều lần kể với tôi “ Ông Nguyễn Sinh Sắc từng làm thục sư trong các gia đình bà con của vua Thành Thái. Nhưng rất tiếc những người đã học với ông Nguyễn Sinh Sắc nay (1980) không còn ai. Năm 1920, khi lập bộ Hồ sơ chính trị của Nguyễn Ái Quốc, một mật văn của Thanh tra Mật thám Trung Kỳ, đề ngày 23-1-1920 (Tài liệu số 11) gởi cho Ngài Công sứ ở Vinh, thanh tra S.C.R và S.G Hà Nội, thanh tra S.C.R và S.G Nam Kỳ Sài Gòn và Công Sứ Quảng Ngãi cho biết: “Nguyễn Sanh Huy đã từng là thầy dạy Hán tự ở nhà Bà Kí (chị cả của Dục Đức, cô ruột của vua Thành Thái NĐX), phụ nữ ly hôn của Diệp Văn Cương ở Sài Gòn. Nguyễn Sanh Huy đã dạy học cho con trai ông này tên là Diệp Văn Kỳ, hiện (1920) là nhà báo ở Sài Gòn. Nguyễn Sanh Huy chỉ được nuôi ăn ở nhà bà Kiêm nhưng không lãnh 1 đồng lương nào”. Vậy ông Diệp Văn Cương là ai? Nơi ông Sắc (tức Huy) đến ngồi dạy con ông Diệp Văn Kỳ ở đâu? Năm 1965, tôi được theo thầy Vương Hồng Sển đi thăm các nơi lưu niệm ở Huế và được thầy cho biết: Sau ngày Thất thủ Kinh đô, vua Hàm Nghi xuất bôn, vua Đồng Khánh được người Pháp đưa lên ngôi và đưa một tri thức Công giáo là Trương Vĩnh Ký từ Nam Bộ ra Huế làm tham biện và làm thầy dạy vua. Sau mấy năm, Trương Vĩnh Ký đã giúp cho vua Đồng.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Khánh làm được nhiều việc tiếp tay cho Pháp bình định nước Nam nhưng không may sau đó “người tri ngộ của Trương Vĩnh Ký là Toàn quyền Paul Bert từ trần“, họ Trương biết mình không làm được gì nữa đành xin rút lui, nhường vai tuồng sư phó cho một người cũng gốc trong Nam, là ông Yên Sa Diệp Văn Cương. Ông này sanh hạ tại An Nhơn (Gia Định) nên lấy biệt hiệu là Yên Sa. Ông vốn hàn vi xuất thân, nhờ học giỏi xuất chúng nên Tây gởi qua học bên Alger, vì cho rằng người Nam, sanh nơi xứ nóng, học bên Pháp sẽ bất phục thuỷ thổ. Học thành tài, ông đỗ bằng Tu tài đôi, gọi theo Pháp thời đó là double bachelier. Ông đã có sẵn một học lực vữîng chắc về Hán học, nên được bổ nhiệm thay ông Trương Vĩnh Ký làm thầy dạy vua Đồng Khánh và làm rể Thoại Thái Vương. Nhà ông Diệp hồi ấy, nay còn lại bức bình phong trước Phủ Nghi quốc công - nhạc trượng của vua Khải Định, nơi góc đường Nguyễn Du và đường Võ Tánh Huế (nay là đường Nguyễn Chí Thanh nối đầu phía bắc của cầu Đông Ba. NĐX). Nhắc lại sự kiện này để thêm một dữ kiện về mối quan hệ giữa gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình vua Thành Thái, gia đình họ Diệp hồi đầu thế kỷ XX. (21) Mang tài liệu vào trường thi. (22) Lạy đá làm anh. Bài phú đưa đến mối tình đồng chí giữa ông Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền và nhà yêu nước Phan Bội Châu. (23) Dịch nghĩa: Bất như ý việc đời mười đến chín, buồn đưa bởi gió phương Tây. Chen tiếng địch với ba trăm người hổ thẹn, kém gì Nam Quách. Tự Phán, tr.24. (24) Trích lại của Thái Văn Kiểm, Cố Đô Huế, Nha VH, Bộ QGGD xb, Sài Gòn 1960, tr.223..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Chương 3: Sống trong Kinh Thành Anh em Nguyễn Sinh Khiêm-Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngỏ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình. Đứng tại ngã tư Anh Danh gọi to tiếng một chút, lính Hộ Thành phía sau có thể nghe và chạy đến bắt ngay. Và cũng đứng trên cái ngã tư ấy, hằng ngày người ta gặp biết bao người khăn áo chĩnh tề đi “hầu” các cơ quan Lục bộ nằm kề nhau thành một dãy Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Có lẽ hai anh Khiêm, Cung đã loạn tai vì những chức tước lúc ấy: Tham tri. Thị lang, Lang trung, Viên ngoại... Và chắc chắn phải mất nhiều ngày thắc mắc hỏi han nữa hai anh em mới hiểu được vì sao con cháu nhà vua dù trai, dù gái, người mới hú răng sữa cho đến người tóc bạc răng long, ai cũng được gọi bằng “mệ”! Bạn bè của các cậu Khiêm, Cung có nhiều. Song đến nay chưa ai biết hết được. Tôi biết được một người tên là Ưng Lệ nhưng không rõ được “tình bạn của cô với hai cậu Khiêm, Cung” ra sao? Cụ Tôn Quang Duyệt, một người có nhiều liên hệ với gia đình với Bác, đã nhiều năm nghiên cứu về Thời niên thiếu của Bác, cho biết lúc ấy Nguyễn Sinh Cung có một người bạn cùng quê là Chu Văn Phí - thường gọi là cậu Cu Nậy (1). Anh em Khiêm, Cung và các bạn hay bắt dế, đuổi bướm, hái hoa cỏ dại chung quanh Hoàng Thành. Việc gì cậu Cung cũng muốn biết, nơi nào cậu cũng muốn đến xem tận chỗ. Chuyện đó đã làm cho bà Loan lo ngại. Sống trong Kinh thành nhưng đâu phải nơi nào người dân bách tính cũng có thể đến được! Nhớ chuyện cũ, ông Chu Văn Phí đã kể với Tôn Quang Duyệt: - “Anh Côông nhỏ hơn tôi mấy tuổi, nhưng anh khôn ngoan hơn tôi. Anh sớm phân biệt được phải trái, thiện ác. Một hôm anh thấy tôi chơi với một tốp bướm đủ màu sắc, anh bảo tôi: “Này, anh không thả cho chúng bay đi mà lại chơi với chúng?”. Vừa lúc đó tôi nổi cơn ho vì phấn của bướm. Tôi nghiệm thấy lời anh Côông nói đúng, tôi ném hộp bướm đi ngay”. Cậu Cung có óc quan sát rất sớm. Cậu không nhìn lẻ loi một việc gì mà thường đặt sự việc ấy trong hoàn cảnh của nó. Sống trên “đất dưới xe vua”, nhiều lần cậu Cung cũng được cha kể chuyện vua tôi, quân thần. Trên đường Đông Ba hằng ngày nhan nhãn các loại xe thùng của các quan đi qua. Xe đen thùng vuông quan nhỏ, xe đen thùng tròn quan to, xe cọng đồng thùng vàng quan đại thần. Xe bánh gỗ niềng sắt người hèn, xe bánh cao-su người sang. Chỉ sống trong Kinh thành mấy năm anh em Khiêm, Cung đã có thể hiểu được các bậc quan, duy chỉ có vua hai cậu náo nức muốn nhìn mà chưa gặp. Thỉnh thoảng Cung theo mẹ ra bến Tượng dưới cầu Đông Ba giặt giũ, thấy ai cũng cúi đấu trước cái tượng đất đặt trên bến, Cung tưởng tượng đến vua, Cung hỏi bạn: - “Vua có giống như tượng Phật đó không?” Thời quân chủ còn thịnh, khi vua đi ra ngoài, nhân dân đều phải trốn, nhà ở dọc hai bên đường phải đóng cửa, ai nhỡ gặp vua giữa đường thì phải lập tức phủ phục xuống hai bên đường. Dân không được nhìn “long nhan”của vua. Ai phạm thượng đều phải tội. Sau năm người Pháp chiếm Kinh đô (1885) các ông vua bù nhìn do Pháp đặt lên không đủ quyền hành thực hiện điều cấm đó. Tuy vậy dân bách tính vẫn kiêng. Câu hỏi của cậu Cung vẫn làm cho bạn bè sợ hãi..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Mãi đến một hôm, mặt trời vừa chiếu xuyên qua cửa thành Đông Ba, trống trên Ngọ Môn đánh liên hồi, súng trên cột cờ ùng oàng nổ, đầu đường cuối xóm vang vọng lời rao: - “Ngài ngự du xuân, Ngài ngự du xuân.” Anh em Khiêm, Cung không kịp gài cúc áo tất tả chạy ra phía cửa Thể Nhân (cửa Ngăn) xem. Đám rước “Ngài ngự du xuân” là một đoàn voi thắng bành gấm nhúc nhắc đi giữa hai hàng lính đội nón dấu, chân quấn xà-cạp vàng. Nổi bật trên đám rước là một cái kiệu khảm ngà bên trên có lọng ngũ sắc che. Chiếc kiệu di chuyển trên mấy chục đôi vai lực lưỡng. Hai anh em Khiêm, Cung núp dưới một gốc nhãn liếc mắt nhìn. Vua Thành Thái đầu chít khăn vàng ngồi chễm chệ trong kiệu, nghiêm trang như một pho tượng. Dân chúng đi qua đường, người già thì phải phủ phục lạy, người trẻ quay mặt đi hoặc lấm lét nhìn trộm vua. Tối hôm đó, đứng bên khung cửi, Cung thỏ thẻ hỏi mẹ: - “Vua đau chân sao phải khiêng, mẹ?” Sống trong vòng cương tỏa của giáo lý đạo Khổng, phàm cái gì động đến vua là “phạm thượng”, nghe con hỏi vậy bà Loan rất ngại: - “Chớ, chớ! Làm vua thì được ngồi kiệu, đừng hỏi rứa con!” Cung gật đầu cám ơn mẹ. Cậu chau mày một chút rồi lại hỏi: - “Sao thầy không chít khăn vàng như vua cho đẹp, mẹ?” - “Chỉ có Hoàng thượng mới được chít khăn vàng, con nhớ nghe!” Cung có vẻ chưa tin, hỏi tiếp: - “Rứa tại sao con thấy lính chít khăn vàng dưới chân không sợ vua sao, mẹ?” Bà Loan sửng sốt, định bỏ khung cửi chạy ra bịt miệng con. Bà nói như trách móc con dại: - “Sao con lại ví như thế? Mẹ van con đừng hỏi như thế nữa!” Bà Loan cho rằng, sở dĩ các con trai bà ăn nói, hỏi han có thể phạm vào điều cấm, vì các cậu chưa được học hành, suốt ngày chỉ chơi long nhong trong Kinh thành. Ông Sắc bận dạy học, bận ôn tập để dự thi khoa tới, bà thay chồng dạy các con, tập cho các con rửa chén, quét nhà đi chợ mua các thứ lặt vặt. Bà dạy cho hai cậu lễ nghĩa, dạy ca dao tục ngữ, dạy các câu hát, câu ví. Trước khi học chữ với cha, hai cậu Khiêm, Cung đã được học văn học dân gian với mẹ. Cậu Cung tỏ ra rất thích văn học dân gian. Đi chơi nghe được câu ca, câu hát, câu hò nào hay về nhà cậu đọc cho mẹ nghe và nhờ mẹ giải nghĩa (2). * * *.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Giữa năm ấy, toàn quyền Paul Doumer (1897-1902) bãi bỏ chế độ bảo hộ và thay bằng chế độ trực trị. Vua Thành Thái mới hơn hai mươi tuổi chưa thấy được hành động thực dân ấy. Bọn thực dân tổ chức lại bộ máy Nhà nước để phục vụ cho chúng. Chúng đo đạc lại đất đai. Đó chính là thời kỳ mà dân ta nói Tây sang “giăng dây thép họa địa đồ nước Nam” để bắt đầu khai thác sức người, sức của của xứ An-Nam. Những nấm mồ tập thể của những người Huế bị Pháp giết trong biến cố 23.5 Ất dậu (1885) bị chúng cho quật lên, lấy đất sửa sang hoặc làm mới lại đường sá. Xương trắng, sọ dừa của những người vô tội chất cao thành đống. Đống xương cao nhất cách nhà cậu Cung không xa. Đồng bào Huế nhìn cảnh ấy vô cùng đau đớn. Họ tự góp tiền dựng một cái miếu thờ phụng những âm hồn không nơi nương tựa. Từ đó, cái ngã tư có cái miếu thờ âm hồn gọi là Ngã tư Âm hồn. Đây là một nơi nhỏ hẹp, không có gì đẹp đẽ so với Kinh thành rộng lớn, tráng lệ. Song ở Thừa Thiên-Huế không mấy ai không biết đến nó. Đó là một vết thương không cầm máu trên thân thể một cô gái yêu kiều. Hằng năm, cứ đến ngày 23 thánh 5, nhân dân phường Phú Nhơn (Huế) góp tiền, góp bánh trái, xôi oản, mời thầy đến tế Âm hồn, tưởng niệm những người đã bị Pháp giết. Trong những ngày đó đồng bào yêu nước, những nhà yêu nước mượn lời văn tế Âm hồn để lên án Pháp, kêu gọi đồng bào đoàn kết chống Pháp (3). Trong những ngày lễ tế đó, dưới gốc đa, bên hè chợ đâu đâu cũng nghe dân nghèo vừa lóc cóc gõ sanh vừa hô vè Thất thủ Kinh đô. Đồng bào nghe vè thương xót cho những người đã chết, trách móc các bậc vua quan hèn nhác đầu hàng giặc và căm giận bọn Pháp cướp nước đến trào nước mắt. Quan niệm ngày xưa trẻ con là “âm hồn sống”, nên cúng xong ông chủ lễ thường phân phát xôi oản, quà bánh cho các cháu. Anh em Khiêm, Cung nhà ở gần nên có mặt ở am Âm hồn sớm. Lúc đầu hai cậu bị xôi oản bánh trái nhiều màu đẹp mắt hấp dẫn. Sau đó hai cậu lại thích nghe hô vè Thất thủ Kinh đô. Sau này, nhân một hôm ông cả Khiêm lên thăm ông Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở đỉnh dốc Bến Ngự, nhân ngày tế 23 tháng 5, ông Cả nhớ lại một kỷ niệm thời thơ ấu của hai anh em Khiêm, Cung sống trong Thành Nội, ông kể lại bằng cái giọng oang oang trong ngôi nhà tranh chữ nhất của ông Phan. Bà Bùi Thị Nữ - người đàn bà trung thành được ông Huỳnh Thúc Kháng chọn làm người phục vụ nấu nướng và chèo đò cho ông Phan từ khi ông Phan mới về Huế cho đến lúc ông qua đời (1925-1940), chứng kiến chuyện ấy và thuật lại lời ông Cả rằng: - “Không phải đến tuổi trưởng thành ra ngoại quốc em tôi mới ái quốc - lời ông cả Khiêm Mà từ khi đầu còn để trái đào đi chơi nghe người ta hô câu vè: “Nay mà mắc phải lâm nguy, Sự tình nông nỗi cũng vì giặc Tây!” (4), về nhà nó thương nước, trằn trọc không ngủ được. Sáng dậy em bắt mẹ tôi kể chuyện giặc Tây dương và ngày Kinh thành thất thủ”. Mẹ tôi kể tiếng được tiếng mất, em ngồi lắng tai nghe, chau mày nghĩ ngợi”. * *. *. Trước khi thuật tiếp về thời thơ ấu của Bác sống trong Kinh thành, xin bạn đọc dừng lại một chút cùng tôi nhớ lại mấy dòng lịch sử có liên quan đến Huế trong những năm 1925,1926. Đó là thời gian ông Phan Bội Châu bị Pháp bắt về giam lỏng ở Huế. Và đó cũng là lúc ông Phan Châu Trinh được Pháp cho về Sài Gòn và mất ở đó. Cả hai ông Phan đã có mối liên hệ tình cảm với ông thân sinh của nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc. Trong những lúc nói chuyện với đồng chí, hai ông đều tỏ ra tin tưởng vào tương lai cứu nước cùa Nguyễn Ái Quốc (5). Nhưng hai ông, trong những chừng mực khác nhau, đều bóng gió trách “Nguyễn Ái Quốc quá cứng.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> rắn” quá nghiên theo phe tả” (6). Lời bóng gió đó đã đến tai ông cả Khiêm - anh ruột Nguyễn Ái Quốc - đang bị an trí ở làng Phù Lễ (huyện Quảng Điền). Ông Cả rất kính trọng hai ông Phan là những người yêu nước đứng vào hàng chú bác của mình, song ông cho nhận xét đó của hai ông là chưa hiểu hết Nguyễn Ái Quốc. Ông cả Khiêm tâm sự với những người gần gũi với mình ở Phù Lễ - như ông bà Nguyễn Hiệp (7), ông Ấm Hoàng (8), ông Nguyễn Ngọc Bang (9) rằng: - “Nói như thế là chưa hiểu con người Nguyễn Ái Quốc. Đất Nghệ An đã sản sinh ra cái tính cứng rắn, cái cương quyết có lúc đến quyết liệt của Nguyễn Ái Quốc chứ không phải Nguyễn Ái Quốc qua Pháp theo những người trong phe tả rồi mới như thế đâu!” Để chứng minh cho điều ông vừa nói, ông Cả kể lại mẫu chuyện nhỏ này: - “Sau khoa thi Hội năm Mậu tuất (1898) anh em tôi theo thầy tôi về làng Dương Nổ làm thục sư. Tính thấy tôi rất nghiêm, con cái đi chơi về tối thế nào ông cũng gọi lại quở rầy, có lần ông đánh đòn đến phỏng da. Một hôm hai anh em lên thăm mẹ đúng vào mùa nhãn chín. Thế là thăm mẹ xong, hai anh em lén ra đường Hộ Thành (10) hái trộm nhãn của nhà vua. Mãi vui cho đến lúc trống trên lầu Ngọ Môn điểm, súng Thần công trên Kỳ đài nổ báo hiệu giờ đóng cửa thành hai anh em mới vội vã trụt xuống chạy về. Khi hai anh em ra đến cửa Thượng Tứ, thì hỡi ôi, đôi cánh cửa gỗ lim chắc chắn như một bức thành đã khép chặt. Bốn người lính Tuần sát mặc áo xanh quấn xà-cạp đỏ giương khẩu súng dài đứng gác nghiêm trang như thử nhà vua hay Công sứ sắp đi qua đây. Không về Dương Nổ kịp tối hôm ấy sẽ bị cha tìm đánh đòn, hai anh em đến van nài xin ông cai tuần sát mở cửa cho về. Nhưng ông cai đáp với giọng dọa dẫm: - “Không được, chìa khoá đã nạp cho Đề đốc Hộ thành giữ rồi. Sáng mai trống đánh, súng nổ mới vào lấy ra mở cửa được. Bây giờ mà còn mở cửa Thành là trái lệnh vua ban!” Biết xin không được, Cung bèn nắm tay tôi - Cả Khiêm - kéo vào cái chòi gác bên cạnh nằm khoanh tay làm gối giả đò ngủ. Miệng Cung bảo với lính Tuần sát: - “Không cho anh em tôi về, mấy chú gác cho anh em tôi ngủ vậy!” Bọn lính tuần sát nghe rất ngang tai, nhưng họ không có lý gì để bắt bẻ hoặc đuổi anh em tôi ra khỏi chòi gác. Một lúc, họ cắt một người gác và mấy người kia vào chòi nằm bên cạnh anh em tôi ngủ. Tôi không ngủ được nhưng sợ vẫn nằm im. Cung giả đò ngủ say, mớ, duỗi chân, sãi tay đụng vào mấy người lính. Mấy người lính ngọ ngoẹ mãi không chớp mắt được. Cuối cùng họ sợ mất ngủ phải lén hé cửa cho hai anh em tôi ra về. Chạy qua khỏi cầu Thành Thái (tức cầu Trường Tiền) tôi hỏi Cung: - “Lúc đầu sao em không xin để họ hé cửa cho về mà phải đợi đến lúc ngủ làm cái trò mớ đó kia?” Cung vừa nhanh chân bước vừa giải thích: - “Họ đã nói mở cửa là trái lệnh vua ban rồi, mình có lạy họ cũng vô ích. Phải làm cho họ không mở cửa không xong, họ mới chịu mở thôi!” (11)..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Tôi (NĐX) rất thích mẩu chuyện trên. Mỗi lần đi nói chuyện về thời niên thiếu của Bác, dù thời gian ngắn bao nhiêu tôi cũng cố kể cho được. Nhiều nhà nghiên cứu góp cho tôi thêm những nhận định rằng: Tính tình con người cũng đóng một vai trò quan trọng trong bước đường tìm nhân sinh quan. Cái tính quyết liệt, cứng rắn, triệt để của Bác là một trong những yếu tố đã giúp Bác đón bắt được con đường cứu nước của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lúc Bác đọc được những tài liệu đầu tiên về chủ nghĩa khoa học này trên sách báo tiếng Pháp, không phải Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường chưa đọc được những thứ ấy! Sở dĩ những người trong “Nhóm Ngũ hổ” ở Pháp không bắt gặp được chủ nghĩa Mác-Lênin phải chăng một phần vì tính khí của các cụ?. (1) Sau lớn lên đổ đạt, có làm Kinh lịch tại Huế. Mất năm 1957 tại quê nhà Nghệ An. Chú thích của TQD. (2) Thuật theo Thanh Tịnh và Nguyễn Tài Tư (tức Thiếu Lăng Quân). (3) Cụ Phan Bội Châu cũng có làm một bài văn tế Âm hồn nhân ngày 35.5, qua bài văn tế cụ nung nấu tình cảm yêu nước cho đồng bào. Xem Tập san Văn Sử (ronéo), 7.1974, tr.78. (4) Trích trong bài vè Thất thủ Kinh đô. (5) Theo Lê Thanh Cảnh và bà Bùi Thị Nữ. (6) Theo Lê Thanh Cảnh và bà Bùi Thị Nữ. (7) Anh bà Nguyễn Thị Giáng (vợ ông cả Khiêm). (8) Bà con với vợ ông Cả, người đã được cụ Phan nhờ tìm vợ cho ông Cả. Ông Ấm là ông nhạc của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. (9) Con ông Nguyễn Hiệp, bạn nhỏ của ông Cả. (10) Đường Đinh Tiên Hoàng bên trong cửa Thượng Tứ ngày nay. (11) Ghi theo lời ông Nguyễn Ngọc Bang, làng Phù Lễ (xóm sau)..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Chương 4: Bên dòng Phổ Lợi trong xanh Thời niên thiếu tôi sống ở Đà Lạt. Vì hoàn cảnh gia đình, mãi đến năm 15 tuổi tôi mới cắp sách đi học. Vì thế tôi chỉ được học tư trong các lớp hè. Một trong những vị thục sư tôi nhớ nhất là ông Nguyễn Sĩ Duyến. Lúc ấy cha mẹ tôi không hy vọng gì ở tương lai học vấn của tôi. Ông Duyến bảo: - “Chưa được học nên nó dốt. Chớ thằng này là dân Huế hiếu học, cho nó đi học nó sẽ nên người cho mà xem!”. Bây giờ mỗi lần nhắc đến ông Duyến mẹ tôi cứ nói ông ấy nói tướng số giỏi. Phần tôi, tôi không nhớ chuyện ấy. Nhờ mấy lần học hè với ông mà tôi quen thân với hai người con ông: cô Nhàn và cậu Phồn. Một người lao động thất học mà được quen thân với con cái một ông giáo không phải là một chuyện thường. Cô Nhàn và cậu Phồn chơi với tôi vì thấy ông Duyến thương tôi và vì tôi là người đồng hương Huế. Năm 1956, tôi về Huế xin vào học trường Quốc Học. Không hiểu sao, hai bạn tôi cũng về quê hương. Nhàn và Phồn sống với ông nội là một cụ Nghè Khuyến ở làng Dương Nỗ. Chúng tôi tìm gặp nhau ở quê hương càng quý nhau hơn. Muốn về nhà bạn, tôi đi xe chợ Nọ. Xe về đậu trước một ngôi đình có những chiếc cột to. Thảo nào mà người ta nói: “Thình thình như cột đình Dương Nỗ”! Con đường đất đỏ trước mặt đình chạy xuôi chiều với dòng Phổ Lợi trong xanh, đưa tôi về nhà bạn. Theo lời bạn dặn: đến một cái ngỏ xóm yên ả tôi hỏi các em đang đánh bi phía trên cái bến nước gập ghềnh kê bằng mấy hòn đá màu đồng đen: - “Nhà ông Nghè đâu, các em? ” - “Eng vô ngỏ mươi bước, nhà ôông Nghè bên phải!” - Miệng bảo tôi, nhưng đôi mắt em thì không rời con đường hòn bi lăn. Qua giọng nói của em bé tôi đoán chừng em bé rất quen thân với nhà ông Nghè. Tôi đi vào ngõ một đoạn, nhìn theo hướng các em chỉ, bên trong cái hàng rào hóp mọc lẫn với chè Tàu hiện ra một ngôi nhà tranh một gian hai chái, tường phên tre trát đất. Ngay ở phía cửa hông kê một chiếc phản gỗ với nhiều lỗ hổng xơ xác vì mối ăn. Một ông già tóc bối trắng như miếng tàu, lưng còng ngồi trên phản tước lá thuốc xanh. Khuôn mặt ông nghiêm nghị sống mũi cao giống như ông Duyến, tôi đoán nhà bạn đây rồi! Vừa lúc ấy hai bạn Nhàn và Phồn vội vã chạy ra đón tôi rồi cầm tay tôi dắt vào đứng trước mặt ông già: - “Đây là anh Xuân học trò của ba và cũng là bạn của các cháu ở Đà Lạt đó ông!” Ông Nghè ngước mắt nhìn tôi: - “Ờ, cháu về thăm chơi đó hả? Nhà ông nghèo, cháu ngồi tạm đây!” - Ông Nghè vừa nói vừa giơ tay phủi bụi sàng sạt trên tấm phản gỗ..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Đó là lần đầu tiên tôi về Dương Nỗ. Sau đó cứ vài tuần tôi lại về thăm bạn một lần. Nhiều hôm ở lại, buổi tối cùng bạn ra ngồi chơi trên bến nước trước sân đình. Nhìn trăng nhả những ánh tơ vàng xuống mặt nước xanh trong, tôi đã ước mơ. “Nếu trời cho tôi biết viết văn, tôi sẽ viết một cuốn truyện nói lên nét đẹp của ngôi làng thân thương này”. Một hôm tôi lại về vào buổi xế trưa, đúng vào ngày làng tế. Đi qua đình, mùi nếp thơm và mùi thịt heo béo sực nức xông vào mũi tôi. Làng vừa tế và ăn uống xong, trong đình còn xủng xoảng tiếng chén dĩa chạm nhau. Tôi vào nhà thấy ông Nghè đang còn mặc áo dài đen ngồi trên bộ phản mối ăn, nét mặt buồn dười dượi. Nhàn và Phồn ngồi hai bên ông như đang an ủi ông một điều gì. Thấy tôi về chơi, hai bạn ngoái lại chào rồi lại tiếp tục câu chuyện với ông: - “Dù sao cái làng này cũng đã có một thời đem võng lọng đi đón ông kia mà! Bây giờ họ để ông ngồi với bọn lính tráng tệ thật! Thôi, ông đừng chấp trách chi cái bọn xu thời ấy!” Ông Nghè ngoái cánh tay xương xẩu ra sau đấm cái lưng còng thùi thụi: - “Mô, ông có chấp trách họ chi mô! Ông chỉ tiếc tại cái lưng còng này. Nếu cái lưng ông không còng thì ông đã theo chú Hai làm cách mạng rồi, và bây giờ làm gì còn cái cảnh xôi thịt ni nữa!” - “Nhưng bây giờ thì lưng ông đã còng rồi!” - “Nên ông thủ phận chớ có dám chi mô! Đêm đêm thức giấc ông chỉ mong sống đến cái ngày được gặp lại chú Hai một chút!” - “Thôi ông, lỡ người ta nghe được rầy rà lắm!” Nghe lóm câu chuyện tôi đoán mò “Chú Hai” nào đó là một người thân của ông Nghè đã đi làm Cách mạng. Điều đó nói trong cái thời “tận diệt Việt cộng nằm vùng này” quả là dễ sợ thật, nên tôi giả vờ không nghe và không hỏi lại bạn. Nhưng vì nó khó hiểu, bí mật nên nó có một sức hấp dẫn đọng mãi trong ký ức tôi. * *. *. Hơn hai mươi năm sau.. Năm 1976, có một buổi họp của cán bộ kỷ niệm lần thứ 86 ngày sinh của Bác có ông Võ N. kể mẩu chuyện sau đây: - “Vào khoảng năm 1964, 1965, đoàn cán bộ miền Nam chúng tôi được hân hạnh đến thăm Bác. Bác hỏi: - “Thế có chú nào quê ở Thừa Thiên-Huế không? “Trong đoàn chỉ có một mình tôi (tức Võ N.) là người Thừa Thiên-Huế nên tôi đáp: “Dạ thưa Bác, cháu là người Thừa Thiên, ạ!”. Bác ôn tồn hỏi: “Thế chú ở huyện nào?”. Tôi thưa: “Thưa Bác, cháu ở huyện Phú.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Vang ạ”. Bác cười, rồi đưa hai cánh tay làm thành một cái vòng cung trước mặt, nói giọng vui hẳn lên: - “Ở quê chú có cái đình Dương Nỗ cột to một người ôm không xuể vậy này!” Được Bác nhắc đến quê tôi (Võ N.) một cách cụ thể như thế làm cho tôi sung sướng đến nghẹn ngào. Tôi không thể ngờ được quê tôi có một thời Bác đã sống qua và còn ghi dấu trong tâm trí Bác sâu sắc đến thế. Cố gắng lắm tôi mới nói được: - “Dạ... thưa Bác, quê cháu có cái đình ấy đấy!” Vầng trán của Bác bỗng dưng nhíu lại, Bác đưa tay vuốt mấy sợi râu phơ phất trước cằm, Bác nói tiếp với giọng bùi ngùi xúc động: - “Ngày xưa ông cụ tôi có dạy học ở làng đó!” Thuật lại mẩu chuyện trên xong, đồng chí Võ N. nói thêm với chúng tôi: - “Sau đó vào Nam, công tác tại Phú Vang tôi để ý tìm cơ sở ở Dương Nỗ nhờ nghiên cứu đầy đủ hơn, nhưng chiến tranh ác liệt quá tôi không tìm được ai. Thời thơ ấu, Bác đã sống ở Tỉnh ta. Đây là một niềm tự hào của nhân dân ta. Bây giờ hoà bình rồi nhờ các đồng chí - nhất là các nhà nghiên cứu, các nhà văn phải xác minh một cách cụ thể di tích ở Dương Nỗ để viết, để tôn tạo phục vụ nhân dân và khách du lịch đến tham quan Tỉnh ta!”. Nghe kể lại mẩu chuyện trên, những kỷ niệm về làng Dương Nỗ xa xôi trong tôi bỗng sống dậy. Tôi dự đoán, một người như ông Nghè-ông nội của hai bạn Nhàn và Phồn thời thơ ấu của tôi, có lẽ biết được thời cụ Sắc đến Dương Nỗ dạy học. Tôi đạp xe trở về làng Dương Nỗ với một sự náo nức trong lòng. Tôi lại đi trên con đường ven sông đến cái ngõ xóm năm xưa. Một cảm giác buồn buồn vương vấn tâm hồn tôi. Ngôi nhà cũ vẫn còn nguyên vẹn, bốn bề cửa đóng im ắng như một ngôi chùa hoang. Phía tay mặt xây thêm một cái nhà bếp, vách bằng bờlô. Tôi bước dẫm lên cái sân phủ đầy rêu xanh với một nỗi bâng khuâng khó tả. Tôi gõ cửa mãi mới thấy một người phụ nữ cao dong dõng, vẻ mặt khinh khỉnh, ngoe nguẩy như một người mắc bệnh thần kinh. Nỗi buồn đọng lại nặng trĩu trong tôi. Người phụ nữ ấy là cô Nguyễn Thị Khôi, lưng còng, con gái út của ông Nghè. Để tự giới thiệu mình: tôi trình bày lai lịch quen thân với gia đình cô. Rất may, nghe tôi kể xong cô đổi thái độ và xem tôi như con cháu đi xa mới về. Cô mời tôi lên nhà, mở các cửa, một mùi ẩm mốc xông lên, gây cho tôi một nỗi nhớ nhung da diết. Ngồi trên bộ phản gỗ mối mọt ăn thủng nhiều chỗ, tôi hỏi chuyện gia đình bạn tôi. Cô Khôi đáp với nỗi xót xa: - “Ba tôi mất năm 1965, chị em thằng Phồn dắt nhau lên Đà Lạt sống với anh Duyến, giao cái nhà thờ ni lại cho tui!” - “Thầy Duyến độ này làm ăn ra sao, cô?” - “Anh nớ khi mô cũng rứa - Cô Khôi đáp - Hết đi phát cái rẫy ni đến đi phở (vỡ) cái vườn tê, trồng tỉa vắt đất mà sống. Nghe nói sau ngày Giải phóng anh về Di Linh làm rẫy. Anh biểu tui nhờ làng giữ giùm cái nhà ni mà lên làm ăn với ảnh. Nhưng khổ một nỗi xa cái nhà thờ ni đi mô tui cũng không yên!” - “Còn chị em Nhàn ra sao, cô?”.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - “Nhàn lấy chồng làm vườn. Còn Phồn thì bị Thiệu bắt đi lính, hắn phải tự bắn gảy đi một cái chân mới được ở nhà. Chừ hắn làm thợ sơn ở Đà Lạt”. ... Đáng lý tôi còn hỏi nhiều chuyện có liên quan đến gia đình của bạn tôi nữa, nhưng cái mục đích tôi về làng Dương Nỗ lần này cứ hiện ra trong tâm trí tôi, tôi không thể nén nó lại được. Tôi hỏi cô Khôi: - “Ngày xưa Bác Hồ ở làng Dương Nỗ ta đây, không rõ lúc sinh thời có lần nào ông nói chuyện đó với cô không?” Cô Khôi nhìn tôi với cặp mắt long lanh. Khuôn mặt cô tươi hẳn lên. Tay cô chỉ cái bát hương thứ hai đặt trên bàn thờ giữa nhà, bảo tôi: - “Có chớ. Lúc nhỏ ba tôi kèm cho Bác Hồ học. Cả ông cả Khơm cũng ở đây. Lúc hay tin ông Cả mất, ba tôi thiết bát nhang thờ ông Cả đó!” Lời cô Khôi nói như những hạt vàng rơi trước mắt tôi. Tôi mừng quá. Tôi cố nén niềm vui nhưng nó cứ muốn bừng ra trong lòng. Tôi hỏi tiếp: - “Ông có nói chuyện Bác Hồ ở đây không, cô?” - “Ba tui nói nhiều lắm, nhưng anh Duyến với thằng Phồn nhớ, chừ tui hay quên lắm!” Tôi cố nài nỉ hỏi: - “Cô không còn nhớ chi nữa hết à?” - “Tui chỉ nhớ ba tui dặn, nếu không làm chi tốt để vừa lòng chú Hai thì cũng cố tay làm hàm nhai chớ đừng tham gia làm tay sai cho giặc. Anh em con cháu bầy tui thực hiện cho được lời dặn ấy đã khó quá chừng!” Tôi náo nức muốn gặp thầy Duyến. Ước chi có cánh, tôi sẽ bay lên gặp thầy Duyến ngay. Vì không có cánh nên tôi cố “đào” thêm trong trí nhớ của cô Khôi. - “Cô cố gắng còn nhớ thêm được gì nữa không?” - “Vì tui nhỏ không được gặp chú Hai nên rất khó nhớ. Tui chỉ nhớ nhiều về cô Thanh và ông cả Khơm thôi!” - “Nhớ sao, cô?” - “Cô Thanh xem gia đình tôi như gia đình cô. Ông Cả cũng rứa. Họ xem ba tui như anh em ruột. Vì rứa đi mô xa Huế khi về họ cũng đều ghé về thăm ba tui. Cô Thanh con gái mà giỏi chữ Nho lắm. Ông Cả thích uống rượu, nhắm với một trái ớt hoặc một miếng khế thôi. Ông cũng rất thích ăn thịt chó!” - “Cô Thanh, ông Cả và ông ở nhà gặp nhau nói chuyện có nhắc đến Bác Hồ không?”.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> - “Có chớ! Ba tui hay nói với Cô và ông Cả, ba tôi ao ước sống cho đến ngày được gặp lại chú Hai-nhưng không ngờ ba tui lại mất sớm”. Cô Khôi nói và rưng rưng nước mắt. “Chú Hai” - cái tên giản dị và thân tình làm sao! Phải mất hai mươi mấy năm sau tôi mới hiểu được “Chú Hai” trong gia đình của thầy Duyến tôi là ai! * *. *. Năm đó tôi xin nghỉ phép lên Đà Lạt thăm mẹ tôi để tôi có thể gặp lại người thầy học cũ! May mắn làm sao! Ngay hôm tôi đến thăm, vợ chồng thầy Duyến cũng vừa ở Di Linh (thôn Lệ Ninh, xã Ninh Giang) mới lên Đà Lạt. Ngôi nhà gác của Phồn nham nhở sơn dầu đứng chênh vênh bên đường Nguyễn Văn Trỗi. Hơn hai mươi năm mới có dịp gặp lại tôi, thấy thầy Duyến già đi nhiều, đầu tóc bạc trắng, gương mặt khô gầy vì sương nắng làm rẫy. Chỉ còn đôi mắt và nụ cười đôn hậu vẫn tươi vui như xưa. Sau khi thăm hỏi, tôi bắt đầu câu chuyện: - “Thưa thầy, hôm nay đất nước hoà bình, thống nhất rồi con mới có dịp xin hỏi thầy và bạn Phồn về câu chuyện “Ông Hai”. - “Ông Hai nào?” - Thầy Duyến vừa rót nước mời tôi vừa hỏi tôi với giọng rất thờ ơ. - “Ông Hai mà lúc sinh thời ông ngoài nhà hay nhắc đến một cách trìu mến ấy!”-Tôi nói thêm. Thấy Duyến trở nên nghiêm nghị, nói tiếp với giọng miễn cưỡng: - “Thôi chuyện cũ rồi, bây giờ lo làm ăn xây dựng đất nước, hỏi chuyện đó làm chi nữa, anh!” - “Viết chuyện ông Hai là một trong những việc góp phần xây dựng đất nước trong khả năng của con, thưa thầy!” Tôi nói với giọng van lơn mong được thông cảm. Thầy Duyến nhìn thẳng vào mắt tôi: - “Sao anh không viết Bác Hồ thời Người đã trưởng thành làm lãnh tụ Cách mạng mà lại viết cái thời Nguời còn thơ ấu ấy cho khó!” - “Vì khó nên con mới lao vào viết!” - “Nhưng mà anh bắt tôi kể lại chuyện cũ làm gì? Không khéo người ta lại bảo: “Thấy sang bắt quàng làm họ” cũng nên?” - “Thầy đâu có “bắt quàng”. Con từ Huế băng đồng chỉ sá lên đây yêu cầu thầy cho biết một sự thật lịch sử kia mà!” Thầy Duyến ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo tôi:.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> - “Anh đã tha thiết muốn biết như vậy, tôi cũng không từ chối được. Anh còn ở đây thăm bà mẹ đã chớ?” - “Bao giờ con chưa được nghe thầy kể chuyện ấy thì con chưa rời Đà Lạt được!” - “Vậy anh hãy thong thả mấy hôm nữa để cho cha con tôi bàn lại với nhau một chút. Chuyện cũ thầy tôi kể nhiều nhưng rải rác từng mảnh một, thầy tôi lại mất lâu rồi! Tôi sợ kể có điều gì bất đáng chúng tôi có tội với người đã mất!” ... Thầy Duyến dè dặt, thận trọng làm cho niềm hy vọng của tôi tăng lên. Tư cách của anh em thầy Duyến nếu chưa giống được với những người thân trong gia đình Bác thì nó cũng có một cái gì đó bắt người ta phải nghĩ đến ảnh hưởng của cụ Sắc và hai người con cụ đã để lại trong gia đình họ Nguyễn Sĩ ở Dương Nỗ hơn ba phần tư thế kỷ nay. * *. *. Lời thầy Duyến (trích trong sổ tay). “Ba tôi không bao giờ có ý định kể chuyện Chú Hai với chúng tôi. Ông chỉ nhắc đến Chú Hai mỗi lần ông muốn nhắc nhở hoặc dạy dỗ cho con cháu một điều gì. Tôi cố gắng xếp lại để kể với anh cho có thứ lớp dễ nhớ, có điều chi chưa ổn, chưa chính xác lắm anh về Dương Nỗ hỏi thêm anh Xước và anh Tích - hai người anh con ông bác của tôi. Như anh biết, tôi lên Đà Lạt làm ăn từ những năm trước Cách mệnh tháng Tám 1945. Bảy tám năm sau tôi mới cò dịp về thăm quê, thấy trên bàn thờ có sự thay đổi tôi hỏi ba tôi: - “Ai mới mất mà thiết thêm bát nhang rứa, thầy?” Ba tôi đáp giọng ngậm ngùi: - “Nghe nói chú cả Khơm mất ngoài quê rồi. Chú chẳng còn con cháu để lo hương khói, giữ lòng thủy chung với chú, thầy rước hương hồn chú về sống với ông bà mình đó!” Tôi (Nguyễn Sĩ Duyến) rất xúc động ngối xuống bên cạnh ba tôi; nghe ba tôi kể về mối liên hệ giữa chú Cả và gia đình tôi. - “Chú Cả và chú Hai quê ờ Nam Đàn-Nghệ An. Ông thân sinh học rất giỏi, người khảng khái, nhưng trải qua hai khoa Ất mùi (1895) và Mậu tuất (1898) trời chưa cho đỗ. Làng mình có ông Nguyễn Viết Chuyên làm việc tại bộ Hình biết tiếng cụ mới về cậy làng lên Kinh vời ông về dạy cho con em trong làng. Lúc mới về, ông Khoá Kiện mời thầy ở lại trong nhà để dạy cho con trai ông (là bộ Hường sau này). Ông mình gửi bác Mại, bác Kính và thầy sang học. Hai chú cả Khơm và chú Hai theo cha về làng mình, đầu còn để tóc trái đào, bốn mùa phong phanh một cặp áo quạ màu nâu. Ở trong nhà, Khóa Kiện ỷ thế mình có của mướn thầy về dạy nên đôi lúc vô lễ với thầy. Thầy rất giận và thường phê phán thái độ của Khoá Kiện rất nghiêm. Thấy thế hai bác và thầy về kể chuyện lại với ông. Ông trách Khoá Kiện có ăn học mà thiếu lễ nghĩa. Để có thể giữ được chân thầy, ông mời thầy và hai chú về nhà mình ở. Ông.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> dành ngôi nhà này cho thầy và hai chú. Nhà này nguyên của bà Diêu vợ cố Nguyễn Phước Đạo làm thị lang bộ Công. Bà cố là vợ thứ mà lại không có con trai nên cố giao cho con rể là ông Độ ở để sau này ông mình phụng thờ bà cố. Lúc thầy Sắc và hai chú về ở, nhà có ba gian hai chái. Mãi đến năm Thìn (1904) bão thổi sập nhà, thầy dựng lại chỉ còn một gian hai chái. Khi các con ra đời nhà đã được sửa lại hàng mươi năm rồi. Ông rất trọng thầy, không những ông giao nhà cho thầy ở, lo cho thầy và hai chú ăn uống đầy đủ mà ông còn cử một bà o lo giặt giũ săn sóc cho gia đình thầy nữa. Từ ngày về nhà mình, thầy và hai chú rất thoải mái. Học trò trong làng mình và các làng chung quanh cơm đùm gạo bới đến xin thầy học rất đông. Học trò của thầy lúc đó có hai loại: Loại chuẩn bị đi thi Hương như các bác Lệ, bác Kính, bác Mại, bác Kiến (con ông Nguyễn Viết Chuyên), Phong, Đoàn, Đại, Xứng, Nguyễn Thế Toản...Loại thứ hai đã giỏi chữ nhưng chưa thi cử gì hoặc mới học vỡ lòng như thầy, Đoàn Văn Huyến, Nguyễn Hoàn và hai chú Cả, chú Hai... Tình cảm họ hàng nhà mình với thầy và hai chú khởi thuỷ từ đó.” Một lần khác, nhân lúc anh em tôi (Nguyễn Sĩ Duyến) cải nhau vì câu chữ: “Phú quý sinh lễ nghĩa” thầy tôi gọi lại bảo rằng: - “Phú quý mới có lễ nghĩa, thì cái lễ nghĩa ấy tầm thường lắm. Dân ta nói: “Miếng khi đói bằng đọi khi no”. Ngày xưa thầy của thầy và hai chú rất nghèo nhưng không thiếu lễ nghĩa, không thiếu tình thương đối với người nghèo. Bây giờ mình nghèo nhưng còn tìm được miếng ăn, ngày xưa thầy và chú Cả, chú Hai, nghèo như thế nào các con có biết không? Lúc thầy đem hai chú về Dương Nỗ làm thục sư, hiền thê của thầy vẫn sống trong Thành nội bằng nghề dệt vải. Có người đem con tới học thấy hai chú Cả, chú Hai bên cạnh thầy họ mới hỏi: - “Bẩm thầy, vì sao hai cậu không ở với mẹ tại Thành Nội mà lại theo thầy về đây?” Thầy cười. Bàn tay xương xẩu của thầy vỗ vỗ hai cái đầu để tóc trái đào của hai chú: - “Thằng này là Khơm, thằng này là Côông. Khơm Côông là Khôông cơm. Vì thế tôi phải dắt hai cháu về đây để nhờ thiên hạ nuôi!” Đó là một sự thật vừa châm biếm, khôi hài mà cũng vừa xót xa chua chát. Thế mà thầy và hai chú lúc nào cũng vui, cũng sống lễ nghĩa, trọn đạo làm người.” Năm ấy Nhàn và Phồn học thi Tú tài, trong lúc vui Phồn hỏi thầy tôi: - “Lãnh đạo Cách mạng, ông Phan Bội Châu đã từng đỗ đầu Cử nhân ở Nghệ, ông Phan Châu Trinh đỗ Phó bảng, ông Huỳnh Thúc Kháng đỗ Tiến sĩ, chỉ có ông Hai là không có bằng chi cả. Tại sao rứa, ông?” - “Ông Hai rất thông minh. Nếu ông chịu gò mình ngồi ở nhà ôm cột nhà tụng thuộc lòng các bộ Kinh, Truyện, sử ta, sử Tàu thì ông Hai có thể đỗ Hoàng giáp. Và nếu ông Hai đỗ Hoàng giáp thì chưa chắc ông đã có thể trở thành Hồ Chí Minh. Thiên cổ nhứt nhơn, nhứt nhơn thiên cổ đó cháu nợ! Xưa nay Việt Nam có biết bao Tiến sĩ, Hoàng giáp mà trước sau chỉ có một Hồ Chí Minh mà thôi!” Để cho Phồn tin lời ông nói đúng, thầy tôi-Lời thầy Duyến-kể thêm vài kỷ niệm xưa:.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> - “Ông Hai thông minh một cách kỳ lạ. Lúc đó thầy lo dạy cho lớp học trò sắp đi thi Hương khoa Canh tý (1900), đối với lớp mới học thì thầy chỉ bài trong sách rồi những người đã giỏi chữ phải kèm cho những người mới học. Thầy giao cho thầy kèm chú Hai.Thầy bảo: “Hắn không thuộc bài thì trò phải ăn đòn thay.” Vì thế thầy sợ lắm. Chú Hai hiếu động, thích đi chơi đây đó chớ ít khi chịu ngồi yên mà học (1). Mỗi lần chú bỏ lớp thì quả nhiên thầy bị thầy học quở trách nặng lắm. Một hôm thầy chỉ cho chú một bài trong Luận Ngữ, chú lẩm nhẩm qua một chút rồi xếp sách rục rịch bỏ đi. Thấy thế thầy nắm áo kéo lại: - “Chú Hai, chú định đi mô đó?’ - “Thưa, đi chơi!” - “Bài thầy ra chú thục chưa mà đi chơi?” - “Thục hét rồi!” Tuổi nhỏ nhưng chú Hai rất tự trọng, nói điều chi thì đứng đắn như đinh đóng cột điều đó. Do đấy mà khi nghe chú nói thục bài rồi thầy rầt ngạc nhiên. Thầy tự hỏi: “Rứa thì chú học khi mô?” Có lẽ chú đoán được sự ngạc nhiên của thầy, chú đưa sách cho thầy dò. Chú đọc chậm rãi từ đầu đến cuối bài. Sách Luận Ngữ một tập tám tờ, một tờ mười sáu hàng đọc qua năm bảy dạo chú thục hết. Thầy còn nghe chú Cả nói, lúc chưa thuộc hết mặt chữ mà khi nghe thầy ngâm Đường thi chú Hai đọc theo và thục rất nhiều. Một người sáng dạ như vậy học chi mà không thục, bằng chi mà không đậu được. Chú Hai học để làm người chứ không phải học để lấy cho được mảnh bằng này nọ để làm quan cháu ạ!” - Thầy Duyến kể tiếp - “Quan niệm học để làm người chớ không phải học để làm quan của chú Hai đã có một ảnh hưởng lớn đối với gia đình tôi. Mỗi lần muốn nhắc con cháu phải nhớ thực hiện quan niệm ấy thầy tôi lại kể chuyện chú Hai. - “Thiên tư của chú Hai phát triển rất sớm-Lời ông Nghè Khuyến do ông Duyến kể lại - Điều chú muốn biết rất xa lạ đối với sách vở của Thánh hiền. Từ ngày mới về Dương Nỗ đến lúc chú từ giả ra đi (gần hai năm trời), không ngày nào chú không học cuộc sống ở đây. Đi chơi chú hay hỏi: “Sông Phổ Lợi từ đâu chảy đến và sông chảy về đâu nữa?”, “Đình làng Dương làm từ năm nào?”, “Bà là ai? Bà có công gì mà mình lập bàn thờ Bà?” ”Dân Dương Nỗ xưa kia từ đâu đến?”. Những gì chú hỏi, có điều dân làng trả lời được, nhưng cũng có nhiều điều ông thủ chỉ trong làng cũng chịu. Lúc đó thầy chưa hiểu được và cũng chưa thấy được ích lợi của việc học cuộc sống của chú Hai. Nên mỗi khi thấy chú Hai đi chơi là thầy chạy theo năn nỉ chú về học. Mỗi lần thầy gọi về thì chú đáp: - “Mấy anh về lo học để sau này thi đỗ ra làm quan. Còn tôi về học để rồi làm ông Khổng tử tôi cũng không học. Cái gì thích thì tôi tìm học thôi!”. May mà chú Hai học mà không chịu theo Thánh hiền, không chịu ghép mình vào cái học từ chương hủ lậu để đất nước có một vị cứu tinh dân tộc là cụ Hồ Chí Minh!” “Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ lâm thời ra đời. Người đứng đầu Nhà nước là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người mình lúc ấy vẫn còn mang nặng cái quan niệm cho rằng người đứng đầu Nhà nước là Thiên tử, tức là vua. Vì thế khi biết ông Hồ Chí Minh chính là người học trò làng Dương với cái tên là Cung con ông Phó bảng Sắc, họ bèn kêu lên rằng: “Dân Dương Nỗ giỏi quá. Bà con nói cậu bé Nguyễn Sinh Cung ở nhà ông Nghè năm xưa có cái mạng to hơn cả Thánh thần thế nào cũng làm vua. Nay chuyện ấy đã trở thành sự thực. Bây giờ ông Hồ làm Chủ tịch Nước từ Nam chí Bắc còn có quyền hành to hơn vua nữa!” O Chân em gái tôi (Nguyễn Sĩ Duyến) vào đoàn thể Phụ nữ Cứu quốc nghe vậy bèn về nhà hỏi thầy tôi:.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> - “Bác Hồ mạng to lắm phải không thầy?” Thầy tôi cười, người vui vẻ nói với em gái tôi: - “Dân mình còn nặng đầu óc mê tín họ bày vẽ ra nói rứa thôi. Nguyên do là như ri: “Lúc đó người ta tin buổi trưa đứng bóng là lúc ma quỷ thánh thần đi tắm rửa, người mà đi tắm lúc đó là xuông phải ma đau chết thôi! Thế mà trưa nào chú Hai cũng nhảy ùm xuống sông Phổ Lợi tắm cả. Tắm xong chú còn vô đình nằm hoặc xuống cái Am Bà làng Phò Nam ngủ trưa cho mát. Am Bà là nơi linh thiêng hạng nhất, ban ngày mỗi lần đi qua người ta còn phải cúi đầu đi thật nhanh huống chi vào trong nớ ngủ. Vì rứa dân làng lo sợ: “Cậu bé Cung nếu không bị Hà bá nhận nước thì cũng bị Bà vật chết”. Nhưng lạ thay, chú Hai không những không bị Hà bá nhận nước, không bị Bà vật mà cứ vẫn lớn cao khoẻ mạnh như thường. Điều đó làm cho bà con ngạc nhiên. Rồi cũng chính những người hay lo sợ mới loan truyền với nhau rằng: “Cậu bé Cung mạng to hơn cả Thánh thần. Sau này thế nào cậu cũng làm vua!” Bây giờ Chú Hai làm chủ tịch nước, đồng bào mình vui, những người thích nói tướng “Chú Hai làm vua”. Người ta không hiểu thời đại bây giờ chuyện vua quan đã mãn rồi! Nhưng cũng có thể nói cụ Hồ mạng rất to. Nếu không to làm sao cậu bé Cung có thể vượt qua được bao nhiêu đại dương, bao nhiêu nhà tù, bao nhiêu cạm bẫy của cuộc sống để trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh linh hồn của chế độ Dân chủ Cộng hoà được!”. (1) Điều này phù hợp với lời Bác kể với một nhà báo năm 1946: “Hồi tám tuổi đi học tôi cũng không chăm lắm, thỉnh thoảng bỏ học đi bắt tổ chim, đôi khi còn đánh nhau nữa” Báo Nhân Dân, số ngày 25.6.1983, tr.3..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Chương 5: Tiếng khóc giữa Kinh thành Những năm tháng Nguyễn Sinh Cung sống và học chữ Hán với ông thân sinh tại làng Dương Nỗ đã được Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Bình Trị Thiên (cũ) và Khoa sử trường Đại học Tổng Hợp Huế phối hợp nghiên cứu và trình bày trong một Hội thảo Khoa học tổ chức tại trụ sở xã Phú Dương ngày 16.5.1978. Ngành bảo tồn bảo tàng BTT dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy đã căn cứ trên kết quả của Hội nghị Khoa học nêu trên phục chế lại ngôi nhà tranh ba gian hai chái nơi ông Nguyễn Sinh Sắc cùng hai người con trai nương náu trong thời gian hai năm (1898-1900). Ngôi nhà này cùng với những nơi có liên quan đến cậu bé Cung được tổ chức thành Khu di tích Dương Nỗ và nhân dân đã được đến tham quan từ ngày 2.9.1978. Hội thảo Khoa học về Dương Nỗ ngày 16.5.1978 đã xử dụng tái liệu của hai ông Hoài Thanh và Thanh Tịnh trước đây cho rằng (1): Năm 1900, triều đình Huế điều ông Nguyễn Sinh Sắc đi Thanh Hóa chấm thi Hương, ông Sắc và hai người con trai phải rời làng Dương từ đó. Đi Thanh Hóa, ông đem theo người con trai lớn để giúp cụ dọc đường, còn người con thứ trở lại Thành Nội sống với mẹ cùng người em út mới sinh tên là Nguyễn Sinh Xin. Sự kiện này cũng được bác Tôn Quang Duyệt (2) và ông Chu Trọng Huyến khẳng định một lần nữa (3). Bởi vì thế: “Ông Sắc phải ở lại ngoài Thanh Hóa lâu vì công việc của kỳ thi cứ kéo dài” (4). Nên chi khi bà Loan mất ở nhà chỉ có một mình cậu Cung và người em nhỏ mới sinh. Bà con dân phố thương tình lo liệu mọi việc để chôn cất bà Loan. Nhưng gần đây, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghệ Tĩnh cho biết ông Sắc và hai người con trai rời làng Dương Nỗ vì một lý do khác: “Theo học với cha ở làng Dương Nỗ chưa đầy hai năm thì mẹ lâm bệnh, cậu Thành tức cậu Cung phải nghỉ học cùng cha trở về Huế chăm sóc mẹ” (5). “Đến khi bà Loan mất anh em cậu Thành (tức Cung) cùng cha và bà con dân phố đưa mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng” (6). Hai sự kiện trên trái ngược nhau. Các tác giả (cá nhân và tập thể) không trưng dẫn xuất xứ tài liệu nên người đọc khó lòng kiểm chứng, sự tin cậy bị hạn chế rất nhiều. Ở đây tôi không có ý tranh luận việc năm 1900 ông Sắc có đi Thanh Hóa không (?) vì nếu có thì ông đi chấm thi hay làm việc gì khác trong kỳ thi ấy (7). Thi Hương thường được tổ chức vào mùa Xuân, trễ lắm là đầu thu (thu vi), tôi không rõ vì sao khoa thi Hương năm 1900 lại tổ chức vào cuối năm (cuối năm ở nước ta thường mưa lụt, lạnh lẽo sĩ tử khó đi lại) và lại “cứ kéo dài” vì lý do gì? Tôi cũng không rõ Ban Sử Đảng Nghệ Tĩnh đã căn cứ vào tài liệu nào mà khẳng định việc ông Sắc rời làng Dương vì lý do vợ ốm và lúc bà Loan lâm chung ông Sắc đã tiễn vợ đến nơi an nghỉ cuối cùng hay không (?). Ngoài Ban Nghiên cứu Lịch Sử Đảng Nghệ Tĩnh, còn tất cả các tác giả (8) khác viết về thời gian bà Loan mất tại Huế đều vắng bóng ông Sắc. Ông Sắc đi Thanh Hóa hay đi đâu? Tôi trở lại Thành Nội hỏi ông Lê Xuyến (cháu đích tôn của thượng thư bộ Lễ Lê Trinh). - “... Có lần nào bác nghe người xưa kể lại tâm trạng của ông Sắc lúc bà Loan mất không?” Ông Xuyến nhìn tôi ngờ vực như thử tôi đã hỏi nhầm: - “Của ông Sắc hay của cậu bé Cung?” - “Của ông Sắc!” - Tôi khẳng định..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> - “Rứa thì không. Qua bao lần kể chuyện, ông nội tôi cũng như bà ngoại tôi không hề nhắc đến sự có mặt của ông Sắc trong đám tang bà Loan. Hình như lúc ấy ông đi vắng nên người ta mới cảm kích trước hoàn cảnh cậu bé Cung chưa đầy mười tuổi đầu mà phải đứng ra nhờ xóm giềng chôn cất mẹ!” - “Thưa bác có sự kiện gì để có thể chứng minh được điều đó?” - “Có chứ! Sau khi mẹ mất gia đình không còn ai, cậu Cung phải bồng em sang nhà Viên Diểu làm thợ thêu. Anh giở lại cái sơ đồ tôi vẽ trong sổ tay của anh, anh sẽ nhớ ra ngay. Nếu có ông thân sinh ở nhà thì anh em cậu Cung không phải đi ở nhờ như thế?” Tôi giở sổ tay tìm xem lại cái sơ đồ ông Xuyến vẽ lần trước và đúng như lời ông nói. Căn phố cũ đã sửa chữa lại nhiều lần và trao tay qua ba bốn chủ. Vị trí nhà ông thợ thêu đáng nhớ ấy nằm vào vị trí nhà 104 Mai Thúc Loan ngày nay. Ông Viên Diểu còn để lại một người con gái, tuổi ngoài tám mươi. Bà con gái ông Viên Diểu không biết chuyện ngày xưa Bác Hồ đã từng ở đậu trong nhà cha mẹ bà. Sau khi gặp ông Xuyến tôi tìm gặp bà con gái của cụ Viên Diểu đang bán giải khát trong cái quán dựng tạm trước trường cấp 3 Nguyễn Huệ (vị trí đồn Hộ Thành cũ) và tôi được nghe bà kể: - “Mấy lúc bác Cả ở Phù Lễ lên Huế chơi, khi mô đi ngang qua nhà mẹ tôi bác cũng ghé vào uống vài cốc rượu rồi hỏi: “Rứa chớ người con gái đẻ một lần với em tôi bây giờ lớn chừng mô rồi?” - Mẹ tôi chỉ tôi và nói: “Hắn đó. Có chồng có con rồi đó?” Lúc bác Cả đi rồi tôi hỏi mẹ tôi: “Ông Cả quen với nhà mình khi mô, mẹ?”. Mẹ tôi nói khẽ: “Lúc mẹ mới sinh con, bà Cử mẹ ông Cả sinh thêm một ngưòi con trai rất xinh. Chẳng may sau đó bà mất, cậu bé cứ sang nhà mình bú nhờ. Chỉ có rứa thôi mà ông Cả cứ nhớ mãi.” (Theo dõi đến đây, có lẽ có bạn đọc trách thầm tôi đang nói chuyện người nọ lại xọ qua hỏi chuyện người kia. Đó là cái bịnh tản mạn của tôi. Tôi xin trở lại buổi hầu chuyện với ông Xuyến vừa bị bỏ dở). Tôi hỏi: - “Xin bác kể lại cho lớp hậu sinh chúng tôi về lời người xưa đã kể về tâm trạng của cậu bé Cung lúc mẹ mất như thế nào?” Ông Xuyến gật đầu, uống một ngụm nước trà đậm cho thấm giọng rồi nói: - “Lúc cô Thanh bị Chánh mật thám Sogny đưa về giam lỏng tại số nhà 16B đường Hộ Thành (bây giờ là số 37 Đinh Tiên Hoàng) ở ngay phía sau nhà tôi, cô hay vào đây chơi nói chuyện với bà ngoại tôi. Bà ngoại tôi không những có họ hàng với bà Ba (người đã cho ông Sắc thuê nhà) mà bà còn là chị em chú bác với ông Hồ Đắc Quỳnh - người đã dạy cho Nguyễn Ái Quốc hồi niên thiếu tại trường Pháp Việt Đông Ba, vì thế mà bà ngoại tôi biết nhiều chuyện có liên quan đến gia đình ông Sắc ở Huế. Tôi là cháu đích tôn, ba tôi là ông cử Cảnh mất sớm nên khi nào người lớn tiếp khách tôi cũng được ở bên cạnh. Lúc mẹ mất cô Thanh ở ngoài quê, nên chi sau đó cô hay măn mo hỏi chuyện ấy. Bà ngoại tôi kể rằng: “Ông Sắc không mấy khi ở nhà. Bà Loan một mình tảo tần nuôi con dại. Người ta kể bà mất vì đau mấy cái nhọt ở cổ. Người khác lại bảo bà sinh trong lúc khó khăn nên bị sản hậu, cũng có người cho rằng bà Loan mất vì thiếu thốn quá. Theo bà ngoại tôi kể thì bà Loan mất vì cả ba nguyên nhân ấy. Bà.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Loan từ trần không để lại cho con một bát gạo, một đồng tiền nào! Xóm giềng đang chuẩn bị cúng đưa ông Táo (9), gặp vận bỉ của gia đình cậu Cung, họ cúng ít lại, để dành một phần quà bánh, thức ăn chuyển qua giúp cậu Cung cúng lễ mẹ. Lúc ấy luật lệ của triều đình còn nghiêm lắm. Đất trong Thành cấm người Minh Hương ở, cấm làm nhà có lầu gác cao hơn các cung điện lầu các của vua, cấm khóc than khi gặp chuyện buồn, cấm đưa người chết ra các cửa thành (mà phải đưa thi hài người chết xuống thuyền chuyển ra ngoài bằng cống Thanh Long). Những ai làm sai sẽ bị tội đồ (tù), nếu cố tình làm sai sẽ bị tội trảm (tử hình). Cậu bé Cung dù chưa đến tuổi lên mười - cái tuổi ăn chơi và học hành, cậu chưa thể hiểu được các luật lệ khắc khe đó, nhưng cậu cũng phải ráng hiểu và chấp hành cho đúng. Bị bó chặt trong một sự đau đớn như thế, tâm trạng ai không thống thiết.” Tôi (NĐX) sực nhớ trong cặp da có cuốn Nhớ Nguồn của Sơn Tùng, tôi giở sách đọc truyện ký Dưới Bóng Hoa Bằng Lăng (10) đoạn nói về tình cảm của cậu bé Cung khi mẹ chết cho ông Xuyến nghe. Nghe xong, ông nói: - “Ông Sơn Tùng là một nhà văn của Cách mạng tôi không dám có ý kiến. Vì anh yêu cầu nên tôi xin nói một ý riêng: Nghe đoạn văn này tôi rất cảm động, nhưng cảm động vì câu chuyện chứ không thể tin là hoàn cảnh thật của Bác Hồ thời niên thiếu. Anh là người Huế, nếu đã có tấm lòng với cụ Hồ thì anh không nên thêm thắt làm gì, không nên viết cái gì mà thiếu căn cứ. Làm như thế sẽ phụ lòng tin của người đọc”. - “Tôi xin cám ơn bác!” * *. *. Sự kiện bà Loan mất ở Huế là một biến cố lớn đã diễn ra trong đời Bác. Vì sự nghiệp Cách mạng, chắc Bác đã cố giấu tận dưới đáy trái tim, Bác ít khi kể lại chuyện đó với ai. Song vì nó lớn quá, nó đã để lại trong lòng Bác một ấn tượng sâu quá nên dù Người có cố tình giấu kín đến như thế nào rồi có lúc chúng ta cũng thoáng nghe được. Trong những năm nghiên cứu và viết về Thời niên thiếu của Bác Hồ, tôi đã tìm đọc nhiều tác phẩm viết về Thời thơ ấu của các danh nhân thế giới. Có lẽ nhiều bạn đọc đã biết, lúc nhỏ Victor Hugo sống với mẹ, bà mẹ đã ảnh hưởng rất lớn trong việc Hugo chọn con đường văn học. Trong tác phẩm của nhà văn vĩ đại này luôn luôn nhắc đến tấm lòng yêu thương và biết ơn vô hạn đối với mẹ. Lúc Hugo đã bốn mươi mốt tuổi (1843), con gái đầu lòng 18 tuổi của ông là Léopoldin chết đuối, ông đau đớn vô cùng. Sự kiện đó ảnh hưởng rất lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Bác Hồ cũng mang trong lòng một nỗi đau mất mẹ vô bờ, một nỗi ngậm ngùi thương em không tả xiết. Điều đó cũng đã ảnh hưởng rất lớn đối với văn thơ của Bác. Bạn đọc nhất là các thầy giáo dạy văn học đã nhiều lần đọc bài thơ Tân Dương ngục trung hài trong tập Nhật ký Trong Tù của Bác song ít bạn chú ý câu đầu của bài thơ chữ Hán này nguyên văn viết bằng chữ quốc ngữ: “Oa..! Oa.! Ooa..!” (11).

