Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYERET, TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN VĂN XUÂN GIAI ĐOẠN 1054-1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 172 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH







Phan Thị Thu Hồng












LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC











Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH







Phan Thị Thu Hồng








Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN HỮU TÁ





Thành phố Hồ Chí Minh – 2008




LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn, tôi
luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình quý báu của các thầy cô giáo, bạn
bè và gia đình. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến:
- PGS.TSKH. Trần Hữu Tá, người hướng dẫn khoa học đã tận
tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Tp. HCM, Phòng
Khoa học Công nghệ & Sau Đại học, Khoa Ngữ văn, quý Thầy Cô
giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiê
n cứu và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
- Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè
thân hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ tôi học tập, nghiên
cứu để hoàn thành luận văn này.

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2008
Tác giả luận văn


Phan Thị Thu Hồng

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU
...................................................................................................................1
Chương 1
:
NGUYỄN VĂN XUÂN VỚI VÙNG ĐẤT VÀ CON
NGƯỜI QUẢNG NAM; VỚI VĂN HỌC ĐÔ THỊ
MIỀN NAM 1954 - 1975

1.1.Vùng đất Quảng Nam và con người Quảng Nam ...............................................11
1.1.1. Vùng đất Quảng Nam ..............................................................................11
1.1.2. Con người Quảng Nam............................................................................18
1.2. Nhà văn xứ Quảng Nguyễn Văn Xuân với văn học đô thị miền Nam
1954 - 1975.........................................................................................................24
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 ................24
1.2.2. Sáng tác của một trong những nhà văn tiêu biểu cho văn học yêu
nước đô thị miền Nam .............................................................................28
1.2.3. Nguyễn Văn Xuân - nhà văn của vùng đất và con người Quảng
Nam .........................................................................................................30
Chương 2: NHỮNG CẢM HỨNG CHỦ YẾU CỦA NGUYỄN
VĂN XUÂN QUA TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN
NGẮN GIAI ĐOẠN 1954 – 1975


2.1.Cảm hứng khám phá vùng đất xứ Quảng............................................................37
2.1.1. Một thiên nhiên khắc nghiệt, dữ dội........................................................39
2.1.2. Vùng đất của những cuộc đụng độ quyết liệt trong lịch sử dựng
và giữ nước của dân tộc...........................................................................46
2.1.3. Vùng đất của sự tiếp biến văn hoá...........................................................50
2.2.Cảm hứng ca ngợi tính cách, phẩm chất con người xứ Quảng ...........................58
2.2.1. Những con người cần cù, dũng cảm kiếm sống, sinh tồn trên
vùng quê nghèo khó
.................................................................................59
2.2.2. Những con người yêu nước nồng nàn có ý thức trách nhiệm với
Tổ quốc ....................................................................................................66
2.2.3. Những con người cứng cỏi, ngang tàng, bộc trực thẳng thắn .................84
2.2.4. Những con người có tính tình cởi mở, nhạy bén với cái mới..................94
2.2.5. Những con người nhân hậu, đa cảm đa tình............................................99
2.3.Cảm hứng tố cáo phê phán................................................................................110
2.3.1. Tố cáo tội ác về chính trị của thực dân Pháp và tay sai.........................110
2.3.2. Lên án ách áp bức bóc lột của bọn thực dân, giai cấp tư sản ................113
2.3.
3. Lên án thủ đoạn xâm lăng văn hoá của đế quốc Mỹ .............................116
Chương 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT

3.1.Tiểu thuyết đậm chất hiện thực.........................................................................119
3.1.1. Nội dung phản ánh.................................................................................119
3.1.2. Miêu tả nhân vật, xây dựng chi tiết .......................................................122
3.2.Truyện ngắn giàu chất kí...................................................................................125
3.2.1. Nhân vật và sự kiện có thật trong lịch sử ..............................................126
3.2.2. Đề tài - cốt truyện ..................................................................................133
3.3.Kết cấu độc đáo.................................................................................................134
3.3.1. Cốt truyện giàu kịch tính .......................................................................135
3.3.2. Tình huống truyện đặc biệt....................................................................135

3.3.3. Kết thúc bất ngờ đầy yếu tố lạc quan ....................................................136
3.4.Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ...........................................................................
139
3.4.1. Sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày.........................139
3.4.2. Việc vận dụng phương ngôn trong sáng tác của Nguyễn văn
Xuân…...................................................................................................143
3.4.3. Vận dụng thành ngữ...............................................................................148
KẾT LUẬN
..........................................................................................................154
TÀI LIỆU THAM KHẢO
.................................................................................159
PHỤ LỤC
..............................................................................................................164
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nói đến văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 là nói đến một bộ
phận văn học ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp hết sức gay gắt. Trong đó, văn học yêu nước cách mạng nổi bật như một
khuynh hướng ngược dòng. Văn học yêu nước cách mạng đã tập hợp nhiều lực
lượng viết khác nhau. Một số văn nghệ sĩ từng tham
gia kháng chiến chống Pháp ở
miền Nam: Lý Văn Sâm, Nguyễn Trọng Tuyển, Lê Vĩnh Hòa, Thiếu Sơn, Dương
Tử Giang, Vũ Hạnh, Sơn Nam…. Có sự góp mặt một số cây bút là những nhà hoạt
động tôn giáo: Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ..…
Tinh thần dân tộc còn qui tụ một số ngòi bút trước nay tưởng như chỉ chuyên tâm
đến văn chương, học thuật như Giản C
hi, Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, .… Trong sự
qui tụ lực lượng đặc sắc này, Nguyễn Văn Xuân thuộc nhóm thứ ba. Ông đã góp
những trang viết độc đáo về cuộc sống chiến đấu, lao động sinh tồn của nhân dân

đất Quảng.
Nguyễn Văn Xuân vừa là nhà văn, nhà báo vừa là nhà nghiên cứu giảng dạy
lịch sử, biên khảo và cũng là một soạn giả tuồng có tiếng trên văn đàn Sài Gòn - Đà
Nẵng từ những năm 1940. Vốn được sinh ra từ “miền xương xẩu của đất nước Việt
Nam” (chữ dùng của Nguyễn Văn Xuân), được mọi người xưng tụng một cách trìu
mến: “nhà Quảng N
am học”, “một con người từ một ngôi làng”, Nguyễn Văn Xuân
rất am hiểu về quê hương Quảng Nam, từ lịch sử hình thành, con người Quảng Nam
trong đấu t
ranh chống xâm lược đến quá trình lao động sinh tồn trên vùng đất “cày
lên sỏi đá”. Từ những hiểu biết ấy, những trang viết của ông đã đem lại trong lòng
người đọc ấn tượng sâu sắc về truyền thống đấu tranh, truyền thống văn hóa, tính
cách con người vùng đất “phên giậu” của Tổ quốc. Được chắt lọc từ “sỏi đá”,
“xương xẩu”, từ sóng gió của biển, bí ẩn của rừng….. những trang viết của Nguyễn
Văn X
uân giản dị, mực thước mà đậm đà chất Quảng.



