Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của tòa án việt nam đối với trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 182 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU TRANG

THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN
VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU TRANG

THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN
VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9 38 01 07

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN THỊ MƠ

HÀ NỘI - 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, số
liệu nêu trong Luận án là trung thực. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu của Luận án chưa từng được công bố ở các công trình nghiên cứu
trước đó.
Tác giả Luận án

Nguyễn Thị Thu Trang

i


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................ 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án .................................. 9
1.2. Cơ sở lý thuyết và hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu ........................................ 26
CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ
PHÁP CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .............................. 32
2.1. Khái niệm và đặc điểm của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với trọng tài
thương mại ................................................................................................................. 32
2.2. Sự cần thiết phải có quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án
đối với Trọng tài Thương mại...................................................................................... 44
2.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối
với Trọng tài Thương mại ........................................................................................... 52
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI THẨM
QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI ................................................................................................................. 66

3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án Việt
Nam đối với Trọng tài Thương mại trước khi bắt đầu và trong quá trình tố tụng trọng tài66
3.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối
với Trọng tài Thương mại liên quan đến thi hành phán quyết trọng tài ......................... 94
CHƢƠNG 4. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA
TÒA ÁN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ............................. 117
4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án Việt
Nam đối với Trọng tài Thương mại ........................................................................... 117
4.2. Các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối
với Trọng tài Thương mại ......................................................................................... 125
4.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa
án Việt Nam đối với Trọng tài Thương mại ............................................................... 140
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

ii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Việt
BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời


CHXHCN

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

ĐƯQT

Điều ước Quốc tế

HĐTT

Hội đồng Trọng tài

KD, KDTM

Kinh doanh, Kinh doanh Thương mại

LTTTM

Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam năm 2010

NCS

Nghiên cứu sinh

NXB

Nhà xuất bản
Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 03


Nghị quyết 01/2014

năm 2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân
Tối cao

PLQT

Pháp luật quốc tế

PLTTTM

Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003

PQTT

Phán quyết Trọng tài

TA, TANDTC

Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao.

TM, TMQT

Thương mại; Thương mại quốc tế

TTTM; TTV

Trọng tài Thương mại; Trọng tài viên

THADS


Thi hành án dân sự

Tr.

trang

VCCI

Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam

VIAC

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

iii


Tiếng nƣớc ngoài
Chữ viết tắt

Tiếng nƣớc ngoài

Nghĩa tiếngViệt

New York Convention on the
Công
ước
Recognition and Enforcement of
New York

Foreign Arbitral Awards in 1958
The
Comprehensive
and
CPTPP
Progressive
Agreement
for
Trans-Pacific Partnership

Công ước New York năm 1958
về công nhận và thi hành các
quyết định Trọng tài nước ngoài
Hiệp định Đối tác Tồn diện và
Tiến bộ xun Thái Bình Dương

Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa
The EU-Vietnam Investment
EVIPA
Liên minh Châu Âu và Việt
Protection Agreement
Nam
Hiệp định Thương mại tự do
the EU-Vietnam Free Trade
EVFTA
giữa Liên minh Châu Âu và
Agreement
Việt Nam
Luật Trọng tài Liên Bang của
FAA

Federal Arbitration Act
Hoa Kỳ
FTA
Free Trade Agreement
Hiệp định Thương mại Tự do
UNCITRAL Law 1985 on Luật Mẫu năm 1985 của
Luật
Mẫu
International
Commercial UNCITRAL về TTTM Quốc tế
UNCITRAL
Arbitration
(sửa đổi năm 2006)
Singapore
International Trung tâm Trọng tài Quốc tế
SIAC
Arbitration Centre
Singapore
United Nations Conference on Hội nghị Liên Hợp quốc về
UNCTAD
Trade and Development
Thương mại và Phát triển
United Nations Commission on Ủy ban Pháp luật Thương mại
UNCITRAL
International Trade Law
Quốc tế của Liên Hợp quốc
Bộ Luật Tố tụng Dân sự của
ZPO
Zivilprozessordnung
Đức

pg.
Page
trang

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Số lượng yêu cầu liên quan việc Trọng tài Thương mại Việt Nam được các
Tòa án thụ lý và giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019 ..................................................... 93
Bảng 3.2: Kết quả giải quyết yêu cầu cơng nhận và cho thi hành PQTT nước ngồi trong
giai đoạn 01/01/2012-30/09/2019 ........................................................................................ 105