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Nội dung bài thơ kể chuyện một cháu bé người Trung Quốc, vì cha chạy trốn không đi lính cho Quốc Dân Đảng nên mẹ phải mang đứa bé hơn nửa tuổi vào tù. Chữ Hán có thừa từ để Bác ghi lại tiếng khóc của em bé Trung quốc trong tù, nhưng tại sao tác giả lại ghi bằng tiếng Việt? Theo tôi tiếng khóc của người em trai mất mẹ của Bác khóc lúc Người còn ở Huế qua bao tháng năm nó vẫn còn tươi sống trong nỗi nhớ thương của Người! Khi Người muốn ghi lại tiếng khóc của em bé Trung Quốc thì tiếng khóc của người em trong Bác tuôn trào ra trang giấy. Chỉ có tiếng mẹ đẻ mới ghi được cái âm điệu da diết của tiếng khóc này. Tiếng khóc trong hoàn cảnh ấy của em bé Trung quốc hay chính là tiếng khóc của người em mất mẹ, khát sữa của chính Bác năm xưa ở Huế? Cụ thân sinh của Bác phải xa nhà vì cuộc sống, em Bác không ở trong ngục với mẹ nhưng lại ở trong cái nhà tù nghèo đói với anh! * *. *. Đọc tiểu sử của Bác chúng ta biết, mùa Thu năm 1928, từ châu Âu Bác về Thái Lan với cái tên mới là Thầu Chín ra báo Thân Ái để tuyên truyền và tổ chức Việt kiều ở Thái Lan. Một buổi chiều đi công tác về lỡ đường, Bác và đồng chí Trần Lam ghé vào nhà một Việt kiều làm thợ mộc xin ngủ qua đêm. Anh chị thợ mộc rất vui vẻ được đón khách đồng hương. Tối hôm đó, ăn cơm xong, sau câu chuyện thăm hỏi, Bác và đồng chí Trần Lam xin đi ngủ để mai có sức lên đường sớm. Hai Bác cháu đặt lưng xuống giường được một lúc thì căn nhà gỗ kẻo kẹt vang lên tiếng chị thợ mộc đưa nôi hát ru con. Giọng chị ngâm Kiều rất hay. Hai Bác cháu lắng nghe mê mải, rồi trằn trọc suốt đêm không tài nào chớp mắt được. Sáng hôm sau, Bác cháu cám ơn anh chị thợ mộc rồi tiếp tục cuộc hành trình. Thấy Bác có vẻ mệt nhọc, đồng chí Trần Lam hỏi: - “Đêm qua Bác không ngủ, sáng nay đi đường hình như Bác không được khoẻ?” Giọng âu yếm, Bác nói: - “Không sao. Mình làm cách mạng say sưa nên quên hết chuyện nhà. Đêm qua nghe chị thợ mộc ngâm Kiều ru con làm cho mình nhớ quá. Ngày xưa ở Huế mẹ mình cũng hay ngâm Kiều ru con như chị thợ mộc thế!”-Nói đến đó Bác đổi giọng đọc hai câu thơ vừa xuất hiện trong tâm trí Bác: “Xa nhà trót mấy mươi niên Đêm qua (mới) nghe tiếng mẹ hiền ru con!” Nói đến đó giọng Bác trầm xuống. Bác không muốn đồng chí Trần Lam đọc được nỗi nhớ thương ngậm ngùi trong lòng Bác. Bác đổi giọng nói băng qua chuyện công tác (12). * *. *. Khoảng tháng 6 năm 1948, một đêm nọ ở Việt Bắc, Bác ngồi đánh máy Lời kêu gọi thi đua yêu nước, bổng nhiên dưới xóm người dân tộc vẳng lên một tiếng khóc trẻ con “oa! oa!”, tiếng đánh máy chữ lóc cóc dòn dã quen thuộc trong phòng làm việc của Bác tự nhiên trở nên rời rạc rồi im bặt. Bác gọi đồng chí bảo vệ đến nhà và nhờ:.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> - “Cháu đi tìm dỗ cho con nhà ai đó nín đi. Ngày xưa ở Huế, mẹ chết, em Bác đau, khát sữa cũng khóc như thế đó!” Đồng chí bảo vệ cảm động quá đốt đuốc đi xuống xóm dân thực hiện lời yêu cầu của Bác ngay. Nhưng đến lúc đứa bé nín hẵn, Bác vẫn ngồi trầm ngâm hút thuốc một lúc rồi Bác mới làm việc lại được. Sau này có lần Bác nói: “Miền Nam trong trái tim tôi”-phải chăng lúc ấy mảnh đất Huế có con đường Đông Ba, khu chợ Xép đã hiện ra trong tâm trí Bác rõ nhất? (Viết thêm vào tháng 8.2001): Về người em trai của Bác, nhiều nhà nghiên cứu cho biết cậu bé ấy tên Nguyễn Sinh Xin. Sau khi bà Loan mất, ông Nguyễn Sinh Sắc đã đưa cậu bé Xin về quê. Nhưng các nhà nghiên cứu không trưng dẫn được nguồn tin nào đáng tin cậy cả. May sao, trong chuyến đi Pháp hồi cuối năm 1996, tôi đã sao chép được bộ hồ sơ gồm 21 tài liệu của Mật thám Pháp thực hiện trong những năm đầu thập kỷ hai mươi liên quan đến gia đình và thời niên thiếu của bác Hồ ở Huế. Theo tài liệu số 18, Mật thám Pháp ghi theo khẩu cung của bà Nguyễn Thị Thanh, chị của Nguyễn Tất Thành” khai với Mật thám Pháp vào tháng 5.1920, (AOM, SPCE 364) thì cậu em út của bà sinh khoảng “năm 1900, chỉ sống có một tháng rưỡi thôi”. Điều đó chứng tỏ cậu bé Xin đã mất tại Huế sau ngày mẹ mất không lâu. Trong một thời gian ngắn đầu năm 1901, trong lúc cha đi vắng, cậu bé Nguyễn Sinh Cung chịu hai cái tang (mất mẹ và mất em) gần nhau. Trong một đời người, có hoàn cảnh nào bi đát hơn thế nữa đâu? Về sự việc khi bà Hoàng Thị Loan mất ông Cử Nguyễn Sinh Sắc không có mặt ở Huế cũng được bà Nguyễn Thị Thanh cho Mật thám Pháp biết và chúng đã ghi lại cụ thể như sau: “Vào năm 1894 cô ta mới 8 tuổi, cha cô đổ Cử nhơn và chuyển vào Huế với mẹ cô và 2 người em trai, để cô ở lại một mình với bà ngoại ở làng Hoàng Trân (sic) (13). Ở Huế ông xin được 1 việc làm nho nhỏ với đồng lương ở Sở Nông nghiệp và đã 2 lần được đề cử làm giám khảo các kỳ thi Hương ở Bình Định và Thanh Hóa, vào khoảng năm 1897 và 1900. Sau kỳ chấm thi cuối cùng này, ông lợi dụng chuyển ngang qua Vinh về làng quê ở Kim Liên để lo xây mộ cho song thân của ông. Trong khi ông ở đó 3 tháng thì được tin vợ của ông đã từ trần ở Huế ngày 19 tháng Chạp năm Thành Thái thứ 12 (7 tháng 2 năm 1901) ông trở về Huế tức thì và gặp lại 2 con trai ở với mẹ chúng.” Sau mấy chục năm tìm tòi nghiên cứu, căn cứ trên các hồi ức và tài liệu thành văn cùng thời, đến giờ này tôi đã có thể khẳng định rằng bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mất ở Huế vào ngày 7.2.1901 trong lúc chồng bà là cụ Cử nhân Nguyễn Sinh Sắc đang bận việc xây mộ cho song thân ông ở quê nhà Nghệ An. Và, theo lời khai của Bùi Quang Chiêu với Sở Mật Thám Sài Gòn (Mật văn số U.S.1, tài liệu số 19, ngày 21 tháng 9.1922) thì vào năm 1901 hay 1902 gì đó ông Nguyễn Sinh Sắc có học về Canh nông với kỷ sư Bùi Quang Chiêu (14) ở trường Canh nông Huế. Chính vì thế mà Bác đã tìm gặp Bùi Quang Chiêu trên chuyến tàu hai ngưởi cùng sang Pháp năm 1911. Bùi Quang Chiêu khai: “... Nguyễn Ái Quốc… vào cuối năm 1911, tôi đã đi với anh ta trên chuyến tàu thủy mà tôi đã quên tên. Anh ấy làm ở trên tàu. Anh ấy tìm tôi vì tôi là thầy dạy học của thân phụ anh ta ở trường nông nghiệp Huế năm 1901 hay 1902…” (AOM, SPCE, 364). Tôi rất quan tâm thông tin này nhưng chưa thể xác định được thời điểm cụ học nông nghiệp với Bùi Quang Chiêu trước hay sau thời điểm cụ “vinh qui bái tổ” vào tháng 8.1901..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> (1) Tuyển tập Hoài Thanh, VH, HN, 1982, q.II, tr. 403. (2) Tuổi Thơ của Bác Hồ ở Huế, Báo Văn Nghệ, Hà Nội 1978 (số 21). (3) Kể chuyện từ làng Sen, Kim Đồng, Hà Nội,1980, tr.28. (4) Sđd. tr.28. (5) Những mẫu chuyện về Thời Niên thiếu của Bác Hồ, Nxb Sự Thật, HN, 1980, tr.20 & 21. (6) Những mẫu chuyện về Thới Niên thiếu của Bác Hồ, Nxb Sự Thật, HN, 1980. (7) Xem Văn hóa Bình Trị Thiên, số 9.1979, tr.90. (8) Hoài Thanh-Thanh Tịnh, Tôn Quang Duyệt, Sơn Tùng, v.v… (9) Theo khẩu cung của bà Nguyễn Thị Bạch Liên (Nguyễn Thị Thanh) khai với Mật thám Pháp vào tháng 5.1920, (AOM, SPCE 364) thì bà Hoàng Thị Loan mất vào ngày 19 tháng Chạp năm Thành Thái thứ 12 ( tức 7 tháng 2 năm 1901). Chú thích năm 2003. (10) Sơn Tùng, Nhớ Nguồn, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 1975, tr.163, 264. (11) Viết theo lời kể của nhà Ngữ học Nguyễn Nguyên Trứ (Đại học Sư Phạm Vinh), trình bày tại cơ quan Thành ủy Huế ngày 11.5.1977. (12) Như chú thích (11). (13) Người Pháp nghe không rõ tiếng Việt nên đã nhầm Hoàng Trù ra Hoàng Trân. (14) Bùi Quang Chiêu (1873-1945), quê ở làng Đa Phước Hội, huyện Mõ Cày, tỉnh Bến Tre. Đỗ kỷ sư canh nông tại Pháp, về nước làm việc ở sở Canh nông và tằm tơ Châu Đốc, sau đó ra Huế dạy ở trường Canh Nông..

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Chương 6: Những điều ghi nhớ ở quê hương Ở làng Dã Lê Chánh (xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên) có ông Đồ Sô chỉ đỗ Tú tài mà rất hay chữ. Mỗi lần nói chuyện chữ nghĩa ông hay kích bát cụ Thượng thơ Nguyễn Viết Song. Năm 1965 để phục vụ cho việc làm luận văn tốt nghiệp, tôi hay về gặp ông nhờ ông phiên âm cho những bản tuồng Hát bội. Nghe cụ kích bát cụ Song - ông Tiến sĩ đầu tiên của làng tôi, tôi khó hiểu nên phải hỏi: - “Cụ Thượng ít chữ sao đỗ Tiến sĩ được ông?” Cụ Đồ nói giọng khinh bạt: - “Vì khoa Tân sửu (1901) quan trường thấy An Tịnh và Quảng Nam đỗ nhiều quá, Thừa Thiên không có ai đủ điểm nên họ chọn ông Song để khỏi bỉ mặt đất Kinh sư thôi. Nhiều vị Phó bảng nhưng giỏi hơn ông nhiều!” Tôi thắc mắc: - “Như ai ông?” Ông đáp với giọng kính trọng: - “Như ông Phan Châu Trinh ở Quảng Nam, ông Nguyễn Sinh Huy ở An Tịnh.” Từ lúc nhỏ tôi đã từng nghe ông nội tôi nói ông Đồ Sô hay nói trạng nên tôi đã bị ảnh hưởng. Tôi hỏi vặn ông Đồ: - “Ông nhỏ tuổi hơn cụ Thượng tại sao ông biết cặn kẻ vậy?” Ông Đồ cười khà khà: - “Thì ông Thượng Mại cậu ruột Ấm Mộng ở ngay sau lưng nhà cháu ấy làm Phó chủ khảo khoa Tân sửu (1901), có chuyện chi cụ không biết! Cháu hỏi cả làng Dã Lê ni có ai mà không biết chuyện nớ? ” Về nhà tôi hỏi ba tôi về những điều ông Đồ Sô nói có đáng tin không (?), ba tôi có vẻ khó chịu: - “Chuyện đó cũng có. Nhưng con người cụ Thượng không đến nỗi rứa mô. Chính cụ là người đứng ra bắc cầu Dã Lê cho dân đi, trổ hói Xuân Hòa lấy nước và phù sa cho đồng ruộng làng mình. Cụ cũng có đầu óc lắm. Cụ hay nói với ông mình, Cụ là bạn đồng khoa với cụ thân sinh ông Nguyễn Ái Quốc và cụ cũng muốn làm một cái gì cho dân cho nước nhưng Tây nó không cho!” Những thông tin trên đã đến với tôi gần hai mươi năm trước. Tôi ít khi có dịp nhớ đến nó. Nhưng không ngờ trong những năm nghiên cứu về thời niên thiếu của Bác, những câu chuyện trên tự dưng sống dậy trong tôi. Tôi về làng gặp những người thân của ông Ấm Mộng nhờ họ hướng dẫn tôi tìm đến gia đình cụ Thượng Mại. Cụ thượng quê ở Kẻ Lừ (Niềm Phò, Quảng Điền), mất đã lâu, tôi đến gặp thầy Sản đình Nguyễn Hy Thích (1891-1978) con trai cụ, nhà ở trước cửa trường Pellerin (cũ) gần ga Huế. Thầy Sản Đình đã từng dạy tôi học Hán văn tại Đại.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> học văn khoa Huế. Gặp lại học trò cũ thầy rất mừng. Lúc đó sức khoẻ thầy đã yếu nhưng thầy vẫn cố gắng đứng dậy đến cái tủ đứng lấy đưa cho tôi một cuốn sách (in ronéo) dày cộm mang tựa đề “Lô-Giang Tiểu Sử” của Tiểu cao Nguyễn Văn Mại (1). Đây là một cuốn Niên ký ghi lại cuộc đời của “cụ Thượng Mại”. Thầy Sản Đình hai tay run run lật từng trang sách, đến trang 103 thầy dừng lại đọc to cho tôi nghe. Một cơn ho chợt đến, thầy phải khom mình ho và đẩy cuốn sách về phía tôi ý bảo tôi tự đọc lấy. Tôi liếc mắt đọc nhanh: “Bốn Mươi Bốn Tuổi (1901), Tân Sửu, Thành Thái 13 .. .Ngày tháng 3, phụng chuẩn sung Phó Chủ khảo thi Hội.- Kỳ đó ông Cao Xuân Dục (An Xuân Nam), Hiệp Biện Đại học sĩ, Phó Tổng tài Quốc sử quán, làm Chánh Chủ Khảo. Ông Nguyễn Quang, Tư nghiệp, làm Tri cống cử. ... Năm ấy vào Điện thí, bảng đậu như sau này: Đệ tam-giáp đồng tiến sĩ xuất thân 9 người: 1. 2. Ngô Đức Kế, làng Trảo Nha, Thạch Hà, Hà Tịnh; 3. Nguyễn Viết Song, Dã Lê, Hương Thủy, Thừa Thiên; ... 9 ... Phó bảng 13 người: 1 ...11. Nguyễn Sinh Huy, làng Kim Bồng, Nam Đàn, Nghệ An;(NĐX nhấn mạnh) ...13. Phan Châu Trinh, làng Tây Lộc, Hà Đông, Quảng Nam; Ngày tháng 5 việc trường thi xong.” Tôi đọc đoạn sách trên xong xếp sách lại đặt trên bàn. Thầy Sản Đình ngồi đối diện tôi, thầy vừa lau mấy giọt nước trà vấy trên bàn vừa nói với cái giọng xăng xẳng. Trông cử chỉ và nghe giọng nói của thầy tôi bỗng nhớ lại những ngày không thuộc bài bị thầy quở trách. - “Năm Tân sửu (1901) tôi đã trên mười tuổi-Lời thầy Sản Đình-Tôi vừa bắt đầu học Tứ Thư. Đi làm Phó Chủ khảo thi Hội về, thầy tôi gọi các con lại ngồi quây quần nghe ông kể chuyện. Qua lời kể của thân sinh, tôi vẫn còn nhớ khoa thi ấy có nhiều chuyện vui vui. Ông Chánh Chủ khảo là người cùng quê với một người có tên là Nguyễn Sinh Huy, nổi tiếng hay chữ, nhưng mãi đến năm 40 tuổi với ba lần thi Hội vẫn không đủ điểm để vào Điện thí. Ông Chủ Khảo thất vọng bèn lấy quyền Chánh Chủ khảo lục quyển của Nguyễn Sinh Huy ra xem, lúc đó ông mới hay người cùng quê của ông đã có những lời lẽ phạm đến thời thế, vì vậy mà các.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> quan chấm thi sợ phải đánh hỏng. Ông Chủ khảo cứu người không may bằng cách bảo các quan chấm thi: - “Bây giờ người ta nói vậy mình cũng cần nghe, tôi đề nghị đưa thí sinh này vào thi Đình. ” Ông Chủ khảo là người giỏi văn học, có uy tín với Triều Đình, nên các quan phải thực hiện lời đề nghị của Chánh Chủ Khảo. Song các quan vẫn chưa buông tha ông Huy, thi Đình xong họ chỉ cho ông Huy đổ Phó bảng. Trường hợp ông Phan Châu Trinh cũng vậy.” - Thầy Sản Đình lại lên cơn ho sặc sụa. Thầy ho xong nghỉ một lúc rồi mới nói tiếp- “Anh có biết không? Phó bảng là cái bằng dưới Tiến sĩ một chút. Những người đỗ Tiến sĩ yết tên trên bảng chánh, những người dưới điểm đỗ vào loại lấy rộng (đậu vớt) yết tên vào bảng phụ, nên có tên là Phó bảng. Phó bảng mới có từ Minh Mạng thứ 10 (1829). [Ông thân sinh tôi Phó bảng khoa Kỷ sửu (1889)]. Văn tài giữa Tiến sĩ và Phó bảng không khác mấy, nhưng quyền lợi thì hoàn toàn khác xa. Đỗ Tiến sĩ được vua ban yến, được phát áo mão ngựa trạm để vinh quy bái tổ. Phó bảng thì không được các đặc ân ấy. Ông Chánh Chủ Khảo có một mối cảm tình đặc biệt với ông Huy nên ông đã tâu với vua Thành Thái đại ý là: - “Tâu Hoàng thượng, Tiến sĩ và Phó bảng đức tài cũng suýt soát như nhau. Thế nhưng Tiến sĩ thì được quá nhiều ân vua, Phó bảng chẳng có gì. Xin Hoàng thượng xét lại để cho được lòng sĩ tử”. Vua Thành Thái đồng ý. Kể từ đó có tiền lệ Phó bảng cũng được ân vua giống như Tiến sĩ. Thân phụ tôi nói-Lời thầy Sản Đình-Chỉ có những bậc học vấn rộng, giàu văn tự như ông Cao Xuân Dục mới thấy được khí tiết của những người tài.” * *. *. Năm 1978, tôi (NĐX) có dịp gặp đồng chí Trần Minh Siêu - Cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện bảo tàng Kim Liên, tôi kể và đọc tất cả những mẩu chuyện và tài liệu trên cho đồng chí Siêu nghe, đồng chí Siêu thích thú bảo tôi: - “Tôi cũng nghe ông Võ Mai ở Diễn Châu kể lại tương tự như vậy. - Đỗ xong ông Huy về làng Hoàng Trù sống với gia đình. Ông định ở đây cuốc đất trồng khoai nuôi dạy con cái, chăm sóc nhạc mẫu. Ông không để ý đến việc ông là người đầu tiên của làng Sen đã đỗ đại khoa. Vì thế, ông đã rất bất ngờ khi có người làng Sen quê nội của ông sang bảo: - “Thưa ông Phó bảng, lệ nước xưa nay đã định những người đỗ đại khoa thì không được ở rể. Làng Sen xin mời ông khăn gói trở về quê quán.” Ông Phó bảng tìm lời thoái thác: - “Tôi biết. Nhưng bên làng quê tôi không có miếng đất cắm dùi, thử hỏi gia đình tôi biết sống vào đâu? Ở đây, dù là dân ngụ cư, nhưng là nơi tôi đã lớn lên và trưởng thành. Bên này, ông nhạc tôi đã khuất núi, vợ tôi cũng mất, bà nhạc tôi hiện nay thiếu người chăm sóc đỡ đần. Xin bà con cho tôi được yên để tôi có dịp báo hiếu chớ?” Người đại diện cho dân làng Sen lựa lời nói tiếp: - “Dân làng ta cũng biết những khó khăn của ông. Ở làng Sen ông cũng có thể báo hiếu được. Còn việc đất vườn nhà cửa để cho gia đình nương tựa thì bà con bầy tui sẽ lo!” Ông Phó bảng rất trọng đạo lý nên ông phải thực hiện lời yêu cầu của bà con quê nội..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Ngày ông trở lại, bà con làng Sen đã góp tiền mua một nhà gỗ năm gian dựng trên một mảnh vườn trống (tức là ngôi nhà được phục chế ở làng Sen ngày nay). Nghe nói, lúc ấy bà con còn mừng ông đỗ đại khoa hai trăm đồng, nhưng ông không chịu ăn tiêu hay sắm đồ dùng. Ông đem số tiền đó giúp cho những gia đình nghèo có người phải đi phu Trấn Ninh làm vốn dệt vải để sinh sống. Dân nghèo rất cảm kích trước cử chỉ hào hiệp của ông (2). Lúc ấy cậu bé Nguyễn Sinh Xin đã mất. Thời gian bắt đầu có những thay đổi trong gia đình ông Bảng. Những thay đổi đó đã ảnh hưởng đến bước phát triển tư tưởng của những người trong gia đình. Tôi không có điều kiện đi sâu vào giai đoạn này cũng không có ý định sẽ đi sâu. Tôi chỉ xin đề cập đến những điều đáng ghi nhớ ở quê hương đã vang vọng vào đến Huế và sống mãi với thời gian. Lúc làm rể ở Phù Lễ, ông cả Khiêm có kể với gia đình vợ ông rằng: - “Cha tôi là một người Nho học, lúc sinh con, ông mong con cái lớn lên vẫn giữ được cái gia giáo của nhà Nho. Con gái phải thanh bạch trong trắng, con trai phải khiêm nhường, cung kính, vì vậy mà anh chị em bầy tui có cái tên Thanh, tên Khiêm, tên Cung. Nhưng không ngờ ngày nay vô Kinh mới hay cái tên của tôi phạm “húy”. Cái tên Khiêm trùng với cái tên Khiêm lăng (lăng vua Tự Đức). Đi học đi thi mà tôi chỉ cần viết một chữ Khiêm là phạm húy, phạm trường quy, sẽ bị đánh hỏng ngay. Vì thế sau ngày ông cụ tôi đỗ Phó bảng về làng ông đã xin đổi tên cho các con! Nhưng sẽ đổi tên gì? Ông bảo chúng tôi: Đời cha lận đận cực khổ, khó khăn biết bao nhưng có công mài sắt cũng có ngày thành kim. Cha mong các con sau này, làm việc gì khó khăn đến đâu cũng phải thành đạt. Người xưa có nói: Ở đời không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền. Tôi có cái tên Nguyễn Tất Đạt và em tôi - Nguyễn Ái Quốc có cái tên Nguyễn Tất Thành kể từ đó.” (3). Từ ngày trở về nguyên quán với những cái tên mới Đạt, Thành hằng ngày hai anh em giúp chị và cha làm vườn, và công việc nội trợ. Sau đó hai cậu được ông Phó bảng cho tiếp tục học chữ Hán với một người bạn đồng khoa (1891) là ông Vương Thúc Quý. Thầy Quý là con ông Vương Thúc Mậu - người thủ lãnh Chung Nghĩa Binh đã hy sinh vì Tổ quốc, thầy cũng là bạn đồng chí của Phan Bội Châu. Thầy mở trường dạy học, ngoài mục đích dạy học còn chủ trương tập hợp “đồng chí” để làm việc lớn. Cách dạy của ông “không tầm chương trích cú” như các ông đương thời. Ông chỉ chọn những điều tích cực trong mớ sách cũ un đúc cho học trò một nhân sinh quan sống vì dân vì nước. Qua những lời giảng hấp dẫn, sống động, ông ca ngợi các anh hùng nghĩa sĩ và lên án bọn buôn dân bán nước. Giảng chuyện xưa bên Tàu cụ liên hệ với thực tại nước ta. Học trò của cụ không những biết chữ mà còn biết làm người dân Việt yêu nước. Cậu Thành là học trò lớp nhỏ của thầy Vương song ai cũng nhận cậu là người thông minh, linh hoạt. Người ta kể mỗi lần bắt đầu buổi học thầy thắp ba nén hương tưởng niệm người cha đã hy sinh vì nước. Một hôm, thầy sơ ý làm đổ dầu ra đế đèn, thầy liền ra một vế đối để thử tài học sinh: “Thắp đèn lên dầu vương ra đế”. Một cậu học trò sắp đi thi Hương, bám vào thực tế để đối lại: “Đốt nhang rồi gió quạt tàn bay”..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> Ý nghĩa của vế thứ hai này bình thường quá, cậu Thành xin đọc một câu khác: “Cưỡi ngựa dong thẳng tấn lên đường”, “tấn lên đường” là tiến lên đường nhưng cũng còn có nghĩa là “Nhà Tấn lên nhà Đường” (4). Trong những ngày ấy, cậu Thành thường được gặp những người yêu nước đến liên lạc với thầy Vương. Những lúc có khách “đồng chí” thầy hay sai cậu Thành đun nước pha trà tiếp khách hoặc sai Thành chuyển giao những thư từ liên lạc giữa những người yêu nước. Với một tâm hồn nhạy bén, đã mang sẵn những khắc khoải về cuộc đời, cậu Thành sớm hình thành trong lòng mình một tình yêu nước dạt dào. Hình ảnh thầy Vương lôn luôn gắn với những tình cảm yêu nước đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này (5). Năm 1957, sau gần nửa thế kỷ đi tìm đường cứu nước, Bác về thăm quê và Người không quên hỏi: - “Gia đình cụ cử Quý bây giờ ra sao? Cụ cử Quý là thầy dạy Bác hồi nhỏ đấy!” (6). Tỉnh ủy Nghệ An lúc đó đã thưa với Bác: - “Thầy Quý bây giờ còn người con trai là Vương Thúc Oánh!” - “Để Bác đến thăm” - Bác bảo. Ông Oánh kết duyên cùng bà Phan Thị Em (tức bà Cương) - con gái của cụ Phan Bội Châu. Một người cháu - bà con cả bên nội lẫn bên ngoại của Bác - Ông Nguyễn Tài Tư (7) có kể rằng: - “Lúc thiếu thời, Bác tôi thường được gần gũi cụ Phan Bội Châu và được Người rất thương mến. Ba tôi là ông Nguyễn Tài Triễn có kể với chúng tôi rằng: Nhà ông tôi (tức ông Bảng) cách nhà cụ Phan trên năm cây số. Tuy thế hai ông bạn đồng song và đồng học đó thường gặp nhau luôn, khi ở nhà ông, khi ở nhà cụ Phan, đàm luận văn chương thế sự. Mỗi lần nói đến họa diệt vong và nhục mất nước giọng cụ Phan sôi lên sùng sục. Bác Thành tôi đứng lắng tai nghe sửng sốt, nhiều lúc quên cả việc đun nước pha trà mời khách. Một hôm cụ Phan đến chơi vào lúc trăng vừa lên, gặp bác Thành ra chào, cụ Phan hỏi: - “Tất Thành hả? Nghe cháu hay chữ đối đáp hay lắm. Giờ chú ra câu đối - Cụ Phan vừa vỗ vỗ cái túi tiền lận bên hông vừa nói tiếp - cháu đáp được chú sẽ thưởng tiền ăn kẹo!”. Được cụ Phan lưu ý đến mình, bác tôi thích thú gật đầu: - “Dạ!” Cụ Phan nhìn mặt trăng đang lên hạ câu: - “Nguyệt thướng bạch”. Tiếp lời cụ Phan, bác tôi đọc ngay vế thứ hai: - “Nhật xuất hồng” (8). Cụ Phan khen Bác Thành giỏi và thưởng tiền đúng như lời hứa. Kể lại mẩu chuyện đối đáp này - Lời Nguyễn Tài Tư-ba tôi bình luận thêm: “Cụ Phan là người yêu nước nổi tiếng, nhưng yêu nước theo kiểu Quốc gia chung chung, cho đến lúc từ trần cụ cũng chỉ là một lãnh tụ “trắng thôi”. Còn Bác Thành một nhà ái quốc đã tìm đến được chủ nghĩa Cộng sản và đã trở thành một lãnh tụ “hồng”. Khẩu khí của hai người linh nghiệm thật” (9). Sau ngày thống nhất ít lâu, nhân một hôm lên thăm ngôi nhà tranh của ông Phan Bội Châu ở đỉnh dốc Bến Ngự, tôi (NĐX) hân hạnh được gặp bà Phan Thị Em (tức bà Cương) con gái độc nhất của ông Phan. Nghe người xưa kể bất cứ chuyện gì đối với tôi cũng bổ ích cả, nhưng tôi cũng không thể giấu được mình là một người đang theo đuổi đề tài về Thời niên thiếu của Bác.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Hồ. Tôi tranh thủ hỏi bà những kỷ niệm của ông Phan còn giữ về Thời thơ ấu của Bác. Bà Em dù đã trên tám mươi tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn. Bà vui vẻ bảo tôi: - “Điều đó cán bộ Lịch sử ở Nghệ Tĩnh đã hỏi nhiều lần và tôi đã kể đầy đủ. Nhân đây tôi chỉ nói với anh một vài chuyện thôi. Từ buổi thiếu thời thầy tôi đã sớm hiểu được đại nghĩa lớn lên không muốn làm người tầm thường nên ông thường tìm đọc những văn thơ cổ vũ con người có khí phách xả thân cho việc lớn. Ông đã chọn hai câu thơ của Tuỳ Viên để răn mình là: “Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch Lập thân tối hạ thị văn chương” [Tạm dịch: Mỗi bữa ăn phải nghĩ đến để lại cái gì trong sử sách; Lối lập thân nhấp nhất là theo văn nghiệp (ý nói khoa cử)]. Hai câu thơ ấy không những đã hướng đạo cho cuộc đời của thầy tôi mà nó còn ảnh hưởng đến nhiều người chung quanh ông. Năm 1929, nghĩa là bốn năm sau ngày ông bị Pháp bắt về giam lỏng ở đây, theo lời yêu cầu của đồng bào, đồng chí đêm đêm chờ lúc mật thám Tây ngủ yên, ông ngồi dậy lộn từng trang giấy bổi phía trong ra ngoài viết hồi ký-Cuốn Tự Phán (tức Phan Bội Châu Niên Biểu). Đến lúc hừng đông tỏ rạng ông lộn những trang vừa viết xong vào trong rồi sắp lại như cuốn vở cũ của học trò, bọn mật thám Pháp có bất ngờ đến lục soát thì chúng cũng không hay biết gì. Trong cuốn hồi ký quan trọng này thầy tôi đã nhiều lần nhắc đến lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt khi ông kể đến đoạn từ 21 đến 31, thời gian ông thường đọc lại hai câu thơ trên, ông đã ngừng viết ngồi trầm ngâm bên ngọn đèn khuya một lúc rồi chua thêm một chú thích nhỏ ở bìa trang giấy. “Câu thơ này ở sách Tuỳ Viên, ông Nguyễn Ái Quốc hồi mới lên mười nghe tôi lúc rượu say ngâm câu thơ này đến bây giờ (tức khoảng năm 1929) ông vẫn còn thuật lại” Thầy tôi (bà Phan Thị Em) biết ông Nguyễn Ái Quốc có chí lớn từ khi Người còn để tóc trái đào. Vì thế, vào khoảng tháng 7 năm 1905, thầy tôi bí mật từ Nhật về với ý định đem Nguyễn Ái Quốc lúc ấy còn mang tên Nguyễn Tất Thành - Đông du. Nhưng sau cuộc gặp gỡ trong một chiếc thuyền trên sông Lam, Nguyễn Ái Quốc đã từ chối”. - Bà Em dừng lại một lát, nói tiếp với giọng rất tỉnh táo - “May thay hồi đó Bác đã không đi theo thầy tôi.” Câu chuyện của bà Em kể còn đọng lại trong sổ tay của tôi cho mãi đến mấy năm sau mới được giở xem lại. Và tôi cảm thấy hình như nó được kể tiếp khi tôi được gặp bà Bùi Thị Nữ. Bà Nữ kể: - “... Cụ Phan xem cô Thanh (chị của Bác) thân thích như con cháu trong nhà. Hai người tù bị giam lỏng này thỉnh thoảng trốn bọn mật thám đến thăm nhau. Những lúc ấy chú cháu thầm thì trao đổi với nhau tin tức Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở nước ngoài hoặc nhắc đến những kỷ niệm thời thơ ấu của Nguyễn Ái Quốc đã để lại trong tâm trí cụ Phan cũng như của cô Thanh. Tôi là người phục vụ được cụ Phan tin cẩn đồng thời tôi là người hàng xóm quen thân của cô Thanh ở đường Hộ Thành, vì vậy những lần cụ Phan nói chuyện với cô Thanh, tai tôi được nghe cả: Một hôm qua nhà cô Thanh mua một ít thuốc cao, nhân tiện tôi hỏi: - “Qua cách nói năng tôi biết cụ Phan có một cảm tình đặc biệt với Nguyễn Ái Quốc, nhưng không rõ Nguyễn Ái Quốc đối với cụ Phan ra sao?”. Cô Thanh bảo: - “Cụ Phan văn chương rất xuất chúng, lòng yêu nước sôi sục không ai bằng, cụ là linh hồn của Cách mạng một thời, cụ lại quen thân với gia đình của thầy tôi do đó Nguyễn Ái Quốc rất kính phục cụ Phan.” Tôi - tức Bùi Thị Nữ - thắc mắc: - “Rứa tại sao Nguyễn Ái Quốc không Đông du với cụ Phan?” Cô.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> Thanh đáp với giọng nghiêm trang và lắng đọng: - “Vì lúc trước cụ Phan không thỏa mãn được điều mà một cậu bé 15 tuổi đang hăm hở muốn biết.” - “Tôi - bà Nữ - rất kính trọng cụ Phan và rất khâm phục Nguyễn Ái Quốc, mong cô kể lại cho một vài câu về điều mà Nguyễn Ái Quốc đã muốn biết!”. Cô Thanh nhìn tôi như muốn đoán xem tôi yêu cầu điều đó để làm gì. Cô hứ một tiếng. Tôi biết tính cô rất nóng nên tôi phải dịu giọng tỏ bày với cô về sự thành khẩn của tôi. Cuối cùng cô bảo: - “Lúc cụ Phan đến nhà cụ Vương Thúc Quý - Thầy học cũ của Nguyễn Ái Quốc - hoặc đến nhà tôi ở làng Sen chơi, cụ Phan hay kể chuyện các anh hùng yêu nước Cần Vương-Văn Thân chống Tây. Cụ kể rất sôi nổi, những người yêu nước ai cũng tài giỏi, song cuối cùng đều thất bại. Một hôm cụ Phan kể xong, Nguyễn Ái Quốc (lúc ấy còn mang tên Nguyễn Tất Thành) hỏi: - “Thưa chú, giặc Tây từ một nơi xa xôi đến đây, quân ít, không có “thiên thời địa lợi nhân hòa” tại sao chúng thắng được dân ta quân đông, tướng tài?” Cụ Phan nhìn Nguyễn Ái Quốc gật đầu rồi lim dim ngẫm nghĩ chứ không trả lời”. Kể lại chuyện cũ bà Bùi Thị Nữ bình luận thêm: “Có lẽ lúc ấy cụ Phan cũng chưa tìm đưoc câu trả lời. Sau lần được nghe bà Bùi Thị Nữ kể lại chuyện cũ ấy tôi suy nghĩ mãi. Phải trải qua nhiều năm tháng nghiên cứu về Bác Hồ và suy nghĩ thêm nữa tôi mới hiểu vì sao cụ Phan “ngẫm nghĩ chứ không trả lời” câu hỏi của Nguyễn Tất Thành năm ấy.. (1) Nguyễn Văn Mại, Lô Giang Tiểu Sử, Nguyễn Hy Xước dịch, in ronéo, Huế, 1960, 280 trang. (2) Theo lời Trần Minh Siêu, có tham khảo thêm bài của Tôn Quang Duyệt, báo Nhân Dân số ngày 19.6.1977. Về sự việc này Mật thám Pháp căn cứ vào khẩu cung của bà nguyễn Thị Thanh thực hiện năm 1920 cho biết: “Tháng 4 năm sau (tháng 5.1901) Nguyễn Sinh Huy đỗ Phó bảng và vào tháng 8 ông trở lại Kim Liên với 2 con trai, gặp con gái Nguyễn Thị Thanh đã rời làng Hoàng Trân (1 tháng sau cái chết của mẹ cô) đã trở về Kim Liên. Ở đó cô sống với 1 người giúp việc trong nhà của cha cô. Lúc ấy cô được 14 tuổi, Khiêm 11 tuổi và Côn 8 tuổi”. (AOM, SPCE 364) (3) Viết theo lời kể ông Nguyễn Ngọc Bang-cháu bà Nguyễn Thị Giáng (vợ ông Cả Khiêm) ở làng Phù Lễ (Quảng Điền). (4) Ban NCLSĐ Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Sđd, tr.71 (5) Lời bà Phan Thị Em thuật, đúng với tác phẩm Tự Phê Phán của Phan Bội Châu được Phạm Trọng Điềm và Tôn Quang Phiệt dịch, Nxb Văn Sử Địa, HN 1957, tr.30. (6) Trần Gia Linh, Làng Sen,VHNT số 46, 1975, tr.82. (7) Nguyễn Tài Tư (tức Hồ Chí Trung) Báo Lao Động, 22.9.1971, Sài Gòn). Có biệt hiệu là Thiếu Lăng Quân, Hồ Chí Trung tác giả nhiều bài báo nói về thời niên thiếu của Bác (Báo Động, SG.1971). (8) Mặt trăng lên trắng; Mặt trời mọc hồng. (9) Nguyễn Tài Tư (tức Hồ Chí Trung) Báo Động, ngày, 22.9. 197, Sài Gòn..