Cuộc đời và những trang viết của Nguyễn Văn Xuân dường như rất ít lần
vượt khỏi phạm vi “Quảng Nam quốc”. Đối với ông, mỗi nhà văn phải thể hiện kiến
văn sâu sắc trên trang viết của mình. Bằng cách đó, nhà văn không cần đi xa, đi
nhiều, chỉ viết về quê hương chôn nhau cắt rốn của mình, cũng có thể đủ làm nên
tên tuổi. Điều kỳ lạ là Nguyễn Văn X
uân chỉ viết về một vùng, một miền nhưng tầm
vóc của những sáng tác ấy đã vượt khỏi phạm vi hạn hẹp sinh ra nó, vươn tới những
vấn đề lớn lao, cao cả, đầy chất nhân văn ở mỗi con người, trên khắp mọi miền Tổ
quốc. Đó chính là sức mạnh của văn chương mà không phải ngòi bút sáng tác nào
cũng có thể làm được.
Nhưng như một nghịch lý, một trớ trêu hay trò đùa của tạo hóa đối với những

bậc chân tài, tên tuổi của nhà văn dường như ít được nhắc đến. Tác phẩm văn
chương của
ông cũng không có tiếng vang như lẽ ra nó phải có. Có thể vì tầm kiến
thức uyên bác trên các lãnh vực lịch sử, xã hội, dân tộc, trong các công trình biên
khảo.… nên ông thường được nhìn nhận ở một góc độ nhà nghiên cứu lịch
sử, nhà
“Quảng Nam học” hơn là một nhà văn. Mặt khác, cuộc đời lặng lẽ làm việc cật lực
để nuôi sống một gia đình nhiều bất hạnh khiến nhà văn không có điều kiện quảng
bá sáng tác của mình.
Tuy không sinh ra và lớn lên trên quê hương Quảng Nam, nhưng lịch sử hình
thành đất Quảng và cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc đã thôi thúc tôi đọc, tìm hiểu
những sáng tác của Nguyễn Văn X
uân. Việc làm đó như hành trình tìm về cội
nguồn văn hóa của dân tộc và thể hiện lòng trân trọng biết ơn của những người ở
thế hệ sau đối với những bậc Tiền hiền có công khai phá, mở rộng, giữ gìn bờ cõi
đất nước ta liền một dãy từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Việc làm này còn thể
hiện sự kính trọng đối với một nhà văn lão t
hành, một nhà giáo tâm huyết, một nhà
nghiên cứu uyên bác.
Đó là lý do mà sau những ngày đọc những tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân,
đặc biệt là mảng tiểu thuyết và truyện ngắn, tôi muốn đi sâu nghiên cứu những giá
trị tiềm ẩn, để khẳng định sự đóng góp của ông đối với văn học nước nhà. Mặt khác,
nếu được, tôi xem đây như là những nén tâm hương mà một hậu bối như tôi trân



trọng thắp lên trước hương hồn của Người và nói rằng: “Ông đã sống một cuộc đời
đáng sống!”.
2. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Văn chương của Nguyễn Văn Xuân thực sự là một mảnh đất còn đang bỏ ngỏ.

Hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu trọn vẹn về văn chương của ông. Do
thời gian có hạn, luận văn chỉ tập trung và
o việc tìm hiểu, nhằm rút ra những đặc
điểm chủ yếu của tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân giai đoạn 1954
- 1975 trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân phần lớn được sáng tác
trong giai đoạn 1954 - 1975. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, chúng tôi chỉ tiếp
cận được hệ thống tác
phẩm của ông tập hợp trong Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân
gồm một tiểu thuyết và 17 truyện ngắn (do nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm
2001), ngoài ra còn có hai truyện ngắn trong giai đọan thử bút: Ngày giỗ cha, Ngày
cuối năm trên đảo sáng tác trước 1945, được in trong Tổng tập văn học Việt Nam,
Tập 33, xuất bản năm 2000.
3. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Văn X
uân là một nhà văn được nhiều người biết đến trong giai đoạn
văn học 1954 - 1975. Có thể nói đây là “thời kỳ bùng nổ thành hiện tượng vang dội
trên văn đàn” của nhà văn với nhiều tác phẩm và công trình biên khảo có giá trị.
Trong Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 33, ông có hai truyện ngắn được tuyển
chọn. Người ta còn giới thiệu Nguyễn Văn Xuâ
n với truyện ngắn Tiếng đồng được
xếp vào 43 truyện ngắn hay trong tuyển Văn học miền Trung thế kỷ XX, xuất bản
năm 1988. Cũng trong năm 1988, Địa chí Văn hóa Thành Phố Hồ Chí Minh, một
công trình lớn, có giá trị, do Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng chủ biên ( Nhà xuất
bản Thành Phố Hồ Chí Minh), được xuất bản. Sách đã dành một chương để nói về
“Văn học yêu nước công khai ở Sài G
òn trong ba mươi năm cách mạng và kháng
chiến” do các tác giả Tầm Vu, Nguyên Thanh, Viễn Phương, Hồ Sĩ Hiệp, Trần Hữu
Tá đồng biên soạn. Nguyễn Văn Xuân được nhắc đến như một nhà văn tiêu biểu
cùng với các cây bút yêu nước, những trí thức, những nghệ sĩ cao niên như Trần




Tuấn Khải, Nguyễn Hiến Lê; các nhà thơ Hà Kiều, Phương Đài, Phong Sơn; các
nhà văn Võ Hồng, Phan Du, Sơn Nam…
Đến năm 2000, quyển Nhìn lại một chặng đường văn học ra đời do giáo sư
Trần Hữu Tá nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn (NXB Thành Phố Hồ Chí Minh).
Trong thế so sánh với nhà văn Sơn Nam - tác giả của những tác phẩm sinh động về
vùng đất cực nam của Tổ Quốc - Nguyễn Văn Xuâ
n được giới thiệu là một nhà văn
“gắn bó chặt chẽ với vùng quê Quảng Nam thân thương của ông. Với sự hiểu biết
sâu sắc về sử học, dân tộc học, xã hội học, ông đã làm sống lại những sự kiện vang
dội mà đau xót cũng như đã khắc họa sự thành công hình ảnh những con người ưu
tú của đất Quảng” [49, tr.102]. Và giáo sư cũng đá
nh giá Nguyễn Văn Xuân là một
nhà văn có phong cách đặc biệt với “cái nhìn lịch sử của tác giả khá độc đáo”, với
“giọng kể của Nguyễn Văn Xuân cũng đa dạng” và “cảm quan lịch sử đúng đắn”,
“chi tiết nghệ thuật khác cũng rất đáng chú ý”…. [49, tr.102 - 104]. Có thể nói giáo
sư đã thâu tóm một cách khái quát, cô đọng đặc điểm nội dung và nghệ thuật tron
g
sáng tác của Nguyễn Văn Xuân. Trong tổng số 1089 trang sách, giáo sư đã dành
hẳn 3 trang để viết về Nguyễn Văn Xuân. Có thể xem đây là tài liệu có dung lượng
lớn nhất từ trước đến nay đề cập đến nhà văn, đủ thấy sự đánh giá trân trọng của
giáo sư dành cho ông, một cây bút tiêu biểu góp phần làm nên diện mạo của khuynh
hướng văn học yêu nước cách mạng miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 .
Năm 2001, tỉnh Quảng Na
m đã tổ chức hội thảo: “Văn hóa Quảng Nam”. Kết
quả của cuộc hội thảo này là sự ra đời tập Kỉ yếu về Quảng Nam với tên gọi Văn
hóa Quảng Nam – những giá trị đặc trưng (Sở văn hóa thông tin Quảng Nam xuất
bản). Trong số 56 bài tham luận, tên tuổi của Nguyễn Văn Xuân được giới thiệu qua

hai bài viết với tư các
h là nhà nghiên cứu về văn hóa Quảng Nam: Những người
Quảng Nam đóng góp cho Thăng Long, Bắc Thành - Hà Nội trước 1945 và bài
Người Quảng Nam với sự phát triển các ngành nghề ở miền Nam.
Cũng trong năm 2001, nhân dịp mừng thượng thọ 80 tuổi của nhà văn, nhằm
ngày nhà giáo 20/11 mở đầu thiên niên kỷ mới, nhà xuất bản Đà Nẵng đã tập hợp
các tác phẩm văn chương của Nguyễn Văn Xuâ
n sáng tác giai đoạn 1954 - 1975 vào



Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân. Và nhà văn Đà Linh, ủy viên thường vụ Hội liên hiệp
văn học nghệ thuật thành phố Đà Nẵng đã giới thiệu về những đóng góp của
Nguyễn Văn Xuân. Ông nhận xét: “Trên lãnh vực nào, từ bài báo, câu chuyện nhỏ,
đến công trình lớn chúng ta đều thấy rõ dấu ấn tài năng tâm huyết thuở nào bởi vẫn
còn đó những phát hiện, nét sáng tạo độc đáo, vẫn còn đó sự thông tuệ. Trên hết là
tấm lòng và nhân cách người cầm bút” [63, tr.11].
Năm 2004 trong Từ điển văn học (bộ mới), Bùi Thị Thiên Thai đã giới thiệu
Nguyễn Văn X
uân như trả lại cho ông chỗ đứng xứng đáng với những gì mà ông đã
đóng góp (bộ Từ điển văn học cũ không giới thiệu về Nguyễn Văn Xuân). Tác giả
đã nhận xé
t: “Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân đều thể hiện một vốn
kiến văn sâu rộng, một giọng văn giản dị hồn hậu, đậm đặc chất Quảng Nam, và
đặc biệt, một tấm lòng yêu thương tha thiết đối với quê hương Quảng Nam”
[18, tr.127].
Đặc biệt những bài viết về Nguyễn Văn Xuân đồng loạt ra đời như những né
n
tâm hương mà những người yêu mến ông thắp lên tưởng nhớ vong linh nhà văn sau
ngày 4/7/2007. Có thể kể đến những bài viết tiêu biểu trên các nhật báo Thanh niên,

Tuổi trẻ….. của các nhà văn, nhà sử học, nhà báo: Đặng Tiến, Dương Trung Quốc,
Nguyễn Quí Đại, Thanh Thảo, Trần Trung Sáng, Trần Tuấn, Thái Bá Lợi, Trương
Điện Thắng… Nhìn chung, tất cả các bài viết đều giới thiệu về những đóng góp của
Nguyễn Văn X
uân trên nhiều lĩnh vực: văn học, lịch sử, tuồng hát, nghiên cứu biên
khảo…. Và qua đây, các tác giả cho người đọc hiểu hơn về con người của nhà văn
cũng như cuộc đời lao động cần mẫn để thỏa mãn việc: “nghiện đọc, nghiện học và
viết”, để nuôi sống cả một gia đình kém may mắn. Trong dịp này, các tác giả đã
điểm
qua những sáng tác tiêu biểu trong cuộc đời cầm bút của Nguyễn Văn Xuân:
từ Bão rừng, Hương máu đến Khi những lưu dân trở lại, Phong trào Duy Tân. Tác
giả Trần Tuấn viết về Bão rừng như sau: “tiểu thuyết đầu tay viết năm 1957, khi
nhà văn tham gia kháng chiến và vừa thoát khỏi nhà lao Thừa Phủ (Huế) kể về cuộc
sống cơ cực ở một đồn điền t
hời Pháp thuộc mà tác giả từng sống, và cũng là ít ỏi
những tiểu thuyết đầu tiên viết về đời sống phu phen ở các đồn điền Tây Nguyên”



[73]. Còn Hương máu (1969) là “Tập truyện đặc sắc toàn bộ dành viết về những cái
chết lẫm liệt của những anh hùng ưu hạng của đất Quảng” [73]. Phong trào Duy
Tân được tác giả “coi là cuốn sách đầy đủ và thấu đáo nhất về một phong trào có
ảnh hưởng sâu sắc tới những cuộc cách mạng sau này” [73].
Có thể nói Trần Tuấn đã giới thiệu hầu hết các sáng tác làm nên tên tuổi của
Nguyễn Văn Xuâ
n cũng như trình bày một cách ngắn gọn tâm điểm của mỗi sáng
tác. Có những bài viết giới thiệu sáng tác mới nhất và cũng là cuối cùng của nhà văn
một cách khá công phu như bài Nhà văn Nguyễn Văn Xuân: một mảnh đất, một đời
người của Trần Trung Sáng. Tác giả viết:
Vài năm gần đây, tên tuổi của nhà văn Nguyễn Văn Xuân được bàn luận,


nhắc đến với tác phẩm mới nhất của ông “Kỳ nữ họ Tống”. Đây là một đề tài được
ông ấp ủ, xây dựng khá lâu, dựa theo câu chuyện về một người đàn bà có thật trong
lịch sử xứ Đàng trong, đã có một thời làm đảo điên cả triều đại Chúa Nguyễn, suýt
xóa bỏ cả tên triều đại này trong lịch sử Việt Nam ngay những thập niên đầu của
thế kỷ17. H
iếm thấy người đàn bà nào lại có cuộc đời sóng gió, ghi dấu ấn sâu sắc,
rùng rợn, tác động mãnh liệt đến xã hội, chính trị, quân sự, đạo đức như vậy. Bà
Chúa Chè làm điên đảo cơ nghiệp Trịnh Sâm ghê gớm là thế, cũng chỉ là bóng mờ
bên cạnh Tống Thị. Đặng Thị Huệ chỉ tác động được chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ.
Còn Tống Thị thật sự chủ động, tích cực trong việc hại
dân, tích lũy thành phú gia
địch quốc, thay ngôi chúa bằng những hành động táo bạo [69].
Và dường như đây là thời điểm các học giả có dịp nhìn lại để ngạc nhiên và
thán phục sức làm việc dẻo dai, tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc, ý chí tự
học để đạt đến độ thâm viễn, một phẩm chất làm người trong sáng, ngay thẳng của
Nguyễn Văn Xuâ
n. Nhà nghiên cứu Trần Tuấn cho rằng: Công việc lao động nghệ
thuật nghiêm túc, sáng tạo trong cuộc đời của Nguyễn Văn Xuân như một thứ
“thuốc nghiện” “Nghiện đọc và nghiện học (phần lớn tự học) đã giúp ông trở thành
một nhà giáo đáng kính với nhiều thế hệ học trò tên tuổi, rồi thành một nhà nghiên
cứu tiếng tăm ở miền Nam trước và sau giải phóng[…] Nghiện “Viết” đã giúp ông



trở thành một nhà văn có giọng văn riêng đặc sắc qua hàng loạt truyện ngắn, tiểu
thuyết”[73].
Còn Thanh Thảo với bài Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Văn Xuân thì nhận định:
Nếu con người có hai lỗ tai để nghe, thì Nguyễn Văn Xuân có một lỗ tai của
nhà văn và một lỗ tai của nhà sử học. Cả hai đều tinh tường, tinh tế, đều rất “biết

nghe”. Biết nghe và biết lọc. Biết lọc và biết chế tác. Như người thợ đúc đồng quê