<span class='text_page_counter'>(51)</span> Chương 7: Trở lại Kinh đô Ông Phó bảng Sắc đưa các con vào Huế lần thứ hai vào năm 1905 hay 1906? Ông Bảng vào Huế làm quan theo lệnh của Triều đình hay vào Huế với mục đích khác? Nhiều tập thể và nhiều nhà nghiên cứu đã phát biểu, đã khẳng định (1). Song tài liệu gốc chưa có, phần lớn những tư liệu có liên quan đến vấn đề này đều qua hồi ức của những người đương thời và chưa được khảo chứng một cách khoa học bằng tài liệu gốc. Tôi xin trích dẫn một ít tài liệu tôi thu thập được ở Huế để góp phần vào kho tư liệu tham khảo chung. Bổ sung năm 2001: Về thời điểm ông Phó bảng trở lại làm việc tại Huế lần thứ hai được ông Nguyễn Tất Đạt khai với mật thám Trung kỳ ngày 19.3.1920 như sau: “Nguyễn Tất Thành sinh năm 1891(sic). Năm lên 15 tuổi, nó dẫn cha chúng tôi đến Huế trong thời tôi làm việc ở Tòa Khâm sứ với tư cách thợ coi máy rập. Tôi nhận trách nhiệm nuôi nó cho tiếp tục học ở trường Pháp Việt. Năm 1908, đổ bằng tiểu học và được nhập học trường Quốc Học.”(Tài liệu số 15, AOM, SPCE 364). Nếu ông Nguyễn Tất Đạt không có ý lừa mật thám Trung kỳ thì ta có thể tin ông Bảng trở lại Huế vào năm 1905.. * *. *. Bà Bùi Thị Nữ kể theo hồi ức: - “Nói chuyện yêu nước với những người tin cẩn cụ Phan hay nhắc đến Nguyễn Ái Quốc với một sự trân trọng khác thường. Một hôm cụ tiếp khách trên đò có một người nói giọng Quảng (hình như là ông Trần Đình Nam?) hỏi cụ: - “Nguyễn Ái Quốc có phải là người học trò có nhiều triển vọng của cụ không?”. Cụ Phan khoát tay: - “Hậy, hậy! Nguyễn Ái Quốc là người tài giỏi lắm, ông ta làm sao là học trò tôi được! Ông tiến bộ lắm, còn tôi thì đã lạc hậu, lỗi thời lắm rồi!” Người khách: - “Tôi muốn hỏi ngày xưa kia!” - “Ngày xưa cũng không” - Cụ Phan khẳng định - “Hồi trung tuần tháng 7 năm Ất tỵ (1905), tôi ở Nhật về định đem một số thanh niên sang Nhật học. Trong một chiếc thuyền trên sông Lam tôi gặp gỡ bí mật một số thanh niên. Tôi giới thiệu tài liệu và kể chuyện nước Nhật duy tân với các bạn trẻ. Họ thích lắm. Trong những người gặp mặt hôm đó có Nguyễn Ái Quốc. Nói chuyện xong, Nguyễn Ái Quốc hỏi tôi: - “Bẩm chú, nước Nhật họ học ai mà giỏi vậy?” Tình thiệt tôi (tức cụ Phan) trả lời: - “Họ học Tây phương!” Nguyễn Ái Quốc gật đầu thích thú. Khi tôi ngỏ ý muốn đem Nguyễn Ái Quốc đi Nhật thì anh từ chối với lý do là chưa có ý kiến của ông Bảng Sắc. Buộc lòng tôi phải đem Trần Hữu Công (tức Nguyễn Thức Tự) con trai của cụ Sơn - thầy học của tôi, ở Nghi Lộc đi. Sau này tôi nghe Nguyễn Ái Quốc qua Pháp tôi hiểu con đường của Nguyễn Ái Quốc ngay. “Cụ Phan uống một ngụm nước rồi nói thêm- “Người ấy trẻ tuổi nhưng sáng suốt hơn tôi nhiều... Tôi thì lão lai tài tận, lạc hậu lắm rồi đừng ai bằt chước tôi nữa!” Thuật xong đoạn trên bà Nữ bảo tôi nên tìm sư bà Diệu Không hỏi thêm. Vì ngày xưa có lần bà đã được nghe Sư bà nói chuyện về ông Nguyễn Ái Quốc lúc còn nhỏ ở Huế. *.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> *. *. Sư bà Diệu Không (nhủ danh Hồ Thị Hạnh) nguyên là vợ ông Cao Xuân Xang (cháu nội cụ Cao Xuân Dục). Sư bà tiếp tôi trong phòng khách của chùa Kiều Đàm (Huế). ... Sư bà Diệu Không kể: - “Năm lên 10 tuổi tôi theo thầy tôi là cụ Hồ Đắc Trung vào ở trong bộ Học. Lúc ấy tôi mới học chữ Hán nên hễ thấy đâu có chữ Hán là để mắt vào đọc, đọc không hiểu thì hỏi. Bỗng tôi thấy trên tường vừa quét vôi trắng có chừa một khoảng tường cũ ám khói. Trong khoảng ấy có ghi một câu cách ngôn bằng chữ Hán nét chữ đã cũ nhưng rất đẹp. Tôi đọc lõm bõm được vài chữ và không hiểu hết ý nghĩa của nó tôi bèn hỏi thầy tôi. Và thầy tôi đáp; “Nghe nói trước đây gian phòng này dành cho ông Tư Sinh ở. Ông hay đặt cách ngôn và viết lên vách để dạy con. Ông viết nhiều lắm nhưng thợ bên bộ Công qua sửa nhà bôi hết. Còn câu ấy chữ đẹp và có ý nghĩa răn dạy con cái tốt thầy truyền cho thợ phải để lại.” - Bà kể tiếp - “Sau đó thầy tôi không làm ở bộ Học nữa tôi lớn lên và làm dâu cụ Cao Xuân Tiếu - bạn với thầy tôi, tôi lại đến ở trong bộ Học lần thứ hai. Nhớ chuyện cũ có lần tôi hỏi ông gia tôi: “Thầy có biết ông Tư Sinh đã từng ở trong bộ Học này không?” Ông gia tôi đáp: “Biết rõ. Ông Tư Sinh là người cùng quê Nghệ An với mình, năm Ất mùi (1895) ông có nhận học điền của họ Cao Xuân (Diễn Châu) để vào Kinh thi Hội, đi một lần với thầy (tức Cao Xuân Tiếu). Nhưng khoa đó ông không đậu. Cho mãi đến khoa Tân sửu (1901) ông mới đỗ Phó bảng. Sau này con ông là Nguyễn Sinh Côn học sinh trường Quốc Học cũng được họ Cao Xuân cấp học điền. Gia đình ông Phó bảng có nhiều ân nghĩa với gia đình mình. “Tôi (sư bà Diệu Không) có cái tính hay hỏi nên hôm đó tôi đã hỏi ông gia tôi: Ai là người Nghệ có chí học hành thì được họ Cao Xuân cấp học điền chứ có riêng chi cha con ông Tư Sinh mà cha nói nhiều ơn nghĩa?”. Ông gia tôi không muốn kể nhưng ông biết tính tôi cứ đeo hỏi nếu tôi chưa được trả lời đầy đủ. Để khỏi bị “quấy rầy” hơn nữa ông đã giải thích tiếp: “Năm ấy ông mình (cụ Cao Xuân Dục) đang chuẩn bị thành lập bộ Học cho Triều đình, thì một hôm ông Phó bảng từ Nghệ An vào thăm ông. Ông hỏi ông Phó bảng: “Chú Bảng vào Kinh làm chi?” Ông Phó bảng đáp: “Xin thú thật với cụ, từ ngày mẹ các cháu mất, tôi phải nuôi dạy các cháu một mình. Nuôi dạy và thương yêu các cháu cũng là một cách làm vừa lòng mẹ các cháu dưới suối vàng. Tôi không rõ các cháu nghe ai xúi giục, các cháu muốn học chữ Tây. Ngoài quê mình ngặt một điều không có ai dạy và cũng chẳng ai trọng nể việc học chữ Tây cho nên tôi phải vào Kinh.” Ông cười rồi vặn hỏi ông Bảng: “Thế chú có biết dưới mắt người Tây những người đỗ đại khoa như chú mà không làm quan thì làm chi chú biết không?” Ông Phó bảng ngẫm nghĩ mãi mà vẫn thấy khó trả lời. Ông mình mới nói tiếp: “Không làm quan thì làm giặc đó. Đời nào người Tây để cho chú yên để chú dạy con ở giữa chốn Kinh thành này”. Ông Bảng lo lắng: “Thế cụ bảo cháu phải làm gì?” Ông dạy: “Chú phải làm quan”. Ông Phó bảng phân trần: “Cái đời làm quan vào lòn ra cúi, cháu không muốn!”. Ông bảo: “Thế thì chú không ở đây được.” Ông Bảng van nài: “Thế thì cụ cho cháu một chức quan mà chẳng ai thèm làm để cháu được ở đây!” Thế là ông Phó bảng Nguyễn Sinh Huy được bổ làm Tư vụ Học chánh (tùng bát phẩm 7-2) và được đến ở ngay trong nhà của bộ. Ông Bảng làm Tư vụ nhưng chẳng mấy khi ông chịu làm việc. Suốt ngày ông uống rượu, ngâm thơ và đặt cách ngôn viết lên vách dạy con cái thôi. Quan lại và nhân viên chung quanh ông rất khó chịu trước thái độ của ông. Sở dĩ không ai dám nói ra điều gì vì họ nể ông (tức Cao Xuân Dục). Về sau cụ Phan Châu Trinh đi hoạt động cách mạng bỏ trống chức Thừa biện ở bộ Lễ lâu ngày, ông Bảng bị chuyển sang điền khuyết. Từ đó ông được Triều đình cấp cho một gian nhà ở dãy trại đường Đông Ba”..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Ngày tôi được nghe sư bà Diệu Không kể lại những mẩu chuyện trên thì trước đó tôi đã tìm được gian nhà của gia đình ông Bảng ở tại dãy Trại đường Đông Ba. Tôi xin kể lại tường tận như sau: Sau ngày đất nước thống nhất, một người bạn giáo viên nghe nhà văn Thanh Tịnh nói chuyện về Bác Hồ, đã kể lại với tôi: - “Ngày xưa cụ thân sinh Hồ Chủ tịch, nhà ở gần vùng chợ Xép, cụ Quản Nghiêm ở cạnh nhà thường chạy qua thăm...”. Lúc ấy tôi đang mang trong lòng cái khát vọng muốn biết “Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế”, song chưa có gì cụ thể và cũng chưa nắm được một đầu mối nào để lần theo hỏi chuyện. Vì thế khi nghe anh giáo viên kể đến tên ông “Quản Nghiêm”, và vùng “chợ Xép” tôi đi tìm hiểu ngay. Thế nhưng đồng bào ở chợ Xép không còn ai nhớ ông Quản Nghiêm là ai cả. Tôi liền tìm đến nhà một ông quan võ, nay đã gần 90 tuổi, hỏi thăm. Ông này cho biết: “Ông Quản Nghiêm trước đây ở dãy Trại đường Đông Ba và làm việc tại Hộ Thành. Sau năm Duy Tân khởi nghĩa (1916), ông Quản dọn nhà vào ở đâu trong vùng hồ Tịnh Tâm.” Tôi lại mò mẫm theo lời chỉ dẫn rất mơ hồ của ông quan võ gần đất xa trời ấy. Năm lần bảy lược hỏi thăm, may thay một buổi sáng mùa xuân năm 1977, tôi gặp được bác Lê Viết Triết, đã trên 70 tuổi, con trai ông Quản Nghiêm, nhà ở số 34 đường Hộ Thành (Đường Đinh Tiên Hoàng ngày nay). Ông Triết đứng giữa sân một ngôi nhà gạch cũ kể: - “Hồi ấy tôi mới trên 10 tuổi đang đứng chơi ở chính cái sân đây thì bỗng nhiên có một người đàn bà quấn khăn vành, khuôn mặt khôi ngô, hỏi tôi với cái giọng Nghệ: - “Có phải nhà ông Quản đây không em?” - “Phải.” -Tôi (tức Lê Viết Triết) đáp rồi chạy vào nhà gọi thầy mẹ tôi ra. Mẹ tôi nhìn thấy bà khách liền mếu máo chạy đến ôm chầm lấy bà khách, hỏi: - “Nghe nói cô bị xử trảm rồi răng còn sống về được đây?” Bà khách đáp: - “Họ xử rồi nhưng họ chưa trảm nên tôi còn được về ghé thăm ông bà!” Trẻ con hay tò mò, tôi đón đường mẹ tôi hỏi: - “Cô mô rứa, mẹ?” Mẹ tôi nói nho nhỏ: “Cô Thanh con cụ Phó bảng, ngày xưa nhà cô ở cạnh nhà mình ngoài dãy Trại đường Đông Ba. Lúc nhỏ cô hay lý sự nên bị cụ Bảng đánh cho luôn. Mỗi lần cô bị đánh thầy hay chạy qua can. Sau đó cô đi làm cách mạng bị tù. Chừ mãn hạn tù cô về ghé thăm thầy mẹ!” Ông Triết biết nhiều chuyện rất thú vị có liên quan đến gia đình Bác ở Huế, nhưng tôi đang nóng ruột muốn biết” gian nhà nào Bác đã ở tại dãy Trại “nên tôi đã vô phép ngắt lời ông: - “Bác còn nhớ nhà ông thân của Bác ở dãy Trại không?” - “Còn nhớ chớ!” Ông Triết trả lời. Tôi mừng quá, sẵn xe Honda tôi nổ máy chở bác Triết ra vùng chợ Xép đường Đông Ba ngay. Thế là, thưa độc giả thân mến, có lẽ tôi là người cầm bút đầu tiên ở Huế, đã hân hạnh được biết, dù chưa cụ thể, một trong những khu vực Bác Hồ đã sống qua trong thời gian Người ở Huế. Nhà của ông Quản Nghiêm năm xưa là gian nhà đầu tiên dãy Trại bên tay phải (nếu đi từ trong ra cửa Đông Ba). Nhà ông Phó bảng ở bên cạnh tức là gian thứ hai của dãy Trại (gồm 12 gian). Nếu đúng như thế thì mái nhà lịch sử ấy nhằm vào số 47 đường Mai Thúc Loan hiện nay (1977). Tìm được một di tích thiêng liêng như thế tôi rất mừng. Song tôi lại cho rằng mới nghe một người kể dù cho người ấy đáng tin cậy đến đâu, cũng chưa thể kết luận được. Niềm vui dần dần hạ xuống. Mỗi lần đi qua đường Đông Ba tôi lại suy nghĩ mông lung. Trước đó chừng mươi năm, tôi cùng anh chị em Thanh niên Huế công tác bên cạnh bộ đội Trung đoàn 6 (Phú.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Xuân), góp phần làm chủ thành phố Huế suốt 25 ngày đêm trong chiến dịch Huế Xuân Sáu tám (2.1968). Sau tết Mậu thân tôi đã được báo cáo những sự tích chiến đấu trên đường Mai Thúc Loan và cửa Đông Ba với ông Lê Tư Minh - Phó bí thư Khu ủy kiêm bí thư Thành ủy Huế. Vì thế, có một lần ông Lê Tư Minh ra báo cáo chiến sự Xuân Mậu thân với Trung ương trở vào, ông bảo tôi: - “Bác theo dõi mặt trận Huế rất sát. Khi biết cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở cửa Đông Ba, Bác rất xúc động. Bác có nhắc lại ngày xưa gia đình Bác ở cửa Đông Ba.” Nhớ mẩu chuyện cũ, tôi tìm gặp lại ông Lê Tư Minh (đang công tác ở Ban nông nghiệp Trung ương). Nghe ông Lê Tư Minh kể tôi có ghi lại một đoạn như sau: - “Khi tôi báo cáo đến đoạn chiến trận diễn ra ác liệt tại đường Mai Thúc Loan và cửa Đông Ba, Bác đã đứng dậy, chân đi tất nhẹ nhàng trên sàn nhà gỗ. Người bước nhẹ nhàng chậm rãi (có lẽ lúc này Người đã yếu không được đi guốc hay đi dép như thường lệ). Bác khoát tay bảo tôi dừng lại một chút rồi Ngưòi hỏi: - “Đường Mai Thúc Loan trước kia là đường gì chú Tư?” Tôi kính cẩn trả lời: - “Dạ thưa Bác, đường Đông Ba, ạ!” Bác trầm ngâm một lúc rồi nói giọng lắng đọng: - “Ngày xưa, nhà ông cụ Bác ở đường Đông Ba. Từ ngoài đi vào Thành, nhà ở phía tay trái, căn thứ mười hay mười một gì đó, nay Bác không còn nhớ rõ!”. Nghe Bác kể tôi rất xúc động - Lời ông Lê Tư Minh - Tôi có ý định nhờ anh em hoạt động trong thành xác minh để sau này tôn tạo làm khu di tích quý báu của Huế nhưng chưa có dịp.” Nghe ông Lê Tư Minh nói đến đó tôi liền so sánh hai lời kể trên: - Bác Triết chỉ gian thứ hai (dãy Trại 12 gian) - từ trong ra, bên phải; - Ông Lê Tư Minh kể lại lời của Bác gian thứ mười hoặc mười một từ ngoài vào, ở bên trái. Như thế lời thuật lại của ông Lê Tư Minh gần khớp với sự chỉ dẫn của bác Triết. Nhưng tôi vẫn còn hồ nghi. Nhiều khi người ta thân nhau không phải chỉ ở cạnh nhà nhau. Gia đình của ông Quản Nghiêm có thể ở cách nhà của ông Phó bảng một vài gian, ông Quản cũng có thể qua chơi nhà ông Phó bảng được. Và chính Bác cũng không còn nhớ gia đình Bác đã ở gian thứ mười hay thứ mười một kia mà! Tôi rất chú ý cái gian thứ mười một (ngoài vào) hay gian thứ hai (trong ra) nhưng tôi vẫn chưa yên tâm để công bố tài liệu trên. Một thời gian sau, khi nghiên cứu về những năm tháng Bác theo học tại trường Pháp Việt Đông Ba và trường Quốc Học Huế tôi may mắn gặp được một người bạn học của Bác thuở ấy (năm 1978 đã ngoài 90 tuổi ta) tôi mới có dịp trở lại ngôi nhà thiêng liêng này. Người bạn học buổi thiếu thời của Bác tên là cụ Lê Thiện nhà ở tại số 26/11D Nguyễn Bỉnh Khiêm Thành phố Hồ Chí Minh. Theo lời cụ Lê Thiện kể thì nhà cụ Thiện lúc ấy ở đường Tịnh Tâm mỗi lần đi học trường Pháp Việt ngoài cửa Đông Ba cụ hay ghé vào gian Trại thứ hai (bên trái) rủ Nguyễn Sinh Côn đi học. Sau ngày gặp cụ Thiện trong tâm trí tôi không còn một nghi ngại nào nữa về căn nhà của gia đình Bác ở dãy Trại đường Đông Ba. Từ đó tôi mới bắt đầu tìm lai lịch, nội dung gian nhà cùng mối quan hệ của nó với thời thơ ấu của Bác..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Bổ sung năm 2001: Về sự việc cụ Phó bảng và gia đình ở tại dãy Trại đường Đông Ba đã được một mật văn của Mật thám Pháp ở Trung Kỳ đề ngày 8-3-1911 (Tài liệu số 2) xác nhận rằng: “Con trai ông ta (tức Nguyễn Tất Thành con trai của ông Nguyễn Sinh Sắc.NĐX), cách đây 2 năm (tức năm 1909) đã ở 1 căn hộ ở Đông Ba, đã đột ngột biến mất. Người ta tin là nó ở Nam Kỳ.” (AOM.SPCE.364).. * *. *. Trước kia phía trong cửa Đông Ba có hai dãy Trại của đội Tuyển phong - một đơn vị vũ trang của Nam triều, có nhiệm vụ canh giữ cửa Đông Ba. Theo tài liệu cũ và các vị cao niên, năm Thất thủ Kinh đô (1885), quân Pháp từ Trấn bình Đài (Mang Cá) tấn công vào Thành Nội, đội Tuyển Phong đã chiến đấu chống quân Pháp rất anh dũng. Vì lý do đó, sau khi chiếm được Kinh thành, bọn giặc Pháp đã xóa phiên hiệu đội Tuyển phong (cũng như tất cả lực lượng vũ trang khác của Nam triều), doanh trại của họ giao cho các quan nhỏ làm việc trong Lục bộ ở. Những quan chức ở đây phần lớn quê ở Nghệ Tĩnh và Quảng Nam. Năm 1903, ông Đào Tấn thôi giữ chức Tổng đốc An Tịnh về Kinh sung chức thượng thư bộ Công. Thấy dãy Trại các quan ở hư nát, bệ rạt quá ông Đào Tấn cho ông Hường Hàng đấu giá sửa chữa lại (2). Theo ông Ưng Tuệ (trên 90 tuổi) nhà ở đường Nhật Lệ cho biết: Cả dãy Trại 12 gian (bên đối diện cũng thế) dựng trên một cái nền gạch cao. Mỗi căn rộng năm mét, sâu 12 mét, cột kèo bằng gỗ lim thô tháp, chung quanh có tường gạch trát vôi, mái lợp ngói to bảng cục mịch khác với vẻ thanh lịch của các cung điện nhà vua. Mỗi gian có một lớp cửa bàng khoa. Phía sau dựng một dãy chái tranh làm nơi nấu nướng. Trong nhà - theo cụ Lê Thiện - đồ đạc đơn sơ gồm một chiếc chỏng tre và một bộ ngựa mấy tấm. Đó là nơi nằm viết lách, nơi tiếp bạn bè, nơi ăn uống và cũng là nơi nằm ngủ. Lúc đó chưa có nước máy, hằng ngày chị em cậu Côn phải đến cái giếng ở Ngã tư Âm hồn gánh nước. Việc vệ sinh vô cùng trở ngại. Ở dãy Trại ai muốn đi tiêu phải băng qua chợ Xép dùng cầu tiêu của tư nhân, mỗi bận đi phải trả vài xu (3).. (1) Hồ Chí Minh Toàn tập (T.I) tr.543 bảo cụ Sắc đem gia đình vào Huế 1904; Hoài Thanh Tuyển tập (t.2) lại nói 1905 (tr.404) (2) Mạc Như Tòng, Những điều nghe biết về Đào Tấn, Trong kỷ yếu Đào Tấn, Nhà thơ Nhà Nghệ sĩ Tuồng xuất sắc, VHTT Nghĩa Bình, Qui Nhơn, 1978, tr.123. (3) Nguyễn Đắc Xuân, Gian Nhà Bác Hồ ở dãy trại đường Đông Ba, Văn Hóa Nghệ Thuật, số 5/180, tr.31-32..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Chương 8: Những điều còn nhớ về người học sinh trường Pháp Việt Đông Ba và Quốc học ấy Khi nghe tin tôi tìm được chỗ ở đích xác của Bác Hồ ở Huế, các bạn của tôi cũng vui lây và họ khuyến khích tôi phải vượt qua nhũng khó khăn để làm việc. Một hôm đi làm về, đạp xe vô cửa Thượng Tứ, lòng đang bồi hồi nhớ lại những tư liệu có liên quan đến Bác và cửa Thượng Tứ vừa mới tìm được thì bỗng dưng nghe phía sau có người phóng xe Honda tới vỗ vai: - “Nhà nghiên cứu vừa rồi có tìm thêm được tư liệu gì mới nữa không?”. Tôi nhìn ngang qua vai thấy anh Nguyễn Khoa Quả - một nhiếp ảnh viên nổi tiếng ở Huế, tôi đáp với giọng lạc quan bình thường: - “Chưa có gì mới!” Anh Quả bảo tôi: - “Thế anh đã gặp ông Nguyễn Đạm, thân sinh của bác sĩ Nguyễn Hoài ở Bệnh viện Trung ương Huế chưa? Cùng đi một chuyến xe lửa với ông ta, vô tình mình được nghe ông kể chuyện ông học một lứa với Bác Hồ ở Huế đó!” Tôi mừng rỡ: - “Thế có phải là ông cậu ruột của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường không?”. Anh Quả đáp: - “Đúng rồi, đúng rồi”. Tôi mừng rỡ: - “Cám ơn anh. Tốt quá, chiều nay tôi sẽ đến ngay”. Anh Quả nói tiếp: - “Nhà ông Đạm ở kiệt 1 đường Âm Hồn gần đây thôi!”. Tôi chia tay anh Quả và đi thẳng vào nhà ông Nguyễn Đạm. * *. *. Ông Đạm vừa bị ngã, gãy xương đùi phải bó bột. Từ khi bị nạn ông không tiếp ai. Nghe tôi là bạn anh Hoàng Phủ Ngọc Tường và có quen biết với bác sĩ Nguyễn Hoài (con trai ông) nên ông cho phép tôi được vào phòng riêng của ông, nói chuyện. Ông Đạm tóc đã bạc trắng, người dong dỏng cao, nằm trong phòng thiếu ánh sáng nên nước da trắng của ông đã ngã vàng. Sau một vài câu thăm hỏi, tôi xin được nghe những kỷ niệm của ông với Bác Hồ..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Ông nói chậm rãi, giọng run run: - “Tôi người gốc Quảng Trị theo gia đình vào Huế từ nhỏ. Tôi không phải là người đồng trang đồng lứa với anh Côn, tôi nhỏ hơn anh đến bốn năm tuổi. Khi tôi vào học trường Pháp-Việt Đông Ba thì anh đã sắp ra trường. Tôi còn nhớ một vài kỷ niệm về anh, không phải vì anh đã trở thành Bác Hồ mà nhớ vì lúc nhỏ anh có một tính cách khác với các bạn cùng lứa. Cụ Bảng Huy thân sinh của anh làm quan, nhà ở dãy Trại đường Đông Ba. Những tối sáng trăng bọn trẻ chúng tôi thường mua Thanh trà đem đến Ngã tư Anh danh (nay là Ngã tư Mai Thúc LoanĐinh Bộ Lĩnh) ngồi ăn và nói chuyện. Người anh cao to, nuớc da ngăm ngăm đen, đầu hớt ca-rê, tóc dựng đứng lên. Anh nói giọng Nghệ rất to. Khi nào nói cũng dướng dướng cổ lên. Có lẽ vì thế mà hạt nút ở cổ áo anh thường đứt hết. Trông anh có vẻ bướng bướng. Các bạn rất thích anh, vì anh lúc nào cũng có vài chuyện mới để kể. Anh có cái tính không bao giờ để tàn câu chuyện mới ra về. Anh thường chia tay anh em bạn bè sau cái phút kể chuyện hào hứng nhất. Vì thế mỗi lần thấy anh đứng dậy, ai cũng muốn níu lại. Khi chia tay, các bạn thường chìa tay bắt và chào ”Ô-rờ-voa” (1), còn anh thì không chào như thế. Anh nói tiếng Tây bằng cái giọng Nghệ đặc sệt: “Rơ-vu-kịt!” (2). Như trên tôi đã nói, tôi không được học một lớp với anh Côn, anh nên tìm tờ đặc san Hoài niệm Quốc Học số 2, đọc bài hồi ký của ông Lê Thanh Cảnh tham khảo thêm!”. Tôi tiếp lời: - “Thưa ông, cháu đã đọc bài ấy rồi, nhưng cháu chưa thỏa mãn!” Ông Đạm khuyên: - “Thế thì anh nên vào cư xá Thanh Đa Thành phố Hồ Chí Minh hỏi xem thử ông Lê Thanh Cảnh có còn nhớ thêm được gì nữa không? Nhưng cũng phải coi chừng, ông Cảnh...” - Ông Đạm không nói hết lời mà thay vào những từ còn lại bằng một nụ cười héo hon trên môi. Trông ông Đạm đã có vẻ mệt, tôi đành phải cám ơn ông và xin được trở lại trong một dịp khác. * *. *. Tuy ông Đạm đã mách cho, nhưng tôi cũng phải nhờ ông Nguyễn Đình Hàm - nguyên là Hiệu trưởng trường Quốc Học, giới thiệu thêm. Mùa hè năm 1978 tôi vào Thành phố HCM tìm gặp ông Lê Thanh Cảnh. Nhà ông ở tại số 4/18 / lô 4 cứ xá Thanh Đa, TP.HCM. Hôm đó vào sáng Chủ nhật, gia đình ông đi xem lễ, chỉ có một người cháu trai ở nhà. Người cháu ông Cảnh tiếp tôi trong một gian phòng đơn sơ, sàn nhà chưa lát ca-rô còn xô xảm dấu vết của các sỏi. Tôi ngồi chờ chủ nhà trên một chiếc ghế xích đu, tấm bố đã mòn, trết mồ hôi láng bóng. Hai bên chỗ tôi ngồi là một cái bàn đặt năm bát cháo trắng và bên kia là một chiếc chỏng tre để ngổn ngang sách báo, chai lọ, ly tách và những đồ dùng cần thiết hàng ngày. Chờ ông Cảnh hơi lâu tôi có dịp nói chuyện với người cháu của ông Cảnh và nhìn đưọc kỹ lưỡng những đồ dùng của ông để trên chỏng tre. Mắt tôi đã dừng lại những cái nhãn dán trên một thẩu rượu. Cái nhãn ấy có viết đôi câu đối: “Bán rượu bán chè không bán nước Buôn ngàn, buôn vạn, chẳng buôn quan” (3).

<span class='text_page_counter'>(58)</span> Tôi nghĩ vơ vẩn về dụng ý của người dán câu đối này. Ông Cảnh đã viết trong hồi ký rằng ông đã làm bí thư, ngồi bên cạnh bốn đời Khâm sứ Huế. Đồng bào Huế cũng cho biết ông Cảnh là chủ nhân của nhiều hảng buôn lớn ở nhiều nơi. Có lẽ bây giờ ông muốn dùng câu đối này để thanh minh cho đời ông với chính quyền mới đây chăng? Khoảng 9 giờ sáng thì chủ nhân về. Ông Cảnh người cao, hốc hác, nhưng tướng mạo dềnh dàng. Tuổi đã trên 90 mà ông cũng đủ sức leo lên được bốn tầng lầu chứng tỏ ông đã có một thời trai trẻ được dinh dưỡng tốt. Mới nghe người cháu giới thiệu tôi và mục đích tôi đến nhà ông, ông vừa cởi áo véc-tông mắc lên giá vừa nói một thôi dài với giọng gay gắt: - “Tôi biết chuyện gì về cụ Hồ tôi đã viết hết cả lên đặc san Quốc Học, anh tìm lấy mà đọc. Bây giờ tôi không còn nhớ thêm gì nữa và cũng không có thì giờì tiếp các anh. Chúng tôi nghèo đói lắm làm không đủ mua gạo nấu cháo húp, có thì giờ đâu mà tiếp các anh!” Tôi tiếp lời ông: - “Cháu đã đọc bài của ông rồi, nhưng cháu mong muốn được nghe ông kể thêm cho một số chi tiết nữa!” Ông Cảnh quay lại phía tôi: - “Anh cứ đọc và xem như không gặp tôi. Tôi nói thực với anh: xin anh tha cho tôi để tôi được yên ổn làm ăn. - “Ông chỉ qua cái bàn có mấy tô cháo - “Cuộc sống của chúng tôi bây giờ chỉ có vậy” -Ông ngồi phịch vào cái ghế xích đu và đưa tay cho tôi bắt và nói một cách dứt khoát: - “Thôi chào anh!” Tôi biết ông Cảnh bất mãn với chế độ mới. Mà ông bất mãn là điều dễ hiểu thôi. Biết mình không đủ sức thuyết phục ông hôm nay nên tôi đã cáo từ. * *. *. Tôi về trọ trong nhà một bà bác dâu (bà Phùng Thị Dung)-bà con cô cậu với ba tôi, tại Hàng Xanh (Bình Thạnh). Thường ngày vô đây tôi chỉ nói chuyện bà con làng nước với bác, ít khi tôi đem chuyện viết lách ra nói. Lần đó, sau khi gặp ông Cảnh mà chưa được như ý, tôi về than thở với bác. Thật bất ngờ bác nói với tôi: - “Ông Cảnh ngày xưa học một trường với bác Trợ Nhuận nhà mình đó. Xưa nay ông nổi tiếng là một người làm cao, ai còn lạ gì?” Nghe bác nói rất rành rọt thế mà tôi cứ nghi là mình nghe nhầm! Lẽ nào có sự may mắn như vậy? Tôi hỏi lại: - “Thưa bác ông Cảnh có học một trường với bác mình thật à?” - “Chớ sao!” - Bác tôi nhắc lại:.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> - “Thế bác Trợ có biết Bác Hồ Chí Minh à?” Bác tôi đáp: - “Lúc sinh thời bác Trợ có nói học một lớp với Bác Hồ, nhưng lâu quá bác không còn nhớ rõ. Con muốn biết thì lên hỏi ông Trợ Thiện trên Đa-kao đây nì?” Hôm ấy về nhà chưa ăn cơm trưa mà tôi đã cảm thấy no. Đợi cơn mưa dông Sài Gòn dứt, theo sự chỉ dẫn của bác, tôi ngược lên Sở thú rồi rẽ vào tìm nhà ông Thiện ở trong một cái kiệt đường Nguyễn Bĩnh Khiêm (số 26/11D). Ông Thiện người cao to, đã quá cái tuổi chín mươi nên nước da hơi bạc, đầu tóc trắng phau. Tôi vào nhà giữa lúc ông đang ngồi trong bộ xa-lông đã ám khói đọc báo Nhân Dân. Tất cả các sách báo cũ đều được ông bọc bao ni-lông trong và xếp đặt cẩn thận xung quanh ông. Tôi đưa cái giấy giới thiệu của Hội văn nghệ cùng cái thư mấy chữ của bác tôi gửi thăm ông. Ông tuần tự đọc các thứ giấy tờ với đôi mắt trần, nét mặt tỉnh khô. Ông hỏi tôi: - “Anh là cháu Trợ Nhuận à?” - “Dạ phải-Thưa cụ!” - “Trợ Nhuận nào?” - “Trợ Nhuận người làng Dã Lê Chánh có nhà ở tại Gia Hội ngày xưa học một lớp với cụ đó!” - “Trợ Nhuận độ này mạnh không?” - “Thưa cụ, bác cháu mất từ hồi vỡ Mặt trân năm bốn bảy kia chớ!” - “Rứa à? Nhưng sao anh lại là cháu được?” Tôi nhìn ông khó hiểu quá. Tôi giải thích: - “Bác Trợ với ba cháu là chỗ anh em cô cậu!” Ông lại hỏi tôi thêm một thôi dài nữa. Tôi hơi nản, bụng cứ bảo dạ “lại gặp một củ trối nữa đây rồi!” May sao cuối cùng ông bảo: - “Xin lỗi anh. Lưu manh ở cái đất Sài Gòn này nhiều lắm. Tại vì Trợ Nhuận là người Huế, còn anh thì lại nói giọng Quảng khiến tôi nghi quá! Sở dĩ tôi hỏi anh cặn kẽ một chút để khỏi lầm thôi, chớ tui với Trợ Nhuận ngày xưa thân thiết như anh em. Và còn gì sung sướng hơn trước khi tôi nhắm mắt, được kể những kỷ niệm của đời mình với cụ Hồ cho một ngưòi viết văn nghe!” Nghe ông Thiện đổi giọng tôi lại đâm tiếc. Tôi ân hận biết đâu sáng nay tôi cứ sấn sổ ngồi lại nhà ông Lê Thanh Cảnh rồi cuối cùng biết đâu cũng sẽ được ông chấp nhận chăng? Tôi nhanh chóng tự kiểm điểm và rút kinh. Bây giờ thì tôi phải giấu chuyện bị ông Cảnh từ chối buổi sáng nay. Ông Thiện đã tiếp tôi nhiều buổi và sau đây là một đoạn tự sự của ông..

<span class='text_page_counter'>(60)</span> - “Khoảng năm 1920 tôi dạy “cours Supérieur” (4) tại một ngôi trường Pháp Việt do anh Hoàng Tạo (con trai cụ Hoàng Thông đã từng làm Quản giáo Hán văn tại trường Quốc Học năm xưa) làm hiệu trưởng (tại Quảng Ngãi). Hôm ấy tôi đang đứng giảng bài cho học trò thì có giấy gọi tôi đến Toà sứ. Công sứ Pháp lúc đó là Jean Dupuis tiếp tôi với thái độ lịch sự của một người quen biết từ lâu. - “Chào thầy giáo. Hôm nay chúng tôi có một việc quan trọng cần đến sự giúp đỡ của thầy giáo. Thầy giáo vui lòng chứ?” Tôi chưa biết được mục đích Toà sứ gọi, tôi hỏi với giọng ngạc nhiên: - “Ngoài việc dạy học, tôi có tài cán gì đâu để có thể giúp được cho các Ngài?” - “Có chứ!” -Tên Công sứ cười vui vẻ - “-Bạn của ông giới thiệu mà!” - “Bạn tôi?”. - “Ông không nhớ ông Dương Đình Hoè sao?”. Tôi ngúc đầu: - “Hoè là bạn học cùng lớp với tôi ở trường Quốc Học Huế, cùng đổ Thành chung với tôi một lần. Sau đó tôi đi dạy học, còn Hoè thì vô làm thư ký ở Toà sứ”. Dupuis trưng ra trước mặt tôi một chiếc ảnh căn cước của một người thanh niên có khuôn mặt thon thon, đôi mắt sáng, đội mũ mốt-xăng. Ngón tay cái của tên Công sứ che mất cái tên đề dưói tấm ảnh. Anh ta hỏi tôi: - “Có biết người này không?”. - “Không biết” - Tôi lắc đầu đáp. Dupuis từ từ giở ngón tay cái ra, miệng anh đọc hàng chữ ghi dưới ảnh: “Nguyễn Ái Quốc”. Cái tên đẹp đẽ và cao quý làm sao! Ngay lập tức linh tính báo cho tôi biết sắp có chuyện không hay đến với tôi đây rồi. Giọng run run tôi bảo: - “Thưa Ngài ông Nguyễn Ái Quốc có liên quan gì đến tôi đâu?”. - “Có chứ!” Dupuis khẳng định. - “Ha!”-Tôi lo lắng, há mồn kêu lên. Dupuis giải thích trong kẻ răng: - “Nguyễn Ái Quốc xưa kia có những cái tên Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, học cùng lớp với thầy giáo ở trường Quốc Học. Ông Hoè đã cho chúng tôi biết điều đó. Có đúng không?” Nửa sợ, nửa mừng. Tôi không ngờ anh Côn sang trời Âu hoạt động cách mạng lại thay đổi dữ vậy! Tôi đáp:.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> - “Rứa thì có. Cách đây trên mười năm, ông Quốc mặc áo dài đen, học một lớp với tôi ở trường Pháp-Việt Đông Ba, sau qua trường Quốc Học, bây giờ ông ấy mặc Âu phục tôi nhìn không ra!” Dupuis bỏ chiếc ảnh vào cặp hồ sơ rồi bảo tôi: - “Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động bí mật tại Pháp. Ông ta nói dân chúng Pháp thì tốt, nhưng những người Pháp cai trị ở Đông Dương thì rất xấu. Ông mỉa mai, chửi bới, xúc phạm đến Nhà nước Bảo hộ rất nhiều. Bộ thuộc địa gởi cái ảnh này về để nhận mặt. Hễ thấy Nguyễn Ái Quốc xuất hiện ở Đông Dương thì phải đi báo bắt ngay. - “Dupuis nhìn vào mặt tôi nói nửa như ra lệnh nửa như khích lệ - “Ăn lương Nhà nước Bảo hộ, thầy giáo phải dò xét để bắt cho được Nguyễn Ái Quốc!” Tôi nghĩ bụng: Trước đây sợ làm tay sai cho Pháp nên không đi làm việc cho các Toà sứ mà chọn con đường đi dạy học. Không ngờ làm thầy giáo trong chế độ thực dân cũng không thoát khỏi số kiếp làm mật thám cho Pháp. Tôi cảm thấy xấu hổ với người bạn xưa đang hoạt động ở hải ngoại. Để được tha về đi dạy học, tôi nói với Dupuis: - “Nguyễn Sinh Côn ở bên mẫu quốc. Nếu ông ta về nước thì Chính phủ Bảo hộ và những người làm việc thân cận với chính phủ biết trước chớ đâu đến phiên tôi. Xin ngài Công sứ thông cảm và cho tôi cáo từ.” Tên Công sứ rất bực mình. Hắn dùng dằn một lúc rồi cuối cùng hắn cũng cho tôi về. Trên đường về nhà hình ảnh anh Nguyễn Sinh Côn hiện ra trong tâm trí tôi. ... Nhân ngày khai giảng năm học 1907 ở trường Pháp-Việt Đông Ba, tôi và anh Trần Kinh, vốn là bạn thân từ Cours Préparatoire (5), được lên cours Supérieur (6) thì gặp anh Nguyễn Sinh Côn (hình như anh Côn học băng nên ở các lớp dưới anh không cùng học một lớp với chúng tôi). Vào lớp anh Côn cũng như tôi đều là những học sinh lớn tuổi, vóc dạc cao to, nên phải ngồi ở những hàng ghế cuối phòng. Sau vài tuần, thấy Côn học giỏi, thông minh, vốn sẵn cái tâm sự lớn tuổi, đã học qua chữ Hán, tôi quen thân với anh Côn ngay. Nhà tôi ở gần hồ Tịnh Tâm, mỗi lần đi học tôi đều ghé qua gian thứ hai dãy Trại phía bên tay phải rủ Côn đi học (gian thứ nhất của Chánh quản Hộ thành). Nghe nói, lúc mới vào học, Côn còn để chỏm, đội nón tre sơn, áo quần vải thô nhuộm nâu, đi guốc gỗ quai mây, mũi guốc cao cong lên. Mấy tuần sau, Côn cúp tóc ca-rê, mặc quần vải quyến trắng, áo vải dù đen, đội nón lá 16 vành như học trò Kinh. Cơ sở của trường dựa vào cái đình chợ Đông Ba cũ. Năm 1899 “chợ Đông Ba đem ra ngoài giại”, cái đình chợ cũ được sửa chữa lại làm thành bốn phòng học (7). Phòng nào cũng trang trí giống nhau. Bức tưòng trước mặt treo bảng đen, phía trên có dòng chữ “République Francaise”, “Liberté-EïgalitéFraternité” (8). Trong lớp có 35 người, Lê Thiện, Trần Kinh và Nguyễn Sinh Côn học trội nhất. Ngoài chương trình học ở trường chúng tôi còn đi học cours du soir (lớp chiều) với thầy Ưng Dự (9) hoặc tại hội Quảng Tri Huế. (Hình như lúc đi học cours du soir có cả trò Hổ - tức Nguyễn Sinh Khiêm, tôi nhớ không rõ lắm). Học trong lớp, nghe thầy giảng Pháp văn trò Côn hay ghi chú bằng chữ Hán. Lúc ấy Pháp văn là môn chính, chữ Hán cũng còn trọng, chữ Quốc ngữ còn rất thô sơ. Tôi nhớ có lần thầy giáo đọc một bài ám tả ngây ngô như thế này: “Xắn quần cho gọn Bới tóc cho cao.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> Đá mẹ vợ xuống ao Mới ra người rể thảo”. Côn học giỏi nhưng không học “gạo”. Học môn gì anh cũng hỏi cặn kẽ. Nếu thầy trả lời chưa thỏa mãn, anh hỏi cho đến lúc ngã ngũ mới thôi. Hán văn anh giỏi nhất lớp, môn Pháp văn không có anh học trò Nghệ nào bằng anh.” Ông Thiện kể đến đó, tôi xin phép được hỏi chen vào: - “Thưa cụ, cụ Phạm Gia Cận, người cùng quê với Bác Hồ, có kể với ông Tôn Quang Duyệt một mẩu chuyện rằng: “Lúc học trường Pháp-Việt Đông Ba, có lần, thầy giáo ra một bài version (dịch Pháp ra Việt) trong đó có những câu: “Oh chat, Oh chat! Vous voulez manger le rat, Montez sur la poutre” - Bác Hồ lúc ấy đã dịch ra văn vần Việt Nam rằng: “Con mèo, con mẽo, con meo! Muốn bắt con chuột thì leo lên xà!” Có đúng không? Và người thầy giáo ấy tên gì?” Ông Thiện ngẫm nghĩ rồi đáp một cách thận trọng: - “Hình như chuyện đó tôi cũng có nghe. Nhưng có lẽ ở các cours dưới. Trong cours Supérieur không có chuyện đó. Nếu có thì người thầy giáo ấy không ai khác hơn là thầy Hồ Đắc Quỳnh. - Anh cả của Hồ Đắc Bích, Hồ Đắc Định. Nếu có dịp về Huế anh hỏi anh Định thì chắc hơn.” Tôi định hỏi thêm một vài câu nữa, nhưng tôi lại cố nén lòng mình lại để nghe ông Thiện kể chuyện tiếp: - “Đến cuối năm 1907, nhà trường chọn mười người cho nộp đơn đi thi primaire (tiểu học). Kỳ thi Tiểu học cuối năm 1907, lấy đỗ 7 người. Đó là Lê Thiện, Nguyễn Đình Cảnh, Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Viết Nhuận, Nguyễn Xuân Yến, Phan Văn Quế, Trần Kinh. Đậu được primaire lúc ấy mừng lắm, mừng hơn cả những cậu Tú, cậu Cử sau này. Danh sách những người đổ đều được thông báo với Toà Khâm, những người xuất sắc đều không thoát được đôi mắt của Khâm sứ. Đậu xong chúng tôi vào lớp Nhất niên trường Quốc Học. Lúc ấy trường Quốc Học là hai dãy nhà tranh chạy song song với đường Jules Ferry (Lê Lợi ngày nay). Trường bị trận bão năm Thìn (1904) thổi tốc mái, mái tranh nhiều chỗ hư nát, trời mưa nước chảy ròng ròng, trời nắng mặt trời dọi vào đến mặt học sinh. Tuy nhiên được vào học trường Quốc Học lúc đó oai lắm. Nhiều người có tiền chạy chọt đủ chỗ vẫn không thể xin cho con vào học được. Học trò phần lớn là tôn ấm, con ông cháu cha ở Nam triều và Chính phủ Bảo hộ. Thứ dân phải rất xuất sắc mới lọt vào được. Học trò ỷ thế rất ngỗ nghịch, có cậu đã có vợ, đi học ở lại trường buổi trưa có lính gánh cơm đem đến ăn. Ở trường Đông Ba tôi đứng đầu lớp. Khi qua Quốc Học tôi phải nhường vị thứ ấy cho người khác. Anh Côn không còn gần gũi tôi như xưa. Anh hay đi chơi với những người giỏi Pháp văn, những người nói tiếng Pháp hay để anh nói cho đúng.” Kể đến đó, ông Thiện nở một nụ cười và bảo tôi: - “Anh nên tìm ông Lê Thanh Cảnh hỏi thêm. Lúc đó Cảnh rất lanh lợi, cái gì có liên quan đến đời tư bạn bè, ông ta đều nhớ cả”. Tôi gật đầu vâng lời, ông Thiện kể tiếp:.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> - “Sức học của anh Côn ở Quốc Học xuất sắc hơn trước. Trí nhớ của anh phát triển một cách lạ thường. Thầy giáo mới viết lên bảng một bài Récitation (Học thuộc lòng), anh đọc một vài lần, thầy giáo lau sạch bài trên bảng anh có thể đọc lại được. Khi làm luận anh hay chêm những câu văn vần. Có một lần trả luận, thầy Queignec cầm bài của anh Côn giới thiệu với học sinh cả lớp rằng: - “Côn a traité le sujet de rédaction en vers. C’est un élève intelligent et vraiement distingué” (10). Lúc ấy ở Huế cũng như các tỉnh ở Trung bộ nổi lên phong trào diễn thuyết về dân quyền, hô hào duy tân, cắt tóc ngắn, mặc Âu phục, gọi nhau là “đồng bào”. Người đứng đầu phong trào là Phan Châu Trinh. Ở Huế có các ông Lê Đình Mộng, Trần Trinh Linh... nổi tiếng diễn thuyết táo bạo. Phong trào này hấp dẫn học sinh. Nhiều cậu ham đi nghe diễn thuyết bỏ cả việc học hành. Thực hiện lời hô hào cắt tóc ngắn tức là đoạn tuyệt với cái lạc hậu. Thanh niên học sinh Huế vừa đi phổ biến bài thơ “Húi hề, Húi hề!” vừa cầm kéo ra những chỗ đông người cắt tóc ngắn cho đồng bào. Anh Côn là một trong những người hăng hái nhất trong phong trào này. Cuối năm 1907, sau vụ vua Thành Thái bị cưỡng bức phải tốn vị (abdiquer), dân tình Huế rất giao động. Tiếp đó đầu năm 1908, tiếng đồn dân các hạt Quảng Nam Quảng Ngãi nổi dậy chống thuế tới tấp vang đến đất Thần kinh. Đang lúc tình hình căng thẳng này ông Hoàng Thông - thầy giáo dạy Hán văn tại trường Quốc Học, và một số người trong Hội buôn Đồng Vinh (tại Bao vinh) bị bắt. Rồi không rõ cha mẹ tôi nghe tin ở đâu dự đoán rằng một số học sinh Quốc Học có dính líu tới thầy Hoàng Thông rồi cũng sẽ bị bắt, ông bà cụ sợ tôi có liên can nên bắt tôi phải nghỉ học một thời gian. Tôi nghỉ học đưọc mấy ngày thì cuộc chống thuế ở Thừa Thiên Huế nổ ra. Lúc đầu sôi động ở nông thôn sau lan đến Huế. Trong thời gian đó, do tính hiếu kỳ tôi có trốn về làng Dã Lê Chánh rủ anh Nguyễn Viết Nhuận lên làng Công Lương xem dân chống thuế. Nhưng khi đến gần làng thấy lính tập và dân làng đánh nhau dữ quá, tôi lánh đi ngay. Sau này đi học lại, tôi không gặp anh Côn nữa. Không rõ vì sao (?). Mãi đến sau năm1920, như tôi đã thuật bữa trước, sau khi gặp ông Công sứ Quảng Nghĩa là Jean Dupuis, tôi có kể chuyện lại với anh hiệu trưởng Hoàng Tạo. Anh Tạo và tôi lại có dịp nói chuyện xưa. Anh cho tôi biết, trước ngày từ giả Huế, anh Côn có đến từ giả thầy Hoàng Thông đang bị giam trong lao Thừa Phủ. Lúc chia tay anh rất ngậm ngùi...”.. (1) Aurevoir: (tiếng Pháp) Tạm biệt. (2) Je vous quitte (Tiếng Pháp): Tôi xa các bạn. (3) Ông Cảnh đã trích hai câu đối này trong một bài thơ của cụ Giải Huân (Lê Văn Huân). (4)Tức là lớp Cao đẳng (lớp nhất). (5) Lớp Dự bị. (6) Lớp Cao đẳng, lớp Nhất. (7) ĐNNTC T.Thừa Thiên phủ (thượng) có chép: “Trường Pháp-Việt ở ngoài quách cửa Chính Đông. (Đông ba), nguyên trước là đình chợ Đông Gia (Ba) có một dãy 10 gian, chia làm 5 phòng, trong lấy một phòng hai gian làm chỗ cho giáo viên cư trú, còn bốn phòng tám gian chia làm bốn lớp học dạy học trò”..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> (8) Tự do, Bình đẳng, Bác ái. (9) Một trong những học sinh lớp Tôn ấm đổ Thành chung đầu tiên của trường Quốc Học Huế. (10) Dịch: Trò Côn đã làm cái đề luận này bằng thơ, đây là một học sinh thông minh và xuất chúng..

<span class='text_page_counter'>(65)</span> Chương 9: Muốn làm quen với văn minh - văn hoá Pháp Theo lời hướng dẫn của ông Lê Thiện, về Huế tôi tìm nhà ông Hồ Đắc Định ở Bãi Dâu (số 8 đường Cao Bá Quát). Tôi vào nhà lúc ông đang cạo râu. Ông Định nổi tiếng là một người giỏi Hán văn, giỏi Pháp văn và đặc biệt vẽ rất đẹp. Người thầy giáo tài hoa ấy có một người vợ trẻ hơn ông đến bốn mươi tuổi. Ông là thầy dạy Hán văn cũ của tôi ở Đại học Văn khoa Huế. Nhờ tình thầy trò cũ tôi được ông tiếp một cách thân mật. Sau năm ba câu thăm hỏi tôi vô đề ngay: - “Sau ngày thống nhất đến nay con chuyên đi nghiên cứu để viết về Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Qua lời giới thiệu của cụ Lê Thiện con biết gia đình thầy còn giữ nhiều ký ức có liên quan đến đề tài của con, hôm nay con đến thăm thầy cô và kính mong thầy cho con hân hạnh được ghi lại những ký ức ấy!” Ông Định vừa cạo râu vừa nói với tôi: - “Xin lỗi nghe! Cạo lỡ hàm râu. Mà này, sao anh không đi làm cái chi kiếm tiền mà lại đi viết về cụ Hồ cho khó khăn vậy? Cụ Hồ chết rồi còn nhờ nhàng chi được nữa đâu?” Ông Định tỏ ra xem thường tôi. Có lẽ ông nghĩ tôi kém chữ Hán mà lại nhác học nên rồi làm gì cũng chẳng ra gì chăng? Tôi cảm thấy hơi bẽ bàng: - “Lúc cụ Hồ còn sống thì con hiểu mọi việc chưa thấu đáo, làm sao con viết được! Còn bây giờ muốn đi làm bất cứ việc gì miễn có tiền thì con lại tiếc những năm tháng bỏ thành phố đi theo kháng chiến. Con rất mong thầy thông cảm và giúp cho để con có thể viết thành công!” Ông Định sợ tôi thất vọng, ông đổi giọng an ủi tôi ngay: - “Nói vậy cho vui chứ tôi biết anh là một người rất có chí. Không làm thì thôi chứ đã làm thì làm đến nơi đến chốn. Nhưng tôi có biết gì nhiều đâu hè?” Ông Định đổi thái độ làm cho tôi mừng thầm: “Cám ơn thầy đã cho con những lời dạy bảo quý báu. Sau này con có làm được một cái gì chính là nhờ các ông, các thầy và bà con xứ Huế hết lòng giúp đỡ cho con!” * *. *. Lời kể cụ Hồ Đắc Định (87 tuổi) (1): - “Lúc cụ Hồ còn là câu học sinh Nguyễn Sinh Côn ở trường Đông Ba và trường Quốc Học tôi có biết nhưng ít khi gặp nhau chuyện trò. Tuy vậy, trong gia đình tôi thì không thể quên được người học sinh ấy. Bởi vì cuộc đời học vấn của cụ Hồ lúc ấy có liên quan đến ông anh tôi là thầy trợ Hồ Đắc Quỳnh. Trước đây mấy người cháu của tôi đi tập kết (Hồ Đắc Nga làm ở báo Độc Lập) gửi thư về bảo tôi viết chuyện ấy. Nhưng tôi không viết. Anh lạ gì người Huế mình có thói quen rất sợ mang tiếng “thấy sang bắt quàng làm họ”. Bây giờ thì cụ Hồ đã mất gần mươi năm rồi, đối với anh là học trò cũ, tôi không thể từ chối được.Tôi kể anh nghe rồi anh coi chọn sử dụng được cái gì thì tuỳ ý anh..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> - “Lúc vào học trường Pháp Việt Đông Ba trình độ Pháp văn của anh Côn còn kém lắm. Từ điển rất hiếm và học sinh cũng chưa có thói quen tra Từ điển. Gặp chữ gì khó hiểu anh Côn cũng hỏi thầy. Một hôm mới vào lớp anh Côn thấy dòng chữ kẻ phía trên tấm bảng đen trước mặt, anh đứng dậy hỏi thầy: - “République Francaise, Liberté-Égalité-Fraternité, nghĩa là gì, thưa thầy?” Anh tôi- cụ Hồ Đắc Quỳnh - vốn là một học sinh thông minh, mới 23 tuổi đã đỗ Thành chung, tuy vậy anh cũng chưa hiểu hết câu tiêu ngữ này. République Francaise là nước cộng hoà Pháp nhiều người đã hiểu. Còn ba chữ kia thì sao? Vì tình trạng đất nước mình lúc đó không có những từ tương đương với những từ Pháp ấy. Cuối cùng anh tôi giở Từ điển ra xem và đọc nguyên văn bằng tiếng Pháp cho anh Côn và cả lớp đều nghe. Nghe xong anh Côn vẫn chưa thỏa mãn. Hết giờ anh Côn và một số học sinh đi theo yêu cầu thầy giáo giải nghĩa thêm bằng tiếng Việt nữa. Khi anh hiểu mấy chữ ấy rồi thì anh rất thích thú. Anh nói với bạn bè anh sẽ học tiếng Pháp cho thật giỏi để hiểu được văn minh, lịch sử nước Pháp. Ngoài giờ học ở trường anh còn xin đi học cours du soir (Lớp chiều) với thầy Ưng Dự (lớp học chiều ấy mở ngay ở ngã tư Trần Hưng Đạo-Phan Đăng Lưu ngày nay).” Tôi xin lỗi ông Định và hỏi chen vào: - “Thưa thầy, có lẽ vì thế mà sau này Bác Hồ đã kể lại với nhà báo Man-đơ-sơ-tam như thế này chăng: “Vào trạc13 tuổi lần đầu tiên tôi đã nghe những từ Pháp Tự do-Bình đẳng-Bác ái... Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy” (2). - “Có thể như thế!” - Ông Định đồng tình với tôi. Thói quen nghề nghiệp khiến tôi buộc miệng hỏi: - “Theo nghiên cứu của nhiều người, Bác Hồ đã vào học trường Đông Ba từ năm 1905, vậy câu chuyện trên chắc phải xảy ra vào những ngày đầu Bác mới vào học phải không, thưa thầy?” - “Tôi cũng nghĩ thế!” - Ông Định gật đầu. Tôi thắc mắc: - “Bác sinh năm 1890, năm 1905 Bác lên 15 tuổi. Thế tại sao Bác có thể quên nói với nhà báo Man-đơ-sơ-tam là năm 13 tuổi?” Ông Định chậm rải nâng bình nước trà lên, móc xác trà cũ bỏ ra và bỏ trà mới vào bình, miệng ông chúm chím cười nói với tôi: - “Năm 1923, Bác Hồ nói như thế là chính xác đó. Theo những bạn bè cũ của Bác Hồ cho biết Bác sinh vào nămm 1892, ông Lê Thanh Cảnh đọc được hồ sơ mật thám Pháp lập từ năm 1920 ở Toà khâm cũng nói Nguyễn Sinh Côn sinh năm 1892, các nhà viết sử phương Tây (trước và sau năm 1945) cũng đều cho rằng Bác sinh năm 1892. Anh về giở sách lại mà xem..

<span class='text_page_counter'>(67)</span> Những tài liệu cho rằng Bác sinh năm 1890 chỉ mới xuất hiện sau năm 1945 và chỉ có Nhà nước của mình xác nhận như vậy thôi!” Tôi sực nhớ lại những tài liệu tôi đã đọc (3) và có vẻ suy nghĩ trước con số năm sinh của Bác Hồ 1890. Đọc được ý nghĩ của tôi, ông Định bảo tôi với giọng nghiêm trang của một thầy giáo cũ: - “Nhưng anh cũng phải hiểu rằng: Khi vào Huế học, Bác Hồ đã lớn tuổi, muốn xin đi học tiếng Pháp được dễ dàng biết đâu Bác đã khai trụt tuổi? Đến năm 1945, Cách mạng thành công, chính quyền do Bác lãnh đạo Bác cần gì phải khai trụt nữa! Bác có thể lấy lại cái năm sinh chính thức của mình là 1890 chăng! Làm như thế cũng có lợi. Ông chủ tịch nước lớn tuổi một chút để thêm phần trịnh trọng với nước ngoài và các tầng lớp quần chúng, như vậy có sao đâu? Mình là người cầm bút, làm việc khoa học, có lương tâm phải tìm hiểu cho thật cặn kẽ mới thấy được sự thật. Bút sa gà chết anh nhớ chớ?” Tôi mừng rỡ: - “Gần 90 tuổi rồi mà thầy vẫn còn chính xác quá! Con xin ghi lòng tạc dạ những lời chỉ giáo quí giá của thầy!” ... - “Xin thầy kể thêm cho con một số hồi ức có liên quan đến thời gian Bác Hồ còn ngồi ở ghế nhà trường Quốc Học!” - “Thời gian ấy tôi có biết nhưng tôi không nhớ rõ bằng cụ Lê Thiện, gia đình cụ Ưng Dự, gia đình cụ Hoàng Thông, gia đình cụ Lê Văn Miến. Còn tôi nếu anh thấy cần tôi sẽ kể thêm một vài mẩu chuyện thời gian Bác ở Quy Nhơn!” Trời đã chiều, tôi thấy ông Định mệt tôi thưa: - “Cám ơn thầy - Để thầy nghỉ. Con chỉ nghiên cứu về thời gian Bác Hồ ở Huế thôi!” * *. *. Hình ảnh ông Lê Văn Miến trong tình cảm của những người đã từng học với ông rất sâu đậm. Những lần nghe tôi báo cáo công việc nghiên cứu về Bác Hồ ở Huế, các bậc lão thành cứ hỏi: - “Anh đã nghiên cứu kỹ về cụ Lê Văn Miến chưa? Thầy Miến có dạy Bác và có ảnh hưởng đối với Bác đấy!” Bởi thế tôi đã bỏ một thời gian khá lâu để nghiên cứu và viết một bài về cụ đăng trên tạp chí Văn Hoá Nghệ Thuật (4). Theo di cảo của ông Lê Thước, ông Lê Văn Miến là người đã được Triều đình giao cho mở trường PhápViệt tại Nghệ An. Cơ sở của trường đặt tại ngôi nhà cũ của ông Hoàng Cao Khải (5). Ông Miến cũng là người lập ra Hoan châu học hội và có đóng tiền cho Triêu dương thương điếm. Ông Lê Thước còn cho biết thêm, Bác Hồ đã từng học Pháp văn với ông Miến.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> tại trường Pháp Việt (Vinh), và ông Phó bảng Sắc cũng thường lui tới trụ sở của Triêu dương thương điếm và Hoan châu học hội. Ngoài tài liệu chưa xuất bản của ông Lê Thước, tôi chưa có thêm tư liệu nào khác để khẳng định điều này. Sự kiện ông Miến có dạy Bác Hồ ở trường Quốc Học thì đã được nhiều người và nhiều tư liệu khác nhau xác nhận. Ông Lê Văn Yên con trai thứ của ông Lê Văn Miến hiện nay (1978) ở tại số nhà 153, đường Thuận An Huế, kể lại rằng: - “Từ đầu năm 1943 thầy tôi đưa gia đình về Phò Trạch ở trong một ngôi nhà do lòng hảo tâm của học sinh cũ của thầy tôi mua tặng. Trong những năm ấy ông Nguyễn Tất Đạt bị an trí ở Phù Lễ (Quảng Điền) hay lên thăm thầy tôi, đôi khi ông ở lại trong nhà hàng tuần lễ. Trong những ngày ấy ông Đạt hay ngồi đàm đạo với thầy tôi, kể lại những kỷ niệm hai anh em Đạt Thành học với thầy tôi tại trường Quốc Học Huế. Khi thầy tôi mất (6.6.1943) có hai người học trò đứng chịu tang: người thứ nhất là ông Nguyễn Trác đại diện cho Hội học sinh Quốc tử giám, thứ hai là ông Nguyễn Tất Đạt đại diện cho học sinh Quốc Học.” Ông Tôn Thất Sa nguyên là giáo viên dạy vẽ tại trường Quốc Học từ năm 1905 kể: - “Năm 1956 kỷ niệm Đệ thập lục chu niên trường Quốc Học, chúng tôi - những giáo viên và học sinh cựu trào của trường có dịp ngồi lại với nhau kể chuyện xưa. Anh Ưng Dự nói có dạy Pháp văn cho cụ Hồ tại lớp chiều và tại trường Quốc Học. Lúc ấy cụ Hồ còn mang tên Nguyễn Sinh Côn. Tôi có biết trò Côn thuở ấy” - Cụ Sa cười và nói tiếp- “Vì trò hay hỏi thầy nên ai cũng biết. Nhưng tôi không dạy trò Côn. Người dạy trò Côn chính là cụ Tế Miến (6). Mỗi lẩn dạy cụ Tế thường dành lại mười phút để kể chuyện văn minh cho học sinh nghe. Cụ kể chuyện ở bên Pháp cũng có người nghèo, đêm đêm các cô gái Pháp nghèo phải ra vườn Luýt-Xăm-bua làm tiền để kiếm sống, ông già bà lão không nơi nương tựa chống gậy đi dọc theo các lề đường phố sục sạo các thùng rác tìm những thứ gì còn ăn được thì ăn... Trong các thư viện, các bảo tàng của Pháp có nhiều cổ vật, nhiều sách vở quý. Đặc biệt là người đọc có thể đến thư viện mượn đọc những cuốn sách nói về Cách mạng Pháp và Cách mạng thế giới. Người Pháp ở Pháp khác người Pháp ở Việt Nam. Người Pháp ở Pháp từ ông Viện Hàn lâm xuống cho đến người dân lao động đều rất quý trọng người Việt Nam miễn là người Việt Nam có tư cách, biết tự trọng, làm việc giỏi, học hành chăm chỉ...Trò Côn nghe thầy Miến kể những chuyện ấy rất thích thú, trò thích hơn cả việc học vẽ. Có lần trò hỏi thầy giáo: “Làm sao có thể qua Pháp để xem người Pháp họ sống ra sao?” - Kể đến đó cụ Tôn Thất Sa nổi cơn ho, cụ dừng nói đưa tay tự vuốt ngực rồi uống một ngụm nước chắp chắp cho khỏi khan giọng rồi kể tiếp một cách hứng thú: “Năm 1927, tôi nghe cụ Phan Bội Châu nói Nguyễn Ái Quốc tức cậu học sinh Nguyễn Sinh Côn ngày xưa ở trường Quốc Học đang hoạt động yêu nước ở Pháp tôi hiểu ra ngay. Trường Quốc Học đối với Nguyễn Ái Quốc rất quan trọng, anh là người Huế lại là học sinh Quốc Học, anh nên nghiên cứu cho thật kỹ ngôi trường này và hoàn cảnh xã hội lúc ấy để giới thiệu cho người đời sau hiểu.” - “Thưa cụ...!” -Tôi ngắt lời - “Cháu đã nghiên cứu nhưng khó quá. Nhân tiện cháu xin cụ giúp cho cháu một ít tư liệu!” - “Sẵn sàng!” - Ông Sa đáp một cách nhiệt tình. Nói dứt lời ông Sa chống hai tay lên bàn cố gắng đứng dậy đi đến mở cái tủ kê bên cạnh lấy đưa cho tôi một xấp giấy màu tím tím. Ông bảo:.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> - “Đây là bài Le Quốc Học của E. Le Bris -đồng nhiệp của tôi, trong ấy tôi có một cái dessin vẽ cổng trường Quốc Học thuở xưa. Bài in trên báo Đô Thành Hiếu Cổ (7). Le Bris là giáo sư của trường, ông lại có một tình cảm đặc biệt đối với xứ Huế mình nên bài viết tốt lắm, các anh là hậu sinh có thể tin cậy được. Cần biết thêm chi tiết anh có thể hỏi thêm cụ Ưng Dinh, cụ Lê Thiện, hay ngay cả Phan Văn Dật, Ưng Thuyên. Những người ấy có thể giúp anh được cả!” Tôi cầm xấp tư liệu măn mo trong tay với một niềm xúc động rạo rực. - “Thưa cụ con nghe nói đến bài này từ lâu nhưng hôm nay lần đầu tiên con mới được cầm nó trong tay, nhìn nó tận mắt. Những người cụ vừa nhắc đến con đã hân hạnh được gặp một số. Nhân đây xin cụ cho con biết thêm hai điều: Một là trường Quốc Học thuở ấy khai giảng vào ngày tháng nào năm nào? Hai là thuở Bác Hồ học, trường Quốc Học có giống như trường Quốc Học của Le Bris tả trong bài báo này không?” Ông Sa gật gù: - “À... à! Lúc đó khai trường vào ngày đầu năm dương lịch (tức 1 tháng giêng). Hình như Lê Thanh Cảnh có viết ở đâu đó như vậy, anh về tra cứu lại có đúng như thế không! Le Bris viết bài đó vào cuối năm 1908 (lúc cụ Hồ còn theo học).” ... Hôm đó về nhà tôi chăm chú dịch bài báo cụ Sa vừa cho mượn. Điều tôi thú vị nhất là tôi tìm thấy trong bài báo của Lê Thanh Cảnh (Hoài niệm Quốc Học số 2, trang 8) một chi tiết nói về ngày 1 tháng 1 dương lịch là ngày khai giảng năm học mới của trường Quốc Học. Nhờ vậy tôi đã đính chính được một sai lầm của tôi cho rằng Bác Hồ vào trường Quốc Học từ mùa hè năm 1907. Trường Quốc Học Huế đầu thế kỷ XX qua ngòi bút của Eugène Le Bris. “... Trước hết về cái cổng trường với cách xây dựng rất Việt Nam. Đó là hai bức tường lớn có những xà ngang để nâng cao một tầng gác, mái lợp theo kiểu Á đông. Sách Đai Nam Nhất Thống Chí cho biết là cổng trường được xây dựng cùng lúc với vòng thành bằng gạch bao quanh vào năm thứ 10 đời Thành Thái (1898). Trên mặt cổng là một bức hoành màu xanh (8) còn đọc được những chữ:“Pháp Tự Quốc Học Trường Môn”. Một chiếc cầu thang mối mọt và khúc khuỷu dẫn lên gác cổng. Gác có treo một cái chuông rè thỉnh thoảng thả vào cái mảnh đất của một thời đại nào đã qua những âm thanh luống tuổi và khô khan. Vô khỏi cổng trường, du khách bước vào một lối đi râm mát. Lối đi trải dài vô tận cái ngỏ phía Nam của trường, rồi thông ra các vùng lúa Phú Cam, (con đường) chia nhà trường ra làm hai khu vực; bên trái là các lớp học, bên phải là nhà ở của Hiệu trưởng, của một số thầy giáo và học sinh nội trú. Nói đúng hơn thì Quốc Học có hai trường: trước là trường sơ cấp song song với đường Jules ferry, sau là các lớp bổ túc do thầy giáo Pháp dạy nằm ở cuối cái sân cỏ trồng cây cao-su(?) (9) và cây anh đào Nhật bản(?).Các phòng học giống nhau, nhìn vào rất đau lòng: những bức tường màu vàng ủ mục, những cột lim to đầy sứt sẹo chống đở cho một hệ thống phên làm tổ cho các bầy chuột, những cửa lớn và cửa sổ, gỗ đầy mối mọt, còn đứng vững được là một điều kỳ lạ. Bộ khung của lớp học là như thế. Thêm vào là vài bức bản đồ treo trên vách,.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> những cái bàn dài rất bất tiện với học sinh, một cái bàn sơ sài dành cho thầy giáo. Và, đó là một cái phòng học của trường Trung học Quốc Học. ... Những buổi sáng hè phải đụng độ với những ngọn nắng, với những cơn mưa to chảy dài trên các bức tường hay nhỏ giọt trên trang giấy, với những bầy chuột lớn chuột bé nhảy nhót trên đầu giúp vui cho những cậu học trò lười. Trước năm 1912 các thầy giáo người Âu phải đội mũ hoặc trên đầu phải che dù để lui tới dạy dỗ trong lớp. ... Những dãy nhà này xưa kia được tạo dựng để làm những đồn trại cho Thuỷ quân của nhà vua... Ai ngờ được những đồn đã trở thành trường học. ... Cách đây (1915) bốn mươi năm, quang cảnh tại chỗ này rất khác.Từ sông đào Phú Cam đến đập Thọ Lộc có 15 dãy nhà dài tường gạch, mái lợp tranh đồn trú của 6.200 người thuộc đạo Thuỷ binh của các vua An nam. Các dãy nhà được làm vào năm Gia Long thứ 5 (1806) và dùng làm trại binh cho đến triều Thành Thái.”. (1) Ghi ngày 11.1.1978. (2) Trích lại trong Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tiểu sử và Sự nghiệp, Nxb Sự Thật, (in lần thứ 3), HN,1975, tr.14. (3) Những tài liệu viết Bác Hồ sinh năm 1892: -Ellen J. Hammer, The Struggle for Indochina, Stanford University Press, California, USA, P.75 -Philippe Devillers, Histoire du Việt-Nam de 1940 à 1952 Ed.du Seuil, Paris.1952, p.57 (4) Nguyễn Đắc Xuân, Họa Sĩ Lê Văn Miến, Người Vẽ Sơn Dầu Đầu Tiên Ở Việt Nam, tạp chí VHNT, số 9.1982, tr.55. (5) Ông Đỗ Hữu Nghiêm tác giả bài báo “Chung Quanh Nắm Mồ Của Chủ Tịch Hố Chí Minh” (Đối Diện, số 4 (10.1969, tr.46) có viết: “Thuở thiếu niên trước hết Thành học tại trường làng, rồi tại một trường Trung học Pháp (?) ở thành phố Vinh..”.Vì không rõ xuất xứ tài liệu tác giả đã xử dụng nên chúng tôi chỉ ghi thêm vào đây đê tham khảo. (6) Tức là Tế tửu Quốc Tử Giám-ngang hàng với Giám đốc Đại Học Quốc Gia ngày nay. (7) Eugène Le Bris, Le Quoc Hoc, Bulletin des Amis du Vieux Hué, 1916, p.76-81. (8) Trong thực tế bức hoành này màu đỏ hiện nay vẫn còn. (9) Có lẽ là cây mù-u..

<span class='text_page_counter'>(71)</span> Chương 10: Kinh đô trong tay giặc pháp Ông Ưng Thuyên biệt hiệu Vu Hương là cháu nội nhà thơ Tuy Lý Vương, anh em chú bác ruột với nhà thơ Ưng Bình Thúc Gịa Thị. Người ông nhỏ nhắn, tính tình điềm đạm, khẳng khái. Ông đã từng làm Tham biện cho toà Khâm sứ Huế, khi Cách mạng tháng Tám /1945 thành công, ông được giữ lại làm việc. Ông có công trong việc xây dựng nền hành chính đầu tiên của chính quyền của ta ở Trung kỳ. Nhờ anh Bửu Chỉ-một họa sĩ trẻ có tiếng ở Huế, là con trai út của ông, giới thiệu, tôi đã được ông tiếp trong một ngôi nhà ngói khang trang bên bờ khúc sông Hương yên ả cuối làng Vỹ Dạ. Nghe yêu cầu của tôi, ông Vu Hương đáp với giọng khiêm tốn: - “Tôi là hậu sinh, khi tôi vào Quốc Học thì Cụ Hồ đã từ giả mái trường này đền năm sáu năm. Tôi chỉ biết Cụ Hồ khi tôi làm việc ở toà Khâm. Biết qua anh em đồng nghiệp bàn tán về nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc và biết qua hồ sơ mật thám Pháp theo dõi Nguyễn Ái Quốc. Có lẽ những điều tôi biết Nhà nước cách mạng đã biết cả rồi...Vì anh là bạn của các con tôi, để giúp cho anh đỡ một phần khó nhọc, tôi có thể nói với anh một chút ít về cái bầu không khí chính trị đầu thế kỷ XX tại Huế. Những gì tôi nói với anh bản thân đã hiểu được trong thời gian tôi tòng sự tại Toà Khâm. Tuy vậy, sự hiểu biết đó rất rời rạc. May mắn là trong những năm gần đây hưu trí ở nhà tôi có dịp tham khảo sách báo cũ sự hiểu biết của tôi được hệ thống hơn. Hôm nay tôi nói cho anh nghe, có gì cần hỏi thêm anh cứ hỏi, có gì anh thấy chưa đúng thì anh đính chính hộ tôi, có gì tôi thiếu anh bổ túc thêm cho.” - Ông cười chúm chiếm - “Hậu sinh khả úy - các cụ ta đã thường nhắc nhủ như thế rồi mà!” Nói xong ông đứng dậy mở tủ lấy tập giấy đánh máy dày cộm đặt lên đùi, tiếp tục nói chuyện với tôi. * *. *. (Trích băng cassette) ... “Xã hội Huế lúc Bác Hồ học trường Quốc Học như thế nào? - Cụ Phan Bội Châu đã viết trong Việt Nam Vong Quốc Sử như sau: “Vua hiện tại của Việt Nam là vua Thành Thái. Người Pháp chỉ còn để lại cái Nội điện cho vua cư trú, còn giữ danh hiệu Hoàng đế cho vua xưng hô. Người Pháp lại cho lính Pháp giữ quanh Nội điện, ai ra vào đều do quân Pháp cai quản. Vua đi ra ngoài độ một bước cũng phải vâng hiệu lệnh của người Pháp, nhất thiết mọi chính lệnh, chiếu, chỉ trong nước đều trước hết phải bẫm với người Pháp, người Pháp đồng ý mới được đem thi hành... Người Pháp cố lưu cái hư vị bù nhìn ấy để có chỗ đỡ cho mọi việc ác nghiệt mà chúng làm, tất chúng công bố khắp ở trong nước, lan truyền ra cả nước ngoài cho rằng đó là điều vua tôi Việt Nam mong mỏi làm như vậy. Bởi duyên cớ ấy, ngưới Pháp trói buộc họ nhà vua lại càng chặt, mỗi tháng hai ba lần kiểm điểm nhân danh trong Tôn phủ nhà vua, chiếu tên điểm mặt, có thiếu ai người Pháp truy cho cùng, bốn mặt bủa lưới bắt trị tội rất nặng, há chẳng phải là sợ để những việc bí mật của người Pháp bị tiết lộ ra chăng? Vì thế cho nên không có một người nào dám ra ngoài tố cáo...(1) Sống trong cảnh cá chậu chim ồng như vậy, vua Thành Thái vẫn không chịu bó tay. Khi tới tuổi trưởng thành, nhà vua tập lái ô-tô cắt tóc ngắn, mặc Âu phục để cho đồng bào xem đó mà “duy tân”. Nhà vua tranh thủ những gì Pháp.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> có thể đồng ý để làm lợi cho dân. Chính Người đã xướng xuất việc làm cầu Trường Tiền, dời chợ Đông Ba đem ra ngoài giại, thành lập phố Trần Hưng Đạo ngày nay, lập trường Quốc Học dạy khoa học phương Tây và tiếng Pháp cho thanh niên Việt Nam. Chính Người cũng góp công xây dựng nhiều công trình trong Nội, xây lăng Dục Đức...”. Nhân ông dừng nói để nghỉ một chút, tôi hỏi: - “Thưa bác, theo nghiên cứu của cháu, có nhiều tài liệu cho biết vua Thành Thái còn hay tiếp xúc với nhà soạn tuồng Đào Tấn và họa sĩ vẽ sơn dầu đầu tiên ở Việt Nam là ông Lê Văn Miến. Chính nhà vua có yêu cầu họa sĩ vẽ kiểu các loại súng bộ binh của châu Âu để Người bí mật thuê đúc trang bị cho các đội nữ binh của nhà vua. Nhưng chuyện chưa thành thì quan đầu triều Nguyễn Thân đã biết tâu với Pháp và Pháp đã ra tay chia rẽ những người yêu nước này. Ông Đào Tấn bị bức phải về hưu, ông Lê Văn Miến bị bãi chức Hành tẩu bộ Công để ra Nghệ An mở trường Pháp Việt, còn vua Thành Thái mấy năm sau bị quản chặt trong điện Càn Thành?(2) . Ông Vu Hương gật đầu nói với vẻ thận trọng: - “Thầy Miến có dạy Bác Hồ, tôi cũng được học với thầy. Tôi nghe thầy kể thầy đã vẽ chân dung cho vua Thành Thái và thầy đưọc mời ăn cơm với nhà vua. Nhưng tôi không hề biết chuyện thầy được nhà vua yêu cầu vẽ các kiểu súng... Tuy vậy, cũng có thể tin được điều đó vì vua Thành Thái rất táo bạo!” Tôi lại hỏi tiếp: - “Bác đã cho phép, cháu xin hỏi thêm một câu: người ta nói vua Thành Thái điên phải không?” Ông Ưng Thuyên giải thích: - “Một người có chí hướng như vua Thành Thái không điên mà sống trong cảnh cá chậu chim lồng như thế cũng phải điên. Nhưng vua Thành Thái không đến nỗi điên, trước con mắt cú vọ của Pháp, trước những đại thần thân Pháp như Nguyễn Thân...Không giả điên thì làm sao Ngài thoát được sự vây bủa ấy? Một chứng minh rất rõ là khi bị người Pháp bắt phải tốn vị (abdiqué) Ngài không chịu ký vào bản văn do Khâm sứ Lévecque viết sẵn. Sau khi bị tốn vị, Ngài không có hành vi gì gọi là điên nữa cả. Một người điên thì đưa vào bệnh viện chữa bệnh chứ sao lại đưa đi đày? Trong thực tế vua cũng có làm một vài việc của người điên trước mặt Pháp hoặc bọn đại thần thân Pháp để đánh lừa chúng. Bọn Pháp lại rất xảo quyệt, thấy vua có những hành động của người điên, chúng kích thích cho vua làm nhiều hơn rồi chúng cho lan truyền rộng ra “vua Thành Thái điên”. Cuối cùng Pháp tuyên bố vua Thành Thái bị bệnh phải nhường ngôi lại cho con là Hoàng tữ Vĩnh San. Làm như vậy giảm bớt dư luận lên án Pháp đã truất phế vua Việt Nam. Riêng những người trẻ trong lứa tuổi của Cụ Hồ chắc chắn người Pháp không thể lừa phĩnh được. Tuổi trẻ Huế lúc ấy rất phẫn nộ hành vi thô bạo của Pháp và họ có nhiều cảm tình với vua Thành Thái. Ngày 3.9.1907, Pháp công bố bản văn tốn vị của vua Thành Thái thì ba hôm sau 7.9.1907, Pháp cho biết Hoàng tử Vĩnh San đã lên ngôi với niên hiệu là Duy Tân. Việc vua Duy Tân lên ngôi có nhiều dư luận kích động tuổi trẻ Huế. Riêng cái tên “Duy Tân” cũng đã có một ý nghĩa báo trước một biến cố gì đó sẽ xảy ra cho ông vua mới lên tám tuổi này(3). Điều làm cho không khí chính trị ở Huế lúc đó khó thở nhất là việc Khâm sứ Pháp lấy lý do vua còn nhỏ, Triều đình phải lập một Phụ Chính phủ để giúp vua điều hành công việc Triều chính(4) và người đứng đầu cái gọi là Phụ Chính phủ ấy chính.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> là viên Khâm sứ Sylvain Lévecque. Như thế, dưới triều Duy Tân nước ta không những mất trên thực tế mà cũng mất luôn cả trên danh nghĩa. Người đứng đầu nước Nam là một viên Khâm sứ Pháp. Tình hình chính trị tối tăm như vậy, tình hình đời sống kinh tế của đồng bào mình cũng hết sức thúc bách...”. Điều ông Vu Hương nói được nhiều tư liệu lịch sử Huế nói rõ: Cơn bão năm Thìn (1904) thổi sập hai vài cầu Trường Tiền, hàng trăm dinh thự, chùa chiềng, nhà cửa bị gió thổi bay chưa sửa chữa xong. Trong Niên phổ Di cảo của Lạc Tịnh Viên còn ghi lại: “sắt cầu Trường tiền bay xuống hai vài, kẽm lợp toà Khâm bị bay mấy tấm. Nhà quan còn chưa có vật liệu mà tu bổ huống chi nhà dân”(5). Nạn hạn hán, nước mặn ngược sông Hương đe dọa mùa màng. Bọn thực dân mị dân bỏ tiền ngăn con sông Thọ Lộc (chảy về Vân Dương) - thường gọi là Đập Đá. Nhưng vẫn không ngăn được nước mặn lan đến hai huyện Hương Thủy và Phú Vang. Nước mặn không qua được sông Thọ Lộc thì nó chảy vào sông Lợi Nông rồi cũng chảy vào Thọ Lộc. Trước kia chưa có Đập Đá nước mặn vào gặp một trận mưa lớn nước mặn có đường thoát ra. Từ khi có Đập Đá nước mặn vào bị ứ lại, nhà nông càng thêm lo lắng. Trong lúc đó thì sưu thuế không giảm mà lại có thêm những điều khoản đổi mới gây cho dân đinh gặp nhiều khó khăn. Cuối năm 1907, toàn quyền Đông dương ra Nghị định vẫn giữ nguyên mức Thuế mỗi tráng niên phải trả đồng niên là 2đ2, trong 10 ngày sưu phải để tám ngày làm việc cho hàng tỉnh (trước kia có sáu ngày) ở nơi xa. Tám ngày làm xâu (chưa kể thời gian đi và về) mỗi người dân phải tự túc cơm gạo rất tốn kém. Song song với những sự kiện ấy, tình hình chính trị ở Huế cũng có những biến chuyển có ảnh hưởng phần nào đến dân chúng, đặc biệt là giới Nho sĩ và dân thành thị. Ngày 15.12.1906, thực dân Pháp bắt đầu khai thác đoạn đường Sắt Đà Nẵng-Huế (104km) trước đó ngày 15.5.1906 toàn quyền Đông Dương ra Nghị định lập ở Trung kỳ một Hội đồng hoàn thiện giáo dục bản xứ để nghiên cứu các vấn đề giáo dục(6). Tháng 7 năm sau (1907) hai quan đại thần là Cao Xuân Dục và Huỳnh Côn vào Sài gòn bàn nghị việc Học chánh. Bộ Học do Cao Xuân Dục làm thượng thư được thành lập, trường Quốc tử giám từ làng An Ninh được dời về trong Thành; thiết lập trường nữ học(7). Huế lúc bấy giờ là Đế đô, giữ vai trò chỉ huy văn hóa nên có nhiều bậc anh tài, học giả quy về. Huế là nơi có nhiều sách vở. Chính nhờ những sách vở lạ đó mà Nguyễn Lộ Trạch đã có thể tự học và trở nên người thầy của phong trào Duy Tân. Huế lúc ấy có nhiều du học sinh tốt nghiệp ở châu Âu về như các ông Lê Văn Miến, Thân Trọng Huề. Những vị này mang về Huế nhiều sách vở, tư tưởng mới của Tây phương. Thân Trọng Huề dâng biểu yêu cầu bãi bỏ cách học, cách thi cũ. Huế cũng là nơi đón tiếp những danh sĩ miền Bắc vào như các vị Nguyễn Thượng Hiền, Đào Nguyên Phổ. Đào Nguyên Phổ mua được nhiều Tân thư của Trung Hoa. Sách vở thời ấy do những ghe lớn đưa theo hàng hóa vào Phố Lữ rồi có những ghe nhỏ buôn sách chèo lên đậu một bến nào đó trước Phu Văn Lâu chờ người tới mua. Các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế và có lẽ cả ông Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh của Cụ Hồ cũng đã được “khai nhãn” bằng những Tân thư, Tân sách này.Những sách vở của Tây phương do phái duy tân bên Trung quốc dịch có những cuốn nổi tiếng: Dân ước của Lư Thoa(8), Tiến hoá luận của Tư Tân Tắc(9), Dân Quyền Thiên của Mạnh Tư Cưu(10). Những sách báo viết về tình hình chính trị Trung quốc có những nét giống với tình hình Việt Nam lúc ấy: Ẩm băng thất của Lương Khải Siêu, Tự do thư, Trung quốc hồn... Những Tân thư Tân sách do chính người Huế viết ra sát với tình hình Việt Nam có tác dụng sâu sắc nhất đối với người Huế: Thiên hạ đại thế luận, Thời vụ sách thượng, Thời vụ sách hạ của Nguyễn Lộ Trạch, Tự trị thượng sách của Hoàng Thông. Ông Vu Hương nói: - “Nhờ đọc Tân thơ, Tân sách mà các nhà Nho yêu nước có những tư tưởng mới, đặt cuộc vận động cứu nước của Việt Nam vào khung cảnh thế giới chứ không còn bó hẹp trong hoàn cảnh.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> cục bộ Việt Nam như các nhà Văn thân Cần Vương trước đó đã làm. Nguyễn Lộ Trạch đi tiên phong, không thực hiện được tư tưởng duy tân ở Huế, ông phải vào Phan Thiết hoạt động, công việc chưa thành thì ông mất. Ông Hồ Tá Bang là người cùng quê (làng Kế Môn, huyện Phong Điền) và cũng là học trò của ông tiếp tục vào và ông Bang đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập Công ty nước mắm Liên Thành và trường Nghĩa thục Dục Thanh. Phan Bội Châu vào Huế viết Lưu cầu huyết lệ tân thư cổ vũ lòng yêu nước của các giới. Phan Bội Châu và Cường Để lập đảng bí mật - Duy Tân Hội. Phan Châu Trinh bỏ chức Thừa biện ở bộ Lễ để vào Nam, ra Bắc vận động Dân quyền, Khai dân trí, Chấn dân khí rất sôi nổi. Ông sang Nhật rồi bỏ về gửi thư cho Toàn quyền Paul Beau nêu lên tình trạng cơ cực của người Việt Nam. Phong trào hiệp thương (mở hội buôn), mở trường nghĩa thục, phong trào cắt tóc ngắn, dùng hàng nội hóa nổi lên khắp nơi. Cuộc vận động duy tân khởi đầu từ cuối thế kỷ thứ XIX đã dần dần phát triển và đưa đến cao trào là cuộc chống thuế diễn ra vào mùa hè năm 1908. Cuộc đấu tranh chống thuế ở Thừa Thiên-Huế diễn ra rất dữ dội. Vì nó đánh thẳng vào sào huyệt của thực dân Pháp ở Trung kỳ. Tuy vậy nó không được các nhà viết lịch sử chống Pháp đề cập đến mấy. Theo tôi biết ngay cả cụ Huỳnh Thúc Kháng nhiều lần viết về vụ chống thuế ở miền Trung năm 1908 cũng đề cập đến Thừa Thiên-Huế rất sơ sài. Phải chăng vì những người lãnh đạo chống thuế ở Huế ít học và phần lớn đã bị trừ diệt, những người còn sống bị tội đồ đày Côn Đảo, Lao Bảo thì thiếu khả năng viết lách?”(11). Ông Vu Hương ngừng một lát rồi nói như đặt hàng cho tôi: - “Bây giờ hòa bình rồi, các anh nên thu thập tư liệu, nhất là các Châu bản triều Nguyễn chưa ai khai thác dựng lại cái quang cảnh lịch sử ấy. Nếu chưa nghiên cứu kỹ về hoàn cảnh nào Cụ Hồ đã sống qua ở Huế làm sao có thể hạ bút viết những dòng về sự phát triển tình cảm yêu nước của Cụ được? Làm sao lý giải được sự kiện Cụ không sang Đông mà lại sang Tây?” * * * (Những tài liệu ông Vu Hương cung cấp có việc tôi đã biết qua sách báo, qua các lần gặp gỡ hỏi chuyện các cụ cao tuổi. Nhưng cũng có nhiều việc tôi phải “sống” thêm nữa, phải đọc nhiều hơn nữa mới hiểu hết. Điều tôi mừng nhất là những tài liệu ông Vu Hương cung cấp rất chính xác, không có điều gì phải hiệu đính lại cả.) Găp ông Vu Hương xong tôi thẳng đường về làng Dã Lê chánh thăm gia đình. Nhân tiện tôi mở cái băng vừa thu ở nhà ông Vu Hương cho bác tôi là ông Nguyễn Đắc Vọng nghe. Ông Vọng trước kia được ông nội tôi đem vào Đại Nội học nhạc từ đời Khải Định. Bác Vọng thấp, người tròn tròn, dễ thương. Không hiểu sao con ngưòi ấy lại “hợp nhãn” vua Khải Định. Nhà vua tuyển bác Vọng vào làm thị vệ. Vua Khải Định dị ứng với phụ nữ nên đêm đêm nhà vua ôm bác Vọng mà ngủ. Năm 1922 bác được vua Khải Định cho làm một thành viên trong đoàn tuỳ tùng của vua đi dự triển lãm Kinh tế thuộc địa tại Marseille (Pháp)(12). Sau ngày vua Khải Định băng (1925), bác Vọng được thăng Ngũ đẳng và vẫn tiếp tục phục vụ trong Nội. Năm 1936, thời vua Bảo Đại, bác Ngũ Vọng bị vu là có âm mưu ám sát vua Bảo Đại, bác bị tù, bị thực dân tra tấn rất dã man. Khi được tha về làng, bác bất mãn với chế độ thực dân, hay nói huyên thuyên nên dân làng không ưa, ngay cả người thân trong gia đình cũng không mấy người thích bác. Từ ngày về sống với quê nội (1956) tôi hay ngồi nghe bác kể chuyện thâm cung bí sử trong Nội, chuyện bác theo Khải Định đi dự triển lãm Marseille năm 1922, chuyện vua Khải Định bị cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc làm nhục ở Pháp. Có thể nói: con cháu trong nhà, bác chỉ còn thích nói chuyện với một mình tôi thôi..