ông biết chế tác những chiếc chiêng mà tiếng ngân u trầm của chúng như còn đọng
mãi trong những vòm cây ngọn suối [71].
Bài viết của Nguyễn Quí Đại đã trích dẫn hồi ký của nhà văn Nguyễn Hiến
Lê nhận xét về Nguyễn Văn Xuân: “ông Nguyễn Văn Xuân quê ở Quảng Nam, lần
đầu tiên gặp ông, thấy ông phảng phất có vài nét của cụ Phan Sào Nam. Ông viết
nhiều truyện dài, truyện ngắn…. ông c
ó tinh thần quốc gia, khảo về phong trào Duy
Tân ở Trung có một số tập truyện về nhà Nho, kháng Pháp”[65].
Các bài viết tưởng nhớ về Nguyễn Văn Xuân không những thống nhất trong
cách đánh giá tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc của ông mà còn có cùng
quan điểm khi nhận xét về con người của nhà văn. Khi nói về những “góc tối” trong
cuộc đời Nguyễn Văn Xuân, Thái Bá Lợi đã viết:
Người ta nói ông là người ít có hạnh phúc trên đư
ờng đời, nhưng tôi lại nghĩ
khác. Người hạnh phúc là người nói được điều mình muốn nói, làm được điều mình
muốn làm [….] Một bậc hiền triết từng nói con người từ hư không đến rồi trở về hư
không. Thì ông cũng đã trở về hư không rồi đó sao? Nhưng sẽ có lúc nào đó, trên
con đường gập ghềnh nầy, trong một tình huống trắc trở, ta sẽ gặp lại ông trong
những di sản mà ông để lại; rồi từ đó, ta sẽ tìm ra cái riêng cho mình để chống chọi
với hoàn cảnh mà ông đã từng chống chọi [67].
Đối với những góc
tối của riêng mình, Nguyễn Văn Xuân chẳng những đã
dũng cảm vượt qua mà ông còn không bao giờ lấy đó làm điều bi quan, yếm thế cho
cuộc đời, cho ngòi bút. Ông luôn “có lối nói chuyện vừa mi
nh triết, lại vừa hóm
hỉnh trẻ trung như cái tên của ông vậy. Đời ông nhiều nước mắt, nhưng lại luôn




đem đến cho người xung quanh nụ cười” [73]. Tinh thần lạc quan vui sống khiến
nhà văn rất tâm đắc với câu thơ giục giã của Xuân Diệu:
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em ơi em, tình non sắp già rồi”
Khi ngâm nga những câu thơ này, nhà văn cho rằng: “nó không chỉ có ý
nghĩa suông về tình yêu, mà nó còn phản ánh lên một sự nôn nóng đổi mới, cách tân
đất nước từ trào lưu thơ mới, nên nó vẫn luôn có giá trị bất cứ lúc nào”[
69].
Còn Đặng Ngọc Khoa trong bài Nhà văn Nguyễn Văn Xuân về với quê nhà đã
viết về bài học “Làm người ngay thẳng” của Thầy Xuân qua tiết lộ của nhà điêu
khắc Phạm Văn Hạng - người có vinh dự tạo mô hình ngôi mộ cho nhà văn – “lúc
sinh thời nhà văn mong muốn khi qua đời, được an táng bên dưới ngôi mộ của Ông
Ích Khiêm trên đồi Phong Lệ Bắc, do ông mê câu nói nổi tiếng của danh tướng này:
Trên chó, dưới cũng chó. Bọn bay chỉ chấu đầu ăn, c
hẳng lo chi việc nước” [66].
Nhà văn sống ngay thẳng, công tâm như vậy, nhưng thật ra trái tim của ông rất độ
lượng, bao dung với người. “Trong con người nhà văn Nguyễn Văn Xuân dường
như không bao giờ có sự tị hiềm hay giận dỗi. Ông bao giờ cũng tìm thấy ở người
khác, ở con người nói chung – cái vẻ đẹp của tạo hóa, của nhân tính. Điều đó, ông
không nói ra, nhưng hễ ai gần ông chắc chắn đều thấy mồn một! Từ đây trong văn
giới xứ Quảng đã vắng mãi một tấm lòng, một tài năng, một phẩm giá không có gì
thay thế được” [69]
.
Có thể lấy chính lời bộc bạch của Nguyễn Văn Xuân khi nói về một trong
những tác phẩm của mình để thay lời tổng hợp các ý kiến đánh giá về sáng tác của
ông: “Cuốn sách nhằm
giúp củng cố thêm cho các bạn trẻ ở phía Nam hiểu được dĩ
vãng đất đai của mình, củng cố niềm tin mà phát triển văn hóa văn nghệ. Người
Quảng Nam vẫn đóng góp không ngừng vào sự đăng cao của văn học miền

Nam”[68].
Nhìn chung, những tài liệu đã tiếp cận dù chưa phải là những công trình
nghiên cứu kỹ lưỡng, toàn diện về Nguyễn Văn Xuân và sáng tác của ông, nhưng ít
ra cũng chạm đến những vấn đề mà luận văn đặt ra. Chúng t
ôi xin ghi nhận tất cả



những ý kiến trên và xem đó là những gợi ý quý báu để đi sâu vào việc tìm hiểu vấn
đề, từ đó rút ra những đặc điểm chủ yếu của tiểu thuyết và truyện ngắn Nguyễn Văn
Xuân trong giai đoạn 1954 - 1975.
4. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn tập trung tìm hiểu tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
giai đoạn 1954 - 1975 để có một
cái nhìn bao quát trên hai phương diện nội dung
và nghệ thuật.
- Hy vọng góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị ngòi bút Nguyễn Văn Xuân, sự
đóng góp của ông đối với văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975, đối với
nền văn học nước nhà , đặc biệt đối với văn hóa văn nghệ vùng đất Quảng Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Luận văn lấy quan điểm lịch sử và phương pháp luận biện chứng làm nền
tảng lý l
uận trong nhận thức và nghiên cứu.
5.2. Phối hợp giữa các phương pháp có tính công cụ, phát huy tối đa tác dụng
của chúng trong quá trình nghiên cứu để làm nổi bật vấn đề, cụ thể là:
5.2.1 Phương pháp lịch sử: Sử dụng phương pháp này, người viết có dụng ý
tìm hiểu những dấu ấn thời đại lưu lại trong tác phẩm, những yếu tố tạo nên nguồn
cảm hứng sáng tác của
nhà văn để làm căn cứ đánh giá vấn đề.
5.2.2 Phương pháp hệ thống: người viết khảo sát tiểu thuyết và truyện ngắn

Nguyễn Văn Xuân trên tinh thần kết hợp các yếu tố tương đồng về nội dung, nghệ
thuật xây dựng nhân vật, kết cấu , ngôn ngữ… để rút ra nhận định, đánh giá
tác phẩm.
5.2.3 Phương phá
p so sánh: Đặt nhà văn trong mối quan hệ đồng đại và lịch
đại để vấn đề được đánh giá khách quan hơn. Kết hợp so sánh tác phẩm của Nguyễn
Văn Xuân với các tác giả khác để đưa ra nhận định chính xác về ông.
Ngoài ra trong quá trình khảo sát chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân
tích - tổng hợp để làm sáng tỏ vấn đề.