<span class='text_page_counter'>(75)</span> Nghe xong cuốn băng của ông Vu Hương, bác Vọng nói: - “Nghe ông Vu Hương nói làm cho bác nhớ quá. Chuyện chống thuế xin xâu của dân mình lớn lắm nhưng chưa ai viết cả. Những người thủ lãnh như Ấm Mộng (tức Lê Đình Mộng), Khóa Mãnh đều là dân làng mình, chuyện lại xảy ra tại làng Công Lương ngay trên đây, cho nên có ai biết chuyện khấc thuế xin xâu cho bằng dân làng mình. Hồi nhỏ nghe ông nội kể bác nhớ cả, nghiệt là mấy năm nay tuổi cao, bệnh đau đầu của bác tái phát, bác không còn nhớ mấy để kể cho Xuân viết. Trước đây mấy năm còn mệ Ấm Mộng (bà quả phụ Lê Đình Mộng.NĐX) ở sau lưng nhà mình, Xuân có thể gặp và hỏi được một số chuyện, nay thì Mệ đã mất rồi (1969). Xuân tìm bà Lê Thị Xuân Lan con mệ Ấm lấy Tôn Thất Dương Giai (anh ruột nhà sử học Dương Kỵ) ở làng Vân Dương cũng thuộc xã Thủy Vân mình đây, hỏi thêm. Trong làng thì còn anh em (chú bác) với Ấm Mộng là Lê Đình Nghĩa, Lê Đình Hoàng và anh em với Khoá Mãnh... đều ở xóm ngoài đây thôi. Điều quan trọng là Xuân phải gặp cha Thích (Sản Đình) - con ông Thượng Mại (cậu ruột của Ấm Mộng) mượn cuốn Lô Giang tiểu sử của ông Mại mà đọc thêm. Ông Mại có viết chuyện Ấm Mộng lãnh đạo chống thuế trong Lô Giang... bác đã đọc quyển đó bằng chữ Hán lâu rồi!” - “Con đã gặp cha Thích và đã đọc cuốn đó rồi” - Tôi đáp - “Ông Đồ Sô chỉ cháu đó.” - “Đúng rồi, cụ Đồ rành mấy chuyện đó lắm.” (1) Phan Bội Châu, Sđd, tr.93. (2) Nguyễn Đắc Xuân, Bđd. (3) Tính theo tuổi Dương lịch thì mới 7 tuổi (1900-1907). (4) Gồm các ông: Miên Lịch, Cao Xuân Dục, Lê Trinh, Huỳnh Côn, Nguyễn Hữu Bài và Tôn Thất Hân. (5) Ưng Trình, Niên Phổ Di Cảo, Đại học Minh Đức xb, Sài Gòn 1972, tr.7. (6) Dương Kinh Quốc, VN Những Sự kiện lịch sử, T 2 (1897-1918). (7) Dương Kinh Quốc, VN Những Sự kiện lịch sử, T 2 (1897-1918). (8) Jean J. Rousseau. (9) Spencer. (10) Montesquieu. (11) Có phải vì thế mà sử gia nổi tiếng của Pháp là ông Jean Chesneaux trong tác phẩm Cotribution à L’Histoire de la nation Vietnamienne (Paris Eïd. Sociales, 1955) đã cho rằng cuộc chống thuế 1908 là một cuộc khởi nghĩa của những người vô sản, trong khi đó ông lại ghép Đông Kinh nghĩa thục vào những hiện tượng Tư sản. (tr.183.205) (12) Khải Định, Ngự Giá Như Tây Ký, Huế 1922, tr.49.. Chương 11: Dũng cảm thay dân Thừa Thiên Huế.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Đầu năm Mậu thân (1908), Phong trào chống thuế ở các tỉnh phía Nam Huế bùng nổ, ngọn lửa kháng sưu chống thuế ở Thừa Thiên-Huế âm ỉ bấy lâu có dịp sáng lên. Dân làng Dã Lê Chánh kể rằng: - “Lúc đó có một người tên là Khoá Nối nói giọng Hà Tĩnh theo chân ông Ấm Mộng về ở tại xóm Giữa làng Dã Lê Chánh với tư cách một người đi buôn quế. Ông loan truyền nhiều tin tức của dân Quảng Nam chống thuế. Dân làng nghe tin này náo nức lắm!” Cùng lúc ấy, tài liệu cho biết ông Hoàng Thông quản giáo trường Quốc Học và cũng là người đứng đầu Hội buôn Đồng Vinh vừa bị bắt, laoThừa Phủ, lao Hộ Thành ngày nào cũng nhận thêm những nhà Nho có thành tích chống thuế ở các tỉnh Trung kỳ. Những tin tức ấy không làm cho dân Thừa Thiên-Huế sợ hãi mà trái lại nó đã kích động không ít tinh thần tranh đấu của họ. Ai ai cũng xúc động khi hay tin ông Phan Châu Trinh đang diễn thuyết ở trường Đông Kinh Nghĩa Thục (Hà Nội) thì bị bắt đưa về giam ở Hộ Thành, ông đã tuyệt thực bảy ngày để chống lại hành động đàn áp dân chúng Việt Nam của Pháp(1). Và cùng với tin ấy, bọn đề lao Thừa Phủ cũng không thể che giấu được tin ông Châu Thơ Đồng-một yếu nhân chống thuế ở Quảng Nam bị bắt đưa về giam ở Huế. Ông đã tuyệt thực chống bọn thực dân cho đến chết(2). Trong thời gian ấy thanh niên học sinh Huế đi về chơi các vùng nông thôn ở hai bên bờ con sông đào Thọ Lộc ngăn cách hai huyện Hương Thủy và Phú Vang rất đông, đặc biệt là các làng Dã Lê Chánh, làng Công Lương(3). Rồi đột nhiên vào một buổi sáng trung tuần tháng tư năm 1908, tại đình chợ Hôm và các am miếu dọc hai bên bờ sông vừa được nạo vét, đất bùn đã khô khén, xuất hiện nhiều tờ Thông tri giống như tờ Thông Tri của ông Khoá Nối viết phổ biến ở Hà Tĩnh như sau: “Đáng yêu thay dân tỉnh Quảng Nam Đáng kính thay dân tỉnh Quảng Nam Đáng học thay dân tỉnh Quảng Nam. Giặc Pháp mượn tiếng bảo hộ, ngượüc đãi dân ta thật đã quá. Hàng năm nộp xong sưu thuế rồi, mình không còn chiếc áo lành, bụng không được ăn cơm no, đi nơi khác tìm ăn, khổ hết chỗ nói. Nếu không một phen đứng dậy tỏ tình kêu nài thì sưu thuế vẫn còn tăng mãi. Dân ta mười nhà đã đến chín nhà rỗng không, khó lòng gánh chịu được. Nếu cứ ngồi mà đợi, chết. Chi bằng vùng dậy mà tìm lối sống(4). Nội dung tờ Thông tri đã kích động tinh thần dân làng Dã Lê và các làng chung quanh lên rất cao. Khí thế kêu gọi đấu tranh lan truyền đi khắp nơi. Được tin đó thực dân Pháp một mặt ra lời hăm dọa, mặt khác cử ông Trần Trạm - Phủ doãn Thừa Thiên vốn là một người nổi tiếng thanh liêm, trong sạch, được lòng dân đi hiểu dụ dân chúng, khuyên dân chúng không nên bắt chước dân hạt Quảng Nam nổi dậy, nếu không nghe lời sẽ bị tội nặng. Đi sau ông Phủ doãn là một đoàn tuỳ tùng gồm một đội lính Khố xanh, Phó quản Trần Phán và tri huyện Phú VangTrần Hữu Chí. Sáng 10 tháng 4 năm 1908, đoàn đi hiểu dụ của ông Trần Trạm đi thẳng về chợ Sam rồi quay lên làng Dã Lê Chánh, làng Công Lương. Bọn Trần Phán đứng trên đò quát tháo những viên chức trong phủ Công Lương:.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> - “Quan về hiểu dụ sao không có ai ra đón cả?” Một người dân đại diện cho dân đang đứng bên bên bờ sông giả vờ hỏi: - “Lúc ni mà quan binh đi mô rứa?” Trần Phán nói giọng đe doạ: - “Phủ doãn và quan binh đi hành hạt hiểu dụ, sao không ra đón tiếp mà hỏi chi lạ rứa, không sợ phạm thượng à?” - “Dân đói kém đang định kéo nhau lên Huyện, lên Phủ xin xâu, xin thuế, dân đâu có ở nhà mà quan binh đi hành hạt!” - “Ai cho phép dân đi?” - “Cái bụng đói bắt đi! ”(5) Sau một hồi đối đáp thanh niên trong các làng kéo ra đông đúc. Người ta kể có một người học trò Nghệ, mặc quần áo trắng, dáng người cao cao, đôi mắt lanh lợi đứng trên bờ, nghe đối đáp tức quá cậu bèn lượm một hòn đất khô ném vào đoàn quan binh do Trần Phán cầm đầu (6). Trần Phán, Bùi Hữu Chí ra lệnh đàn áp. Súng nổ đùng đùng, roi da đập bôm bốp thế nhưng dân chúng không hề nao núng. Họ nhặt đất cục vừa đào hói còn phơi trên bờ ném vào bọn quan binh Trần Phán-Bùi Hữu Chí như mưa. Bọn địch dạt ra, dân ùa xuống nước bắt trói và nhận nước tên Trần Phán. Tên Bùi Hữu Chí bị trói ngoe nằm phơi trên đò. Dân chúng cũng a vào đòi bắt trói Trần Trạm, nhưng có người lại ra lệnh tha, chỉ bắt ông bỏ vào thúng chuẩn bị gánh ông lên trả lại trên “Dinh” thôi. Vừa lúc đó tri huyện Hương Thủy chạy lên Huế cầu cứu đồng bọn thì bị ông Đoàn Thuần (người Dương Nỗ) đốc thúc dân đến bắt và trói ngay. Trước mũi súng tàn bạo của quan binh tay sai thực dân Pháp, dân Dã Lê Chánh, Công Lương, bị thuơng rất nhiều, riêng ông Nguyễn Cưỡng (Công Lương) chết ngay tại chỗ. Dân chúng bẻ lá thầu đâu ưóp xác ông Cưỡng cho tươi rồi khiêng đi đấu tranh chứ nhất định không chôn(7). Tin dân làng Dã Lê Chánh và Công Lương bắt trói tên Phó quản và bọn quan lại phủ huyện đi hiểu dụ lan đi rất nhanh, làm động lòng nông dân ngoại thành Huế. Như đã hẹn trước, sáng ngày 11.4.1908, dân chúng ngoại thành chia từng nhóm nhỏ kéo vào Huế. Đoàn người xin xâu xin thuế gánh ông Trần Trạm trong thúng và xác ông Nguyễn Cưỡng trong cáng tiến về phía toà Khâm sứ Pháp và Phủ doãn Thừa Thiên. Đoàn người có những nét rất đặc biệt: tóc cắt ngắn, áo quần rách rưới, mang bị gậy như người đi xin, mo cơm bới bên hông. Có người mang cả nồi niêu và manh chiếu rách. Lúc đoàn người đã đến gần Toà Khâm (khuôn viên Đại học Sư phạm Huế tại 32-36 Lê Lợi ngày nay), thì phía trên ở gần trường Quốc Học có một nhóm học sinh từ dưới chợ Cống đi lên đang đứng nghe học sinh Nguyễn Sinh Côn nói chuyện. Trò Côn nói với các bạn: - “Đồng bào người ta đi xin xâu, xin thuế với Pháp, bọn mình là học sinh biết tiếng Tây nên đi thông ngôn giúp đồng bào!” - Vừa nói trò Côn vừa cầm vai các bạn quay lại phía Toà Khâm “Nào chúng ta cùng về Toà Khâm nào!”.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Đám học trò thấy dân đi đông nhưng chưa hiểu thực hư như thế nào, nhưng nghe trò Côn là người lớn tuổi, hiểu biết rộng và có uy tín với các thầy nói thế, anh em nghe theo ngay. Đi được một lúc, Côn bảo các bạn lấy nón lá lật ngược bề trong ra ngoài. Anh em sợ hư nón có vẻ do dự không làm. Côn tự tay làm trước và anh em làm theo ngay. Về sau họ mới hiểu làm như thế để chứng tỏ thái độ đấu tranh cho đến khi lật ngược được tình thế. Khoảng mười giờ sáng đoàn người tụ tập đã đông đủ, họ bắt đầu tiến vào cửa Toà Khâm cùng với nhóm học sinh đi trước làm thông ngôn. Tên Hội lý bộ Lại De la Suisse xua lính Khố xanh ùa ra ngăn không cho dòng người tiến vào. Trò Côn len vào trước để gặp bọn Pháp đưa nguyện vọng giảm sưu thuế cho dân(8). (Cuộc đấu tranh ấy đã ghi sâu trong ký ức Chủ tịch Hố Chí Minh sau này. Có lần Bác đã kể lại với ông Vũ Kỳ-thư ký riêng của Bác, và ông Vũ Kỳ đã kể lại với cán bộ Bình Trị Thiên vào ngày 18.5.1978 ở Huế như sau: Bác nói với ông Vũ Kỳ (nguyên văn): - “Mình tham gia với tư cách là một người thông ngôn. Khi đồng bào nói chưa đúng thì mình thêm vào cho đúng rồi nói chọi với Pháp. Khi bọn Pháp nói những gì làm cho uy thế của đồng bào kém đi thì mình thông ngôn lại để dấy lên tinh thần đấu tranh của đồng bào. Cứ thế đồng bào ùa lên làm cho bọn Pháp không thể nào ngăn chặn được!” Bọn Pháp giở mọi thủ đoạn ra lừa phỉnh đồng bào, nhưng nhờ những người thông ngôn dịch lại khôn khéo khiến cho họ tránh được mọi âm mưu cạm bẫy của Pháp. Càng về trưa, lời la ó phản đối càng tăng. Thấy dùng lời lẽ không giải tán được đám đông, De la Suisse xua lính Khố xanh ra dùng roi mây, gậy tre, vòi nước đàn áp, giải tán đồng bào. Trò Côn người cao to lại phải đứng trước để thông ngôn nên bị đánh đập nhiều nhất”. Sau nhiều đợt chống cự, đồng bào phải rút ra khỏi khuôn viên Toà Khâm, nhưng họ không chịu ra về. Đồng bào chạy lên bao vây Phủ doãn Thừa Thiên (địa điểm UBND tỉnh TTH ngày nay), họ ngồi đầy trên đường phố suốt mấy ngày liền khiến cho xe cộ của Pháp không thể nào qua lại được trên cầu Trường Tiền. Bọn Pháp biết đồng bào và thanh niên còn một chút tôn kính vua Duy Tân, chúng đưa vua Duy Tân ra phủ dụ đồng bào. Đồng bào chỉ nhường đường cho xe vua đi qua lại nhưng vua nói thì họ không nghe. Họ bảo lời của vua là lời của Pháp xếp đặt chớ không phải của Việt Nam. Cuối cùng Pháp phải đưa lính ở đồn Mang Cá lên đàn áp một cách dữ dội mới giải tán được cuộc đấu tranh xin xâu, xin thuế ấy. (Cuộc chống thuế này có một âm vang rất sâu xa. Mười lăm năm sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (lúc còn là một học sinh Quốc Học) vào Huế học vẫn còn nghe kể lại và Đại tướng đã ghi trong hồi ký Những Chặng Đường Lịch Sử như sau: “Vào thời kỳ này (1908), phong trào đấu tranh ở Huế rất sôi nổi, đòi giảm thuế. Pháp đưa lính từ đồn Mang Cá lên xả súng bắn vào những người dân tay không. Nhiều người bị đẩy xuống sông. Máu đỏ loang trên cầu Trường Tiền.”(9) Cuộc đấu tranh năm 1908 tại Thừa Thiên-Huế rất mạnh mẽ song vì lãnh đạo thiếu kinh nghiệm, tính tổ chức thấp, quần chúng giác ngộ chưa đầy đủ nên cuối cùng tan rã. Lúc mật thám bắt những nguời chủ chốt thì quần chúng không đối phó được..

<span class='text_page_counter'>(79)</span> Ngoài những người bị đàn áp chết tại trận tiền hoặc bị thương phải lẩn trốn(10) , hằng trăm người đã bị tội “đồ” (tù), đày đi Lao Bảo, Côn Lôn hay bị tử hình. Trong Châu bản triều Duy Tân còn ghi lại một số người với tội trạng của họ như sau: - Đoàn Thuần (Dương Nỗ, Phú Vang) Đào Đa (An Lưu, Phú Vang) Trương Hữu Hoàng (Lý trưởng làng Công Lương)... bị tố cáo: “Đều là bình dân, không biết an phận, dám bắt chước hành vi của dân hạt Quảng Nam, tụ tập nhiều người, gây thành náo động, tức như các việc bắt trói quan binh, toan cướp súng ống, thật là hồ hành khích biến... xử giảo giam hậu, phát giao Lao Bảo phối dịch.)”(11) - Phạm Toản (Xuân Hòa, Hương Thủy), Nguyễn Mãnh (Dã Lê, Hương Thủy) tội: “xướng xuất quan binh... trảm lập quyết”. - Lê Đình Mộng (Dã Lê, Hương Thủy): xử giảo giam hậu (nhưng sau được ân giảm chỉ tù chung thân tại Côn đảo).(12) - Nguyễn Trọng Quỳ (Dã Lê): 5 năm khổ sai; Phan Đạm (Diên Đại): tù 3 năm; Nguyễn Văn Chi (Xuân Hòa) Giảo giam hậu; Nguyễn Cừ (Dã Lê): xử trượng 100, đồ 3 năm; Trần Đức Thuần (Niêm Phò, Quảng Điền): Giảo giam hậu; Khoá Nối(13) bị kết án vắng mặt: “Cùng dân tỉnh Quảng Nam giao thông, tạo mưu khích biến, phải thám nả, cốt bắt cho được đáo án để dứt mầm ác.”(14) Bà Lê Thị Đàn (người Thế lại thượng) đồng chí của cụ Phan Bội Châu cũng bị bắt khi đang đi liên lạc với các tỉnh ở miền Trung. Trong mật văn đề ngày 23.3.1920 của chánh Mật thám Trung kỳ L. Sogny gởi cho cấp trên đã khẳng định: “Nguyễn Tất Thành thật sự đã ở Huế trong thời gian có biến loạn năm 1908 như đã nêu ở đoạn trích Hải - điện tín của khu vực ngày 29 tháng 12 -1919 đã được đính kèm Mật văn số 17-SG ngày 7-1-1920 của Ngài” (AOM.SPCE 364). Bởi thế, sau những ngày xuống đường tranh đấu đó, trò Nguyễn Sinh Côn tức anh Nguyễn Tất Thành cùng nhiều anh em học sinh đóng vai chủ chốt trong việc thông ngôn giúp đồng bào (như Lê Đình Dương chẳng hạn) đã phải lẩn tránh trước sự truy nã gay gắt của mật thám Pháp. Không ai rõ anh Thành đã tránh nơi đâu. Ông Lê Thanh Cảnh nhớ anh trốn ở miệt Ao Hồ (phường Phú Cát ngày nay); một ngưồn tài liệu khác lại cho biết Anh trốn ngay trong nhà một người quen ở sau lưng Phủ Doãn. Nhờ sự bất ngờ đó mà Anh không bị bắt.(15) Sự “biến mất” của Nguyễn Tất Thành (hay Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Sinh Cung) khỏi dãy Trại đường Đông Ba cũng đã được một mật văn thực hiện vào đầu năm 1911 của Mật thám Pháp đã ghi nhận. “Con trai ông ta (tức Nguyễn Tất Thành con Nguyễn Sinh Huy. NĐX), cách đây 2 năm (tức năm 1909) đã ở một căn hộ ở Đông Ba, đã đột ngột biến mất. Người ta tin là nó ở Nam Kỳ”.. (1) Trần Viết Ngạc, “Phan Châu Trinh và sự nhiệp xây dựng ý thức Cách mạng”, Đặc san Liễu Quán (Ronéo), số kỷ niệm năm 48 huý nhật Phan Châu Trinh, Huế 1974, tr.11. (2) Huỳnh Thúc Kháng, Thi Tù tùng thoại..

<span class='text_page_counter'>(80)</span> (3) So sánh các tài liệu nhận thấy thời gian sau này cậu Nguyễn Sinh Côn hay vắng mặt ở trường Quốc học, đặc biệt là thời gian sau khi cụ Hoàng Thông bị bắt. Không rõ cậu Côn có đi cùng với thanh niên học sinh Huế về các thôn xóm này không? (4) Trích lại của Trần Huy Liệu, T/c NCLS số 5-1959. (5) Theo lời kể của cụ Cửu Vàng, ông Lê Đình Hoàng - người làng Dã Lê Chánh. (6) Có người cho rằng cậu thanh niên này chính là cậu Nguyễn Sinh Côn học sinh trường Quốc Học, cậu có mặt trong cuộc đấu tranh này nhân lúc cậu về thăm nhà bạn học là Nguyễn Viết Nhuận ở làng Dã Lê Chánh. (7) Theo lời kể của cụ Cửu Vàng, ông Lê Đình Hoàng người Dã Lê Chánh. (8) Theo tài liệu của cụ Nguyễn Đạm, cụ Ưng Tuệ và cụ Lê Thanh Cảnh (Hoài Niệm Quốc Học, số 2). (9) Võ Nguyên Giáp, Sđd, Nxb Văn Học, HN, 1977, tr.325. (10) Sợ liên lụy, gia đình bí mật đem về chôn. (11) Châu bản triều Duy Tân từ t.VII tờ 148.149. và T.XV tờ 26.27, tờ 95. (12) Nhờ Phủ doãn Thừa Thiên là Trần Trạm có cảm tình với Duy Tân hội cứu nên Lê Đình Mộng được giảm án. (13) Tức Nguyễn Hàng Chi. (14) Châu bản triều Duy Tân, tập XV, tờ 12.13. (15) Đọc thêm Phụ lục 4: Văn tế các lãnh tụ Phong trào chống thuế năm 1908 tại Thừa Thiên Huế của Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn..

<span class='text_page_counter'>(81)</span> Chương 12: Giã từ Kinh đô Huế Việc anh Thành và người anh của anh là Hổ (tức Nguyễn Tất Đạt) đứng về phía đồng bào chống thuế đã đưa đến một hậu quả không những rất xấu đối với hai anh em của anh mà còn liên lụy đến ông Phó bảng. Trong hồ sơ mật của Mật thám Pháp theo dõi ông Huy có đoạn viết: “Trong những ngày ở Trung kỳ cá nhân ông Nguyễn Sinh Huy chưa bị tình nghi. Ông bị khiển trách do hành vi của hai người con trai ông đang theo học trường Quốc Học và đã nói năng phát biểu trước mặt thầy giáo những lời lẽ chống Pháp nhân các cuộc biểu tình của dân chúng năm 1908.”(1) Đọc đoạn trích dẫn này đăng lại trên báo có người đã hỏi tôi: - “Vì hạnh kiểm của hai người con trai tại trường Quốc Học mà ông Nguyễn Sinh Huy đã bị kỷ luật. Vậy ông đã bị kỷ luật gì?” Tôi chưa kịp trả lời thì bạn đã hỏi thắt thêm: - “Hay chính là kỷ luật ông đã bị bãi chức Tri huyện Bình khê như nhiều tài liệu chính thức đã công bố?” Nếu như viết tiểu thuyết về Bác thì có thể xin miễn trả lời câu hỏi này. Vì có ý định tìm hiểu cuộc đời đích thực của Bác nên tôi không thể né tránh nó được. Tài liệu cũ nhất nói về sự kiên ông Huy bị “kỷ luật” chính là sách “Quốc Triều Đăng Khoa Lục của cụ Cao Xuân Dục viết dưới thời Duy Tân: Nguyên văn như sau: “Nguyễn Sinh Huy, tên cũ là Sắc. Quán xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thi Hội trúng vào hạng lấy rộng (docteur suppléant) sinh năm Nhâm tuất (1862), 40 tuổi. Trúng cử nhân khoa Giáp ngọ (1894). Chức tri huyện Bình khê bị triệt hồi.(2) Hai tài liệu gốc này cho biết: - Hạnh kiểm “xấu” của hai người con trai ông Huy tại trường Quốc Học diễn ra từ mùa hè năm 1908 nhưng theo tài liệu khác của Mật thám Pháp cho biết ông Phó bảng đi nhậm chức Tri huyện huyện Bình Khê vào tháng 5 năm 1909 và bị cách chức vào tháng Giêng năm 1910. Hai sự kiện cách nhau quá xa (từ tháng 4- 1908 đến 1-1910) cho phép chúng ta trả lời rằng ông Huy bị cách chức tri huyện không có liên quan gì đến việc hai người con trai của cụ tham gia chống thuế cả. - Thế thì hai người con đã gây cho ông bị kỷ luật gì? Tôi ước đoán rằng: Trước kia thực dân phong kiến không theo dõi ông Huy vì ông Huy là bạn đồng khoa với Phan Chu Trinh mà không đứng trong các phong trào chịu ảnh hưởng của Phan Chu Trinh. Ngược lại, ông còn ngồi vào cái ghế Thừa biện bộ Lễ thay Phan Chu Trinh. Thế thì dưới con mắt của bọn Mật thám Pháp, ông Huy đã có một thái độ chính trị rõ ràng. Nhưng khi phong trào chống thuế nổ ra ông Huy không ra mặt tham gia, nhưng hai người con tham gia và hai người con đã có những lời lẽ chống Pháp trước mặt người Pháp. Có lẽ thực dân.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> Pháp đã nhận định: “Ông Huy là người ném đá giấu tay” và chúng đã vin vào cái cớ “hạnh kiểm xấu” của hai người con trai ông mà khiển trách ông (từ trong nguyên bản: réprimander). Hậu quả của sự khiển trách ấy là trục xuất khéo ông Huy ra khỏi Kinh đô và “an trí” ông tại một nơi thâm sơn cùng cốc cho yên tâm. Chỗ đó chính là huyện Bình Khê. Đối với nhà Nguyễn, Bình Khê dưới chân đèo An Khê là quê hương của “ngụy Tây Sơn”. Từ ngày giành được giang sơn trong tay Quang Toản, nhà Nguyễn đã xử dụng đất Bình Khê để giam cầm trộm cướp, những người bất mãn đối lập với chế độ. Kinh tế ở đây không được mở mang, đời sống văn hoá thấp kém hằng tuần lễ mới có một lần liên lạc với thủ phủ Bình Định(3). Cử đi làm tri huyện Bình Khê, trên danh nghĩa lương của ông được nâng lên ba bậc (4) nhưng trong thực tế ông đã bị tước hết những tiên nghi ở Kinh đô. Lên Bình Khê (tháng 5 năm 1909) nếu ông không phải tự bỏ trốn vì đời sống kinh tế ở đó quá khó khăn, ông không bị bọn trộm cướp đang bị giam cầm ở đó nổi dậy giết chết thì cũng sẽ bị cách chức vì không hoàn thành được nhiệm vụ. Và quả nhiên ông đã bị “triệt hồi” vào tháng Giêng năm 1910. Tổng cộng thời gian cụ làm tri huyện chỉ ước chừng 8 tháng. Qua những lần trao đổi khoa học với các nhà nghiên cứu, qua thư từ của bạn bè, qua tiếp xúc sau những lần báo cáo về Bác, tôi đã nhận được hàng chục câu hỏi hóc búa. Có câu tôi trả lời được ngay, có câu tôi phải nghiên cứu thêm trước khi trả lời, có câu tôi chỉ xin ước đoán và có câu tôi phải xếp vào loại “chờ nghiên cứu”. Nhân đây tôi xin chép lại các câu hỏi của các bạn và những câu trả lời của tôi: 1. Sau khi thôi học tại trường Quốc Học thì Bác ở đâu? - Khi làm Thừa biện bộ Lễ cụ Phó bảng được Triều đình cấp cho một gian nhà ở dãy Trại đường Đông Ba (xem chương VII). Mùa hè năm 1908 cụ Phó bảng vẫn còn ở Huế (như trên đã nêu) điều đó có nghĩa là gia đình Bác vẫn còn ở dãy Trại. Nhưng cũng có nhiều người viết về Bác, đọc bài hồi ký của ông Lê Thanh Cảnh(5) và đồng ý với ông Cảnh cho rằng Bác ở tại Quán Ao hồ(6) (nơi đây đã xây dựng trường PTCS Phú Cát ngày nay) dành cho học sinh Nghệ Tĩnh trọ học và gần Mai Viên của ông Thượng thư Đào Tấn. Tôi không tìm được chứng liệu để bác bỏ hoặc khẳng định điều đó. Tôi nhờ Bác Lê Viết Triết (con trai ông Quản Nghiêm - nhà ở sát cạnh Dãy trại đường Đông Ba của Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy) góp ý kiến. Bác Triết bảo: - “Là lớp người hậu sinh làm sao tôi có thể nói đúng hay sai được! Như có lần tôi đã kể với anh, những điều tôi biết về gia đình cụ Phó bảng đều do cha mẹ tôi kể hoặc cha mẹ tôi nói chuyện với cô Thanh trong thời gian cô ở trong nhà. Theo tôi biết lúc trước cụ Huy hay uống rượu, nhiều bữa say không về nhà được. Cụ lại bất mãn với chế độ nên đôi khi cụ bỏ cả công ăn việc làm, bỏ phế cả việc gia đình tới đâu hay đó.”-Bác Triết nhìn tôi cười - “Nói rứa không biết có phạm chi Bác Hồ không?” - “Bác Hồ được tượng trưng là một đoá hoa sen” - Tôi đáp - “Chúng ta không được bôi bùn lên hoa sen nhưng cũng không nên vì hoa sen cao quí rồi bốc thơm luôn cho cả nước hồ sen. Nhớ sao, xin bác cứ kể vậy. Muốn đi đến sự thực còn có sự khảo chứng của ngành sử học nữa chứ, đâu phải ta nói gì sử học cũng tin cả đâu!” Bác Triết kể tiếp: - “Vì hoàn cảnh đó mà có lẽ hai bác Hổ và Côn phải qua ở nhờ Quán Ao hồ để tiếp tục ăn học. Tôi nghe cụ tôi nói cái quán ấy đều có trợ cấp của Hội Đồng châu. Hai bác qua Quán Ao hồ để ăn học chứ nhà chính vẫn ở dãy Trại đường Đông Ba.”.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> Tôi thấy cách giải thích của bác Triết có lý để có thể từ đầu mối đó nghiên cứu cụ thể hơn. 2. Thái độ của ông Phó bảng đối với việc hai anh em Hổ Côn tham gia Phong trào chống Thuế như thế nào? Tôi chưa tìm được một nhân chứng, hoặc một tài liệu nào cho biết ông Phó bảng đã tham gia các phong trào yêu nước ở Huế đã xảy ra hồi đầu thế kỷ XX cả. Căn cứ vào hành động ông Phó bảng chịu ngồi vào cái ghế Thừa biện của ông Phan Chu Trinh ở bộ Lễ (cho dù là để được yên thân nuôi dạy con cái) và hành động ông chịu đi làm tri huyện Bình Khê giữa lúc những bạn đồng hương, bạn đồng khoa của ông lên đường vào tù Côn Đảo vì yêu nước - Tôi có cảm giác ông Phó bảng đã đứng ngoài các cuộc đấu tranh. Và có lẽ vì thế ông đã không bằng lòng việc các con ông tham gia Phong trào chống thuế. Vì đấu tranh như thế theo ông, rồi nó cũng chẳng đi đến đâu. Phải chăng đó cũng là một lý do khiến cho hai anh em Hổ Côn phải xa cha sau những ngày đã tham gia tranh đấu. Nếu đúng như thế thì ông Lê Thanh Cảnh đã có lý khi nhớ lại lời rỉ tai cuả anh Hổ với cụ Cảnh năm ấy: - “Gia đình không bằng lòng về việc anh Côn. Cho đi học mà để cho người ta đuổi thì thôi, từ nay Côn phải tự túc lo lấy thân.”(7) 3. Trước khi rời Huế vào các tỉnh phía Nam, Bác Hồ có về thăm quê lần cuối không? - Theo những tài liệu chính thức thì chưa ai đặt câu hỏi này. Tất cả những tài liệu chính thức và chưa chính thức đều yên chí là: “Vào khoảng mùa hè năm 1908, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự thôi học, rời Huế đi vào Nam.”(8) Nghiên cứu các tài liệu chính thức tôi thấy thời gian từ khi Bác thôi học (1908) cho đến lúc Người vào dạy trường Dục Thanh (đầu năm 1910) đến gần hai năm. Thời gian gần hai năm đó Bác làm gì và đi đâu? Có bao nhiêu sự kiện đã xảy ra với Bác trong thời gian ấy. Nếu lược qua giai đoạn này chắc chắn sẽ thiếu sót khi nghiên cứu đến những quyết định của Bác sau đó. Và nếu bỏ qua thì làm sao có thể nói rằng đó là viết về cuộc đời thực của Bác? Tôi phải lần mò tìm tài liệu để lấp đầy khoảng thời gian này. Hồi ký của ông Lê Thanh Cảnh (chưa có điều kiện xác minh) cho biết: “Sau khi anh Côn bị đuổi học (?), mất học bổng, anh phải tự túc lo lấy thân”, bạn của Côn hứa sẽ xin cho hai anh em Hổ và Côn đi làm ở sở vôi Long Thọ của Bogaert hoặc sở cỏ may của Cosserat. Nhưng anh Côn cho biết bằng tiểu học của anh đề tên Côn-mà cái tên này thì đang bị lùng bắt, anh ở lại Huế kiếm ăn không tiện, anh phải tạm lánh đi nơi khác.”(9) Thế thì anh Côn đi đâu? - Vào ngay các tỉnh phía Nam để tìm cha? Không phải.Vì như lập luận và tài liệu chứng minh ở trên, lúc đó ông Phó bảng vẫn còn ở Huế. Thế không vào các tỉnh phía Nam vậy phải chăng anh đã ra Bắc để thăm quê? Vì muốn trả lời câu hỏi đó tôi đã rất lưu ý đoạn hồi ký ghi sau của đồng chí Hồ Sĩ Thản (ủy viên thuờng vụ Tỉnh ủy BTT.)(10) Nhớ lại một lần được gặp Bác, đồng chí Hồ Sĩ Thản kể: “Bác dắt tôi vào phòng. - Hút thuốc lá chú! - Bác mời, tay Bác mở hộp thuốc lá thơm đẩy đến trước mặt tôi..

<span class='text_page_counter'>(84)</span> - Dạ! - Miệng tôi (Hồ Sĩ Thản) dạ nhưng tay tôi vẫn để yên trên bàn. Tôi nhìn Bác quên cả hút thuốc. - Chú quê huyện nào? - Bác hỏi. - Dạ, quê cháu ở Cam Lộ, thưa Bác! - Tôi đáp. Vầng trán Bác hơi nhíu lại. Thấy vậy tôi lo quá. Chắc có điều gì Bác khiển trách đây chăng! Bổng đầu Bác hơi gật gật, miệng Bác tươi cười: - “Bác nhớ ra rồi, Hổi Bác mười bảy, mười tám tuổi, Bác có đi qua Quảng Trị, không biết ở Gio Linh chỗ đường núi ngong đi ngoạnh lại, đó là chỗ nào, hở chú?” Tôi sung sướng trả lời: - “Dạ… Thưa Bác đó là Ba dốc-Chợ Cầu!” - “Đúng, đúng Ba dốc-Chợ Cầu” - Bác vui vẻ nhắc lại.” Mẫu chuyện trên cho phép chúng ta đặt giả thiết: - “Trước khi vào các tỉnh phía Nam, Bác đã đi qua Quảng Trị, để trở về thăm quê hương Nghệ An.” Để chứng minh, tôi (NĐX) xin dẫn một số thông tin nữa. Đồng chí Đào Phương Nguyên trước kia làm báo Dân, sau chuyển qua (1980) công tác tại đài truyền hình Huế (nay đã hưu trí) biết tôi đang theo đuổi đề tài về Bác, anh đã giới thiệu tôi với bà Hoàng Thị Muôn (nay đã 90 tuổi) ở xã Triệu Độ (huyện Triệu Hải, Quảng Trị). Bà Muôn có con trai và con rể đi tập kết công tác tại Khu bốn. Sau ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị năm 1972, bà Muôn được ra miền Bắc thăm con và được con đưa đi tham quan bảo tàng Kim Liên. Khi bà Muôn được nhìn thấy ảnh Bác thời trẻ, bà đã xúc động kêu lên: - “Anh Côn đây này! Năm Mậu thân kháng thuế anh đi cùng mạ một chuyến đò ra Quảng Trị để về Nghệ An. Anh Côn chính là cụ Hồ thật sao?” Từ đó các anh con trai và con rể bà Muôn tìm cách nhắc nhở bà Muôn nhớ lại chuyện xưa và kể lại cho con cháu nghe. Khi gặp bà, bà cho tôi biết năm Mậu thân (1908) bà đi theo bạn gặt vào gặt thuê cho các nhà quan ở Huế. Bất ngờ cuộc chống thuế xảy ra, bạn gặt sợ quá bỏ về. Cùng đi một chuyến đò này có các học sinh Quảng Trị, Nghệ Tĩnh có liên quan đến cuộc chống thuế bỏ trốn về quê. Trong số học sinh đó có anh Côn là người hoạt bát, sống chan hòa với anh chị em bạn gặt nhất. Vì thế, dù gần anh chưa trọn hai ngày mà hàng chục năm sau chị em bạn gặt vẫn nhớ và nhắc đến anh. Câu chuyện của bà Muôn một lần nữa xác nhận cho cái giả thuyết của tôi có khả năng trở thành sự thực. Tôi tiếp tục theo dõi. Năm 1957 trong dịp về thăm và nói chuyện với đồng bào Nghệ Tĩnh, Bác có nói:.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> - “Quê hương nghĩa nặng tình cao Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”(11) Mời bạn đọc làm một phép toán trừ: 1957-50 =1907 Như thế Bác xa Nghệ Tĩnh vào khoảng 1907 hoặc 1908 (xin chấp nhận sai số 01). Ba chứng liệu trên ở ba nguồn khác nhau chứng tỏ giả thuyết của tôi nêu trên có thể tin được. Tháng 10.1979, ông Trần Minh Siêu cán bộ nghiên cứu của Bảo tàng Kim Liên vào Huế công tác, trao đổi thông tin lịch sử, tôi có dịp trình bày với ông về giả thuyết và những chứng liệu nêu trên. Nghe xong ông Siêu đáp: - “Cũng có lần tôi được biết sau vụ chống thuế ở Huế Bác có về quê cùng một chuyến với ông Trần Hữu Duệ-cháu cụ Võ Phương Trứ(12), nếu trí nhớ của đồng chí Hồ Sĩ Thản và bà Hoàng Thị Muôn tốt thì ta có thể xác định trước khi Bác vào các tỉnh phía Nam, Bác đã trở về thăm quê vào cuối năm 1908”. Như thế sau khi ra khỏi trường Quốc Học, anh Côn nấn ná ở Huế ít lâu rồi trở về thăm quê Nghệ Tĩnh. Ông Nguyễn Tài Tư (tức Thiếu Lăng Quân) kể lại lời bà Thanh cũng xác nhận như thế: - “Trong năm 1908 Bác con có trở về Nghệ An.” Có lẽ vì thế mà Ban Sử Đảng Nghệ Tĩnh đã viết: - “Hơn một năm sau ngày bị đuổi khỏi trường Quốc Học-Huế anh Thành (tức Côn) mới đến tỉnh Bình Định”(13) 3. Bác vào các tỉnh phía Nam với ai? Và bằng phương tiện gì? Ngày 15.12.1906 Thực dân Pháp đã bắt đầu khai thác đoạn đường xe lửa Huế-Đà Nẵng (dài 104 km)(14) có lẽ anh Côn đã rời Huế bằng tàu hỏa. Anh không thể đi bộ như một số sách báo thiếu căn cứ đã viết. Đã có xe lửa rồi thì vì lẽ gì anh Côn phải đi xe ngựa, đi bộ? Tiền tàu hỏa có thể đắt (theo ông Nguyễn Đóa - nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Miền nam Việt Nam, cho biết là 8 hào) nhưng chắc chắn nó cũng không hơn gì mấy so với số tiền ăn đường của một người đi bộ. Bộ hành, nhất là người đi buôn bán, khi đã có tàu rồi thì họ dại gì mà phải gồng gánh mang vác hay nhúc nhắc đi xe ngựa? Như thế lúc ấy anh Côn có muốn đi bộ cũng không thể đi được, vì có ai đồng hành đâu nữa mà đi! Bác đã đi với ai? - Thời điểm Bác xa Huế (khoảng đầu năm 1909) cũng không cách xa thời điểm cụ Phó bảng xa Huế. Tôi nghĩ rằng Bác đã đi vào các tỉnh phía Nam cùng lúc với cụ Phó bảng. (Bổ sung 8.2001): Sau hơn hai mươi năm chờ đợi, gần đây tôi mới chứng minh được điều dự đoán của tôi..

<span class='text_page_counter'>(86)</span> Theo tài liệu sồ 2 : Thư của cụ Nguyễn Sinh Huy gửi cho Khâm sứ Trung kỳ vào tháng Giêng năm 1911, thì cụ Huy “được bổ làm Tri huyện Bình khê tháng 5.1909 và... bị bãi chức Tháng Giêng 1910” Theo tài liệu số 18, khẩu cung của bà Nguyễn Thị Thanh khai với sở Mật Thám Trung Kỳ (mật văn số 711) vào tháng 5.1920 và được bọn mật thám Pháp tóm lại rằng: “Năm 1909 thân phụ của bà được chỉ định làm giám khảo kỳ thi Hương tại Bình Định và cũng năm đó được bổ làm tri huyện Bình Khê, hai người con trai cùng đi với ông thân sinh. Sau 7 hay 8 tháng, ông Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức vì thói say rượu và trở về Huế, năm 1910 với con trai lớn Nguyễn Tất Đạt trong khi đó Nguyễn Tất Thành ở lại Bình Định rồi vô làm trợ giáo tại trường Dục Thanh.” Hai đoạn tin mật này giúp cho chúng ta làm rõ được 3 sự việc: 1. Năm 1909, cụ Nguyễn Sinh Sắc trên đường đi làm Tri huyện Bình Khê đã được kết hợp làm Giám khảo kỳ thi Hương ở Bình Định năm 1909. Để có thể kết hợp làm giám khảo kỳ thi Hương năm 1909 thì ông Sắc phải cùng với hai người con rời Huế vào đầu năm 1909. 2. Hai người con trai là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành cùng đi với cụ tức là Nguyễn Tất Thành đã rời Huế vào đầu năm 1909; 3. Sau khi bị bãi chức (1.1910), cụ Sắc và Nguyễn Tất Đạt về Huế(15) còn Nguyễn Tất Thành ở lại Bình Định rồi vô làm trợ giáo tại trường Dục Thanh.”. (1) Nguyên văn:“Personnement, Nguyễn Sinh Huy n’a jamais été suspecté pendant son séjour en An-nam. Il fut réprimandé en raison de la conduite de ces deux fils, alors élève au collège Quốc Học qui avaient tenu devant leurs maitres des propos anti-francais à l’occasion des manifestations populaires en 1908” - Tài liệu được ghi ngày 12.11.1923 tờ A 37081 Toà Khâm sứ Trung Kỳ C 279 (Tài liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh) (2) Cao Xuân Dục, Sđd, tr.234. (3) Theo Đại Nam Nhất Thống Chí - Tỉnh Bình Định. (4) Theo Quan Sự Cẩm Nang của Ph. H.L thì Thừa biện là bát phẩm (8.-1), tri huyện là tùng lục phẩm (6-2). (5) Tập san Hoài Niệm Quốc Học, số 2, tr.37. (6) Một cơ sở xã hội của Hội Đồng Châu Nghệ Tĩnh. (7) Lê Thanh Cảnh, Bđd. (8) Ban NCLSĐ, Sđd (in lần thứ 5). (9) Lê Thanh Cảnh, Bđd. (10) Hồ Sĩ Thản, Nhớ lại lần gặp Bác Hồ, “Bác Hồ với BTT” (tập I), Huế 1977, tr.114, 115..

<span class='text_page_counter'>(87)</span> (11) Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh, Ban Sử Đảng Nghệ Tĩnh-Vinh,1977, tr.45. (12) Võ Phương Trứ làm Hành tẩu bộ Lễ có tham gia tổ chức yêu nước bị thực dân Pháp truy nã, Châu bản triều Duy Tân, tập VII, tờ 136. (13) Những mẫu chuyện... Sự Thật, HN, 1980, tr.59. (14) Dương Kinh Quốc, Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử, Tập II, 1897-1918, tr.150 (15) Sau khi bị bãi chức trở lại Huế cụ Nguyễn Sinh Sắc không còn ở tại dãy Trại đường Đông Ba. Trong một lá thư “Nguyễn Tất Thành, nhủ danh Sinh Côn” cho biết ông Nguyễn Sinh Huy, phó bảng, cựu tri huyện Bình Khê, trú tại nhà Hoàng Trọng, lý trưởng làng Cỗ Lão, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên” (Tài liệu số 7)..

<span class='text_page_counter'>(88)</span> Chương 13: Những tháng ngày ở các tỉnh phía Nam Mặc dù Bình Định và các tỉnh phía Nam không phải là địa bàn nghiên cứu của tôi, nhưng đã nhắc đến huyện Bình Khê thì tôi vẫn phải theo phương pháp cổ điển nhất là phải đặt chân đến nghiên cứu tại chỗ. Tôi có một người em trai sinh sống tại Quy Nhơn, nhờ thế việc “đi thực tế” của tôi tại Bình Khê đỡ phần tốn kém. Tôi thực hiện chuyến đi này khoảng tháng năm 1980. Đường bộ từ Quy Nhơn lên đến Bình Khê khoảng 40 km. Đi Honda, ngồi sau lưng chú em, lòng tôi cứ nghĩ mình sắp lên một nơi “chó ăn đá, gà ăn muối”. Tôi chờ đợi bắt gặp những trái đồi khô cằn, những thửa ruộng xác xơ để mô tả mảnh đất đói nghèo-nơi cha con ông Phó bảng Huy đã sống từ tháng 5.1909 đến tháng 1.1910(1). Nhưng không ngờ: Bình Khê đã được đổi thành huyện Tây Sơn rất trù phú: màu xanh của lúa, của mía phủ kín cả đất ruộng, đất màu. Từng đàn chim mía bay rộn ràng qua khung trời xanh. Hầu hết nhà dân Tây Sơn đều lợp ngói. Tôi không tìm ra đâu một mái nhà tranh. Chợ Tây Sơn buôn bán tấp nập, xe đò đứng “ăn hàng” ở chợ đầy nhóc. Đứng giữa thị trấn Tây Sơn, lòng tôi tràn đầy một cảm xúc khó tả, ngỡ ngàng giữa sự hiểu biết cũ và thực tế mới. Không hiểu được tâm trạng của tôi, chú em cầm tay kéo vào một quán ăn: - “Độ này đang mùa chim mía-đặc sản của dân Tây Sơn, anh vào ăn một trận cho vui rồi hãy đi nghiên cứu!” Không thể từ chối được, tôi phải đi theo người em. Chim mía nhổ lông rồi còn lại bằng ngón tay cái, thịt thơm, xương dòn. Thịt chim ram hay nướng gì để nhắm rượu cũng ngon cả. Ăn thịt chim kèm theo rau thạch gây một vị rất lạ. Tôi không tả được nên nói đại với người em: “Đây là hương vị Tây Sơn”. Tôi thấy khách từ Quy Nhơn lên, từ Cao Nguyên xuống dừng xe vào ăn chim mía rất đông. Nhìn họ ăn, họ chắp chắp miệng tôi tưởng tượng là ngon lắm. Nhưng riêng tôi thì chưa thích lắm, bởi vì lòng tôi đang nôn nao muốn ăn nhanh để có thể rảo bước đến ngay cái mảnh đất huyện đường Bình Khê cũ-nơi Bác đã sống qua. Em tôi hiểu ý nên cũng chấm dứt nhanh cuộc “nhậu” miễn cưỡng này. Tôi đến nơi đặt huyện đường Bình Khê năm xưa lòng bồi hồi xúc động. Nhưng rất tiếc đến nay (1980) không còn dấu vết gì, nền nhà cũ đã phá đi làm cơ quan và nhà ở mới. Tôi ngước mắt nhìn lên vùng An Khê với các hòn “ông Nhạc”, “ông Bình”, tôi quay lại nhìn dòng sông Côn nước rút bày cả lòng sông sỏi cát, bến thuyền Trường trầu vắng vẻ gợi lên một cảm giác xa xưa, man mát. Tôi đi về phía quê hương anh em Tây Sơn, qua cầu sông Côn lên thăm ngôi đình Thành hoàng-nơi có cái nền nhà Nguyễn Huệ hai trăm năm trước. Tôi thăm giếng nước, thăm cây me “giải khát” cho quân Tây Sơn. Tôi tin chắc ngày xưa đến Bình Khê với cụ thân sinh, Bác Hồ đã nhiều lần đến chơi dưới gốc cây me cổ thụ này! Những người cao tuổi giới thiệu với tôi ông Bùi Gia Tưởng (con trai ông Bùi Duệ), ông Bảy Thiêm ở làng Xuân Huề, xã Bình Phú (cũ). Các cụ đã trên 90 tuổi. Qua các ông tôi được biết: “Lúc hai anh em con ông Huyện đến đây, dân địa phương thường gọi là cậu Ấm Khôm và cậu Ấm Rôm. Ông Hương bộ Yêm lúc còn sống có giữ một tấm ảnh ông Huyện chụp với hai người con trai. Hai cậu Ấm mặc áo dài đen đứng hai bên ông Huyện trông rất chững chạc.” Tôi hỏi;.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> - “Vì sao mà gọi là Ấm Khôm và Ấm Rôm?” Các ông cười: - “Khôm có lẽ là đọc trại chữ Khiêm. Còn Rôm có lẽ là cậu em hay đi chơi ngoài nắng người bị sảy rôm lên chăng?” - “Tấm ảnh ấy” - Tôi hỏi - “bây giờ ở đâu, thưa các cụ?” Các ông lắc đầu: - “Ồ lâu quá rồi. Ông Quách Tấn - tác giả Nước Non Bình Định, năm 1947 có về tìm tấm ảnh đó, nhưng không rõ Quách Tấn có tìm được không!” Thế là tôi nhanh chóng theo chú em trở về ngay Qui Nhơn, sáng hôm sau tôi đi xe đò vào Nha Trang tìm nhà thơ cổ điển Quách Tấn ở số 12 Bến Chợ. Ông Quách Tấn cho biết năm 1929 ông đã thấy tấm ảnh đó ở nhà Hương bộ Yêm, nhưng năm 1947 ông về tìm thì ông Hương bộ Yêm đã mất, tấm ảnh đã chuyển sang tay người khác... Lúc đó tôi - tức Quách Tấn - cứ tưởng tấm ảnh đã vô tay những người cách mạng, chớ không ngờ... Nhưng tôi tin là tấm ảnh vẫn còn. Trên đường trở lại Huế tôi có ghé lại Bình Khê lần nữa song không tìm thêm được “tin tức” gì cụ thể hơn. Sau những lúc “bế tắc”, nghẽn đường tôi thường nằm moi trong trí nhớ của mình, đọc lại tư liệu trong các sổ tay và nghe lại các cuốn băng đã thu tiếng nói của những “nhân chứng” cao tuổi. Trong cuốn sổ tay của tôi có ghi một đoạn: - “Bác nói Bác đã từng học sư phạm tại Qui Nhơn”. Câu nói đó tôi ghi vội và sơ sót đã không ghi tên người kể và cũng không ghi được trường hợp nào Bác đã nói như thế. Khi nghiên cứu về Bác thì tôi hoàn toàn không nhớ đến chi tiết này. Lại trong cuốn băng hỏi chuyện thầy Hồ Đắc Định có mấy câu kết thúc: Lời thầy Định: - “Còn tôi nếu anh thấy cần, tôi sẽ kể thêm một vài mẫu chuyện về thời gian Bác ở Qui Nhơn”. - “Cám ơn thầy - Lời của tôi trong băng - Để thầy nghỉ. Con chỉ nghiên cứu về thời gian Bác Hồ ở Huế thôi!” Nghe lại tiếng nói của mình trong băng tôi rất ân hận và tự trách mình: “Tại sao lúc đó mình lại nhác đến thế? Cục bộ đến thế? “Tôi càng ân hận hơn khi tôi trở lại hỏi chuyện ông Định thì ông đã đau nặng yếu quá không thể tiếp chuyện tôi được nữa. Ông bảo tôi xé tờ lịch lật ngược lại để ông viết cho tôi mấy chữ nguệch ngoạc: “Anh vô Thành tìm cụ Nguyễn Đạm mà hỏi. Tôi có kể lại với cụ Đạm lúc cụ Đạm làm việc ở tòa Khâm”..

<span class='text_page_counter'>(90)</span> Cầm mảnh giấy trong tay tôi mừng rỡ không dám chần chờ nữa, tôi ngược đường Nguyễn Chí Thanh, băng qua cầu Đông Ba vào ngay Thành Nội để gặp lại cụ Nguyễn Đạm. Tôi thú hết “tội lỗi” với ông Nguyễn Đạm và tôi đã được ông “tha tội” bằng một số thông tin sau đây: - “Anh Thành ở Bình Khê với ông cụ, hình như cha con lúc đó gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế. Trước cuộc sống khó khăn đó, anh Thành phải đi tìm việc làm để kiếm sống qua ngày. Anh xuống Qui Nhơn trú trong nhà ông bà Phạm Ngọc Thọ - Công Tôn nữ Chánh Tín (cháu nội Tuy Lý Vương). Ông Phạm Ngọc Thọ đã từng dạy Pháp văn Nguyễn Sinh Cung tại trường Pháp Việt Đông Ba. Bà Công Tôn nữ Chánh Tín là em ruột cụ Ưng Dự - người cũng từng dạy Pháp văn cho Nguyễn Sinh Cung tại trường Pháp Việt Đông Ba và Lớp chiều (Cours du soir) tại Ngã Giữa (Phan Đăng Lưu và Trần Hưng Đạo ngày nay.)(2) Cuối năm 1909, Qui Nhơn mở khoa thi lấy Tổng sư đầu tiên. Anh Thành về nạp đơn ứng thí với cái bằng tiểu học mang tên Nguyễn Sinh Côn. Anh hy vọng bọn thực dân ở đây không hay biết gì về việc anh giúp dân chống thuế và buộc phải tự nghỉ học ở Huế. Viên chánh chủ khảo khoa thi Tổng sư năm ấy là thầy Hồ Đắc Quỳnh-người đã dạy anh Thành ở trường Pháp Việt Đông Ba. Một phần vì kiến thức rộng và khả năng sư phạm của anh, một phần vì tình thầy trò cũ, khoa thi Tổng sư năm ấy anh Thành đã được chấm đỗ đầu bảng. Nhưng không may, lúc danh sách những người mới trúng tuyển chuyển đến tay Công sứ Pháp ở Bình Định là Friès (tên Công sứ đã có thành tích dìm phong trào chống thuế ở Bình Định trong biển máu) thì tên Nguyễn Sinh Côn đã bị gạch. Thật là họa vô đơn chí! Lý do rất dễ hiểu vì tên tuổi tất cả những người chống thuế ở miền Trung bị theo dõi đã được thông báo đầy đủ ở toà sứ của Friès từ lâu!” Phải chăng đây là sự kiện mà sau này Bác vẫn còn nhớ và kể lại với một cán bộ nào đó là Bác đã học Sư phạm ở Qui Nhơn chăng? * * * Không được học tổng sư ở Qui Nhơn, tại sao Bác không trở lại Huế, không về Nghệ An mà lại vào Phan Thiết? Vì sao lại vào Phan Thiết mà không vào thẳng Sài Gòn hoặc một tỉnh nào đó phía trong Qui Nhơn? - Bác không trở lại Huế vì cái bằng Tiểu học của Bác mang tên Côn-cái tên đang bị thực dân Pháp theo dõi. Bác không thể tìm được việc làm ở cái đất đặt tòa Khâm sứ Trung kỳ này(3). Bác lại càng không về Nghệ An, bởi vì thực dân Pháp cũng đang đàn áp những người yêu nước ở Nghệ An rất dữ dội. Trở về Nghệ An lúc đó không khác gì hành động Bác tự đem nộp mình cho kẻ thù. Bác không thể vào ngay Sài Gòn, vì Sài Gòn lúc đó là thuộc địa của Pháp, người Trung kỳ muốn vào phải có đầy đủ giấy tờ như sang một nước khác. Nhiều người cho rằng: đầu thế kỷ XX - biên giới của nước Pháp sang đến tận Nam kỳ. Thế thì Bác có muốn mười mươi đi nữa cũng không thể nào vào ngay được. Bác cũng không vào một tỉnh nào khác vì những địa phương đó không có những thuận lợi đối với Bác như Phan Thiết mà tôi sẽ trình bày sau đây..

<span class='text_page_counter'>(91)</span> Phan Thiết là đất “tị địa”. Không khí chính trị ở Phan Thiết dễ thở hơn so với các tỉnh ở Trung kỳ đã thấm máu đồng bào chống thuế năm 1908. Trong tác phẩm Trung kỳ Dân biến thỉ mạc ký, ông Phan Chu Trinh cho biết: “Tình hình Bình Thuận không có lộn xộn gì. Quan tỉnh ấy có thừa dịp Khâm sứ (Trung Kỳ) chỉ thị thêu dệt kết án hơn 10 người từ 5 đến 10 năm tù. Công sứ tỉnh ấy là Garnier công bình không chịu kê tên, lại biện bạch giúp thả ra, không ai mắc tội, chỉ bị quan Nam bắt giam một vài tháng thôi.”(4). Do mâu thuẫn giữa Khâm sứ Trung kỳ và Công sứ Bình Thuận mà không khí chính trị ở đây dễ thở, trường Nghĩa thục Dục Thanh không bị đóng cửa như các trường Nghĩa thục ở Nghệ An, Quảng Nam, Hà Nội. Đang bị thực dân theo dõi, lúc ấy không nơi nào trên dãi đất Trung kỳ dung Bác tốt bằng Phan Thiết. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê tác giả sách Đông Kinh Nghĩa Thục cho biết trong thời gian ấy cũng có Nguyễn Hữu Hoàng quê ở Hà Tĩnh bị can tội chống thuế ở Quảng Nam cũng bỏ trốn vào Phan Thiết dạy học theo tinh thần của các trường Nghĩa thục của phong trào Duy Tân(5). Phan Thiết là nơi dễ làm ăn lại thiếu người có chữ. Giữa tháng 5 năm 1905, ông Phan Chu Trinh - trong một chuyến “Nam du” cổ động cho phong trào Duy Tân ở Phan Thiết đã có một bài thơ mô tả tỉnh Bình Thuận với những câu: “Gái lo trang điểm màu son phấn Trai lại trau tria cuộc ngựa gà” Và “Thanh khí rán bòn năm bảy kẻ Văn chương cằn sảy một đôi nhà” Tình hình làm ăn thuận lợi ở Phan Thiết (thuộc tỉnh Bình Thuận) có lẽ Bác đã được người bạn đồng khoa của cụ thân sinh cho biết từ những năm mới trở lại Kinh đô (1905-1906). Do đó, phải chăng khi gặp bế tắc ở Qui Nhơn, tiếng gọi của Phan Thiết lại vang lên và Bác đã đi theo tiếng gọi ấy? Phan Thiết cũng là nơi Nguyễn Hiệt Chi - anh ruột của Nguyễn Hàn Chi - thường gọi là Khoá Nối, đang sinh sống và đang tham gia các hoạt động yêu nước. Và như bạn đọc đã biết ông Hàn Chi là bạn đồng hương Nghệ Tĩnh, một lãnh tụ của cuộc chống thuế ở Huế mà Bác có tham gia. Ông Hàn Chi đã hy sinh, chắc chắn ông Hiệt Chi sẽ rất mừng khi được đón “chiến hữu” của em mình là Bác (thông thường là như thế). Chúng ta có thể phỏng đoán: khi nói đến Phan Thiết, có lẽ Bác đã nghĩ đến người anh của Hàn Chi. Vì mối thân tình này mà ông Hiệt Chi đã cho con trai là Nguyễn Kinh Chi đến học với Bác khi Bác dạy học tại trường Dục Thanh chăng? (Anh Từ Chi - Một nhà Đông Nam Á học nổi tiếng của ta, là con trai ông Nguyễn Kinh Chi, tuy không được người xưa kể lại, nhưng anh cũng đồng ý với những phỏng đoán nêu trên của tôi). Để hỗ trợ thêm cơ sở thực tế cho những phỏng đoán này tôi xin trích một đoạn tự thuật của ông Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại (lúc ấy làm quan tại Khánh hòa) để bạn đọc tham khảo:.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> “Dân cư hai tỉnh Thuận Khánh (tức Bình Thuận và Khánh Hoà. NĐX) phần đông làm nghề nông không chuộng văn học. Sở xưng cử tú trong tỉnh phần nhiều là Nghệ Tĩnh ngụ cư. Người làm việc phần nhiều học trò Quảng Ngãi. Còn người bản tỉnh ngoài những người làm ruộng và chăn nuôi, toàn là những người ăn chơi... Tại Bỉnh Thuận có Tú tài Nguyễn Hiệt Chi hội hợp các bạn lập nên Liên thành thơ quán, ủy người đến xin, ta có câu đối: “Dự ngã tẩy trừ ô não cựu Vị quân diễn thuyết vũ đài tân””(6) Ngoài ra, Phan Thiết còn là nơi ông Hồ Tá Bang đang hoạt động. Ông Bang người Kế Môn (huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế), học trò của Nguyễn Lộ Trạch, là bạn Tân thơ, Tân sách với Phan Chu Trinh, Nguyễn Sinh Sắc khi ông ở Huế. Ông đã vào Phan thiết tiếp tục công việc của Nguyễn Lộ Trạch dang dở. Ông Ưng Thuyên Vu Hương đã từng nhắc đến tên ông. Tôi cũng được gia đình ông Phan Bội Châu ở Bến Ngự cho biết: “Ngày xưa cụ Phan đã từng kể Hồ Chí Hữu (tức Hồ Tá Bang) ở Phan Thiết đã đóng phần dẫn dắt Nguyễn Ái Quốc vào Sài Gòn đi tìm đường cứu nước.” Vì vai trò của ông Bang nếu đúng như thế thì quá quan trọng nên tôi phải tìm hỏi chuyện của gia đình ông Bang. Trên đường đi Phan Thiết, tôi gặp bác sĩ Đối - bạn đồng nghiệp với bác sĩ Hồ Tá Khanh - con trai ông Bang. Bác sĩ Đối (ở Đà Nẵng) khuyên tôi không nên vào Phan Thiết, mà nên vào thành phố Hồ Chí Minh gặp bà con gái của ông Bang ở tại số nhà 52 đường Bàn Cờ, Quận 3. Nhờ sự chỉ dẫn chính xác của bác sĩ Đối, tôi đã gặp bà con gái của ông Bang tên là Hồ Thị Liệt. Chồng bà là ông Lê Trung Ngạn - một công chức nhỏ đã về hưu từ lâu. Hiện nay hai ông bà sống qua ngày nhờ vào một tủ sách bày bán ngay tại nhà. Lúc đầu tiếp tôi, ông Ngạn có vẻ dè dặt. Tôi đoán biết ý ông chưa tin vào khả năng làm việc của tôi, nên tôi phải tự giới thiệu mình bằng những tài liệu tôi đã viết về Bác Hồ đã in trên báo và ngay cả những bài chưa in báo lần nào. Khi hai ông bà bắt đầu tin tôi thì họ cung cấp cho tôi tất cả những tư liệu mà gia đình còn giữ được. Trong chuyến đi ấy có anh Trần Viết Ngạc (Khoa Sử Đại học Sư phạm Huế) và anh Nguyễn Hữu Châu Phan (một người nghiên cứu lịch sử lâu năm ở Huế), các anh đã giúp tôi chụp ảnh toàn bộ những tư liệu cần thiết. Trước khi đi vào phần nội dung, bà Liệt đã tâm sự: (Trích băng ghi âm) - “Tôi mới trên 70 nên không được hân hạnh gặp Bác Hồ lúc Người dạy học ở Phan Thiết. Những gì tôi được nghe cha mẹ kể lại đến nay bệnh hoạn tôi cũng không còn nhớ được bao lăm! Trước ngày giải phóng 1975, tôi đau dữ lắm. May mà tôi sang Pháp kịp để giải phẫu cái gan chớ không tôi chết rồi. Nhưng không ai ngờ chữa bệnh sắp lành thì giải phóng miền Nam. Hết lo chết lại lo bị kẹt xa gia đình chồng con, buồn cũng muốn chết luôn. Sau đó nghe tin Thủ tướng Pham Văn Đồng sang Pháp, tôi liều mạng đến xin Thủ tướng cho tôi về nước. Nghe tôi là con gái ông Hồ Tá Bang, Thủ tướng rất vui:.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> - “Lúc sinh thời có lần Bác có nhắc đến cụ Hồ Tá Bang. Không ngờ hôm nay gặp cô là con gái cụ Bang ở đây. Nếu cô muốn về thì về với chúng tôi luôn!” Nghe Thủ tướng cho phép theo về nước với ông, tôi như người chết đi sống lại. Cha mẹ tôi ăn ở phúc đức giờ đây tôi mới được hưởng. Tôi được theo Thủ tướng đi chuyên cơ về Hà Nội. Thủ tướng bảo tôi: - “Đây là Phủ Chủ tịch, nơi Bác đã sống từ ngày giải phóng Thủ đô đến khi Người từ giả cuộc đời. Cô có thể ở lại đây, nghỉ ngơi, đi thăm viếng các danh lam thắng cảnh Hà Nội. Khi nào không thích nữa thì vào thành phố Hồ Chí Minh.” Tôi hết sức cảm động, không ngờ mình lại có được những vinh hạnh như thế này. Nói chuyện với Thủ tướng lưỡi tôi cứ líu lại. Có lẽ tôi là một trong những người dân Sài Gòn được thăm chỗ ở của Bác tại Thủ đô sớm nhất. Ở trong Phủ Chủ tịch được mấy hôm thích quá, tôi không ngờ đời mình lại có được những vinh hạnh như thế này. Tuy nhiên nỗi nhớ nhà, sự nôn nóng được gặp mặt chồng con cứ xô tới, buộc tôi phải xin phépThủ tướng rời Hà Nội. Thế là từ hồi đó đến nay tôi cứ ở riết trong cái nhà này, kể chuyện cho nhà tôi nghe, kể đi kể lại hoài mà không thấy chán. - Bà Liệt vừa nói vừa rót cho tôi một cốc nước đậu ván rang - Nhờ vậy mà bây giờ tôi nhớ được chút ít chuyện xưa để kể với anh. Trước kia suốt ngày lo làm ăn thời giờ đâu mà nhớ, mà kể. Mà có nhớ cũng không dám, kể chuyện Cụ Hồ ở tù như chơi. * *. *. - “Cha tôi - Bà Hồ Thị Liệt kể - là người làng thợ vàng Kế Môn, tỉnh Thừa Thiên, có đầu óc thực dụng. Ông vào Phan Thiết làm ký lục hồi cuối thế kỷ trước. Mẹ tôi là con gái họ Huỳnh hào phú có danh ở Bình Thuận. Khoảng năm Ất tỵ (1905) và Bính ngọ (1906) phong trào hội buôn, trường học sôi nổi cả nước, được các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp vào tận nơi cổ vũ, cha tôi cùng bạn đồng chí kêu hùn vốn thành lập ra Liên thành thương quán và mở trường Dục Thanh được có thành hiệu. Năm Duy Tân Canh tuất (1910) cha tôi bị đổi ra làm ký lục cho toà sứ ở Hội An, cụ không thích Tây nên bỏ về. Cụ được cổ động hội Liên thành tín nhiệm, bầu là Tổng lý trong Hội. Cụ đã mua được một cái thẻ thuế Đinh của Nam kỳ nên cụ có điều kiện vô ra Sài gòn-Chợ lớn luôn, cụ lập được một Phân cuộc của Liên thành trong đó. Đối với Bình Thuận lúc đó, Sài Gòn, Chợ Lớn là một nước khác, vô ra khó lắm. Ngay cả lúc cụ Phan Chu Trinh vào ở chờ trong nhà tôi hàng mấy tháng trời mà vẫn không vào được. Thế mà cha tôi cứ đi vô, đi ra quanh năm suốt tháng ít khi nghỉ. Thời gian đó Bác Hồ với cái tên Nguyễn Tất Thành đang dạy học tại trường Dục Thanh. Anh Thành là con cụ Phó bảng Nghệ - bạn của cha tôi ngày còn ở Kinh. Anh Thành có khiếu dạy học, có tinh thần yêu nước thương nòi nên cha tôi thương, mời anh về ăn ở ngay trong nhà. Nhà tôi lúc đó rộng rãi, cha tôi lại hiếu khách nên ngày nào nhà cũng có khách. Các nhà Nho, các nhà trí thức trong Nam ra, ngoài Bắc vô phần lớn đều có ghé qua nhà tôi đàm đạo, nói chuyện yêu nước. Nhiều người ghé lại có mục đích là nhận tiền tiêu, hoặc nhận tiền do cha tôi kinh doanh, quyên góp để gởi cho những người yêu nước. Cụ Phan Bội Châu ở nước ngoài cũng thường nhận được tiền của Công ty Liên thành..

<span class='text_page_counter'>(94)</span> Anh Thành ở trong nhà cha mẹ tôi chưa đầy một năm thì vào một ngày giáp tết năm Tân hợi (1911) Anh Thành đã xuống ghe bầu theo cha tôi vào Sài Gòn. Sở dĩ tôi nhớ được cụ thể thời điểm đó vì tôi có một người chị đã qua đời vào một ngày cuối năm ấy. Theo lời cha tôi, anh Thành tâm sự: “Thằng Tây ở xứ Bảo hộ thì thấy nhiều rồi, còn thằng Tây ở xứ của nó ra sao thì chưa biết. Tôi muốn vào để xem.” Bà Liệt kể chuyện xưa với cái giọng nóng hổi như chuyện vừa xảy ra. Bác Lê Trung Ngạn ngồi bên tôi trầm ngâm, chốc chốc thì bác nâng bình châm nước vào chén của bà Liệt và chén của tôi. Tôi lật xấp tài liệu mang theo bên mình xem qua rồi nói với vợ chồng ông bà Ngạn: - “Có lần Bác Hồ đã kể với bà Louis Storon rằng: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi - lúc này thường tự hỏi nhau rằng: Ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là người Nhật, người khác nghĩ là người Anh, có người nghĩ là người Mỹ. Tôi thấy phải ra nước ngoài xem cho rõ”(7). Phải chăng Bác đã tiếp thu được những nhận định này của các nhà yêu nước qua những cuộc gặp gỡ tại Phan Thiết? Và quyết định ra nước ngoài-tức là vào Sài Gòn - biên giới của nước Pháp tại Đông Dương, cũng đã bắt đầu từ Phan Thiết?” Ông Ngạn dè dặt: - “Chưa tìm được tài liệu thì mình không nên khẳng định. Nhưng tôi cũng đồng ý với những ước đoán của anh. Bác Hồ vào Sài Gòn là chặng đường đầu tiên của cuộc trường chinh tìm đường cứu nước của Bác ở nước ngoài.” Tâm trí của tôi bỗng loé lên một ý nghĩ: - “Xa Phan Thiết cũng có nghĩa là xa quê hương, từ giả nếp sống tiểu tư sản của một cậu học trò, một ông thầy giáo để bước vào đời thợ, đời của một người lao động bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước.”. (1) Theo thư của ông Nguyễn Sinh Huy gởi cho Khâm sứ Trung Kỳ tháng Giêng 1911- Tháng Chạp năm Duy Tân thứ 4) cho biết ông đã được: “bổ làm tri huyện Bình Khê tháng 5.1909 và bị giáng xuống hàng tứ phẩm với việc bãi chức tháng vào Giêng 1910”. (Tài liệu số 2) (2) Có lẽ vì mối quan hệ đó mà sau này con trai của ông bà Phạm Ngọc Thọ và bà Công Tôn nữ Chánh Tín là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã để vợ đầm ở lại bên trời Tây để về Việt Nam tham gia kháng chiến với cụ Hồ. (3) Lê Thanh Cảnh, Bđd. (4) Phan Chu Trinh, Sđd, tr.87. (5) Nguyễn Hiến Lê, Sđd, Lá Bối, Sài Gòn, 1968, tr.140. (6) Nguyễn Văn Mại, Lô Giang tiểu sử, tr.124. (7) Anna Louis Storon, Ba lần nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo Nhân Dân,18.5.1965..

<span class='text_page_counter'>(95)</span> Chương kết: Chút tâm tình kính dâng Viết đến chương kết của cuốn sách tôi bỗng dưng nhớ lại những ngày đầu cầm bút ngồi hàng giờ trước trang giấy mà vẫn chưa biết viết cách nào để có thể thông tin được những tư liệu mới tìm được về thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Như tôi đã trình bày trong các chương trước: Viết về Bác đã khó, mà viết về Thời niên thiếu của Bác càng khó hơn. Hình ảnh các ông chủ nhiệm báo, các đồng chí biên tập có trách nhiệm cứ hiện ra trước mắt tôi. Bên tai tôi cứ văng vẳng lời khuyên: “Chà, đề tài này phải thông qua Trung ương mới đăng được. Sao đồng chí không viết đề tài khác, ví dụ như các danh nhân ở địa phương cho dễ? Viết về Bác nhỡ có điều gì sai lầm thì khó gỡ lắm!” Nhiều vị lãnh đạo, nhiều ông chủ nhiệm báo đã trực tiếp khuyên tôi như thế. Để có thể “lách” được sự nghiêm ngặt truyền thống này, tôi đã bắt đầu thông tin tuổi trẻ của Bác ở Huế bằng một bài thơ. Bài Trên Mảnh Đất Bác Đã Sống Qua. Cái quan trọng của việc in bài thơ này là phần chú thích. Cám ơn báo Dân đã in cho tôi bài thơ trên với đầy đủ năm cái chú thích (tháng 5.1978). Không hiểu được ý đồ của tôi, tập san Văn nghệ Bình Trị Thiên đề nghị đăng lại bài thơ với lời yêu cầu bỏ các chú thích nặng nề ấy. Không đạt được ý muốn nên bài thơ ấy chỉ được xuất hiện một lần trên báo Dân thôi.(1) Phát huy thắng lợi, tôi thử sức công bố các tư liệu của mình qua các Hội nghị khoa học tại các trường Đại học Sư phạm, Câu lạc bộ trí thức, Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên. Đồng thời tôi gởi bài đến các báo chí địa phương và Trung ương(2). Các bài báo đi từ hình thức mẩu chuyện đến những ghi chép mang dạng hồi ký và cuối cùng là những bài nghiên cứu khoa học thực sự. Khi các bài báo ra đời và đứng được, tôi được các cơ quan mời đi báo cáo. Từ đó,việc nghiên cứu về đề tài Bác Hồ ở Huế bắt đầu có không khí. Nhiều nhà nghiên cứu sử, nghiên cứu văn học đề cập đến đề tài này. Cái không khí nghiên cứu, giới thiệu, nói về Thời niên thiếu Bác Hồ tại Huế đã đáp ứng rất kịp thời chủ trương của Trung ương và Tỉnh ủy Bình Trị Thiên thiết lập tại Huế một Phân viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Đầu năm 1979, Ban tổ chức thành lập Phân viện Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Huế mời tôi báo cáo công trình nghiên cứu của tôi. Sau một ngày làm việc tôi đã được các nhà nghiên cứu ở Trung ương và Bình Trị Thiên-Huế góp cho nhiều ý kiến quý giá, biểu dương tinh thần làm việc khoa học hăng say của tôi và bổ khuyết cho tôi những sơ hở, những thiếu sót cần phải khắc phục. Một kỷ niệm sâu sắc qua buổi báo cáo này là tôi đã quen thêm được với nhiều nhà nghiên cứu ở các địa phương và Trung ương. Không ngờ qua mối duyên khoa học ấy mà chúng tôi đã kết thân với nhau cùng nhau cộng tác lâu dài trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. Với sự quan trọng của thời gian Bác Hồ đã ở Huế nên một Phân viện Bảo tàng Hồ Chí Minh đã được thiết lập ở đây. Tôi được ban tổ chức yêu cầu chuẩn bị nội dung phòng Một: Phòng giới thiệu về Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Vì đề tài quá mới, cán bộ khoa học chưa có bao nhiêu để đi xác minh tài liệu, nên bảo tàng chỉ xử dụng được một phần nhỏ trong những gì tôi muốn trưng bày. Tuy thế tôi cũng mừng thầm dù sao công trình nghiên cứu của tôi cũng đã thành công phần nào. Nhưng không có hoa hồng nào là không có gai. Bên cạnh những kỷ niệm ngọt ngào ấy tôi không thể xoá mờ trong ký ức nhiều nỗi xót xa. Có những lúc tôi đang đứng trong phòng báo cáo khoa học được nhiều tràng vỗ tay tán thưởng thì bên ngoài có nhiều người chưa nghe tôi báo cáo bao giờ tung dư luận: “Tay ấy nghiên cứu và viết về Bác Hồ là có ý đồ chính trị”. Cũng có những lúc tôi đang báo cáo thì bỗng dưng điện tắt, mi-cờ-rô điếc câm tôi phải rán sức nói không mi-cờ-rô cho đến lúc kết thúc. Sau đó tôi mới hay có ”lịnh không cho tôi nói, nhưng người tổ chức thấy công bố cái lịnh ấy có vẻ thiếu lịch sự với người nghe nên chỉ nhẹ.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> nhàng đưa tay kéo cái cầu giao công-tơ điện cho xong chuyện. Thậm chí có hôm Thành ủy Huế - cơ quan tôi phục vụ hơn 18 năm qua (1966- 1984), nhận được những cú điện thoại chất vấn: “Ai cho phép Nguyễn Đắc Xuân đi báo cáo về Thời niên thiếu Bác Hồ? Ai đã duyệt bài báo cáo đó? “Đồng chí Thường vụ Trực Đảng đã đáp: “Chúng tôi có chủ trương khuyến khích các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà văn nghiên cứu đề tài này - trong đó có đồng chí Nguyễn Đắc Xuân là cán bộ của chúng tôi. Những tài liệu đồng chí Xuân tìm được chúng tôi đã nghe báo cáo. Về quan điểm lập trường, về phương pháp nghiên cứu nghiêm túc không có gì sai sót. Còn về giá trị khoa học đến đâu thì đồng chí phải trình bày với quân chúng để quần chúng tham gia ý kiến. Đây là một công trình của cá nhân, nhất là cá nhân đó là một nhà sử học, một Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam. Các đồng chí nghe đồng chí Xuân báo cáo có chi sai sót cần góp ý kiến sửa chữa nhưng không nên làm cho các nhà nghiên cứu, anh em văn nghệ sĩ mất hứng thú, than phiền chúng ta hẹp hòi!” Phúc cho tôi là người đại diện Thành ủy Huế đã sáng suốt hết lòng ủng hộ tôi trong công việc khó khăn này. Đó là yếu tố quan trọng nhất đã gúp cho tôi vượt được mọi chông gai thử thách trên bước đường nghiên cứu. ... Ngày 3.6.1982, ông Vũ Kỳ - Phó Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh vào Bình Trị Thiên công tác đã đến nói chuyện với cán bộ Thành phố tại cơ quan Thành ủy Huế. Tôi hân hạnh được lãnh đạo cho phép vào nghe buổi nói chuyện bổ ích này. Trong lúc nói chuyện nhiều lần ông Vũ Kỳ nhắc nhở: - “Thành ủy Huế có nhiệm vụ phải xác minh các tài liệu có liên quan đến Bác ở Huế. Nên giao cho ban Tuyên giáo, ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, các trường Đại học làm. Tập họp thành một tổ chức, giao cho một hay hai đồng chí phụ trách. Phải có chương trình kế hoạch làm dần từng bước: Năm 1895 làm đến đâu, năm 1990 dứt điểm được những vấn đề gì phải phấn đấu thực hiện cho được. Thời gian Bác Hồ ở Huế là một niềm tự hào, một vinh dự của Huế. Nghiên cứu về Bác Hồ có khó khăn, có khó khăn mới vinh dự. Không khó khăn không bao giờ vinh dự. Không ai thay cho Thành ủy Huế làm việc này. Tôi đã giao cho Bảo tàng Hồ Chí Minh làm việc này nhưng chưa làm được. Thành ủy phải thấy như thế mà lảnh lấy trách nhiệm. Sau này, tất cả những tài liệu về Bác Hồ ở Huế nếu chưa có Thành ủy xác nhận thì chưa được công nhận. (Lược ghi trong băng ghi âm). Là một người nghiên cứu và viết về Bác bảy tám năm nay, lại là một cán bộ trong cơ quan Thành ủy Huế tôi rất sung sướng khi được nghe những lời nhắc nhủ ấy. Tôi củng cố thêm vào lòng tin công việc làm của mình là đúng đắn, và từ đó tôi loại bỏ được ra khỏi lòng mình những dư luận của những người có định kiến xấu. Ông Vũ Kỳ vào Huế công tác lần ấy đã để lại cho tôi một kỷ niệm sâu sắc. Theo chương trình dự định, sau buổi nói chuyện, lãnh đạo Thành ủy sẽ mời ông ở lại dùng cơm trưa với những món ăn nấu theo lối Huế. Không ngờ đồng hồ mới chỉ 9 giờ, buổi nói chuyện đã kết thúc một cách thú vị. Để lấp khoảng trống trước bữa cơm, các đồng chí lãnh đạo Thành ủy bảo tôi vào phòng khách tiếp chuyện ông Vũ Kỳ. Sau khi nghe giới thiệu đồng chí Vũ Kỳ chỉ tôi và hỏi một cách khó hiểu: - “Tôi nghe cậu đi khỏi Huế đây rồi sao bây giờ lại có mặt ở đây?” Tôi đoán chừng có người nào đó không muốn ông Vũ Kỳ gặp tôi nên đã báo cáo tôi đi khỏi Huế. Đối với tôi những chuyện đó không có gì lạ! Biết thế nên tôi nói chống chế:.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> - “Dạ thưa anh, tôi định đi nhưng vì công việc nên chưa đi!” Ông Vũ Kỳ giục: - “Thế thì cậu nói cho mình nghe những gì cậu đã nghiên cứu được nào?” Tôi từ chối: - “Dạ tôi không chuẩn bị để báo cáo nên tôi không dám trình bày! Xin anh cho khi khác!” Ông Vũ Kỳ khoác tay phản đối và cuối cùng tôi phải nói”bộ” không một cuốn sổ tay, không một tờ giấy nào trước mặt. Ông Vũ Kỳ ngồi lặng thinh nghe tôi nói. Khoảng 11 giờ trưa ông chí Chủ tịch xã Phú Mậu nguyên là thanh niên xung phong của ông chí Vũ Kỳ trong thời gian chống Pháp, mấy mươi năm qua chưa có dịp gặp, hôm nay xin vào thăm. Ông chí Vũ Kỳ nhờ người ra bảo: - “Tôi sẽ về thăm anh ở nhà, còn bây giờ tôi bận làm việc! Mong anh thông cảm!” Sau đó Thành ủy mời ông Vũ Kỳ lên gác mời cơm trưa, ông lại xin hẹn nghe xong câu chuyện rồi mới ăn. Tôi nhận thấy câu chuyện của mình làm phiền cho nhiều người quá, tôi phải tự xin chấm dứt và hẹn khi khác. Ông Vũ Kỳ đã đề nghị Thành ủy cho phép tôi được làm việc tiếp với ông và sẽ hoãn lại ngày lên Tây Nguyên đã dự định vào ngày hôm sau. * * * Tôi đưa ông chí Vũ Kỳ đi thực tế “xuống” những nơi Bác đã sống qua, đến gặp một số nhân chứng còn nhớ chuyện cũ và cuối cùng tôi trình bày với ông thêm một số tư liệu, hình ảnh băng ghi âm tôi đã thu thập được cùng những bài báo tôi đã viết và in ở hai miền Nam Bắc. Sau gần hai ngày làm việc, ông chí Vũ Kỳ chỉ hỏi thêm những vấn đề tôi trình bày chưa rõ, ông không hề bình luận điều gì. Trông ông có vẻ trầm mặc khác với những lúc nói chuyện hoạt bát với cái giọng châm biếm dí dỏm thường ngày. Lúc chia tay ông chỉ bảo tôi: - “Anh thành công trong việc khó khăn này, không những vì anh có nhiệt tình, có phương pháp làm việc mà điều chính yếu là anh được quần chúng ở Huế đây ủng hộ tin cậy anh. Cán bộ của tôi khó hội đủ được những điều kiện ấy khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài này ở Huế. Chúc anh thành công hơn nữa. Vì sự nghiệp nghiên cứu về Bác, chúng ta sẽ còn gặp nhau. Gửi lời thăm chị và các cháu!” Lời chia tay của ông Vũ Kỳ rất mát mẽ, nhưng trong lòng tôi chưa hết bâng khuâng. Tôi chờ đợi những lời góp ý rất xác đáng của ông, nhưng chưa có. Tôi xem như những ngày làm việc với ông Vũ Kỳ vừa qua chỉ mới đạt được một nửa kết quả..

<span class='text_page_counter'>(98)</span> Rồi như thường lệ, tôi mang tài liệu về, nhanh chóng dẹp vào một góc nhà để tiếp tục cuộc sống thực tế của một người cán bộ bình thường vào những buổi trưa... mua rau, chẻ củi, thổi lửa nấu cơm và chăm sóc con cái. Tôi đang loay hoay với cái bếp củi tươi khói mù, cái lưng trần nhể nhại mồ hôi trước dãy nhà ngang nhà 16 Lý Thường Kiệt. Nhà cửa chật chội, các cháu nhỏ của tôi bày biện đồ chơi giữa nhà làm cho tôi càng thêm bực bội. Tôi định quát cho các cháu một trận thì bỗng nhiên rù rù một chiếc com-măng-ca bóng nhoáng đến đổ xịch trước hiên. Ông Vũ Kỳ mặc cặp bà-ba nâu nhanh nhẹn mở cửa xe bước xuống. Nhà tôi đang khệ nệ mang cái bụng sắp sinh cháu thứ ba thấy khách đến vội vàng đi dọn nhà cửa cho gọn gàng. Ông Vũ Kỳ vào nhà, theo sau ông chỉ có một cán bộ của Bảo tàng Hồ Chí Minh. Nhà tôi chào khách với đôi mắt khó hiểu. Ông Kỳ biết ý: - “Chị trông tôi có vẻ lạ phải không?” Nhà tôi đáp có vẻ thẹn thùng vì khách nói đúng ý nghĩ của mình: - “Thấy bác mặc áo bà-ba giống như Bác Hồ nên cháu thấy lạ!” Ông Vũ Kỳ cười khì khì: - “Tôi là cán bộ của Bác Hồ, làm việc tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Lúc Bác sinh thời tôi ở gần Bác nên có lẽ vì thế có chịu ảnh hưởng của Bác. Sau hai hôm làm việc với anh Xuân, trưa nay tôi thay mặt cho Bảo tàng đến cám ơn anh chị đã nhiệt tình để một thời gian quan trọng của đời mình sưu tầm nghiên cứu về Bác Hồ.”-Nói đến đó bất chợt ông thấy đống tài liệu tôi vừa mang về để trong góc nhà, ông tỏ ra khó chịu rồi đưa mắt nhìn kỹ vào chỗ ăn ở chật hẹp của chúng tôi nói tiếp với giọng không được vui: “Nhưng đến đây tôi thấy không yên tâm. Tôi không ngờ anh chị lại sống trong hoàn cảnh thiếu điều kiện như thế này!” Tôi nói chống chế: - “Dạ thưa anh, như thế đấy nhưng em vẫn còn thuận lợi hơn nhiều anh em văn nghệ sĩ khác!” Ông Vũ Kỳ chỉ tay vào đống tài liệu nằm trong góc nhà của tôi: - “Sự tích lũy của anh, tài liệu anh đã sưu tập được là tài sản của anh nhưng cũng có giá trị đối với quốc gia(3). Chúng tôi có tiền cũng không có thể bỏ ra mua được. Thiếu điều kiện làm việc, trong nhà lại không có một cái bàn ngồi viết thì làm sao anh phát huy được khả năng làm việc của anh? Tài liệu được bảo quản một cách cẩu thả như thế nhỡ ra có một mồi lửa của một kẻ xấu thì làm sao cứu vãn được? Anh cũng nên nhớ chín mươi chín người kính yêu Bác Hồ chắc gì người thứ một trăm vì hận thù giai cấp họ lại không nghĩ ngược lại?” Tôi nhìn ông Vũ Kỳ không đáp được một lời. Nói xong ông Vũ Kỳ cũng ngồi trầm ngâm. Có lẽ thấy vợ chồng chúng tôi không vui nên ông đổi giọng nói thật giòn giả với những tiếng cười hi hi hết sức lạc quan: - “Bác Hồ ra đi để lại cho chúng ta một sự nghiệp cách mạng rất vẻ vang, nhưng tài sản riêng của Bác thì không có gì. Cho nên hôm nay tôi muốn thưởng cho anh chị thì cũng không biết thưởng gì”. Ông vừa nói vừa lục soạn trong cặp da lấy ra cầm trong tay một cái Huy hiệu màu vàng sáng chói. Ông nhìn cái Huy hiệu và nói tiếp với chúng tôi: “Khi anh hùng Phạm Tuân.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> bay lên vũ trụ chúng tôi có làm riêng để tặng cho anh một cái Huy hiệu Bác Hồ, luôn tiện chúng tôi có làm thêm mấy cái. Anh chị kính yêu Bác Hồ đã dành một quãng đời quý báu của mình để nghiên cứu và viết về Bác. Vậy chúng tôi xin tặng anh chị một cái Huy hiệu Bác Hồ như chúng tôi đã tặng cho anh Phạm Tuân!” Ôi, thật là bất ngờ. Trong đời chúng tôi chưa một lần được vinh dự đến thế. Không ai bảo ai, hai vợ chồng chúng tôi cùng đứng dậy và cũng không ai bảo tự nhiên hai cháu nhỏ của chúng tôi cũng chen vào đứng trước mặt cha mẹ để chờ đón ông Vũ Kỳ gắn cái Huy hiệu của Bác lên ngực tôi. - “Xin cám ơn Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, xin cảm ơn anh!” Vì đột ngột quá nên chúng tôi không nói được gì thêm. Ông Vũ Kỳ nói tiếp: - “Chúng tôi không có tiền. Nhưng chúng tôi có thể giúp cho anh chị cơ hội để có tiền mà tiếp tục nghiên cứu. Anh hãy sưu tập tất cả những bài anh đã viết về Bác Hồ, biên tập lại và giao cho tôi. Tôi sẽ giới thiệu với các nhà xuất bản. Hiện nay người đọc, người nghiên cứu đang cần những loại bài như thế!” Nghe được xuất bản tôi mừng lắm. Nhưng nếu được xuất bản một tập truyện ngắn thì tôi bằng lòng nộp bản thảo ngay. Nhưng vì đây là một tác phẩm nghiên cứu khoa học về Bác tôi không dám nhận lời. - “Thưa anh, em đã viết hàng chục bài báo. Nhưng đó chỉ là những thông tin rời rạc, nhiều chỗ còn non nớt thiếu sót, nhiều chỗ có ý thăm dò bạn đọc nên không thể đưa vào sách được. Xin cám ơn anh.” - “Thế thì làm sao?” - Ông Vũ Kỳ khó hiểu. - “Nếu Viện yêu cầu em sẽ hoàn thành cuốn sách em đã khởi thảo cách đây ba năm. Nếu có sự khuyến khích và giúp đỡ của anh em sẽ nạp bản thảo để ra mắt bạn đọc vào năm Bác 95 tuổi.” - “Thế thì tốt quá! Cố gắng làm việc thế nào cũng được đền bù. Tôi chờ đó. Chắc chắn nghe!” Ông Vũ Kỳ nắm chặt tay tôi hồi lâu. Cuốn sách này hoàn thành để đáp lại thịnh tình của bạn đọc, trong đó có ông Vũ Kỳ với những lời hứa hẹn sắc son năm ấy. Huế, 29.9.1983. (1) Xem Phụ lục 2. (2) Xem danh sách những bài báo đã đăng của Nguyễn Đắc Xuân kê trong phần Phụ Lục. (3) Một số lớn tài liệu Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế tôi đã gởi tặng để lưu trữ tại Bảo tàng Thành phố Huế. NĐX.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> Phụ lục 1: Một số đầu sách, báo về đề tài Bác Hồ, thời niên thiếu ở Huế của Nnguyễn Đắc Xuân * L’Enfance de loncle Ho de Nguyen Sinh Cung, Nguyen Tat Thanh à Văn Ba, trong cuốn L’Oncle Ho, Ed.en langues étrangères, HN 1979, p.9 à 32; * Bước đầu tìm hiểu thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Tạp san Văn nghệ Bình Trị Thiên, số 13, Huế 1979, từ tr.1 đến tr.6. * Một ít tài liệu về quãng đời niên thiếu của bác Hồ ở Huế, Nội san học tập và nghiên cứu, Đại học Sư Phạm, số 5, Huế 1978. * Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số 3 (186) Hà Nội 5.6/1979. * Những tín hiệu của một vì sao, Báo Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, số ngày 18.1.1980. * Huế thành phố Bác đã sống qua, Tuần báo Đại Đoàn Kết, Số 20 Hà Nội ngày 17.5.1980. * Đi tìm mái nhà thơ ấu của Bác Hồ ở Huế, Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội số 2/1980. * Ngôi nhà với những kỷ niệm ở đường Đông Ba, Báo Dân (Huế) số ra ngày 9.5.1979 * Gian nhà của Bác Hồ ở dãy trại đường Đông Ba, Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội 5.1980 * Người học sinh Quốc Học, Báo Dân (Huế), ngày 14.5.1979. * Người bạn học năm xưa (Hồi ký của cụ Lê Thiện), Tạp chí Văn Nghệ Bình Trị Thiên, số 18, Huế tháng 5.1980 *Trường Quốc Học một ngôi trường vẻ vang, Báo Dân (Huế) ngày (?) và ngày 1.3.1977. * Bác Hồ với phong trào cắt tóc ngắn ở Huế, Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội số 6.1979. * Vài mẩu chuyện Bác Hồ thời niên thiếu, Báo Dân (Huế), Xuân Kỷ Mùì (1979) * Bác Hồ với phong trào chống sưu thuế ở Huế năm 1908, Báo Dân (Huế) ngày 16.5.1979. * Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Tạp san Văn Hóa Bình Trị Thiên, số Xuân Kỷ mùi (1979). * Những di tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Tạp san Văn Hóa Bình Trị Thiên, tháng 4.5.6/1980. * Những di tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Báo Tin Sáng (TPHCM) số ra ngày 18.5.1980. * Góp phần tìm hiểu về những chặng dừng chân của Bác Hồ từ Huế vào đến Sài Gòn, Tập san Văn Hóa Bình Trị Thiên tháng 7.8.9/1980..

<span class='text_page_counter'>(101)</span> * Thánh nhân trong mắt anh hùng, Tạp san Văn Hóa Bình Trị Thiên, số Xuân Canh thân (1980). * Mấy suy nghĩ khi đọc lại một số sách báo của ta viết về gia đình và thời niên thiếu của Bác Hồ, Tập san Văn Hóa Bình Trị Thiên, số 9 năm 1979. * Cần đính chính một số chi tiết và sự kiện lịch sử trong tập “Búp Sen Xanh” Tuần Báo Văn Nghệ, số 28, Hà Nội 1983. * Về cuốn “Búp Sen Xanh”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội 5.1983. * Chất lượng của những “cái đinh” trong tiểu thuyết lịch sử “Búp Sen Xanh”, Tạp chí Sông Hương, số 3 năm 1983 * Huế - Bình Trị Thiên qua lời Bác kể, Báo Dân (Huế) ngày 12.5.1982, 14.5.1982. * Bác Hồ thời đi học ở Huế, Báo Tuổi Trẻ TPHCM, 19.5.1982. * Đi tìm những tín hiệu của một vì sao, Tập san Văn Hóa Bình Trị Thiên số tháng 11.1981. * Mối quan hệ giữa Bác Hồ và nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Biên khảo (50 tr. đánh náy) chưa in. * Ba lần được gặp Bác Hồ (ghi hồi ký của Hòa thượng Thích Đôn Hậu), Sách: Bác Hồ với Bình Trị Thiên, Huế. 1977. * Sự hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng của Nguyễn Tất Thành, trong tập Bác Hồ Với Miền Nam, miền Nam với Bác Hồ, Nxb Văn Nghệ, TP HCM, 1987 (từ tr.169 đến tr.190). * Thời niên thiếu Bác Hồ qua hồ sơ mật thám Pháp, Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 12/1995 * Đi tìm ngôi nhà thời niên thiếu của bác Hồ ở Huế, Báo Lao Động, Số 59/95, ngày 16.5.1995, tr.6. * Sách: Bác Hồ, Thời niên thiếu ở Huế, Nxb Trẻ TP HCM, 1990, tái bản lần thứ nhất 1999. * Thời niên thiếu của bác Hồ ở Huế, Kịch bản phim tài liệu của Nguyễn Đắc Xuân, Bùi Tín viết lời bình, đài Truyền hình Việt Nam thực hiện năm 1990. * Ngoài các bài báo, tạp chí, tôi còn dự hàng chục Hội thảo, thực hiện hàng trăm buổi nói chuyện và báo cáo khoa học về đề tài Thời niên thiếu của bác Hồ ở Huế tại Thừa Thiên Huế và nhiều nơi trên khắp ba miền đất nước..

<span class='text_page_counter'>(102)</span> PHỤ LỤC Phụ lục 1: Một số đầu sách, báo về đề tài Bác Hồ, thời niên thiếu ở Huế của Nguyễn Đắc Xuân * L’Enfance de loncle Ho de Nguyen Sinh Cung, Nguyen Tat Thanh à Văn Ba, trong cuốn L’Oncle Ho, Ed.en langues étrangères, HN 1979, p.9 à 32; * Bước đầu tìm hiểu thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Tạp san Văn nghệ Bình Trị Thiên, số 13, Huế 1979, từ tr.1 đến tr.6. * Một ít tài liệu về quãng đời niên thiếu của bác Hồ ở Huế, Nội san học tập và nghiên cứu, Đại học Sư Phạm, số 5, Huế 1978. * Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số 3 (186) Hà Nội 5.6/1979. * Những tín hiệu của một vì sao, Báo Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, số ngày 18.1.1980. * Huế thành phố Bác đã sống qua, Tuần báo Đại Đoàn Kết, Số 20 Hà Nội ngày 17.5.1980. * Đi tìm mái nhà thơ ấu của Bác Hồ ở Huế, Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội số 2/1980. * Ngôi nhà với những kỷ niệm ở đường Đông Ba, Báo Dân (Huế) số ra ngày 9.5.1979 * Gian nhà của Bác Hồ ở dãy trại đường Đông Ba, Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội 5.1980 * Người học sinh Quốc Học, Báo Dân (Huế), ngày 14.5.1979. * Người bạn học năm xưa (Hồi ký của cụ Lê Thiện), Tạp chí Văn Nghệ Bình Trị Thiên, số 18, Huế tháng 5.1980 *Trường Quốc Học một ngôi trường vẻ vang, Báo Dân (Huế) ngày (?) và ngày 1.3.1977. * Bác Hồ với phong trào cắt tóc ngắn ở Huế, Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội số 6.1979. * Vài mẩu chuyện Bác Hồ thời niên thiếu, Báo Dân (Huế), Xuân Kỷ Mùì (1979) * Bác Hồ với phong trào chống sưu thuế ở Huế năm 1908, Báo Dân (Huế) ngày 16.5.1979. * Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Tạp san Văn Hóa Bình Trị Thiên, số Xuân Kỷ mùi (1979). * Những di tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Tạp san Văn Hóa Bình Trị Thiên, tháng 4.5.6/1980. * Những di tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Báo Tin Sáng (TPHCM) số ra ngày 18.5.1980..

<span class='text_page_counter'>(103)</span> * Góp phần tìm hiểu về những chặng dừng chân của Bác Hồ từ Huế vào đến Sài Gòn, Tập san Văn Hóa Bình Trị Thiên tháng 7.8.9/1980. * Thánh nhân trong mắt anh hùng, Tạp san Văn Hóa Bình Trị Thiên, số Xuân Canh thân (1980). * Mấy suy nghĩ khi đọc lại một số sách báo của ta viết về gia đình và thời niên thiếu của Bác Hồ, Tập san Văn Hóa Bình Trị Thiên, số 9 năm 1979. * Cần đính chính một số chi tiết và sự kiện lịch sử trong tập “Búp Sen Xanh” Tuần Báo Văn Nghệ, số 28, Hà Nội 1983. * Về cuốn “Búp Sen Xanh”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội 5.1983. * Chất lượng của những “cái đinh” trong tiểu thuyết lịch sử “Búp Sen Xanh”, Tạp chí Sông Hương, số 3 năm 1983 * Huế - Bình Trị Thiên qua lời Bác kể, Báo Dân (Huế) ngày 12.5.1982, 14.5.1982. * Bác Hồ thời đi học ở Huế, Báo Tuổi Trẻ TPHCM, 19.5.1982. * Đi tìm những tín hiệu của một vì sao, Tập san Văn Hóa Bình Trị Thiên số tháng 11.1981. * Mối quan hệ giữa Bác Hồ và nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Biên khảo (50 tr. đánh náy) chưa in. * Ba lần được gặp Bác Hồ (ghi hồi ký của Hòa thượng Thích Đôn Hậu), Sách: Bác Hồ với Bình Trị Thiên, Huế. 1977. * Sự hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng của Nguyễn Tất Thành, trong tập Bác Hồ Với Miền Nam, miền Nam với Bác Hồ, Nxb Văn Nghệ, TP HCM, 1987 (từ tr.169 đến tr.190). * Thời niên thiếu Bác Hồ qua hồ sơ mật thám Pháp, Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 12/1995 * Đi tìm ngôi nhà thời niên thiếu của bác Hồ ở Huế, Báo Lao Động, Số 59/95, ngày 16.5.1995, tr.6. * Sách: Bác Hồ, Thời niên thiếu ở Huế, Nxb Trẻ TP HCM, 1990, tái bản lần thứ nhất 1999. * Thời niên thiếu của bác Hồ ở Huế, Kịch bản phim tài liệu của Nguyễn Đắc Xuân, Bùi Tín viết lời bình, đài Truyền hình Việt Nam thực hiện năm 1990. * Ngoài các bài báo, tạp chí, tôi còn dự hàng chục Hội thảo, thực hiện hàng trăm buổi nói chuyện và báo cáo khoa học về đề tài Thời niên thiếu của bác Hồ ở Huế tại Thừa Thiên Huế và nhiều nơi trên khắp ba miền đất nước..