6. Cấu trúc của luận văn.
Luận văn gồm các phần sau đây:
MỞ ĐẦU
Chương 1: Nguyễn Văn Xuân với vùng đất và con người Quảng Nam, với văn
học đô thị miền Nam 1954 – 1975
Chương 2: Những nguồn cảm hứng chính của Nguyễn Văn Xuân qua tiểu
thuyết và truyện ngắn 1954 – 1975
Chương 3: Những đặc điểm về nghệ thuật

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC






















Chương 1: NGUYỄN VĂN XUÂN VỚI VÙNG ĐẤT VÀ CON
NGƯỜI QUẢNG NAM; VỚI VĂN HỌC ĐÔ THỊ
MIỀN NAM 1954 - 1975
1.1. Vùng đất Quảng Nam và con người Quảng Nam
1.1.1. Vùng đất Quảng Nam
1.1.1.1. Về tự nhiên địa lý
Đi dọc chiều dài đất nước từ Bắc vào Nam, dù không cố tình ghi nhớ, nhưng
trên dặm đường thiên lý ấy ta bất chợt nghe một lần câu ca dao:
“Dậm chưn xuống đất kêu trời!
Chồng tôi vô Quảng biết đời nào ra”
Và câu ca dao ấy theo chúng ta như một ám ảnh khôn nguôi. Dãy đất miền
Trung, trong đó có Quảng Nam, từng được nhiều người ví von “như chiếc đòn gánh
gánh lấy hai miền đất nước” hay cụ thể và s
át thực hơn có người gọi đó là vùng đất
“chó ăn đá, gà ăn muối”. Chỉ nghe những cách nói hình tượng, ẩn dụ ấy người nghe

hình dung về Quảng Nam là một vùng, miền có điều kiện tự nhiên địa lý vô cùng
đặc biệt.
Theo giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, vùng đất Quảng Nam
“Kéo dài từ núi Hải
Vân đến núi Đá Bia gồm 4 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, có
thể gọi Quảng Nam lớn theo nghĩa rộng. Còn Quảng Nam nhỏ, theo nghĩa hẹp,
được Nguyễn Ánh lập từ năm 1801 trên cơ sở phủ Điện Bàn và phủ Thăng Hoa, bao
gồm thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam hiện nay” [16, tr.480]. Xét theo vị trí
địa lý cả Quảng Nam theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp đều nằm kh
oảng giữa của “chiếc
đòn gánh” Trung Bộ, một bên là núi non hiểm trở cao ngất, một bên là biển rộng
mênh mông với bờ biển dài 150 km. Nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng đã miêu tả
địa hình của Quảng Nam như sau:
Bờ biển chạy dài từ cực Bắc đến cực Nam. Sau lưng là dãy Trường Sơn sừng
sững án ngự cả biên giới Việt Lào, núi non trùng điệp. Phía trước biển cả, một dải
đất toàn là cát trắng mênh mông, bên trong là mấy mảnh đồng bằng bị thắt riết



vào, bao nhiêu là rừng khô và thung lũng…Trước mặt biển Đông bao la, sóng biển
dồn dập ngày đêm quanh Ngũ Hành Sơn, các cửa biển sâu thăm thẳm là nơi tàu bè
có thể cập bến bất cứ lúc nào [50, tr.24].
Với điều kiện tự nhiên như vậy, Quảng Nam có một thiên nhiên phong phú, đa
dạng. Đồng thời, nơi đây hội tụ nhiều thiên tai: bão lụt, hạn hán… Ở vùng đất này,
những hiện tượng tự nhiên gần như được đẩy lên đến cực điểm “mùa hè đến, r
uộng
đồng, đất đai cũng nứt nẻ không kém phần ủ dột, tiêu điều” [50, tr.26].
Mặt khác, Quảng Nam vẫn có những đồng bằng tương đối phì nhiêu, những
vùng khoáng sản phong phú. Theo Lê Quý Đôn: “các núi ở phủ Thăng Bình đều có
sản xuất vàng….ở đảo Đại Chiêm có Yến, ở nguồn Thu Bồn có quế, huyện Diên

Phước có được thạch khối đường băng hoa, đường đen
, đường mật…. ở nguồn Ô
Gia có sáp ong, tại nguồn Chiên Đàn có mật ong…. lại có danh mộc rất nhiều, hải
sản cũng lắm, đất đai phì nhiêu, dân cư trù mật” [43, tr.79]. Tuy nhiên, đồng bằng
được khai thác từ thời Chămpa với phương thức canh tác lạc hậu làm cho đất bạc
màu. Riêng các mỏ vàng xưa kia đã được người Chiêm Thành khai thác, sau đó là

người Việt, người Hoa, rồi người Pháp… chỉ trong bảy năm mà “chúa Nguyễn đã
thu được 5768 lạng vàng” [27, tr.20]. Vì vậy, nhìn chung điều kiện tự nhiên địa lý ở
vùng đất Quảng Nam xưa nay vẫn để lại trong lòng người một ấn tượng không lấy
gì làm tốt đẹp của vùng “Ô châu ác địa”. Tên núi, tên sông ở Quảng Nam gợi nhiều
khó khăn trắc trở: núi Chúa, núi Hiên, núi Giằng, đèo Le, đèo Giảm T
họ, rồi Tí, Sé,
Kẽm, Râm, Ri, Liêu….Còn sông thì như bao chặt, luồn lách trên mảnh đất chật hẹp
này: sông Thuỷ Tú, sông Cẩm Lệ, sông Yên, sông Vĩnh Điện, sông Thu Bồn, sông
Vu Gia, sông Bà Rén, sông Trường Giang, sông Ly Ly, sông Tam Kỳ, sông Vĩnh
An, sông Cây Trâm, sông Bà Bầu, sông An Tân,.… Có thể nói không ngoa, Quảng
Nam là vùng đất hội tụ của núi và sông.
1.1.1.2. Lịch sử hình thành xứ Quảng Nam
Tên đất “Quảng Nam” chứa một ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quá trình phát
triển lâu dài của dân tộc ta: “Quảng” có nghĩa là rộng rãi, mở rộng, “Nam” là
phương Nam, đối diện phương Bắc. Vậy Quảng Nam
nghĩa là mở rộng về phương



Nam. Đó là “một sự lựa chọn có tính chiến lược, quyết định vận mệnh sống còn của
quốc gia Đại Việt vốn có vị trí địa lý đặc trưng, một bên là núi non hiểm trở, cao
ngất, một bên là biển rộng mênh mông, lại luôn chịu áp lực bành trướng mạnh mẽ
của một bên là láng giềng khổng lồ từ phương Bắc” [27, tr.14]. Nói đến xứ Quảng

người ta thường nghĩ đến Quảng Nam
. Tuy trong khu vực này từng có “ngũ
Quảng”: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Hoá (Thừa Thiên ), Quảng Nam, Quảng
Ngãi, nhưng công cuộc mở rộng bờ cõi về phương Nam thật sự bắt đầu từ Quảng
Nam cho cả một hành trình dài đến tận Hà Tiên.
Ngược dòng thời gian, khi nói đến lịch sử hình thành xứ Quảng Nam ta không
thể không nhắc đến một vương quốc từng hiện hữu ở vùng này, có nền văn hoá phá
t
triển khá rực rỡ ảnh hưởng không ít đến đời sống văn hoá Quảng Nam. Xưa kia,
khoảng cuối thế kỷ II, người Chăm ở quận Tượng Lâm, lợi dụng lúc nhà Hậu Hán
suy yếu (khoảng năm 192), đã nổi lên khởi nghĩa và giành thắng lợi, lập nên nhà
nước “Lâm Ấp” (có nghĩa là “xứ Rừng”) với vị vua Chăm đầu tiên là Xơri Mara. Và
quốc hiệu Chămp
a đã xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI. Chămpa là tên của một
loài hoa (hoa sứ), nếu nói rút gọn thì thành “Chăm” biến âm là “Chàm”. Âm Hán
Việt là “Chiêm Thành”, rút gọn là “Chiêm”…Giữa hai thời kỳ Lâm Ấp và Chămpa
sử sách Trung Hoa còn ghi một tên nữa gọi là “Hoàn Vương”. Người Việt còn dùng
một số tên khác như “Hời”, “Lồi” để gọi dân tộc này. Thời đó, vương quốc Chămp
a
được chia thành 4 châu (vốn xưa kia là những tiểu quốc khác nhau) đó là Amaravâti
(tương ứng khu vực từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi mà Quảng Nam là trung tâm),
Vijaya (tương ứng với khu vực Bình Định, Phú Yên), Kauthara (tương ứng với khu
vực Khánh Hoà), Panduranga (tương ứng với khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận).
Vương quốc Chămpa tồn tại cho đến thế kỷ XVII, trải qua nhiều triều đại, ban đầu
đóng đô Sinhapur
a (Trà Kiệu, Quảng Nam), sau dời sang Indrapura (Đồng
Dương,Quảng Nam), rồi vào Vijushia và Sudra (Đồ Bàn, An Nhơn, Bình Định).
Theo sử sách đã ghi, từ năm 973, Lê Đại Hành đã mang quân đánh vào kinh
đô Indrapura, nhưng cuộc tiến quân này chỉ là một cuộc “thăm dò” chưa rõ ý định
mở mang bờ cõi. Sau khi tịch thu một số của cải, Lê Đại Hành đã rút quân. Đến




năm 1004, do Chiêm Thành không ngừng quấy nhiễu đất nước ta nên Lý Thái Tông
đã mang quân đánh Chiêm. Vua Lý tiến quân đến quốc đô Phật Thệ (nay thuộc
huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên ) bắt được 5000 người rồi rút quân về. Công
cuộc Nam tiến của người Việt chỉ thực sự diễn ra vào năm 1069, khi Lý Thánh
Tông cử binh bắt sống vua Chiêm Thành là Chế Củ, buộc dâng ba châu: Địa Lý, Ma
Linh, Bố Chính (thuộc tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị ngày nay) để “chuộc tội”.
Như vậy, tr
ong tầm nhìn chiến lược của các vị vua từ đời Lê đến đời Lý đã thấy sự
tồn tại của Vương quốc Chămpa là một nguy cơ cho biên cương đất nước ở phía
Nam, cũng như nhìn thấy tiền đồ của Đại Việt nếu có thể mở rộng về phía Nam.Thế
nên, vào năm 1075, trước khi mang quân đánh Tống xâm lược, Lý Thường Kiệt đã
đánh Chiêm để giữ vững biên cương phía Nam
. Trong cuộc hành binh này, Lý
Thường Kiệt đã vẽ được địa đồ ba châu mà Chế Củ đã dâng và ráo riết đưa người
vào định cư ở ba châu này. Như vậy, từ khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán năm
938, trải qua các triều đại nhà Ngô (939 - 965), nhà Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980
- 1009) và những thập niên đầu thời nhà Lý (1010 - 1225) lãnh thổ nước ta dừng lại
ở Châu Ái và Châu Hoan (Thanh Hoá, Nghệ An - Hà Tĩnh hiện nay). Nhưng từ năm
1069 mà r
õ hơn là năm 1075, cương vực nước ta ở phía Nam kéo dài đến tỉnh
Quảng Trị.
Hơn 200 năm sau, vào năm 1306, người Việt đã thực hiện tiếp một bước quan
trọng trên con đường tràn xuống phía Nam bằng cuộc hôn nhân chính trị giữa
Huyền Trân công chúa và chúa Chiêm Thành là Chế Mân. Cuộc vân du của thượng
hoàng Trần Nhân Tông với lời hứa gả công chúa Huyền Trân đã giúp nhà Trần có
thêm hai châu của vua Chiêm Thành làm sính lễ: Châu Ô và Châu Rí. Năm 1307,
vua Trần A

nh Tông đã nhận hai châu này và đổi thành Thuận Châu (Bắc Hải Vân
quan) và Hoá Châu (Nam Hải Vân quan ). Như vậy, biên giới Đại Việt không dừng
lại ở Quảng Trị mà kéo dài đến sông Thu Bồn.
Nhà Trần còn cử tướng Lê Quí Li đem quân vào cửa Thị Nại, tiến đánh Đồ
Bàn, kinh đô Chiêm Thành vào năm 1377 nhưng thất bại. Khi đó, Chế Bồng Nga đã
đánh nước ta đến kinh thành Thăng Long. Nhưng sau khi Chế Bồng Nga chết năm



1390, đất nước Chiêm Thành rối ren. Nhân cơ hội này, nhà Hồ (1400 - 1407), trước
đó đã chiếm ngôi nhà Trần, năm 1402, thương thảo với triều đình Chiêm Thành
nhượng “Chiêm Động” (Bắc Quảng Nam), “Cổ Lũy Động” (Nam Quảng Nam) cho
người Việt. Nhà Hồ đã chia Chiêm Động và Cổ Lũy Động thành bốn châu: Châu
Thăng, Châu Hoa (Quảng Nam hiện nay), Châu Tư và Châu Nghĩa (Quảng Ngãi
hiện nay). Nhà Hồ đã tổ chức ráo riết hơn trong việc đưa dân và
o định cư ở vùng
đất mới, đến mức bắt người dân đến ở đâu phải chạm tên vùng đất ấy vào cánh tay
mình. Việc làm đó của triều nhà Hồ như một hoạt động cưỡng chế di dân quyết liệt.
Nhưng mặt khác, ta cũng thấy được một ý chí trụ bám dữ dội, chắc chắn, thể hiện
một nhu cầu khá bức bách về đất đai, về việc củng cố phía Nam
của đất nước để đối
phó với phương Bắc. Đến đây, lịch sử đất nước ta vẫn chưa có danh xưng Quảng
Nam.
Khi nhà Hồ bị bại dưới tay nhà Minh thì 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đã bị
người Chiêm chiếm lại. Tháng 8 - 1470, vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn đem
10 vạn quân thủy bộ cùng voi và ngựa chiến đánh úp Hoá Châu (Châu Rí của
Chiêm Thành ngày trước, Thừa Thiên - Huế ngà
y nay). Lúc này, ở nước ta là triều
Lê Thánh Tông. Trước hành động xâm lấn của Chiêm Thành, tháng 10 năm 1470,
vua Lê Thánh Tông chọn gần 26 vạn quân thủy bộ, truyền chiếu “bình Chiêm” nói

rõ cho nhân dân cả nước lý do Nam chinh: “…Trẫm thể lòng thượng đế, nối chí vua
cha. Giết kẻ thù chín đời theo nghĩa Xuân Thu, định mưu kế vạn toàn cho yên đất
nước” [43, tr.66]. Và trong lời tấu cáo ở Thái Miếu vào ngày mồng 7 tháng 11 âm
lịch, nhà vua cũng nói rõ: “Thần là kẻ ít tuổi bất tài, vào nối nghiệp lớn, c
hỉ mong
yên dân giữ nước, đâu dám dùng nhảm việc binh” [43, tr.67]. Với mưu trí, sách
lược và quyết tâm khôi phục lại vùng đất đã mất, vua Lê Thánh Tông đã đại thắng
quân Chiêm, bắt được vua Chiêm là Trà Toàn, nhiều văn quan võ tướng, phi tần và
hơn ba vạn người. Không phải ngẫu nhiên nhà nghiên cứu Lê Duy Anh trong bài
viết của mình đã đặt tiêu đề: Minh quân Lê Thánh Tông với sự khai sinh địa danh
Quảng Nam, và hầu hết các bài viết về lịch sử Quảng Nam
đều nhấn mạnh vai trò
của vua Lê Thánh Tông với sự hình thành xứ Quảng. Với chiến thắng quân Chiêm,



ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch Tân Mão, niên hiệu Hồng Đức nhị niên (1471) vua
xuống chiếu lấy dải đất từ Nam Hải Vân đến ngọn núi nằm chắn ngang từ đất liền
chạy ra tới biển sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, lập thành “Thừa Tuyên Quảng
Nam”. Địa danh Quảng Nam ra đời kể từ đấy, và trở thành đạo thứ 13 của nước ta
thời bấy giờ (12 đạo kia là: Sơn Nam, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Yên Bang,
Ninh Sóc, Lạng Sơn, Tuyê
n Quang, Hưng Hoá, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá).
Để làm mốc giới giữa hai nước Chiêm - Việt, vua đã chọn tảng đá cao lớn đứng
thẳng như một tấm bia khổng lồ, khắc công trạng quân ta vào đá và khắc rõ đây là
mốc giới nước ta. Núi ấy có tên là Thạch Bi mà dân gian quen gọi là núi Đá Bia. Và
nhân dân đã xây đền thờ vua nơi đó. Núi Đá Bia nằm giữa hai tỉnh Phú Yên và
Khánh Hoà ngày nay. Trong Quảng Nam đất nước và nhân vật, nhà nghiên cứu
Nguyễn Q. Thắng đã ghi: “Khu vực “Đạo T
hừa Tuyên Quảng Nam” vào thế kỷ XV

bao gồm một vùng rộng lớn từ Nam Thuận Hoá vào sát núi Thạch Bi ở Phú Yên. Do
đó, cả khu vực từ rừng núi xuống đồng bằng và các hải đảo dọc theo lãnh thổ trên
đều thuộc đạo Thừa Tuyên Quảng Nam” [50, tr.34]. Như vậy, vua Lê Thánh Tông
đã mở rộng bờ cõi về phía Nam không dừng lại ở sông Thu Bồn mà kéo dài đến
Phú Yê
n.
Thừa Tuyên Quảng Nam lúc mới thành lập có ba phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và
Hoài Nhơn. Phần đất phía Bắc phủ Thăng Hoa sát đến đỉnh đèo Hải Vân, vua Lê lập
thành huyện Điện Bàn cho lệ thuộc vào dinh Quảng Nam. Năm 1609 và năm 1611,
người Chiêm nổi loạn, chúa Nguyễn Hoàng cho tướng đánh dẹp và chia Hoài Nhơn
làm 2 phủ: phần đất phía Bắc vẫn giữ nguyên địa d
anh Hoài Nhơn, phần đất phía
Nam lập thành phủ Phú Yên. Như vậy, nói về chiều dài lịch sử thì Phú Yên thuộc
phủ Hoài Nhơn của Thừa Tuyên Quảng Nam vào năm 1471. Nói về danh xưng phủ
Phú Yên thì đã có vào năm 1611, rồi đến năm 1832 đổi thành tỉnh Phú Yên. Còn
phủ Hoài Nhơn, năm 1604 đổi thành phủ Qui Nhơn vẫn thuộc dinh Quảng Nam.
Đến năm 1799, Nguyễn Phúc Ánh đổi là Bình Định. Năm 1832 là tỉnh Bình Định.
Như thế, Thừa Tuyên Quảng Nam
là đất mẹ của bốn tỉnh: Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Dù đất Quảng Nam đã cải đổi từ Thừa Tuyên Quảng



Nam đến xứ Quảng Nam, đến trấn Quảng Nam và dinh Quảng Nam thì vẫn luôn tồn
tại địa danh Quảng Nam. Dù sau 1832, đất Quảng Nam chỉ còn
¼
của Thừa Tuyên
Quảng Nam thuở khai sinh (1471), cũng vẫn là địa danh Quảng Nam. Xác định như
vậy, đến năm 2008 này Quảng Nam tròn 538 tuổi.
Tuy qua nhiều lần đổi tên và sau này (1996) tách thành hai đơn vị hành chính

trực thuộc trung ương: tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, nhưng xét về mặt
truyền thống, về con người thì công trình này vẫn xem xứ Quảng là một. Trong đó,
Quảng Nam là bàn đạp để bắt đầu hành trình mở cõi tận Hà Tiên.
Hành trình Nam tiến từ thời Lý Thánh Tông (1069) đến thời N
guyễn Hoàng
(1600) vào trấn Thuận Hoá, rồi thời các chúa Nguyễn đã thâu tóm toàn bộ đất
Chiêm Thành còn lại ở miền Trung (nước Chiêm mất hẳn 1697), và 6 tỉnh thuộc
Chân Lạp cũ (từ giữa thế kỷ XVIII) trở thành lãnh thổ của chúa Nguyễn. Từ đó hình
thành từ sông Gianh trở vào một quốc gia riêng gọi là Đàng Trong (khác Đàng
ngoài thuộc vua Lê, chúa Trịnh). Trong hành trình Nam tiến để mở rộng bờ cõi, ta
thấy c
ó hai cuộc Nam tiến được xem là quyết định. Cuộc Nam tiến năm 1402, thời
Hồ Quý Ly, tìm đất mới để sinh sống, tạo chiều sâu thích hợp cho thế trận quốc
phòng. Và cuộc Nam tiến năm 1602 của Nguyễn Hoàng, thành lập dinh trấn Thanh
Chiêm, hình thành xứ Đàng Trong.
Như vậy, sự hình thành vùng đất Quảng Nam qua hai cuộc Nam tiến lớn đã cho
thấy yêu cầu bức thiết về kinh tế cũng như lịch sử của quốc gia Đại Việt lúc bấy
giờ. C
hính vì yêu cầu bức thiết nên ý tưởng mở cõi được duy trì liên tục (từ giai
đoạn thuộc Minh) qua các triều đại. Nói một cách khác, hình thành Quảng Nam gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Sau một thời gian ổn định, vùng châu
thổ sông Hồng, sông Mã đất đã chật, người lại đông “đi tìm những vùng đất mới để
khai thác, làm ăn sinh sống, ngày càng trở thành yêu cầu khẩn thiết, không chỉ đối
với người lãnh đạo đất nước mà cả đối với những người nông dân chân lấm t
ay
bùn” [27, tr.62]. Hơn nữa, với tầm nhìn chiến lược của các vị vua ở một đất nước
phải luôn đối phó với những cuộc xâm lược của Trung Quốc: Tống, Nguyên,
Minh….thì việc tạo một hậu phương có chiều sâu ở phía Nam để bảo đảm vững




chắc thắng lợi của những cuộc kháng chiến chống xâm lược phương Bắc là cần
thiết. Điều đó, gần như trở thành một yêu cầu sống còn đối với Đại Việt.
1.1.2. Con người Quảng Nam
1.1.2.1. Thành phần cư dân Quảng Nam
Qua lịch sử hình thành Quảng Nam đầy phức tạp và biến động thì có thể lấy cột
mốc nào để xác định sự có mặt, định cư của dân Đại Việt trên vùng đất Quảng
Nam? Giáo sư Ngu
yễn Văn Hạnh, một học giả uy tín đồng thời cũng là một người
con của Quảng Nam đã khẳng định: “Danh xưng Quảng Nam xuất hiện trên bản đồ
nước ta vào năm 1471, nhưng cư dân Đại Việt tức cư dân Quảng Nam sau này thì
đã có mặt ở vùng đất này từ 1402, đến nay đã 600 năm” [16, tr.480]. Tiến sĩ Bùi
Thị Tân, giảng dạy khoa lịch sử Đại học Sư phạm Huế cũng nêu: “Quảng N
am
được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt đầu thế kỷ XV, năm 1402 dưới thời Hồ. Quá
trình di dân Việt vào khai khẩn, dựng làng có tổ chức cũng bắt đầu từ đấy” [43,
tr.108]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng, cũng nêu cái mốc để xác định sự có mặt
của cư dân Đại Việt trên đất Quảng Nam
: “Nhà Hồ hạ lệnh cho dân có của ở Nghệ
An, Thuận Hoá đem vợ con vào khai khẩn, dân ấy phải khắc hai chữ tên châu mình
trên cánh tay” [50, tr.30].
Như vậy, nói đến cư dân Quảng Nam là nói đến sự có mặt của người Việt sinh
cơ lập nghiệp trên vùng đất này kể từ năm 1402, đến nay đã là sáu thế kỷ. Trong sáu
thế kỷ đầy biến động, thử thách dữ dội liên tục giữa những cuộc nội chiến và chiến
tranh chống ngoại xâm, cư dân Quảng Nam
làm cách nào để có thể vừa tồn tại vừa
phát triển qua bao hưng vong của các triều đại? Họ là ai mà có bản lĩnh vượt qua
những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên ở vùng “Ô Châu ác địa” lại có thể
đứng mũi chịu sào ở nơi được xem là “đất yết hầu của miền Thuận - Q
uảng”, vùng