<span class='text_page_counter'>(104)</span> Phụ lục 2: Trên mảnh đất Bác đã sống qua Sau một thời gian nghiên cứu tôi biết chắc chắn Bác Hồ đã từng sống qua tại vùng chợ Xép cửa Đông Ba. Nhưng viết thẳng điều đó ra các báo chí không dám đăng. Để có thể phổ biến những thông tin này tôi đã phải gởi gắm vào một bài thơ và đăng trên báo Bình Trị Thiên (1978) Có thể xem bài thơ này là bài viết đầu tiên của tôi về Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Phiên chợ đông trong một xóm nghèo Xúm xít trên mấy con đường hẹp Bao năm nay vẫn cái tên chợ Xép Lèo tèo dăm mớ cá mớ rau.. Ngày mai chợ Xép sẽ không còn đâu (Có thể thay vào cửa hàng bách hóa) Trẻ nhỏ lớn lên không mấy ai còn nhớ Phố lầu kia từ chợ Xép xây nên. Sáng nay cha đưa con đến xem Không phải để con quen mua rau mua cá Điều mà cha muốn con ghi nhớ Trên mảnh đất này Bác đã sống qua(1). Đây là đường cửa Đông Ba Nhà Bác ở gần gian cuối cùng dãy Trại(2) Mái tường xám với những mùa nắng cháy Sân ngập bùn sau những trận mưa đông. Đây là gian hàng Bác hay đến mua cơm(3) Ngày giáp hạt tháng hai cồn cào bụng đói.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> Sống ấm no nên con chưa biết tới Tuổi học trò ít khi Bác được ăn no. Đây con đường thẳng vô cung vua Mẹ Bác mất không được đem ra cửa Bác căm giận thét vang như lịnh vỡ Giữa Kinh thành rêu phủ thâm nghiêm(4). Đây căn nhà Bác hay bế em Đến xin sữa từ sau ngày mẹ mất Suốt đời Bác vẫn xôn xao tiếng khóc Nên Bác vui khi thấy trẻ thơ cười. Từ ngõî chợ này Bác đi khắp nơi Làm lãnh tụ của “khắp người cùng khổ’’ Bác không quên những năm tuổi nhỏ Với cảnh nghèo ở chợ Xép buồn đau(5). Ngày mai chợ Xép sẽ không còn đâu (Có thể thay vào cửa hàng bách hóa) Mỗi lần qua đây các con nên nhớ Để quý những gì mình mới dựng xây. Huế tháng 5.1978. (1) Theo nghiên cứu bước đầu, Bác đã sống qua ở chợ Xép (Huế) hai lần. Lần thứ nhất vào khỏang năm bác lên năm (1890) đến năm bác lên mười (1900) ; lần thứ hai vào khỏang bác 15 tuổi (1905) đến năm bác xa Huế vào khỏang thời gian bác dưới 20 tuổi..

<span class='text_page_counter'>(106)</span> (2) Theo lời kể của gia đình cụ Quản Nghiêm người láng giềng của cụ thân sinh bác. (3) Theo lời kể của đòan mặt trận Liên Minh Huế sau khi đòan được ra miền bắc thăm bác năm 1969 (4) Theo lời kể của một số người quen thân với gia đình bác lúc Bác ở Huế, thì lúc đó nhà vua có lệnh cấm đồng bào ở trong Thành Nội có người chết không được khóc và không được đưa thi hài ra các cửa Kinh thành. Nhưng khi thân mẫu bác mất Bác vẫn cứ khóc và đưa đám mẹ ra khỏi Thành xuyên qua cống Lương Y. (5) Trong lần gặp gỡi với Đoàn mặt trận Liên Minh Huế 1969, Bác đã hỏi Đoàn: - Hiện nay đồng bào mình sống ở Chợ Xép ra sao?.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> Phụ lục 3: Lịch sử ra đời và những niên khóa đầu tiên của trường Quốc học ở Huế Để có đủ thông ngôn làm việc với Pháp, Tháng tư, mùa hạ năm Đồng Khánh thứ 2 (5.1887), triều đình Huế lập trường học chữ và tiếng Pháp tại Kinh đô. Ông Diệp Văn Cương làm kiểm thảo trông coi Ty Hành nhân kiêm luôn chức Chưởng giáo của trường, ông Nguyễn Hữu Mẫn làm hành nhân vụ chuyển làm Trợ giáo (Instituteur auxiliaire). Con cái quan lại, binh lính, bình dân “tự xuất lương nhà” tới trường học tập. Đến cuối hằng năm, viện Cơ mật tổ chức sát hạch, chọn những học sinh khá mới cho vào Ty Hành nhân, và lúc đó mới được cấp lương cho ăn học(1). Gần mười năm sau, dưới thời vua Thành Thái, trước thực tế chính quyền do người Pháp nắm giữ, nhận thấy Nam triều không những phải làm việc với Pháp qua thông ngôn mà chính quan lại của Nam triều cũng phải biết tiếng Pháp để có thể bảo vệ được quyền lợi của Việt Nam. Không những biết tiếng Pháp để làm việc với Pháp mà còn để học văn minh văn hóa Tây phương để góp phần canh tân đất nước. Triều đình Thành Thái chủ trương bãi bỏ trường Hành nhân và mở một trường học quốc gia tại Huế để cho người Việt Nam được học văn minh văn hóa phương Tây lấy tên là Pháp Tự Quốc Học Trường thường gọi là trường Quốc Học. Chủ trương của Triều đình Huế không có hại gì cho thực dân Pháp và cũng không tốn ngân sách của Toà khâm sứ nên được Bảo hộ đồng ý. Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định ngày 18.11.1896, cho thành lập một trường Pháp Việt ở Huế, gọi là trường Quốc Học Huế(2). Việc dạy và việc học của trường Quốc học được nói rõ trong Sắc dụ của vua Thành Thái ngày 23.10.1896: “Lại năm ấy (Thành Thái thứ 8) nghị đặt trường Quốc Học, chuyên dạy chữ và nói tiếng Pháp; nhưng vẫn không nên bỏ chữ Hán. Học trò từ 15 tuổi đến 20 tuổi, mới được vào học. Người nào xét ra am hiểu chữ Hán, có thể theo học được, thì cho phép được vào học. Trẻ con từ tám đến mười lăm tuổi trở xuống, cha mẹ có đơn xin cho vào học, thì đặt vào lớp học trò ngoại ngạch, đặt riêng ra một lớp để dạy học. Viên chức ở trường này, đặt một, hai, ba, bốn hạng chưởng giáo, mỗi hạng một giáo chức. Một giáo viên dạy học trò trẻ con, hai viên giám thị. Viên Chưởng giáo đối hàm quan lại Việt Nam, được quyền chuyên giữ các việc tư báo. Sinh viên học tập, lúc sát hạch được trúng cử, sẽ tuân lệ ban thưởng cho.”(3) Trong Đạo Dụ ngày 23.11.1896, vua Thanh Thái đã nói rõ hơn về sự cần thiết của việc cải tổ giáo dục như sau: “Nay ngoài nhưng Thánh kinh, Hiền truyện của Trung Hoa, lại còn nhiều sách trước tác ở các nước khác, và trách nhiệm của người đại diện phát ngôn trong khi giao thiệp trên đường quốc tế rất là quan trọng. Vả lại phát triển giáo dục là phương tiện duy nhất để mở mang trí thức, để đào tạo đầy đủ tài năng hầu giải quyết những vấn đề chánh sự và hành chánh và điều hòa giáo dục đúng phương pháp, lại là phương tiện để khai thông dân trí, đào tạo nhân tài. Trong tình hình hiện tại không thể xem thường những nhận xét trên đây được, bởi vì ở nước ta việc giáo huấn theo sách vở Khổng giáo từ trường Quốc tử giám ở Kinh đô đến các trường công ở tỉnh, phủ, huyện lỵ, tuy rất phổ cập và hoàn toàn, nhưng việc giảng cứu các môn học Tây phương đến nay vẫn còn thiếu sót, nên cần phải được bổ cứu.”(4) Thực hiện chủ trương của triều Thành Thái, viện Cơ mật ủy cho các ông Trương Như Cương (bộ Hộ), Huỳnh Vỹ (bộ Lễ), và Ngô Đình Khả (Thương biện Cơ mật) lo việc thành lập trường Quốc Học. Trong cuộc họp giữa Nam triều và Toà Khâm sứ Huế diễn ra vào ngày 28.8.1986,.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> nhất trí dành cho Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm vị Chưởng giáo của trường Quốc Học. Trong tờ trình ngày 6.11.1896 gởi Toàn quyền Đông Dương, Khâm sứ Trung kỳ Ernest Brière với sự nhất trí của Khâm mạng Nguyễn Thân (người đứng đầu viện Cơ mật), đề cử v Thái Thường tự khanh Ngô Đình Khả vào chức Chưởng giáo trường Quốc Học. Toàn quyền Đông Dương đồng ý. Để giúp việc cho ông Ngô Đình Khả, phía chính phủ Bảo hộ cử ông Dieudonnat làm Phó Chưởng giáo. Nhưng hai năm sau (1898), theo Dụ ngày 30.4.1898 tổ chức lại nhân sự của trường Quốc Học, một Quyết định của Toàn quyền Đông Dương cử ông Nordeman làm Chưởng giáo (Directeur) và ông Ngô Đình Khả xuống làm Phó Chưởng giáo (Sous Directeur). Theo Phó bảng Nguyễn Văn Mại, năm 1897, ông Ngô Đình Khả còn làm “quản giáo dạy chữ Pháp”, trong lúc đó ông Mại làm quản giáo dạy chữ Hán(5). Về ban giảng huấn và hệ thống các lớp học lúc đầu cụ thể như thế nào chúng tôi chưa tìm được tài liệu gốc để tham khảo. Chỉ biết sau khi tổ chức lại nhân sự của trường Quốc Học (1898) thì Quốc Học có các thầy giáo phụ trách các ban (sections) và các lớp (cours) sau đây: Ban Quan viên tử đệ (section des Gradués), phân ban 1 do thầy Nguyễn Đình Hoè và phân ban 2 do thầy Ưng Trình phụ trách; Ban phổ thông: Lớp Nhất (chỉ một lớp) do thầy Nguyễn Đình Hoè phụ trách; lớp nhì có hai lớp (dành cho người lớn), lớp A do thầy Tạ Ngọc Xuân và thầy Hoàng Thông phụ trách, lớp B do thầy Nguyễn Hữu Mẫn và thầy Nguyễn Khoa Đạm phụ trách; lớp Sơ đẳng có hai lớp (dành cho trẻ con) do thầy Tống Viết Toại và thầy Hồ Đắc Hàm phụ trách; lớp Dự bị (dành cho người lớn) có hai lớp do các thầy Ưng Dự, Đào Tử Hưng phụ trách; lớp Dự bị (dành cho trẻ con) có 4 lớp do các thầy Phan Tiến Thịnh, Phạm Xuân Dương, Lê Bính, Hồ Đắc Đệ dạy. Ngoài ra có ông Trương Tố làm Giám thị và ông Trần Đình Giảng làm Thư ký. Về danh sách những học sinh đầu tiên của trường Quốc Học chúng tôi cũng chưa tìm được. Theo các học sinh đầu tiên còn sống và tham dự lễ Kỷ niệm 60 năm thành lập trường Quốc Học (1896-1956) thì lúc đầu trường đã mở các lớp: - Lớp Tôn ấm (có Ưng Dự, Tôn Thất Quảng...) - Lớp Tuấn tú (có Hồ Đắc Hàm...) - Lớp Khoa mục (có Ưng Dinh...) - Lớp Hành nhân ( có Trần Văn Tư...) Khoá đầu tiên ra trường vào năm 1899. (Trong những học sinh đầu tiên ấy sau hai năm tốt nghiệp đã được giữ lại làm giáo viên cho Trường như các ông Ưng Dự, Hồ Đắc Hàm). Về trường sở ban đầu của trường Quốc Học được Đại Nam Nhất Thống Chí đời Duy Tân (1913), tập Kinh sư, ghi rằng: Trường Quốc Học “Ở nơi công thổ Tả doanh Thủy sư, dựng năm Thành Thái thứ 8, có một Toà đốc giáo đường 3 gian hai chái, 3 Toà cư trú của các viên Trợ giáo (mỗi tòa đều ba gian), năm thứ 10 (1898) lại làm thêm hai dãy trường ốc (dãy trước 30 gian, dãy sau 16 gian) để làm chỗ dạy tập học. Sau đốc giáo đường lại làm nhà vuông 4 mặt. Tứ vi đều xây la thành. Mặt.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> trước xây môn lầu hai tầng, tầng trên treo tấm bảng khắc 6 Pháp tự Quốc Học Trường Môn, sơn đỏ thếp vàng, dựng năm Thành Thái thứ 9 (1897).” (Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa bộ QGGD, Sg. 1960, tr.80-81). Từ năm 1898, nhiều vị Cử nhân, Phó bảng, Tiến sĩ muốn bổ đi làm quan đều phải vào trường Quốc Học (Ban quan viên tử đệ) để học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Hầu hết các vị Phó bảng và Tiến sĩ khoa thi Hội và thi Đình năm Tân sửu (1901), trong đó có các cụ Ngô Đức Kế, Nguyễn Viết Song, Phan Châu Trinh, đều đã học thêm tại Quốc Học (trong ban Quan viên tử đệ). Lớp Quan viên tử đệ tốt nghiệp ra trường có các ông Đào Nguyên Phổ, Phạm Liệu, Nguyễn Tự Dư, Nguyễn Đình Hiến, Kỳ ngoại hầu Cường Để, Ưng Dinh, Ưng Bình, Tôn Thất Quảng, Bùi Hữu hưu, Bùi Hữu Thứ, Nguyễn Trọng Tịnh, Đặng Văn Hướng, Đặng Văn Oánh, Hồ Đắc Hàm, Ưng Dự, Chiêm Thiết... Theo tài liệu lưu trữ của Pháp, từ năm 1897 đến năm 1903, đã có 436 học sinh tốt nghiệp, 93 người có việc làm, trong số đó có 10 hậu bổ. Năm 1905, hai học sinh khác là Phan Châu Trinh và Đào Nguyên Phổ được báo cáo là có việc làm: Phó bảng Trinh làm Hành tẩu bộ Lễ, và Đào Nguyên Phổ phụ trách phần chữ Hán của Đại Việt Tân Báo. Trường Quốc Học do triều Thành Thái thành lập với sự đồng ý của Chính phủ Bảo hộ. Chương trình học cả chữ Pháp, chữ quốc ngữ và chữ Pháp, đều do thầy người Việt dạy. Sau hai năm thì Chính phủ Bảo hộ giành lấy và dần dần biến trường Quốc Học thành một cơ sở giáo dục quan trọng của Pháp ở Trung kỳ từ cuối thế kỷ XIX cho đến ngày Nhật đảo chính Pháp 9.3.1945. Quốc Học là một trường học của thực dân Pháp, nhưng nhiều giáo sư người Pháp và người Việt của trường không có đầu óc thực dân. Do đó, trong lúc thanh niên Việt Nam chưa có điều kiện du học, họ thi vào trường Quốc Học, lợi dụng phương tiện của thực dân để mở mang kiến thức hiện đại để trở thành người hữu ích cho xã hội Việt Nam, cho các phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc diễn ra suốt 3/4 thế kỷ qua. Sự ra đời của trường Quốc Học ở Huế là một sự kiện văn hóa lịch sử quan trọng bậc nhất của Nam triều và Chính phủ Bảo hộ hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Gác Thọ Lộc, 10.2000. (1) Đại Nam Thực lục CB (Bản dịch), tập XXXVII, Nxb KHXH, HN. 1977, tr.271. (2) Dương Kinh Quốc, Việt Nam Những Sự kiện Lịch sử, t.1, Nxb KHXH, HN. 1981, tr.403. (3) Đại Nam Điển lệ: Bộ Lễ. Bản dịch của Nguyễn Sĩ Giác, Viện Đại học Sài Gòn.1962. (4)Trích lại của Đặc san Ái hữu Quốc Học, số 1, Huế 1970 tr.7-8. (5) Nguyễn Văn Mại, Lô Giang tiểu sử, tr.95..

<span class='text_page_counter'>(110)</span> Phụ lục 4: Mốc thời gian và một số vấn đề cần quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình học tập ở trường tiểu học Pháp Việt Đông Ba và trường Quốc học(*) Hơn ba mươi năm qua, với hàng chục bài báo, tham luận và vài ba cuốn sách [1] tôi đã nêu được những sự kiện lịch sử có liên quan đến Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Bác và gia đình từ quê hương Nghệ An vào Huế sinh sống và học tập hai lần. - Lần thứ nhất (vào khoảng năm 1895 đến 1901), Bác và gia đình ở trong ngôi nhà thuê tại đường Đông Ba (nhằm nhà số 112 Mai Thúc Loan ngày nay), cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc đi học ở Quốc tử giám, đi làm thục sư ở làng Dương Nổ (1898), cụ bà Hoàng Thị Loan qua đời trong ngôi nhà đường Đông Ba (đầu năm 1901); cụ thân sinh đỗ Phó bảng (1901); - Lần thứ hai (vào khoảng năm 1906 đến năm 1909) cụ thân sinh vào Huế làm Thừa biện bộ Lễ, gia đình được ở một gian hộ ở dãy Trại đường Đông Ba (sau năm 1975 nhằm nơi toạ lạc nhà số 47 Mai Thúc Loan), Bác Hồ cùng người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (Nguyễn Tất Đạt) đi học tại trường Pháp Việt Đông Ba và trường Quốc Học Huế; Bác làm thông ngôn cho dân khi Phong trào kháng thuế đấu tranh trực diện với thực dân Pháp tại Toà khâm sứ Huế (tháng 4-1908); cụ thân sinh được bổ nhiệm làm Tri huyện Bình Khê; Bác rời Huế đi vào các tỉnh phía Nam bắt đầu hành trình đi tìm đường cứu nước. Những sự kiện lịch sử trên được ghi lại từ các hồi ký của những người bạn và người đồng thời với Bác (như cụ Lê Thiện, cụ Lê Thanh Cảnh, cụ Nguyễn Đạm v.v…), những người được công tác gần Bác (như đồng chí Vũ Kỳ, đồng chí Lê Tư Minh), từ các nhà văn, nhà nghiên cứu (như Thanh Tịnh, Trần Minh Siêu) và được so sánh đối chiếu với những thông tin lịch sử trong sách sử của triều Nguyễn và tài liệu của Mật thám Pháp. Phần lớn những sự kiện lịch sử có liên quan đến Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế do tôi cung cấp đã được Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Huế sử dụng phục vụ cho việc trưng bày từ mấy chục năm qua. Tuy nhiên, với khát vọng của một người nghiên cứu khoa học đối với tiểu sử Bác Hồ - một lãnh tụ quốc tế vĩ đại, tôi vẫn thấy chưa đầy đủ về những gì mình đã viết về Bác. Do đó trong bất cứ hoàn cảnh nào, khi có dịp sưu tập thêm tư liệu, soát xét lại những gì mình đã viết tôi không bỏ lỡ cơ hội. Theo yêu cầu của Bảo tàng Hồ Chí Minh, trong hội thảo khoa học này tôi xin đề cập đến hai vấn đề “các mốc thời gian” và “những gì cần tiếp tục quan tâm”của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình học tập ở trường tiểu học Pháp Việt Đông Ba và trường Quốc Học Huế. 1. “Các mốc thời gian” 1.1. Bác trở lại Huế năm nào? Theo “Châu bản triều Nguyễn”, trong tờ trình của Bộ lại đề ngày 15 tháng 4 năm Thành Thái thứ 18 (tức ngày 6-6-1906)[2]. “Mới đây theo lời bẩm của Phó bảng Nguyễn Sinh Huy (bốn mươi lăm tuổi, người Nghệ An); viên này trúng Phó bảng kỳ thi Hội khoa Tân Sửu năm Thành Thái thứ 13. Lần đó về thăm quê nhà xong việc thì vì bị bệnh ở lại quê quán uống thuốc, nay bệnh đã khỏi, đến Bộ tôi đợi mệnh... Bội tôi vâng xét lệ định “Phó bảng thoạt bộ kiểm thảo phái làm Thừa biện ở các bộ nha, học tập việc quan, hoặc sang trường Quốc Học học tập”..

<span class='text_page_counter'>(111)</span> [...] “Vậy Nguyễn Sinh Huy, xin chiểu theo định lệ xin bổ hàm kiểm thảo Viện hàn lâm”. Qua Châu bản năm Thành Thái thứ 18, cụ Nguyễn Sinh Huy (tên cũ là Nguyễn Sinh Sắc được nhận chức Kiểm thảo Viện Hàn Lâm vào ngày 6.6.1906. Ta có thể ước chừng Bác Hồ theo cha vào Huế lần thứ hai vào đầu năm 1906. 1.2. Bác vào học trường Pháp Việt Đông Ba, có đỗ bằng Tiểu học không? và vào trường Quốc Học tháng năm nào? Theo tài liệu của triều Nguyễn và cũng theo hồi ức của cụ Lê Thiện, cụ Lê Viết Triết (con trai cụ Quản Hộ thành Lê Viết Nghiêm nhà ở Dãy Trại đường Đông Ba) cụ Bảng Huy làm quan ở bộ Lễ nên được cấp một gian nhà ở Dãy Trại bên trong cửa Đông Ba. Hai người con trai của cụ Bảng là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Côn (hay Cung) ở với cha tại đó. Hai người con của cụ Bảng nhà ở bên trong, ra bên ngoài cửa Đông Ba để học ở trường Pháp Việt Đông Ba rất thuận tiện. Vậy ta có thể cho rằng Bác và người anh cả đã vào học Trường Pháp Việt Đông Ba từ mùa thu năm 1906. Bác có đỗ bằng Tiêu học không? Trong lời khai cua ông Nguyễn Tất Đạt với Sogny - Sở Mật Thám Huế ngày 19-3-1920 về người em trai Nguyễn Tất Thành hay Nguyễn Sanh Cung, đã xác nhận rằng Bác đã đỗ bằng Tiểu học “Năm 1908, đỗ bằng Tiểu học và được nhập học trường Quốc Học” (Il obtint son certificat d’ etudes primaires en 1908 et fut admis au Quoc Hoc” (Il obtint son certificat d’études primaires en 1908 et fut admis au Quoc Hoc) [3]. Bác vào học trường Quốc Học năm nào? Trước đây chưa tìm được tài liệu thành văn nên ghi theo hồi ức của những người đương thời nên có khi viết vào niên khoá 1907-1908, khi thì viết vào đầu năm 1908. Nhưng nay đã tìm được tư liệu thành văn cho biết cụ thể hơn như sau đây. Tư liệu thành văn đầu tiên về Chủ tịch Hồ Chí Minh này (the first documented fact about Ho Chi Minh’s youth) là bức thư của ông Chouquet - Hiệu trưởng trường Quốc Học Huế viết ngày 7 tháng 8 năm 1908 phúc đáp thư yêu cầu số 526 đề ngày 4 tháng 8 năm 1908 của Khâm sứ Trung Kỳ Silvain Lévecque về lai lịch Nguyễn Sinh Côn (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc theo học tại trường Pháp Việt Đông Ba và trường Quốc Học Huế). Nội dung bức thư: “Hué, le 7 Aout 1908. Le Directeur du Collège Quochoc, À Hue.. Monsieur. le. Résident. Monsieur le Résident Supérieur, Comme suite à votre lettre No 526 du 4 Aout Courant, j’ai l’ honneur de vous faire connaitre qu’ il. Supérieur. en. Annam,.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> sera possible de recevoir au Quốc-học le nommé NGUYỄN SINH CÔN, originnaire de Nghệ An, élève de l’ éco le Franco-annaite de Thua-thiên. Signé Chouquet”[4] Dịch nghĩa:. Huế ngày 7 tháng 8 năm 1908,. Tiếp theo thư số 526 đề ngày 4 tháng Tám năm nay của Ngài, tôi hân hạnh báo cho Ngài rõ sẽ có thể tiếp nhận vào trường Quốc Học học sinh có tên Nguyễn Sinh Côn, gốc người Nghệ An, học sinh trường Pháp-Nam tỉnh Thừa Thiên[5] . Ký tên Chouquet Lá thư phúc đáp Khâm sứ Pháp của Hiệu trưởng trường Quốc Học cho biết tháng 8.1908 (Xem ảnh 54), Nguyễn Sinh Côn sẽ được nhận vào trường Quốc Học. Chứng tỏ Nguyễn Sinh Côn học Quốc Học trong niên khoá 1908-1909. Và, trước đó “anh đã học trường Tiểu học Pháp Việt Đông Ba” 1.3. Bác có tham gia phong trào kháng thuế năm 1908 ở Trung kỳ không? và có bị đuổi ra khỏi trường Quốc Học không? Năm 1908, Bác chỉ là một cậu học sinh vừa học xong trường Tiểu học (Pháp Việt Đông Ba). Thế Bác đã có những hành động gì đến nổi viên Khâm sứ Trung kỳ Silvain Lévecque (người đặt vua Duy Tân lên ngôi vào năm 1907) phải quan tâm viết thư cho cấp dưới yêu cầu “báo cáo” về nhân thân của cậu học sinh ấy như thế? Ta chỉ có thể hiểu hành động đó là học sinh Nguyễn Sinh Côn đã tham gia vào cuộc đấu tranh kháng thuế của đồng bào Thừa Thiên hồi tháng 4 năm 1908 như các bạn học của Bác Hồ đã kể và đã ghi trong tiểu sử chính thức của Bác. Cuộc kháng thuế của đồng bào Thừa Thiên Huế chính thức diễn ra từ ngày 9 đến ngày 13 tháng 4 năm 1908 (Theo Châu bản triều Duy Tân), đến tháng 7.8.1908 (theo thư của Hiệu trưởng Chouquet) Nguyễn Sinh Côn vẫn còn có thể được nhận vào trường Quốc Học. Điều đó chứng tỏ rằng Nguyễn Sinh Côn không bị đuổi (not expelled) ra khỏi trường Quốc Học vì đã tham gia biểu tình kháng thuế hồi tháng 4 năm 1908. Không những tham gia biểu tình kháng thuế với dân chúng ngoài đường phố, mà sau đó, trong lúc đang ngồi trong lớp tại trường Quốc Học Nguyễn Sinh Côn và cả người anh của Côn cũng có những lời lẽ đối nghịch với người Pháp. Chuyện ấy vang ra tận quê nhà Nghệ An của anh. Hàng chục năm sau (1920), khi bị Mật thám Pháp bắt đến hỏi về tông tích Nguyễn Sinh Côn, vào ngày 13-2-1920 Lý trưởng làng Kim Liên vẫn còn nhớ và khai với Sở Mật thám Trung kỳ rằng: “Tôi cũng biết rằng [...] hai đứa con trai của ông [Phó bảng Nguyễn Sinh Huy] học ở trường Quốc Học, Kham anh cả học lớp nhất hoặc năm đầu bậc trung học và Côn con thứ hai học năm thứ 2 hay 3 bậc trung học, khi những sự kiện (kháng thuế) năm 1908 diễn ra ở Huế, hai người này đã có thái độ công khai đối nghịch làm cho Hiệu trưởng của trường nhiều lần phải cảnh cáo nghiêm khắc.” (... J’ai appris que, ses deux garcons faisaitent leurs études au collège Quoc-hoc òu ils étaient l’ainé nommé Kham au cours supérieur 1ère année et le.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> cadet nommé Con au cours complémentaire 2e ou 3e année, que lors des événements de 1908 à Hué, ces deux jeunes gens manifestaient ouvertement des sentiments hostiles, de sorte que le Directeur et de cette école dut, à différente reprises, leur adresser de séveres observation)[6]. Chúng ta chưa tìm được tư liệu thành văn Bác Hồ lúc học tại trường Quốc Học đã tham gia các hoạt động yêu nước như thế nào, nhưng chắc chắn Bác đã có những biểu hiện chống Pháp từ năm 1909. Ta biết được điều đó qua một tư liệu của Mật thám Pháp được đánh giá là rất quan trọng (renseignement sérieux) do Hội lý Bộ Lại De la Suisse viết từ ngày 8-3-1911. Tài liệu này viết về cụ Phó bảng và những người con của Cụ.. Thông tin có liên quan đến Nguyễn Sinh Cung, De la Suisse viết: “Con trai ông ta, cách đây 2 năm (tức 1911) đã ở một căn hộ ở Đông Ba, đã đột ngột biến mất. Người ta tin là nó ở Nam Kỳ. Nguyễn Sanh Huy sẽ đi gặp nó và bàn bạc với Phan Châu Trinh.” (Son fils qui habitait il y a deux ans un compartiment de Dong Ba, a disparu subite -ment. On le croit en Cochinchine. Nguyên Sanh Huy irait le rejoindre et conférer avec Phan Chau Trinh)[7]. Như đoạn trên ta đã chứng minh Bác không bị đuổi học sau vụ kháng thuế hồi tháng 4-1908, qua đoạn trích của De la Suisse cho ta có thể nghĩ Bác biết thái độ chống Pháp của Bác ở trường Quốc Học đã bị thực dân Pháp theo dõi nên Bác đã tự động nghỉ học và ẩn trốn ở Huế trước khi lặng lẽ từ giả Huế. 1.4 Bác rời Huế tháng năm nào? Như trên đã viết, Bác và người anh theo cụ thân sinh vào Huế và đi học ở trường Pháp Việt Đông Ba đến mùa thu năm 1908 vào học trường Quyốc Học. Cuộc sống của hai người phụ thuộc vào cụ thân sinh. Cho nên, khi chưa có tư liệu thành văn xác nhận Bác và người anh đã có cuộc sống tự lập thì chúng ta có thể nghĩ Bác đã cùng rời Huế với cụ thân sinh vào thời gian cụ thân sinh đi nhận chức tri huyện Bình Khê (Bình Định). Theo Châu bản triều Duy Tân, trong tờ trình của Bộ Lại ngày 11- 4 năm Duy Tân thứ 3 (29-51909) đã đề cập đến sự kiện cụ Phó bảng được bổ nhiệm chức Tri huyện Bình Khê như sau: «Phụng chiếu tri huyện huyện Bình Khê (Bình Định hiện nay) đang khuyết (do Hồ Tiếu Khanh dính líu tiền nong bị triệt hồi chờ xét) tình ấy đã phái viên hậu bổ Phạm Lê Doãn kiêm tạm. Bộ tôi chọn trong các người tại chức lâu năm đang được bổ dụng (là các ông trước tác tòng chức hành tẩu bộ Lễ Lê Văn Tường; Trước tác tòng chức Thừa biện bộ Lễ Nguyễn Sinh Huy, biên tu tòng chức hành tẩu bộ Hình - Nguyễn Đình Quang) mười hai ngày trước tháng bẩy nhóm bàn, tiếp công văn phúc đáp của quí khâm sứ Ki-xô-lô [Groleau] rằng tri huyện Bình Khê y bổ Nguyễn Sinh Huy. Xét trước tác tòng chức Thừa biện bộ lễ Nguyễn Sinh Huy (bốn mươi tám tuổi, người tỉnh Nghệ An, đỗ Phó bảng tháng 4 năm Thành Thái thứ 13 bổ thụ chức kiểm thảo, làm Thừa biện bộ Lễ, thụ chức kiểm thảo, làm Thừa biện bộ Lễ, tháng hai năm Duy Tân thứ 2, thăng chức tu soạn thự trước tác, tháng ba cùng năm sung chức trước tác thực thụ) xin cải bổ chức đồng tri phủ lãnh tri huyện này. Song viên này hiện đang được phái dụng vào cung vực trường ốc, chờ khi tuần thành sẽ đến nhậm chức, bấy giờ sẽ xin tâu trình, đợi có chiếu chỉ thi hành... Đoạn trích Châu bản này có hai thông tin cần chú ý:.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> 1. Trước khi được bổ làm Tri huyện Bình Khê, cụ Phó bảng “đang được phái dụng vào công việc trường ốc”. Theo nhiều tài liệu “công việc trường ốc” của cụ Bảng năm ấy là đi giúp Ban giám khảo khoa thi Hương năm Kỷ dậu-Duy Tân thứ 3 (1909) tại Bình Định (do Tham tri bộ Học Đặng Như Vọng là Chủ khảo và Tế tửu Quốc tử giám Trần Tấn Ích làm Phó Chủ khảo). 2. Cụ Phó bảng được bổ nhiệm Tri huyện Bình, chính thức được thông báo qua lời tâu của bộ Lại vào ngày 11- 4 năm Duy Tân thứ 3 (29-5-1909) trong lúc cụ đang được “phái dụng vào công việc trường ốc” tại Bình Định. Theo Mật văn số 711, Khẩu cung của bà Nguyễn Thị Thanh - chị của Nguyễn Tất Thành, đề ngày 7-5-1920 “Bà biết được là năm 1909 cha bà được chỉ định làm giám khảo kỳ thi văn chương Bình Định và cũng năm đó được bổ làm tri huyện Bình Khê, hai người con trai cùng đi với ông”. (Elle apprit que son père avait été désigné en 1909 comme examinateur au concours líttraire de Bình Dinh, puis la même année nommé de tri-huyen de Binh-Khe, ses deux fils se trouvait avec lui).[8] Kỳ thi Hương ở Bình Định tổ chức vào tháng 4-1909, như vậy Bác đã theo cụ thân sinh và người anh cả rời Huế trước tháng 4-1909. 2. Những vấn đề tiếp tục quan tâm. 2.1. Tiếp tục sưu tập tư liệu thành văn Bộ hồ sơ mật thám Pháp cung cấp cho chúng ta nhiều sự kiện, mốc thời gian, họ tên các nhân vật có liên quan đến thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế rất quý. Tuy nhiên thông tin trong bộ hồ sơ này cũng bộc lộ nhiều điều mâu thuẫn. Cho nên khi sử dụng phải khảo xét lại những chỗ mâu thuẫn. Sự không thống nhất trong bộ hồ sơ này có nhiều nguyên nhân: 1. Nhiều sự kiện xảy ra trước năm 1911 nhưng mãi đến sau năm 1920 mới được kể lại, do khúc xạ thời gian nên khó chính xác; 2. Người khai với Mật thám Pháp, đặc biệt là những người thân của Bác như bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Sinh Khiêm không thể khai thật với địch là Mật thám Pháp; 3. Thông tin do Mật thám Pháp lưu trữ do các mật báo viên của Mật thám thu thập, báo cáo nên không tránh được những thông tin thiếu chính xác. Thận trọng khi sử dụng thông tin trong tập tư liệu của Mật thám Pháp. Để có thể sử dụng tốt tập hồ sơ của Mật thám Pháp phải tiếp tục sưu tập tư liệu thành văn khác. 2.2. Nghiên cứu tiếp con người, sự kiện, sự vật, và các mối quan hệ của Bác thời gian ở Huế Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng quốc gia và quốc tế vĩ đại vì thế viết về lịch sử thời niên thiếu của Bác phải hết sức khoa học, cụ thể. Ngay cả khi viết tiểu thuyết, bút ký. Không thể lấy sự tưởng tượng, hư cấu của người cầm bút rất thiếu thông tin lịch sử ngày nay thay thế cho các công trình nghiên cứu khoa học lịch sử. Do đó cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ để cung cấp cho các nhà văn, các nhà nghiên cứu về Bác ở nước ngoài: 2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam và triều đình Huế thời Thành Thái và Duy Tân; 2.2.2. Những nơi Bác từng sống qua: Nhà 112 Mai Thúc Loan, nhà cụ Sắc ở dạy học ở Dương Nổ, nhà 47 Mai Thúc Loan, trường Pháp Việt Đông Ba, trường Quốc Học Huế;.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> 2.2.3. Các thầy giáo, những người bạn học của Bác ở hai ngôi trường Pháp Việt Đông Ba và Trường Quốc Học Huế; 2.2.4. Cuộc đấu tranh kháng thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế tháng 4-1908 cụ thể ra sao. Nơi diễn ra chống thuế, các lãnh tụ, quan lại triều Nguyễn và thực dân Pháp, diễn tiến như thế nào, kết quả ra sao, hậu quả. Đặc biệt về các nhân vật lãnh đạo cuộc kháng thuế. 2.2.5. Có thể khẳng định được “Bác Hồ đã hình thành tư tưởng yêu nước từ những năm tháng học hành và tham gia Phong trào kháng sưu thuế năm 1908” chưa? 2.2.6. Chúng ta rất trân trọng những cây bút tâm huyết đã dành nhiều thời gian nghiên cứu viết về thời niên thiếu của bác Hồ ở Huế. Nhưng đồng thời chúng ta cũng cần phải tranh luận với những người lấy tưởng tượng của mình làm thông tin lịch sử làm sai lệch về kiến thức lịch sử về Bác trong tâm trí người đọc, nhất là các bạn trẻ. * *. *. Gần ba mươi năm qua, những sự kiện có liên quan đến Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế chúng tôi đã giới thiệu trong hàng chục bài báo và vài ba cuốn sách. Cái khó nhất là việc xác định thời gian diễn ra các sự kiện ấy. Và, càng nghiên cứu, càng viết tôi càng thấy mênh mông, còn có quá nhiều vấn đề cần phải làm rõ. Bài tham luận này là một bước tiến mới của tôi. Rất mong được các nhà sử học, các nhà Hồ Chí Minh học quan tâm nghiên cứu bổ túc cho tôi những chỗ còn bất cập. Cuối năm Đinh Hợi, 2008 (*) HTKH Nghiên cứu xác minh tư liệu và di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1890-1911 tại Tp Huế. [1] Xem Phụ lục 1 sách Đi tìm dấu tích Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Nxb Văn Học HN. 2003, tr. 218-221. 2. Tất cả những trích dẫn Châu bản triều Nguyễn được trích dẫn trong tham luận này đều trích lại của Cao Huy Hùng tác giả bài viết Một số tư liệu về Nguyễn Sinh Sắc qua châu bản triều Nguyễn T/c Huế xưa và nay số 12/1995, tr.42-45. [3] Document No 15 AOM, SPCE, 364/ Approches Asie 11, Paris 1992, p. 144. [4] Xem bản gốc tại phần tham khảo. [5] Tức trường Pháp Việt Đông Ba. [6] Mật văn số 291, AOM. SPCE 364, Document no 13, Approches Asie 11, Paris 1992, p. 141. [7] AOM, SPCE, 364, Document 3, Approches Asie 11, Paris 1992, p. 128. [8] Documents No 18, AOM, SPCE 364, Approches Asie 11, Paris 1992, p.148..

<span class='text_page_counter'>(116)</span> Phụ lục 5: Làng Phú Lễ - một quãng đời của người anh Bác Hồ Sau năm 1975, trong khi đi sưu tập tư liệu về thời niên thiếu của Bác Hồ, tôi được nghe ông Nguyễn Ngọc Bang (một cơ sở cách mạng ở Huế thời chống Pháp) quê ở làng Phú Lễ, kể chuyện ông Nguyễn Sinh Khiêm - bào huynh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từng có vợ và có con ở quê ông. Qua xác minh, tôi thấy những chuyện đó có thật. Làng Phú Lễ (thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, TT Huế) nằm bên bờ bắc sông Bồ, cách phía đông chợ An Lỗ chừng 2km, cách phía bắc trung tâm Huế 20km. Về Phú Lễ tôi được gặp bà Nguyễn Thị Chanh là cháu bên ngoại của vợ đồng chí Lâm Mộng Quang, em con chú ruột của bà Nguyễn Thị Cúc - vợ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chị dâu của bà vợ cựu Đại sứ Hà Văn Lâu và cũng là chị dâu của bà vợ ông Cả Khiêm. Bà Chanh tuy đã trên 80 tuổi nhưng còn khoẻ mạnh, minh mẫn,Tác trí nhớ giả rất tốt. Bà Chanh cho biết vào cuối những năm hai mươi, cụ Phan Bộivà Châu mở tại Thị nhà Chanh. riêng trên bà Nguyễn đỉnh dốc Bến Ngự một lớp học. Ông Ấm Hoàng (bác ruột của bà Chanh) từ Phú Lễ đem người em là Nguyễn Hữu Quế vào học và sau đó ông có nhiều dịp lui tới thăm viếng cụ Phan. Dưới mái tranh nhà cụ Phan, ông Ấm đã gặp ông Cả Nguyễn Sinh Khiêm nhiều lần. Có lẽ do những lần gặp gỡ ấy, hai người quen nhau. Năm 1929, ông Cả về Phú Lễ vừa làm thầy thuốc vừa tìm nơi “an trí” liền được ông Ấm mời lưu lại trong nhà bên chợ Phú Lễ. Biết ông Cả về ở Phú Lễ, cụ Phan Bội Châu bảo ông Ấm: - “Có ai ngó được, chú cưới cho Cả Khiêm một người để giữ chân anh ta lại!”. Từ nhà ông Ấm, ông Cả được mời sang thăm mạch bốc thuốc cho bà Nguyễn Thị Giáng ở ngôi nhà rường bán hàng xén, chỉ cách nhà ông Ấm vài căn. Bà Giáng đã có một đời chồng người họ Hà làng Phú Ốc. Không may ông chồng qua đời, để lại cho bà một người con trai còn đi chập chững. Từ ngày chồng chết, bà Giáng hay đau ốm, thuốc thang hoài vẫn không khỏi. May sao bà được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh. Bà gởi tiền thầy ông Cả không nhận. Sau ngày bà Giáng mãn tang chồng (1930), ông Cả Khiêm đến ăn ở với bà Giáng. Cậu bé con trai của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả thương yêu dạy dỗ như con đẻ. Cuối năm 1933, bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Cao lên 3 tuổi thì mất vì bệnh. Năm 1937, bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ hai Nguyễn Thị Ba. Đang ở Huế, được tin có cháu gọi bằng cô, Ông Nguyễn Sinh Khiêm - anh bà Nguyễn Thị Thanh - chị ruột ông Cả, về Phú Lễ thăm và ở lại cả trong Giáng tuần lễ Chủnhà tịchbàHồ Chí cả Minh. để chăm sóc cháu. Đến đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả thương con muốn phát điên luôn. Ông làm thầy thuốc mà không cứu được con. Buồn tình, tháng 2.1940, ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An..

<span class='text_page_counter'>(117)</span> Về quê, ông cho rằng nơi táng thân mẫu ông trong vườn nhà ở Kim Liên không tốt nên ông cải táng lên núi Đại Huệ. Sau đó ông lên Vinh tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, rồi lại mở lớp dạy võ cho thanh niên. Bọn thực dân nghi ông tập hợp thanh niên để hoạt động chống Pháp, chúng bắt giam ông mấy tháng. Qua năm 1941, ông bị buộc phải trở lại Huế để Pháp dễ bề theo dõi ông. Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông. Và cũng chỉ nuôi được 6 tháng rồi cậu bé cũng mất. Đau khổ vì chuyện mất con lần thứ ba, ông Cả lại bỏ nhà ra đi. Lần này ông ra Phong Điền với thầy Lê Văn Miến. Ông Lê Văn Yên, con trai thứ của cụ Lê Văn Miến kể rằng: - “Từ đầu năm 1943 thầy tôi đưa gia đình về Phò Trạch ở trong một ngôi nhà do lòng hảo tâm của học sinh cũ của thầy tôi mua tặng. Trong những năm ấy ông Cả Khiêm an trí ở Phú Lễ hay ra thăm thầy tôi, đôi khi ông ở lại trong nhà hàng tuần lễ. Trong những ngày ấy ông Cả hay ngồi đàm đạo với thầy tôi, kể lại những kỷ niệm hai anh em Đạt Thành học với thầy tôi tại Trường Quốc học Huế. Khi thầy tôi mất (6.6.1943) có hai người học trò đứng chịu tang: Người thứ nhất là ông Nguyễn Trác đại diện cho học sinh Quốc Tử Giám, thứ hai là ông Cả Khiêm/Nguyễn Tất Đạt đại diện cho học sinh Quốc học”. Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp (9.3.1945), lính Nhật rải ra đóng đồn giữ các cầu trên quốc lộ 1. Lính Nhật gác cầu An Lỗ hay về chợ Phú Lễ mua thực phẩm. Nhân đó ông Ấm Hoàng và ông Cả Khiêm hay bút đàm với người Nhật để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Nhật và Đồng minh, đặc biệt là với quân đội Liên Xô. Nhờ thế mà các ông sớm biết được cái tin Nhật đầu hàng quân đội Đồng minh vào trung tuần tháng 8.1945. Đến ngày 23.8.1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Huế. Ông Cả cùng với dân chúng hân hoan vô cùng. Ông ra sức vận động thanh niên tham gia cách mạng. Khi biết được Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo cách mạng thành công, chính là Nguyễn Ái Quốc em trai ông, ông sung sướng vô cùng. Đầu năm 1946, ông dắt hai người thanh niên là Hà Hữu Thừa (con trai của vợ ông) và Nguyễn Hữu Tạo (cháu ông Ấm Hoàng) đi tàu hoả ra Hà Nội thăm người em làm Chủ tịch Nước. Sau chuyến thăm viếng đó, ông cho hai thanh niên trở lại Huế ăn Tết Bính Tuất và tham gia công tác cách mạng, còn ông thì ghé về thăm quê. Không ngờ cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông không còn cơ hội để trở lại Phú Lễ với bà Giáng nữa. Ông mất ở quê nhà vào cuối năm 1950. Được ông chăm sóc, dạy dỗ hai anh Hà Hữu Thừa và Nguyễn Hữu Tạo rất trưởng thành. Nguyễn Hữu Tạo hoạt động tình báo, sau bị bắt, bị giam đến chết ở Chín hầm của Ngô Đình Cẩn. Hà Hữu Thừa phục vụ trong quân đội, năm 1992 về hưu với quân hàm đại tá. Bà Nguyễn Thị Giáng có được 16 năm (1930-1946) làm vợ Bàn thờ đặt tại nhà ông Nguyễn ông Cả Khiêm. Bà có với ông 3 người con, tiếc là không Tăng Thông và bà Nguyễn Thị nuôi được một người nào. Người con riêng của bà theo Chanh thờ ông nội, cha và các bác của bà Nguyễn Thị Giáng..

<span class='text_page_counter'>(118)</span> kháng chiến mất liên lạc. Ông Cả Khiêm thì về. Một mình bà ở lại Phú Lễ vò võ chờ chồng, trông con. Đến năm 1960 bà qua đời. So với thời ông Cả ở, cảnh quan Phú Lễ ngày nay rất khác xưa. Con đường làng men sông Bồ bị sụt lở nhiều đoạn. Cái xóm nhà bên sông trước chợ mà ông hay lui tới đã trôi mất từ lâu. Chợ Phú Lễ bỏ hoang. Vị trí nền móng ngôi nhà ông Ấm Hoàng - nơi ông Cả Khiêm về tá túc một thời gian vẫn còn, nhưng đã đổi chủ nhiều lần. Ngôi nhà rường của bà Nguyễn Thị Giáng - nơi ba người con của ông Cả Khiêm ra đời đã sửa chữa nhiều lần nhưng cơ bản vẫn giữ được bóng dáng cũ. Sau ngày bà Giáng qua đời (1960), ngôi nhà được bán cho ông Bốn, sau năm 1975, ông Bốn bán lại cho gia đình ông Đặng Thông Chánh. Mộ của bà Giáng và ba người con ông Cả Khiêm chôn trong nghĩa địa họ Nguyễn Tăng nằm phía sau Trường THCS Phú Lễ bên đường ôtô An Lỗ - Sịa. Nghĩa địa rộng ba sào, họ Nguyễn Tăng dành làm nơi an nghỉ của con cháu trong họ. Tiếc thay, sau 1975, người khác họ xin địa phương vào đào bới chôn cất lung tung. Vì thế ba ngôi mộ của ba người con ông Cả đều bị mất dấu. Đại tá Hà Hữu Thừa nhiều lần về quê ngoại tìm mộ của ba người em cùng mẹ với mình nhưng đành bất lực. May sao, mộ của bà Nguyễn Thị Giáng - mẹ ông, vẫn còn nguyên vẹn. Ông sửa sang mộ mẹ và dựng tấm bia khắc mấy chữ: “Mộ bà Nguyễn Thị Giáng, 18971960, kỵ 9.9 âm lịch. Con Hà Hữu Thừa phụng lập”. Ông Cả Khiêm đã xa Phú Lễ gần 60 năm. Ở Phú Lễ ngày nay không còn mấy người thân quen biết ông. Tuy nhiên, chuyện ông Cả về làm thuốc rồi làm rể ở Phú Lễ giống như chuyện đời xưa. Mỗi lần dân làng có dịp đề cập đến gia đình của Bác Hồ, người ta lại nhắc đến ông Cả, nhắc đến một ông thầy thuốc mặc bộ đồ nâu, đội nón lá 17 vành quá cỡ, thích uống rượu, thích đọc sách, thích câu cá, tốt bụng, khi nào cũng vui vẻ với mọi người. Ba người con ông mất sớm, mộ phần chưa tìm ra dấu tích, nhưng chắc chắn ba cái hài cốt mang dòng máu Nguyễn Sinh/ Nguyễn Tất ấy đã tan hoà vào đất Phú Lễ. Lưu niệm sâu lắng nhất của ông Cả ở đây có lẽ là mảnh đất có xương thịt của ba người con ông và ngôi mộ của bà Nguyễn Thị Giáng - vợ ông. Trước đây, người ta quan niệm Huế là quê hương thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay ta có thể nói thêm “Thừa Thiên - Huế cũng là quê hương thứ hai của gia đình Bác Hồ”. Báo Lao Động, Xuân Giáp Thân 2004.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> Phụ lục 6: Văn tế các lãnh tụ phong trào chống thuế năm 1908 tại Thừa Thiên Huế của Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn Sau 60 năm bị Pháp đô hộ, đêm mồng 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật Bản ở Đông Dương đã lật đổ chính quyền Bảo Hộ Pháp ở Việt Nam trong cuộc đảo chánh chớp nhoáng được người ta mệnh danh là “cuộc đảo chánh Nhật”. Sau đó Nhật trao trả “độc lập” cho Việt Nam và một nội các đọc lập Việt Nam đầu tiên (kể từ khi người Pháp đặt nền đô hộ lên Việt Nam) được thành lập do Cụ Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng. Trong một cuộc mít-tinh vĩ đại tổ chức thời bấy giờ tại bến Thương Bạc thành phố Huế để mừng “Việt-Nam độc lập” và cũng là để truy điệu các nghĩa sĩ cách mạng hồi xưa và các chiến sĩ trận vong trong cuộc đảo chánh Nhật ngày 9-3-1945, cụ Xuân-Viên Ngô-PhươngThảo đã đọc trước bàn thờ Tổ Quốc một bài văn tế rất hùng hồn, khiến cho đồng bào ta có mặt trong buổi lễ phải cảm động đến rơi lụy. Bài văn tế ấy do nhà văn kiêm thi sĩ Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn soạn thảo. Nhân kỳ làng Giã Lê tế năm 1945, ông Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn lại làm tiếp một bài văn tế nữa để tưởng niệm những người anh hùng làng Giạ Lê đã anh dũng cầm đầu cuộc đấu tranh chống thuế với Pháp vào tháng 4.1908. Bài văn tế các liệt sĩ làng Giạ Lê rất hùng tráng. Nhưng rất tiếc không được lưu truyền. Trải qua nhiều năm tìm kiếm, cuối cùng tôi gặp được ông Lê Đình Hoàng là em con ông chú ruột của Lê Đình Mộng - lãnh tụ chống thuế năm 1908. Ông Hoàng còn nhớ được một đoạn, tôi đã ghi và cho đăng trên tạp chí Huế xưa và Nay. Sau khi tạp chí ra đời, độc giả đã góp ý và giúp tôi tách được những câu văn tế của bài văn tế chung ở Huế ra khỏi bài văn tế tại làng Giã Lê Chánh, chỉnh lý lại chính xác hơn. Sau đây là một đoạn văn tế tại làng Giã Lê Chánh: … Không may gặp loài quỹ rắn từ đâu ám ảnh Gươm không thiêng mà bút cũng không thiêng Giống da vàng gặp lúc truân chuyên Nước có bệnh hoá dân thành có bệnh Điền tăng thêm điền, thổ tăng thêm thổ, đinh tăng thêm đinh Nặng nề chồng chất trên vai năm bảy gánh. Việc chính trị sành rán ra dầu Quan khổ phần quan, dân khổ phần dân, đinh khổ phần đinh, Nặng nề dưới cổ chín mười ngoi (Quên hai câu).

<span class='text_page_counter'>(120)</span> Trong Nam Nghĩa dấy khất sưu đưa đến(2) Lãnh giám đốc dắt dìu dân chúng Nguyễn Xuân Hy(3) đành không quản thân gia Hạt Thừa Thiên đoàn tụ nghĩa nổi lên Lê Đình Mộng(4) quyết liều đem tính mệnh Hăm hở xuất tài, xuất lực, Anh em họ Nguyễn rõ ràng nên Vút(5) nên Vây(6) Hẹn hò đồng đức đồng tâm Con cháu làng ta Vốn thiệt giống lông giống cánh Án khinh trọng tùy theo thượng lịnh(7) (…) Do ông Lê Đình Hoàng (1) đọc; Nguyễn Đắc Xuân ghi, chỉnh lý và chú giải) Dã Lê Chánh, ngày 27.10.1997. (1) Em chú bác ruột với Lê Đình Mộng - lãnh tụ chống thuế năm 1908 tại Thừa Thiên. (2) Theo Châu bản Triều Duy Tân (CBTDT) người đem tinh thần chống thuế từ Nam Ngãi ra làng Dã Lê là ông Khóa Nối Nguyễn Hàn Chi-người Hà Tĩnh. (3) CBTDT (đề ngày 4.7. DT2 tức 31.7.1908) ghi là Nguyễn Mãnh dân làng Dã Lê Chánh thường gọi là Khoá Mãnh; CBTDT cho biết Nguyễn Mãnh đã “Xướng xuất, bắt trói quan binh toan đem nhận nước”. (4) Tức Ấm Mộng, em vợ của Nguyễn Trọng Quỳ cũng là một lãnh tụ chống thuế năm 1908. Xem thêm chú thích dưới. (5) Người tiếp tế cho Phong trào là anh ruột của Nguyễn Trọng Quỳ. (6) Theo Châu bản Triều Duy Tân nêu trên thì Nguyễn Trọng Quỳ đã cùng với Phan Đạm, Nguyễn Văn Chi ép bức bình dân tụ họp làm càn”. (7) Sau khi cuộc chống thuế bị dìm trong biển máu, Nguyễn Mãnh (tức Nguyễn Xuân Hy) và lê Đình Mộng bị xử giảo giam hậu, Nguyễn Trọng Quỳ bị xử trượng 100 đày 3.000 dặm, cải hạng khổ sai 9 năm; ông Nguyễn Cừ (Nguyễn Trọng Vút?) bị tội đồ..

<span class='text_page_counter'>(121)</span> Phụ lục 7: Tài liệu số 18 của mật thám Pháp: khẩu cung của bà Nguyễn Thị Thanh, chị của Nguyễn Tất Thành, tháng 5-1920 Trung Kỳ Sở Mật Thám MẬT VĂN SỐ 711 Huế ngày 7 tháng 5 - 1920 Kính gởi Thanh tra Mật Thám SCR và SG ở Hà Nội Tin tức chuyển gởi tiếp theo Mật văn số 600 cùng ngày 28-4, do công sứ Quảng Ngãi cung cấp. “Bức ảnh đính kèm ở văn thư của Ngài, đã được trao cho Nguyễn Thị Thanh xem. Cô ta xem rất kỹ, lâu và chưa nói với tôi ngay đó là ai, rồi thì thấy ảnh chụp một người Nam mặc y phục Âu Tây và nghĩ rằng nếu người ta trình xem bức ảnh là có ý muốn cô ta nhận diện một người nào trong gia đình hoặc thân thuộc, cô ta nói với tôi về đứa em trai, Nguyễn Sinh Côn, hiện đang ở Anh quốc và nói với tôi là đó chính là đứa em của cô, vì cô thấy có sự giống nhau ở đôi mắt. Tuy nhiên cô ta nói thêm rằng cô ta không thể đoán chắc với tôi có thật đó là đứa em của cô không vì cô đã không gặp trót 10 năm nay, tuy lúc ấy em cô đã 17 hay 18 tuổi rồi. Vào thời kỳ đó, nó rất mảnh mai, có khuôn mặt bầu, mặt mày sáng sủa và rất dễ mến (séduisante). Những nét mặt có thể thay đổi nhiều, nhưng nếu người ta đem đối chiếu ảnh với người thật thì cô ta luôn luôn chắc chắn nhìn nhận ra ngay nhờ một vết sẹo rất rõ ở trên tai. Cô ta không còn nhớ ở tai phải hay tai trái bị một cái nhọt thiếu săn sóc lúc còn nhỏ vành tai phía trên bị sưng phù lên và hơi bị sứt. Nhân cuộc đối chất này, tôi tưởng nên ra lệnh cho Nguyễn Thị Thanh cung cấp tin tức về gia đình của cô, tin tức rất quan trọng để đối chiếu tin tức do Tổng Đốc Nghệ An ở Vinh cung cấp và Ngài đã chuyển cho tôi ở Mật văn số 291 ngày 23 tháng 2 vừa rồi. Nguyễn Thị Thanh khai với tôi như sau: Cha của cô nguyên quán làng Kim Liên, Tổng Lam Thinh, huyện Nam Đàn (Nghệ An) lúc thiếu thời tên gọi là Nguyễn Sinh Sắc và sớm được đổi thành Nguyễn Sinh Huy khi ông ta đỗ Cử nhân. Mẹ của cô nguyên quán làng Huang Trân(1), gần Kim Liên và cùng một tổng. Nguyễn Sinh Huy có một người con gái và hai người con trai: Nguyễn Thị Thanh, chị cả sinh năm 1887, hai người con trai là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh năm 1890 và Nguyễn Sinh Côn sinh năm 1893. Hai đứa em trai sau đổi tên (cô không nhớ chính xác vào thời nào) là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành. Cô cũng có một em trai thứ ba sinh khoảng 1900 chỉ sống có một tháng rưỡi thôi. Vào năm 1894 cô ta mới 8 tuổi, cha cô đỗ Cử nhơn và vào chuyển vào Huế cùng với mẹ cô và hai người em trai, để cô lại một mình với bà ngoại ở làng Hoàng Trù. Ở Huế ông xin được 1 việc làm nho nhỏ với đồng lương ở Sở Nông nghiệp và đã 2 lần được đề cử đi làm giám khảo (examinateur) các kỳ thi Hương ở Bình Định và Thanh Hóa, vào khoảng các năm 1897 và 1900..

<span class='text_page_counter'>(122)</span> Sau lần giám khảo cuối cùng này (1900), khi đi ngang qua Vinh, ông tranh thủ về làng quê ở Kim Liên để lo xây mộ song thân ông. Ông về làng được ba tháng thì được tin bà vợ ở Huế qua đời vào ngày 19 tháng Chạp năm Thành Thái thứ 12 (nhằm ngày 7 tháng 2 năm 1901), ông tức tốc quay về Huế gặp lại hai người con trai đang ở với mẹ. Tháng 4 năm sau (tháng 5-1901) Nguyễn Sinh Huy đỗ Phó bảng và vào tháng 8 ông trở lại Kim Liên với hai người con trai, gặp lại con gái Nguyễn Thị Thanh lúc này đã rời làng Hoàng Trù (1 tháng sau cái chết của mẹ cô) về làng Kim Liên. Ở đó cô sống với một người giúp việc trong ngôi nhà của thân sinh cô. Lúc ấy cô được 14 tuổi, Khiêm 11 tuổi và Côn 8 tuổi. Nguyễn Sinh Huy ở lại Kim Liên khoảng 1 năm, rồi trở lại Huế năm 1902 với 2 con trai. Ở đây ông được lên làm Hàn lâm viện Kiểm thảo rồi được thăng lên làm Thừa biện Bộ Lễ. Vào năm 1906, Nguyễn Thị Thanh đi với cô giúp việc vào với thân sinh cô ở Huế; Đó là lần đầu tiên cô đến Huế. Nhưng cô ta không thể chịu đựng lâu dài cái tính nóng nảy của cha khi uống rượu say và thường hay đập đánh cô ta nữa. Năm sau, cô trở về làng Kim Liên ở trong ngôi nhà của thân sinh cô với hai người giúp việc. Cô cho biết biết vào năm 1909 thân sinh cô được đề cử đi làm giám khảo kỳ thi Hương tại Bình Định và cũng trong năm đó ông được bổ làm tri huyện Bình Khê, hai người con trai cùng đi với ông. Sau 7 hay 8 tháng, Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức vì chứng say rượu và trở về Huế vào năm 1910 với con trai lớn Nguyễn Tất Đạt, còn Nguyễn Tất Thành thì ở lại Bình Định rồi sau làm trợ giáo ở trường Dục Thanh (Phan Thiết). Cũng từ dạo ấy Nguyễn Thị Thanh không còn có tin tức gì của thân sinh cô nữa. Người ta đã bắn tin rằng ông đã chết, nhưng vài tháng trước khi cô bị bắt vào năm 1917 hay 1918 gì đó cô lại được tin thân sinh cô đang ở tỉnh Gia Định. Nguyễn Tất Đạt không ở Huế bao lâu. Vì cần tiền, anh đã trở về làng Kim Liên làm công cho nhà in Ô.OGER ở Vinh(1) trong một vài năm. Bị tố cáo có mưu đồ với kẻ phản loạn anh bị bắt, bị xử án và bị đày đi Khánh Hòa, ở đó anh đã viết hai lá thư gởi chị, trước khi bà chị bị bắt. Về vấn đề liên quan đến Nguyễn Tất Thành, cô ta vẫn tưởng làm trợ giáo ở Bình Định, sau đó năm 1911, cô nhận 1 lá thư của em gởi từ Pháp tin cho biết anh ta đã rời Sài Gòn với một người Âu để tiếp tục sự học ở Pháp và sẽ trở về trong năm sáu năm nữa: Lá thư này bị đánh cắp. Cuối năm 1915, qua trung gian của Tòa Công sứ Vinh, cô nhận được một lá thư của một viên chức làm việc ở Hải Phòng (?) cho biết em của cô đã đi Luân Đôn cùng với đứa con thứ 3 của viên chức này và cho địa chỉ ở Luân Đôn. Cô không thể nói rõ viên chức ấy là ai, cũng không nhớ địa chỉ người ấy đã cho, cô chỉ nhớ mơ hồ chữ “VON” ghi ở địa chỉ. Cô ta cất lá thư đó trong một cái rương nhưng cô không rõ bây giờ nó thế nào vì tất cả của cải của cô đều bị tịch thu trong một vụ lục sóat nhà cô sau khi cô bị bắt vào năm 1918. Sau đó, Nguyễn Thị Thanh cũng không có tin tức gì về em trai của cô là Nguyễn Tất Thành nữa. Những tin tức này bổ túc cho những tin tức thành phố Vinh cung cấp và cho phép chúng ta tin chắc Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Tất Thành là một người. Ngòai ra, thật hết sức quan trọng nếu cố tìm xem “Nguyễn Ái Quốc” có vết sẹo ở tai như Nguyễn Tất Thành đã có. Bức ảnh này cũng sẽ trình cho những kẻ khác biết được Nguyễn Tất Thành, nhất là thời kỳ còn là học sinh Quốc Học ở Huế, lấy tên là Sinh Cô”..

<span class='text_page_counter'>(123)</span> Thanh tra Mật Thám Trung Kỳ Ký: Sogny (AOM, SPCE 364) (Do Nguyễn Đắc Xuân chuyển ngữ, xem nguyên bản tiếng Pháp kèm theo sau).

<span class='text_page_counter'>(124)</span>

<span class='text_page_counter'>(125)</span> (1) Có lẽ là Hoàng Trù nhưng người Pháp nghe ra là Huang Trân. NĐX (1) Thật vậy, Nguyễn Tất Đạt làm công cho ông OGER trong thời kỳ ông này làm phụ tá quản lý hành chính ở Vinh, để dịch những sách chữ Hán mà viên chức này cần dùng trong việc soạn một tác phẩm về Đông Dương (Ghi chú của Sở Mật Thám Huế)..

<span class='text_page_counter'>(126)</span> Phụ lục 8: Bác Hồ, thời niên thiếu ở núi Ngự sông Hương qua một người cầm bút Huế Nhà văn Nguyễn Đắc Xuân là một trong những người cầm bút từ Trường Sơn về đã lao vào việc nghiên cứu lịch sử văn hoá Huế và đã đạt được một số kết quả. Trong số những gì đã đạt được anh thú vị nhất là Chuyên đề Bác Hồ, thời niên thiếu ở núi Ngự sông Hương. Nhân kỷ niệm 30 năm Bác Hồ về với cõi vĩnh hằng (1969-1999) chúng tôi thực hiện cuộc trò chuyện này với anh Xuân. Nguyễn Quang Hà (NQH).- Trước đây mươi năm, biết anh nghiên cứu, đi nói chuyện, viết báo, in sách về Bác Hồ, thời niên thiếu ở núi Ngự sông Hương, nhưng thời gian gần đây lại thấy vắng, phải chăng vì không còn gì để nghiên cứu nữa hay vì bận chuyện làm báo, làm sách về Huế mà ...? Nguyễn Đắc Xuân (NĐX).- Có lẽ vì cả hai lý do. Sau ngày giải phóng việc tìm tài liệu cũ có liên quan đến thời niên thiếu của Bác tương đối dễ dàng, tôi luôn khám phá được những thông tin mới. Tôi đã gặp được nhiều nhân chứng quan trọng như bác Lê Xuyến (cháu đích tôn của cụ Lê Trinh- người hàng xóm của gia đình cụ Phó bảng Sắc ở 114 Mai Thúc Loan), ông Lê Viết Triết (con trai ông Quảng Nghiêm-người hàng xóm của gia đình ông Phó bảng ở dãy Trại đường Đông Ba), ông Lê Thiện (người bạn cùng học một lớp với Bác ở trường Pháp Việt Đông Ba và Trường Quốc Học Huế), ông Nguyễn Phú Phu (người hàng xóm của bà Thanh ở đường Đinh Bộ Lĩnh), cụ Nguyễn Sĩ Duyến (con trai cụ Nguyễn Sĩ Khuyến - người chủ ngôi nhà cụ Nguyễn Sinh Sắc ngồi dạy học ở làng Dương Nổ) v.v… Đến nay, phần lớn những người ấy đã qua đời. Một vài người còn sống nhưng không còn nhớ gì thêm nữa. Cho nên việc nghiên cứu muôn vàn khó hơn mà tôi lại không có nhiều thì giờ như hồi còn làm việc ở cơ quan Thành ủy Huế, nhận xét của anh rất chính xác. Tuy nhiên, khi có dịp tôi vẫn viết, vẫn đi nói chuyện. Và, hồi đầu năm 1999 mới đây tôi tái bản cuốn Bác Hồ, thời niên thiếu ở Huế tại Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh. N.Q.H- Xin anh cho biết về công trình nghiên cứu về Bác của anh và công trình đó đã được đánh giá như thế nào? N.Đ.X- Về đề tài này, tôi đã viết cuốn sách Bác Hồ, thời niên thiếu ở Huế (Nxb Trẻ 1990, Nxb Trẻ tái bản 1999), viết mấy chục bài báo, nói chuyện trên 300 buổi ở Huế và nhiều tỉnh ở ba vùng đất nước, tham dự nhiều Hội nghị khoa học về Bác, làm nội dung trưng bày Phòng I cho Nhà Bảo tàng HCM tại TTH, viết kịch bản cuốn phim Tài liệu (do BT viết lời bình, đài Truyền hình VN thực hiện năm 1990), hiện nay còn một công trình khoa học 300 trang chưa in. Chưa có một sự đánh giá chính thức nào về những thành tựu nghiên cứu về Bác của tôi. Chỉ trong một hội thảo khoa học tại Huế, nhà văn Thanh Tịnh đã phát biểu: “Nếu trước 1975 có Nguyễn Đắc Xuân thì Viện nghiên cứu HCM tiện được 10 năm trong việc nghiên cứu thời niên thiếu của Bác Hồ”. Ông Vũ Kỳ - thư ký của Bác Hồ lúc sinh thời, đã xem những tài liệu của tôi và bảo : “Đó là những tài liệu vô giá”. Nhưng theo tôi, sự đánh giá đúng đắn nhất vẫn là của ông thời gian. Cho đến nay trong những gì tôi nghiên cứu được về Bác Hồ chưa có cái nào bị đào thải cả. Thậm chí một số bài nghiên cứu của tôi đã được một số tác giả khác xào xáo lại và đề tên họ. NQH.- Trên đất TTH, so với những gì anh đã nghiên cứu được về các di tích có liên quan đến Bác và những gì đã được các ngành chức năng đã tôn tạo, anh thấy như thế nào? NĐX.- Ngoài nhà Bảo tàng Hồ Chí Minh (BTHCM) vừa phá đi để làm lại “khang trang hơn, to đẹp hơn”, đã có Nhà lưu niệm tại Dương Nỗ, nhà Lưu niệm tại 112 Mai Thúc Loan, Di tích.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> mộ bà Hoàng Thị Loan, tượng Bác Hồ tại sân trường Quốc Học...Tôi thấy như thế cũng là khá rồi. Chỉ tiếc là việc tôn tạo khá tốn kém mà hiệu quả thì không tương xứng. Chúng ta mới tôn tạo được cái phần xác của các di tích nhưng còn thiếu phần hồn. NQH.- Xin anh cho vài dẫn chứng! NĐX.- Tượng Bác Hồ dựng ở sân trường Quốc Học thì giống với một cô giáo tân thời chứ không giống một cậu học trò Huế mặc áo dài đi guốc gỗ hồi đầu thế kỷ XX (như nhiều tấm ảnh hiện tôi còn giữ ); các nhà lưu niệm 112 Mai Thúc Loan rất ít người đến xem, mộ bà Hoàng Thị Loan thì cỏ mọc um tùm không mấy người biết. Gần 20 năm ra đời rồi mà Thừa Thiên Huế chưa có một công trình sách vở, phim ảnh nào xứng đáng với niềm tự hào Huế nơi hình thành tư tưởng yếu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả. NQH.- Nguyên nhân vì sao? NĐX.- Đây là một chuyên đề lịch sử rất mới, rất khó, cần phải đầu tư trí tuệ, cần nhiều chuyên gia có tâm huyết mới thực hiện đươc. Nhưng rất tiếc đa số những người cán bộ chủ chốt được giao làm việc này đều là những công chức thông tin tuyên truyền bình thường, trình độ nhiều người dưới trung bình cho nên dù tiêu phí nhiều tiền mà hiệu quả chưa có bao nhiêu. Và cũng vi trình độ hạn chế, thiếu phương pháp khoa học, không nhận thức được đúng sai cho nên vừa làm mất thời gian vừa tốn tiền vừa làm thiệt hại di tích. Tôi xin đơn cử một ví dụ: Nhà 112 Mai Thúc Loan - ngôi nhà gia đình cụ Phó bảng Sắc thuê để ở đầu tiên ở Kinh đô Huế, tôi đã bỏ nhiều công sức mới tìm được và công bố trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội 2/1980. Ngôi nhà này đã được ông Văn Nhĩ - người được giao nhiệm vụ xây dựng Bảo tàng HCM tại TTH, đã thẩm tra tư liệu và đưa vào trưng bày ở phòng I Bảo tàng HCM tại TTH. Nhưng sau đó ông Lê An thay ông Văn Nhĩ lại cử một ông cán bộ họa sĩ chuyên nghề trưng bày ở các nhà triển lãm, phủ nhận công trình nghiên cứu của tôi và chứng minh ngôi nhà đầu tiên mà gia đình cụ Phó bảng thuê ấy ở trong kiệt đường Đặng Thái Thân. Tôi báo cho họ biết ngôi nhà ở kiệt I Đặng Thái Thân đó là ngôi nhà cuối cùng mà bà Nguyễn Thị Thanh (chị của Bác) thuê ở trước khi về quê chứ không phải ngôi nhà đầu tiên mà Thanh Tịnh đã viết: Dãy nhà gian ngói bếp tranh, Chênh chênh nhìn phía cổng thành Đông Ba” của gia đình Bác Hồ khi mới vào Huế. Nhưng ông An không đồng ý. Thế rồi cán bộ của ông An xách cặp đi khắp ba miền Trung Nam Bắc “nghiên cứu” rồi cuối cùng không thuyết phục được giới chuyên môn nên phải lặng lẽ nhận lại công trình nghiên cứu của tôi. Rất tiếc khi di tích được công nhận chính thức thì nhiều hiện vật gốc của ngôi nhà đã không còn như xưa. NQH.- Ngoài những khó khăn về tư liệu, về cán bộ và cũng phải nói là khó khăn về tiền nữa, thì theo anh còn có khó khăn gì nữa không? NĐX.- Nếu còn có lẽ là về nhận thức. Theo tôi có mấy vấn đề cần phải thống nhất sau đây: 1. Thành phần xuất thân của Bác: Thời gian đầu mới đến Huế, gia đình Bác Hồ rất khó khăn về kinh tế. Khó đến mức cơm không đủ ăn, em Bác không có sữa bú. Thời gian sau cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng, gia đình Bác khá hơn. Có người nghe kể gia đình Bác khó khăn như thế rồi cho rằng Bác xuất thân ở dưới đáy xã hội là không đúng. Cháu ngoại cụ Hoàng Đường giàu có ở Hoàng Trù, con một ông Phó bảng làm sao bảo là dưới đáy xã hội được? Dưới đáy xã hội làm sao vào học trường Pháp Việt Đông Ba, trường Quốc Học Huế? Thực chất Bác đã “xuất thân trong gia đình một nhà Nho nghèo” như Trần Dân Tiên đã viết về Bác; 2. Bác Hồ không của riêng ta: Bác Hồ là một danh nhân Việt Nam mà cũng là một danh nhân thế giới. Bác đã có nhiều năm ở nước ngoài. Chúng ta nghiên cứu về Bác thế giới cũng nghiên cứu về Bác. Chúng ta có trách nhiệm cung cấp thông tin về Bác cho thế giới. Nếu chúng ta cung cấp.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> cho thế giới những thông tin thiếu khoa học thì sẽ dẫn đến hai điều tai hại: một là họ sẽ lật tẫy chỗ thiếu khoa học của ta, hai là gây cho họ hiểu nhầm về Bác. Cho nên việc nghiên cứu về Bác tuy ở tầm địa phương một tỉnh nhưng không được quên là vấn đề liên quan đến quốc gia và quốc tế. 3. Bác Hồ với nhân dân TTH . - Cho đến bây giờ một số người vẫn còn nghĩ Bác Hồ với nhân dân TTH Huế có nghĩa là Bác Hồ với bộ phận dân chúng đi theo cách mạng hay đã tham gia cách mạng trong bí mật. Thực tế cho thấy, không những đồng bào mà ngay cả những người vì hoàn cảnh đứng trong hàng ngũ địch họ vẫn tự hào VN có Bác Hồ. Do đó theo tôi nên dùng cụm từ Bác Hồ với “đồng bào Thừa Thiên Huế” thì thích hợp hơn cụm từ nhân dân Huế. Người công dân Huế số một được ngồi bên cạnh Bác sau ngày Cách mạng tháng 8.1945 thành công là ông Vĩnh Thụy. Sau 1948, vì hoàn cảnh ông Bảo Đại trở lại cộng tác với Pháp đối đầu với Cách mạng, nhưng nếu không có Bảo Đại thì có Ngô Đình Diệm, không có Diệm thì có Nguyễn Văn Thiệu, có Trần Văn Hương... nhưng tháng 8.1945, sự có mặt của Vĩnh Thụy bên cạnh Bác thì không ai có thể thay thế được. Và cho đến nay cũng chưa ai nghiên cứu để hiểu hết cái giá trị của sự có mặt đó đến đâu. Vĩnh Thụy đã giúp cho Cách mạng VN tránh được một cuộc lưu huyết và ngược lại chính người đáng tội chết trở thành người phò tá cho một chính quyền cách mạng còn trong trứng nước giá trị biết chừng nào. Trước khi qua đời một vài năm, trả lời cho Frédéric Mitterrand (cháu ruột của Tổng thống Mitterrand, chuyên gia lịch sử của đài Truyền hình Pháp) Cựu hoàng Bảo Đại vẫn tỏ lòng ngưỡng mộ lãnh tụ Hồ Chí Minh (1) hết sức đúng đắn. Trong vùng tạm chiếm còn biết bao công dân khác chưa có dịp đứng trong hàng ngũ cách mạng mà họ cũng rất yêu kính Bác Hồ. Nếu chúng ta không có một quan niệm thực tế hơn thì không thể tìm được những tấm lòng quý giá ấy. NQH.- TTH đang xây dựng một công trình cuối thế kỷ to đùng ở số 7 Lê Lợi như thế để làm nhà bảo tàng HCM tại TTH, theo anh ta phải có một nội dung trưng bày xứng đáng với vị trí ấy? NĐX.- Nếu chỉ trưng bày hạn chế trong những hình ảnh và hiện vật có liên quan đến Bác thì sẽ thừa rất nhiều diện tích và không gian trưng bày, nhưng nếu chúng ta tái hiện được khung cảnh Huế thời Bác đã sống qua như vua quan triều Nguyễn, bọn đầu não thực dân Pháp ở Trung kỳ, nhân dân lao động đang xây dựng các công trình đầu thế kỷ (cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, khách sạn Lớn Huế mà sau này có tên là Morin, phố Đông Ba), các trường học mà Bác đã học qua, các thầy giáo, các học trò bạn của Bác, sách báo đồ dùng của học sinh, các sự kiện văn hóa chính trị lớn, phong trào Duy Tân cắt tóc ngắn, cuộc đấu tranh chống thuế tháng 4.1908... thì không gian và điện tích đó rất thích hợp. Nếu thực hiện được như thế thì Nhà Bảo tàng Chủ tịch HCM tại TTH sẽ có thêm một chức năng là Nhà Bảo tàng Huế đầu thế kỷ XX. Người xem sẽ hiểu Bác Hồ đã hình thành tư tưởng yêu nước trong một hoan cảnh như thế. NQH.- Trước đây anh bận việc cơ quan không có nhiều thòi gian nghiên cứu, bây giờ đã nghỉ hưu, anh sẽ tiếp tục nghiên cứu về Bác không? Nếu có thì anh sẽ làm gì? NĐX.- Về phương diện hành chính, từ hồi còn làm việc cũng như mấy năm nay về hưu tôi hoàn toàn không có trách nhiệm gì với Nhà Bảo tàng Chủ tịch HCM tại Huế cả. Nhưng dù sao, tôi cũng đã đóng góp công sức về khoa học để xây dựng Nhà bảo tàng vào buổi đầu tiên gần hai mươi năm trước đây. Thứ nữa, cách đây sáu bảy năm, tôi lại có dịp góp sức đấu tranh giữ lại khu đất 7 Lê Lợi để tiếp tục làm Nhà bảo tàng cho Bác. Cho nên trong những năm cuối đời mình tôi tự thấy phải có trách nhiệm góp sức cùng với những người có trách nhiệm hiện nay xây dựng Nhà bảo tàng này cho thật tốt. Về phương diện cá nhân tôi đang biên tập lại toàn bộ những gì tôi đã nghiên cứu về Bác để xuất bản trước khi nhắm mắt..

<span class='text_page_counter'>(129)</span> NQH.- Mong ước những điều anh vừa nói sẽ trở thành hiện thực. Dù sao chúng ta cũng đã thực hiện được phần nào việc tìm hiểu về Bác mà trong những ngày còn ăn rau rừng ngủ hầm đất ở Trường Sơn chúng ta đã mơ ước. Cám ơn anh đã có cuộc trò chuyện này trên Sông Hương. Nguyễn Quang Hà thực hiện Tạp chí sông Hương, Huế, 10/8/1999 Ghi chú thêm: Nhiều thông tin tôi nêu trong bài trả lời phỏng vấn này đã được giới hữu trách khắc phục, nhiều việc được khắc phục tốt hơn suy nghĩ của tôi. Tuy nhiên tôi vẫn lưu lại bài trả lời phỏng vấn này để ghi lại một cách trung thực tâm cảnh của tôi hồi cuối thế kỷ XX trước vấn đề nghiên cứu thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Cuốn sách Đi Tìm Dấu Tích Thời Niên Thiếu của bác Hồ ở Huế đã được TTNC Quốc Học và Nxb Văn Học xuất bản từ năm 2003 và lại được tái bản trong năm 2008 này. NĐX.

<span class='text_page_counter'>(130)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO Phần I: Tài liệu tổng quát * Bris (Eugène Le) Le Quoc Hoc, Bulletin des Amis du Vieux Hué, 1916, p.77-81. * Cao Xuân Dục, Quốc triều đăng khoa lục, Bộ QGGD, Sài Gòn 1962. * Cao Xuân Dục, Đại Nam Nhất Thống Chí (kinh sư), Bộ QGGD, Sài Gòn 1960. * Cao Xuân Dục, Đại Nam Nhất Thống Chí (Thừa Thiên Thượng, Trung, Hạ) Bộ QGGD, Sài Gòn 1961. * Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử tập II (1897-1918), KHXH, HN 1982. *Daniel Héméry, Ho Chi Minh de L’Indochine au Vietnam, Gallimard * Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương Bốn Phương, Sài Gòn 1951. * Đặng Thai Mai, Thơ Văn Cách Mạng Việt Nam Đầu Thế Kỷ XX, Văn học Giải phóng, Sài Gòn 1975. * Đinh Xuân Lâm và Triều Dương, Vè Thất Thủ Kinh Đô, Văn Sử Địa, Hn 1959. * Đức Vượng, Những Tên Của Người, HNKH nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, HN 1981 từ tr.429 đến tr. 439. * Gia phả họ Hoàng làng Xuân Tùy, Hương Điền BTT (Hiện để tại nhà bà Hoàng Thị Kim Cúc, làng Vĩ Dạ Huế). * Hồ Chí Minh, Nhật Ký Trong Tù, VHGP, Sài Gòn 1976. * Hồ Thị Liệt, tiểu sử cụ Hồ Tá Bang, Bản in Ronéo (1960) 60 trang. * Hùynh Thúc Kháng, Thi Tù Tùng Thoại, Nam Cường, Sài Gòn (?). * Huỳnh Thúc Kháng, Vụ Kháng Thuế ở Trng Kỳ Năm 1908, Trích trong Thi văn quốc cấm của Thái Bạch Khai Trí, Sài Gòn 1968, tr.384-385. * Khải Định, Ngự Giá Như Tây, Huế 1922. * Lê Anh Trà, Về thăm quê hương Bác Hồ, Tc VHNT, số 41/ HN. 1974 * Mạc Như Tòng, Những Điều Nghe Biết Về Đào Tấn, Kỷ yếu Đào Tấn, Quy Nhơn 1978. * Mật thám Trung kỳ, Bộ hồ sơ mật thám pháp có liên quan đến gia đình và thời niên thiếu của Nguyễn Ái Quốc gồm 21 tài liệu: 1. Thư của Nguyễn Sinh Huy gởi cho khâm sứ Trung Kỳ tháng 1/1911. 2. Thư của Nguyễn Sinh Huy gởi cho khâm sứ Trung Kỳ tháng 1/1911..

<span class='text_page_counter'>(131)</span> 3. Bút phê của Sở Mật Thám Trung Kỳ- 8-3-1911. 4. Công điện của Tòa Khâm sứ Trung Kỳ gởi công Sứ Nha Trang và Phan Thiết, 14-3-1911. 5. Thư của Khâm sứ Trung Kỳ gởi quan Khâm sai Nam Kỳ, 3-5-1911. 6. Đơn xin nhập học trường thuộc địa, Marseille, 15-9-1911. 7. Thư của Nguyễn Tất Thành gởi tòa Khâm sứ Trung Kỳ, Colombo - Sài Gòn 31-10-1911. 8. Thư của Khâm Sứ Trung Kỳ gởi tòan quyền Đông Dương, 25-5-1912. 9. Thư của Nguyễn Tất Thành gởi Khâm sứ Trung Kỳ, Nữu - Ước, 18-12-1912. 10. Thư của Khâm Sứ Trung Kỳ gởi Thống sứ Nam Kỳ, 12-3-1913. 11. Mật văn của Thanh tra Mật thám Trung Kỳ, 23-1-1920. 12. Công điện của Tòan quyền Đông Dương, 23-2-1920. 13. Lời khai báo của Lý trưởng làng Kim Liên, 13-2-1920. 14. Mật văn của Sở Mật Thám Trung Kỳ về con người Nguyễn Tất Đạt, 22-3-1920. 15. Lời khai của Nguyễn Tất Đạt, 19-3-1920. 16. Văn thư của Sở Mật Thám Trung Kỳ về lời khai của Nguyễn Tất Đạt, 28-4-1920. 17. Lời khai báo của thân hào làng Kim Liên, 5-1920. 18. Khẩu cung của Nguyễn Thị Thanh, chị của Nguyễn Tất Đạt, tháng 5-1920. 19. Lời khai của Bùi Quang Chiêu trước Sở Mật Thám Sài Gòn. 20. Văn thư của Sở Mật Thám Sài Gòn về Nguyễn Sinh Huy, 5-12-1923. 21. Văn thư của Sở Mật Thám Nam Kỳ về Nguyễn Sinh Huy, 12-5-1928. (Tài liệu gốc 27 trang) * Nguyễn Bá Trác, Hoàng Việt Giáp Tý Niên Biểu, Bộ QGGD, Sài Gòn 1963. * Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục, Lá Bối, Sài Gòn 1968. * Nguyễn Q Thắng, Tiểu luận Trường Xuân, Sài Gòn 1975 (bài Phong trào Tân văn hóa năm 1908). * Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Dưới Thời Pháp Đô Hộ, Lửa thiêng, Sài Gòn 1970. * Nguyễn Văn Mại, Lô Giang tiểu sử, Nguyễn Hy Xước dịch, Bản in Ronéo (1960)..

<span class='text_page_counter'>(132)</span> * Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, Lá Bối, Sài Gòn 1970. * Ph.H.L, Quan Sự Cẩm Nang, Báo Trung Bắc Tân Văn, HN 1925. * Phan Bội Châu, Việt Nam Vong Quốc Sử, Những tác phẩm tập I, KHXH HN, 1982. * Phan Bội Châu, Phan Bội Châu Niên Biểu, Nhóm NCSĐ, Sài Gòn 1973. * Phan Bội Châu, Tự Phê Phán (Phan Trọng Điềm và Tôn Quang Dật dịch) VSĐ, Hà Nội 1957. *Phan Chu Trinh, Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Ký (Lê Ấm và Nguyễn.Q.Thắng dịch), Phủ Quốc vụ Khanh ĐTVH, Sài Gòn 1973 . * Phủ Tôn Nhơn, Constitution de la Famille Impériale d’Annam Imprimerie A.J.S. MCMXLH. * Sogny (L) Hồ sơ mật thám Pháp tại Trung Kỳ. Tờ số A 3780I, Toà Khâm sứ Trung Kỳ C279, Huế ngày 12.11.1923. * Sogny (L) Images de Passé, B.A.V.H 1942. * Thái Văn Kiểm, Cố Đô Huế, Nhà văn hóa Bộ QGGD, Sài Gòn 1960. * Trần Huy Liệu, T/c NCLS số 5.1959. * Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Trung tâm học liệu, Sài Gòn 1971. * Trần Văn Giàu, Hệ ý thức tư sản, KHXH, Hà Nội 1975. * Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến, KHXH, Hà Nội 1973. * Triều Duy Tân, Châu bản triều Duy Tân (từ 1908-1911). * Ưng Thuyên, Ai đã sáng lập trường Quốc Học?, Hoài niệm Quốc Học tập I, Huế 1970. *Ưng Trình, Lạc Tịnh Viên, Đại Học Y Khoa Minh Đức ấn hành Sài Gòn 1972. * Văn học, Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, Văn học (in 2 lần), Hà Nội 1970. * Văn Học, Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900-1930), Văn học (in 2 lần), Hà Nội 1976. *Vĩnh Nhân, Trường Quốc Tử Giám tại Kinh đô Huế, Văn Hoá Nguyệt San, số Xuân Nhâm Dần (1967. Phần II: Những sách báo có đề cập đến thời niên thiếu của Bác Hồ * Báo Nhân Dân ngày 25.6.1983. * Ban LSĐ Trung ương, Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> In lần thứ ba, Sự Thật Hà Nội 1975 In lần thứ tư, Sự Thật Hà Nội 1977 In lần thứ năm, Sự Thật Hà Nội 1980 * Daniel Hemery, Jeunessed’un colinisé, genèse d’un exil. Ho Chi Minh jusqu’en 1911, Approches Asie 11, Paris 1992. Daniel Hemery, Ho Chi Minh, De L’Indochine au Vietnam, Gallimard Paris 2002. * Đỗ Hữu Nghiêm, Chung quanh nấm mồ của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Đối Diện số 4/1969. * Chu Trọng Huyến, Visite au village natal de Ho Chi Minh, Étude Vietnamienne no 59 Le Nghe Tinh province natale de Ho Chi Minh, HN 1979, p.175-179. * Devillers (Phillippe), Histoire du Viet Nam de 1940 à 1952 Ed.du Seuil, Paris 1952. * Ellen J.Hammer, The Struggle for Indochina Stanford University Press, California, USA 1954, p.75. * Hồng Hà, Thời niên thiếu của Bác Hồ, Thanh Niên, TP Hồ Chí Minh, 1976. * Hồ Hữu Tường 41 năm làm báo, Trí Đăng, Sài Gòn 1972. * Bác Hồ kính yêu, Kim Đồng, Hà Nội 1977 * Lacouture (Jean) Ho Chi Minh, Ed.du Seuil, 1967. * Lacouture (Jean) (Diễm Châu dịch), Nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng, Tạp chí Đất Nước số 14 Sài Gòn 10.1969. * Mus (Paul) Ho Chi Minh, le Viet Nam, Asie Textes rassemblés mise au point par Annie Nguyễn. Ng. Hồ Ed.du Seuil, Paris 1971. * Nguyễn Ái Quốc, Bản án chế độ thực dân Pháp, Sự Thật Hà Nội 1976 * Nguyễn Đắc Xuân (sưu tập, dịch, chú giải), Hai mươi mốt tư liệu Mật thám Pháp có liên quan đến thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Huế 1998, (chưa xuất bản). * Nguyễn Sinh Thoán, Bác về thăm quê nhà Bác ở Kim Liên, Tch Văn Nghệ, Vinh 1972. * Nguyễn Hữu Châu Phan, Phong trào chống thuế ở Thừa Thiên Huế năm 1908, Nội san Đại học Sư Phạm Huế số 2/1978. *Nguyễn Thế Anh, Phong trào kháng thuế miền Trung năm 1908 qua các Châu bản triều Duy Tân, Tủ sách sử học Bộ VHGD và TN-SG 1973. * Shaplen (Robert) The Lost Revolution: Viet Nam 1945-1960, Chương II, từ tr.27 đến tr 54 đi sâu vào thời niên thiếu của Bác Hồ;.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> * Sivaran (M). Pourquoi Le Viet Nam? Ed.France - Empire, Paris 1966 (tr.83 có đề cập đến thời niên thiếu của Bác Hồ) * Storon (Anna Louis), Ba lần nói chuyện với chủ tịch Hồ Chí Minh, báo Nhân Dân số ra ngày 18.5.1965. * Sự thật, Hồ Chí Minh toàn tập (tập 1), Sự Thật, Hà Nội 1980. * Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sự Thật, Hà Nội 1975. * Trần Dũng Tiến, Quê hương Bác Hồ, Sách “Di tích cách mạng Việt Nam” phổ thông, Hà Nội 1976 tr.11 đến tr.27. * Trần Gia Linh, Làng Sen, Tch Văn Hóa Nghệ Thuật số 46/1975. * Trương Gia Kỳ Sanh, Hai lần gặp Bác, Báo Tia Sáng, TP Hồ Chí Minh ngày 18.5.1980. * Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Văn học Hà Nội 1977 * Võ Quang Sự, Bình Trị Thiên trong lòng Bác, Tập san Văn Hóa Bình Trị Thiên, tháng 5.1980. * Vương Lộc và Vương Kính, Về quê Bác, Kim Đồng, Hà Nội 1980. Phần III: Những sách báo, tài liệu chuyên về Thời niên thiếu của Bác Hồ * Ban Lịch sử Đảng Nghệ Tĩnh, Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Sự Thật, Hà Nội 1980, 82tr. * Ban Lịch sử Đảng Nghệ Tĩnh, Tuổi trẻ sôi động của Bác Hồ trưởng thành ở Kinh đô Huế Báo Tiền Phong, số 19, Hà Nội 1980. * Cao Huy Hùng, Một số tư liệu về Nguyễn Sinh Sắc qua châu bản triều Nguyễn Tạp chí Huế xưa và nay số 12/1995. * Chánh Đạo, Tư liệu thành văn đầu tiên về Chủ tịch Hồ Chí Minh (xem nguyên văn ở cuối). * Hoài Thanh và Thanh Tịnh, Quê hương và thời niên thiếu trong sách Bác Hồ, Hà Nội 1980. * Hoài Thanh, Gia đình và tuổi thơ của Bác, trong tuyển tập Hoài Thanh (t.II), Văn học, Hà Nội 1982. * Chu Trọng Huyến, Kể chuyện từ làng Sen, Kim Đồng, Hà Nội 1980, 108 tr. * Lê Anh Trà, Về thăm quê hương Bác Hồ. Tch. Văn Hóa Nghệ Thuật, số 41 năm 1974. * Lê Đình Liễn, Tìm hiểu về quãng đời niên thiếu của Bác Hồ, Thông tin khoa học, Đại Học Tổng hợp Huế, 1978..

<span class='text_page_counter'>(135)</span> * Lê Đình Liễn, Vài nhận xét về phong trào kháng thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế năm 1908, Thông tin khoa học, Đại Học Tổng hợp Huế, Số 5, 1983. * Lê Thanh Cảnh, Dưới mái trường Quốc Học, Hoài niệm Quốc Học tập II, Huế 1970. * Ngô Kha, Vài kỷ niệm thời Bác Hồ ở Dương Nỗ, trong sách Bác Hồ với BTT, tập 2, Huế 1978. * Sơn Phong, Đau thương nhớ Bác đi lên, trong sách Người là niềm tin, Thanh Niên, Hà Nội, 1975. * Sơn Tùng, Dưới bóng hoa bằng lăng, trong sách Nhớ nguồn, Phụ Nữ, Hà Nội 1975. * Sơn Tùng, Les années des enfance de l’Oncle Ho à Hué. Báo Le Courrier du Vietnam, Số 47, 4.1976 * Sơn Tùng, (Tuổi thơ của Bác ở Huế?) Báo Thể Dục Thể Thao số Xuân 1976. * Sơn Tùng, Vài kỷ niệm về thầy giáo Nguyễn Tất Thành, Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội 5.1976. * Sơn Tùng, Kỷ niệm Tết Sài Gòn hay Trước độc bình đào trong lữ quán Nam đồng hương. Báo Hà Nội mới Xuân Bính thìn (1976), số 2479 ngày 31.1.1976. * Sơn Tùng, Nhớ cái tết gặp Nguyễn Sinh Khiêm đọc thơ Bác Hồ tại làng Sen. Báo Văn Nghệ, xuân Tân dậu (1981). * Sơn Tùng, Búp Sen Xanh, Kim Đồng, Hà Nội 1982. * Thiếu Lăng Quân, Thời niên thiếu của Bác Hồ, Báo Động Sài Gòn 1971. * Thanh Tịnh, Đi từ giữa một mùa sen, Kim Đồng, Hà Nội 1977. * Thiếu Lăng Quân, Ba mươi năm mong đợi Bác về tập hồi ký 400 trang viết tay chưa xuất bản. * Tôn Quang Duyệt, Tuổi thơ của Bác Hồ ở Huế, Báo Văn Nghệ, Hà Nội, số 21 (1978). * Tôn Quang Duyệt, Thăm Huế nhớ Bác Hồ, Báo Tổ Quốc, Hà Nội số 5.1978. * Tôn Quang Duyệt, Một gia đình đẹp. Báo Nhân Dân, số ra ngày 19.6.1977. * Tư Hoa, Ngoa Du sào, Trường Dục Thanh và thầy giáo Nguyễn Tất Thành, Báo Đại Đoàn Kết, ngày 2.9.1978. William J. Duiker, Ho Chi Minh, A Life, New York..

<span class='text_page_counter'>(136)</span> Phần thứ IV: Những nhân vật đã phỏng vấn (Địa chỉ của những người chúng tôi đã đến phỏng vấn ghi dưới đây đều đã cũ. Đến nay nhiều người đã mất và một số người còn tại thế đã chuyển đến chỗ ở mới nhưng chúng tôi chưa có điều kiện điều chỉnh. Hơn nữa những địa chỉ cũ có thể liên quan đến nội dung phỏng vấn nên chúng tôi xin được giữ lại để đời sau có thể tiếp tục đến thẩm tra). A. Những người cùng thời hoặc quen biết gia đình và Bác Hồ thời niên thiếu: (Đến nay đã mất gần hết) * Bửu Bạch, 83 Điện Biên Phủ Huế * Diệp Thị Mai, đường Đề Thám TPHồ Chí Minh * Hoàng Thị Muôn, xã Triệu Độ, huyện Triệu Hải, BTT * Hồ Đắc Định, 8 Cao Bá Quát Huế * Lê Thanh Cảnh, 418 / lô 4 cứ xá Thanh Đa, TPHCM * Lê Thiện, 26/11D Nguyễn Bỉnh Khiêm, TPHCM * La Hoài, 101 Chi Lăng, Huế * Nguyễn Đắc Vọng, Dã Lê Chánh, Thủy Vân, Hương Thủy TTH * Nguyễn Ngọc Lâm, 30 đường Sáu Tám Huế * Nguyễn Viết Nhuận (bà) Số 4 Đinh Bộ Lĩnh, Bình Thạnh, TP HCM hoặc 26 Chi Lăng Huế * Mạc Như Tòng, 57 Phạm Hồng Thái, Quy Nhơn * Nguyễn Đạm, 20/2 Lê Thánh Tôn Huế * Thiếu Lăng Quân, 26 Hàm Tử, TP TPHCM * Trần Kinh, 50/1 Lê Lợi Huế * Tôn Thất Sa, đường Phan Đình Phùng Huế * Ưng Nghê, đường Tú Xương TPHCM * Ưng Tuệ, c/o Ưng Tương 11 Đặng Dung Huế B. Những người quen biết hoặc cùng thời với bà Thanh và ông cả Khiêm (Cũng đã qua đời gần hết) * Bùi Thị Nữ, đường An Tiêm, phường Tây Lộc Huế * Cao Xuân Xang (bà) tức sư bà Diệu Không chùa Kiều Đàm và chùa Hồng Ân, Huế.

<span class='text_page_counter'>(137)</span> * Đoàn Phách, Ngã tư Âm Hồn Huế * Hồ Thị Liệt, 52 Bàn cờ TPHCM * Lê Thị Xuân Lan (con gái Lê Đình Mộng), làng Vân Dương, xã Thủy Vân, Hương Phú, BTT * Lê Viết Triết, 59 Đinh Tiên Hoàng Huế * Lê Xuyến 4/2 Nhật Lệ Huế * Lê Trung Ngạn, 52 Bàn cờ TP.HCM * Lê Văn Yên, 53 Thuận An Huế * Nguyễn Ngọc Bang, làng Phù Lễ, Hương Điền BTT * Nguyễn Phú Phu, 2 Ngô Sĩ Liên Huế * Nguyễn Sĩ Duyến, 97 Nguyễn Văn Trỗi, Đà Lạt * Nguyễn Thị Nữ, (thân mẫu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm) làng Vĩ Dạ Huế * Nguyễn Phước Lương Linh (Mệ Sen), 97 Mai Thúc Loan Huế * Nguyễn Thức Mẫn, 79 Nguyễn Thái Học, Nha Trang * Phạm Bá Nguyên, 23 Mạc Đĩnh Chi Huế * Phan Văn Dật, 28 Nguyễn Chí Diễu Huế * Ưng Thuyên, làng Vĩ Dạ Huế C. Cán bộ, nhân sĩ trí thức đã được nghe Bác kể chuyện: (Một số người đã qua đời) * Hoàng Lanh, nguyên Bí thư Thành ủy Huế, 18 Lý Thường Kiệt Huế * Lê Tư Minh+, Phó Ban nông nghiệp Trung ương * Thích Đôn Hậu+, Hoà thượng, chùa Thiên Mụ Huế D. Các bộ, trí thức, nhà nghiên cứu đã quan tâm đề tài về thời niên thiếu Bác Hồ: (Một số người đã qua đời) * Đào Duy Anh, KTT Kim Liên, nhà B6 phòng 19 gác 2 * Châu Hải Kỳ, 26 Trần Quốc Toản, Nha Trang * Dương Trung Quốc, Viện Sử học Hà Nội * Nguyễn Nguyên Trứ, Đại Học Sư Phạm Vinh.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> * Quách Tấn, 12 Bến Chợ, Nha Trang * Thanh Tịnh, 4 Lý Nam Đế (trên Lầu) Hà Nội * Tôn Quang Duyệt 100 Trần Hưng Đạo, Hà Nội * Trần Minh Siêu, Viện Bảo tàng Kim Liên, Nghệ Tĩnh. -----Kết thúc -----.

<span class='text_page_counter'>(139)</span>

×