tương tranh giữa các thế lực phong kiến trước đây và sau này, nơi mở đầu cho
những cuộc đụng đầu lịch sử của cả dân tộc với chủ nghĩa thực dân và đế quốc. Các
nhà nghiên cứu về cư dân Quảng Nam đều cho rằng có những cuộc di dân từ nhiều
vùng đất khác đến Quảng Nam diễn ra liên tục suốt mấy thế kỷ. Từ đó hình thành
nên cộng đồng cư dân trên vùng đất này. Đại thể có những đợt di dân lớn: đợt di



dân theo cuộc viễn chinh của vua Lê Thánh Tông, đợt di dân từ Bắc vào khi
Nguyễn Hoàng trấn thủ xứ Thuận - Quảng, đợt di dân từ Quy Nhơn, từ miền Nam
ra dưới thời Nguyễn Huệ và thời kỳ đầu vương triều Nguyễn. Trong đó quy mô nhất
là cuộc di dân dưới triều nhà Lê, sau chiến thắng Trà Bàn mùa xuân 1471. Với
chính sách khẩn hoang và tổ chức giúp đỡ vật chất ban đầu, nhiều làng xã ở Quảng
Nam được hình thành vào thời gian này.
Ta có thể hình dung bức tranh cư dân Q
uảng Nam như sau: có cư dân bị cưỡng
chế di dân vào thời nhà Hồ, cư dân tình nguyện di dân thời Lê Thánh Tông, cư dân
di dân đến Quảng Nam như là sự lựa chọn duy nhất sống còn thời Nguyễn Hoàng.
Nếu căn cứ vào “lý do di dân” để xét thành phần cư dân của Quảng Nam thì có thể
xếp họ vào sáu loại: những tướng lĩnh tiên phong đi chinh phục vùng đất mới để cai
trị, khai phá; những tướng lĩnh không được triều đình yêu trọng, bị trù dập, được
đưa đến trấn giữ biên ải hiểm
nguy; binh lính trấn giữ biên cương mới đã đưa gia
quyến sinh sống; nông dân nghèo thiếu ruộng, bị bần cùng hoá trong xã hội Bắc hà,
tìm cơ hội sinh sống ở vùng đất mới; những kẻ sống ngoài vòng pháp luật chạy vào
Nam tìm chỗ nương thân, làm lại cuộc đời. Ở thời chúa Nguyễn, có thêm tù binh bị
bắt trong chiến tranh Trịnh Nguyễn và những nông dân xứ Nghệ bị bắt vào Nam
trong lần quân N
guyễn vượt sông Gianh chiếm 7 huyện ở Nghệ An. Bên cạnh đó,
khi chiến tranh phong kiến Việt - Chăm kết thúc, quốc gia Chiêm Thành mất nhưng

người Chiêm vẫn còn. Và họ đã sống cộng cư với người Việt. Sự tồn tại của một số
người Việt mang họ Trà, họ Chế, họ Ma, họ Ông (họ Chiêm Thành) là bằng chứng
cụ thể về sự cộng cư ấy. Nhưng trên đây chưa phải là tất cả. Vào thời nhà Minh có
sự di cư của người Tr
ung Hoa đến Hội An và Tam Kỳ, hình thành những làng Minh
Hương. Dưới thời Mạc Phủ Tokugwa, người Nhật đến buôn bán và định cư ở Hội
An. Trên mảnh đất của phía Tây Quảng Nam lại có người Man là tổ tiên của những
tộc ít người n
hư Cơtu, Xơđăng, Gié, Triêng ở huyện Hiên, Phước Sơn, Trà My hiện
nay…
Như vậy, ngay từ khi mới thành lập, cư dân Quảng Nam là sự cộng cư trong
suốt quá trình mở nước với thành phần rất phức tạp. Ở đây, có sự kế thừa, giao lưu



tiếp nhận những di sản cộng đồng Chăm, sự tổng hợp của sắc thái các làng quê xứ
Bắc, Bắc Trung Bộ tạo nên làng mạc xứ Quảng. Có thể nói: “Đất Quảng quả là nơi
hội tụ, giao tiếp văn hoá Bắc – Nam” [43, tr.113].
1.1.2.2. Tính cách con người Quảng Nam
Tính cách con người là một trong các giá trị tinh thần do con người sáng tạo,
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội. Vì vậy tính cách của con người là một yếu tố văn hoá dâ
n
tộc. Tính cách dân tộc là một cấu trúc tinh thần được định hình trong một quá trình
lịch sử rất lâu dài hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm, trên cơ sở những điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá nhất định, thay đổi rất chậm chạp trong sự
vận động và phát triển. “Tính cách là hệ thống những phẩm chất, đặc điểm tồn tại
khác
h quan, tất yếu, tạo thành một “hằng số”, một nếp gấp, một “đường mòn”, một
thiên hướng trong tư duy, trong cuộc sống, trong ứng xử, hoạt động của con người,

mà ta có thể bắt gặp ở số đông thành viên hoặc ở những nhân vật kiệt xuất của dân
tộc, trong cuộc sống hằng ngày cũng như qua những lựa chọn c
ó tính chất lịch sử,
có ý nghĩa bước ngoặt đối với vận mệnh của cả cộng đồng” [16, tr.591]. Nói đến
tính cách là nói đến những đặc điểm tâm lý ổn định trong cách xử sự của con người,
biểu hiện thái độ điển hình của con người đó trong những hoàn cảnh điển hình. Từ ý
nghĩa ấy chúng ta có thể suy ra tính cách của cư dân một vùng đất là tổng thể những
đặc điểm tâm lý mang tính bền vững trong cách cư xử của nhiều thế hệ nối tiếp
nha
u, được biểu lộ thành những nét điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.
Tính cách của con người Quảng Nam vừa là sự kế thừa phát triển tính cách chung
của cư dân Đại Việt vừa có những tính cách hình thành qua một quá trình sống, giao
lưu tiếp biến trên vùng đất Quảng. Dựa trên hoàn cảnh sống, giao lưu văn hoá với
các nước Đông Nam Á của người Việt, nhà nghiên cứu văn hóa
Đào Duy Anh đã
tổng kết năm nét tiêu biểu trong tính cách người Việt: yêu chuộng hòa bình, an cư
lạc nghiệp; ăn ở để phúc đức cho con cháu về sau; lối sống trọng tình cảm; lấy gia
tộc làm cơ sở, đạo hiếu là đạo đức hàng đầu; quá khứ và hiện tại cùng hiện hữu
trong đời sống. Trong những đặc điểm
chung của cư dân nông nghiệp thì tính cách



×