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án (TA) và trọng tài thương mại
(TTTM) là hai phương thức giải quyết tranh chấp mang tính tài phán [39, tr. 61]
cùng song hành tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Hai phương thức này có nhiều
điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau. Điểm khác nhau cơ bản thể
hiện ở chỗ TA là cơ quan tư pháp do Nhà nước thành lập, thực hiện quyền tư pháp
[48, khoản 1 Điều 102] với vai trị là cơ quan tài phán cơng. Trong khi đó, TTTM
khơng phải là cơ quan tài phán cơng mà do các bên thỏa thuận lựa chọn và các bên
đưa tranh chấp cho hội đồng trọng tài (HĐTT) giải quyết. Chính vì vậy, trong việc
giải quyết tranh chấp thương mại tại TTTM, theo quy định của pháp luật, thẩm
quyền của TTTM bị giới hạn, đặc biệt là giới hạn cả đối với những vấn đề liên
quan đến tố tụng tư pháp, ví dụ như giới hạn trong việc áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời (BPKCTT), giới hạn trong việc triệu tập người làm chứng, TTTM

khơng có bộ máy cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài (PQTT) riêng. Những
giới hạn về thẩm quyền của TTTM, nếu không được tháo gỡ, sẽ ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của chính các bên tranh chấp và từ đó, ảnh hưởng tiêu
cực đến việc giải quyết tranh chấp tại TTTM. Chính vì vậy, pháp luật các nước
cũng như pháp luật quốc tế đã ghi nhận thẩm quyền của TA trong việc hỗ trợ tư
pháp đối với TTTM. Mục tiêu của pháp luật trong vấn đề này là, một mặt, tháo gỡ
những hạn chế, những giới hạn mà bản thân các HĐTT khơng thể tháo gỡ nếu
khơng có quy định của pháp luật, mặt khác, tạo điều kiện để các bên tranh chấp yên
tâm khi đưa vụ việc ra giải quyết tại TTTM. Từ đó, thúc đẩy mối quan hệ tích cực
giữa cơ quan tài phán cơng- TA, với cơ quan tài phán tư- TTTM, nhằm tạo lập môi
trường kinh doanh phù hợp để phát triển hoạt động thương mại nói chung và thu
hút đầu tư nước ngồi nói riêng.
Tại Việt Nam, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với hoạt động trọng tài
đã được quy định trong Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 (LTTTM), trong

1


Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao (TANDTC)
hướng dẫn một số quy định của LTTTM (Nghị quyết 01/2014) và Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015). Tuy nhiên, các quy định trong các văn bản nêu
trên còn chưa thống nhất và cụ thể, vẫn rời rạc và chưa đồng bộ. Một số quy định
chưa phù hợp với Công ước New York mà Việt Nam đã gia nhập, cũng như chưa
tương thích với Luật Mẫu UNCITRAL. Chính điều này đã dẫn đến thực tế là các
TA Việt Nam cịn gặp nhiều khó khăn khi thực thi và áp dụng pháp luật về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM. Điều này khơng chỉ ảnh hưởng đén quyền, lợi
ích của các bên tranh chấp khi họ đưa vụ việc ra giải quyết tại TTTM, mà còn ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động của TA Việt Nam. Cụ thể, chỉ số xếp hạng của
Việt Nam liên quan đến chất lượng hoạt động xét xử của TA Việt Nam đối với
tranh chấp thương mại nói chung và các tranh chấp thương mại quốc tế nói riêng,

trong đó có hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM được đánh giá là chưa
cao [184], [207]. Điều này cho thấy hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối
với các vụ việc TTTM còn chưa hiệu quả. Đây là điều hết sức bất thường khi Việt
Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới với nhiều cam kết về việc tạo
lập môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của các hoạt động thương mại
quốc tế.
Ngày 02/10/2019, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án hoàn thiện
pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức TTTM
để nhằm khuyến khích và nâng cao chất lượng của TTTM ở Việt Nam. Tuy nhiên,
kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết và Đề án nói trên đến nay vẫn cho thấy cịn
nhiều hạn chế.
Việc thực thi hiệu quả thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM sẽ
thúc đẩy TTTM phát triển tại Việt Nam và điều này sẽ có tác động tích cực đến
mơi trường đầu tư của Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề về thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM nói chung và thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM nói riêng đóng vai trị quan trọng.

2


Vấn đề đặt ra là TA Việt Nam có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp như thế nào đối
với TTTM? Các quy định của pháp luật nước ta về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA Việt Nam đối với TTTM có những bất cập gì? Trên thực tế khi thực thi thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của đối với TTTM, TA Việt Nam gặp những khó khăn gì và
giải pháp nào để tháo gỡ? Để có câu trả lời, điều cần thiết là phải nghiên cứu vấn đề
này một cách cụ thể. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn được phân tích ở trên,
nghiên cứu sinh (NCS) đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề “Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA Việt Nam đối với TTTM” để làm để tài nghiên cứu của Luận án Tiến sĩ
Luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận
về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, phân tích và đánh giá thực
trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM, Luận án đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp
luật, và nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM nhằm thúc đẩy sự phát triển hiệu quả và lâu dài của
TTTM, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, cũng như phát
triển mối quan hệ giữa TTTM và TA trong việc giải quyết các tranh chấp thương
mại ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận án có nhiệm vụ cụ thể sau đây:
-

Luận giải để làm rõ khái niệm, đặc điểm của về thẩm quyền hỗ trợ tư

pháp của TA đối với TTTM; làm rõ các khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp
luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM;
-

Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm

quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM; chỉ ra những bất cập của pháp luật và
những vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm

3


quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM;
-


Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của

TA Việt Nam đối với hoạt động TTTM, nhằm chỉ ra những thuận lợi, khó khăn và
yếu kém của TA trong việc áp dụng các quy định có liên quan của pháp luật Việt
Nam trong thời gian qua.
-

Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp

của TA đối với TTTM và rút ra bài học cho Việt Nam;
-

Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ

trợ tư pháp của TA đối với TTTM và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề liên quan đến thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, các quy định của pháp luật Việt Nam
về TTTM, về hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam và các quy định pháp luật của một
số nước về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm các quy định có liên quan
đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM được quy định trong Công
ước New York 1958, Luật Mẫu UNCITRAL và trong pháp luật của một số quốc
gia khác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là vấn đề rất
rộng, bao gồm cả quá trình từ khi trọng tài nhận đơn kiện cho đến khi các bên thực

thi PQTT. Trong phạm vi của Luận án này, nội dung nghiên cứu sẽ được giới hạn ở
việc phân tích các quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM
được ghi nhận trong LTTTM và BLTTDS 2015. Đó là thẩm quyền của TA Việt
Nam được quy định tại Điều 6, khoản 2 Điều 7 LTTTM và khoản 5 Điều 31
BLTTDS 2015, bao gồm 9 vấn đề. Đó là (i) Thẩm quyền của TA trong việc từ chối

4


thụ lý trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài; (ii) Thẩm quyền của TA đối với
việc chỉ định TTV để thành lập HĐTT vụ việc; (iii) Thẩm quyền của TA đối với
yêu cầu thay đổi TTV của HĐTT vụ việc; (iv) Thẩm quyền của TA đối với yêu cầu
thu thập chứng cứ; (v) Thẩm quyền của TA đối với yêu cầu TA áp dụng các
BPKCTT; (vi) Thẩm quyền của TA đối với yêu cầu triệu tập người làm chứng;
(vii) Thẩm quyền đăng ký PQTT đối với Trọng tài vụ việc; (viii) Thẩm quyền của
TA đối với yêu cầu hủy PQTT trong nước; và (ix) Thẩm quyền của TA đối với yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam PQTT của TTTM nước ngoài.
Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu từ năm 2003 - năm ban
hành PLTTTM - cho đến nay.
Về không gian: Luận án nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam, cụ
thể là LTTTM và BLTTDS. Luận án cũng nghiên cứu các quy định tương ứng của
Công ước New York 1958, Luật Mẫu của UNCITRAL và quy định pháp luật của
một số quốc gia như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Singapore và Hồng Kông v.v... Luận án
sẽ không xem xét đến các quy định trong các điều ước quốc tế song phương và đa
phương khác mà Việt Nam tham gia.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án
Luận án được trình bày dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lenin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, về Nhà nước và pháp luật và
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và
cải cách tư pháp. Ngồi ra, Luận án cịn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên

cứu sau đây:
Phương pháp phân tích, phương pháp luận giải và tổng hợp: Được sử dụng
trong toàn bộ 4 chương của Luận án để tìm hiểu, phân tích, luận giải nhằm làm rõ
các quan điểm về TTTM, về mối quan hệ giữa TA và TTTM, về thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM. Từ đó, chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt
Nam và những vướng mắc trong quá trình áp dụng.
Phương pháp hệ thống hóa và phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu

5


tại Chương 1 nhằm tổng hợp và hệ thống hóa các cơng trình nghiên cứu, các Luận
án tiến sĩ ở Việt Nam và ở nước ngồi có nghiên cứu về vấn đề liên quan đến thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM nhằm chỉ ra những vấn đề đã được giải
quyết và vấn đề còn bỏ ngỏ. Tại Chương 2, phương pháp phân tích và luận giải
được sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM; về pháp luật và nội dung của pháp luật về thẩm quyền hxô trợ
tư pháp của TA đối với TTTM.
Phương pháp luật học so sánh: Được sử dụng ở Chương 2 nhằm phân tích có
so sánh các quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam
đối với TTTM trong nước và ngoài nước, cũng như so với thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA theo quy định của pháp luật một số quốc gia khác. Phương pháp này
cũng được sử dụng để làm nổi bật sự khác biệt giữa thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM với các thẩm quyền khác của TA.
Phương pháp phân tích tình huống được áp dụng nhằm phân tích và bình
luận về các vụ việc cụ thể liên quan đến hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM đã được giải quyết tại TA Việt Nam. Từ đó, rút ra những vài học kinh
nghiệm và giải pháp khắc phục những hạn chế, sai sót trong thực tiễn xét xử tại TA
Việt Nam hiện nay khi thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong giải
quyết các vụ việc liên quan đến TTTM.

Chương 3 và Chương 4 của Luận án sử dụng đồng thời các phương pháp
luận giải, phân tích và phương pháp luật học so sánh để chỉ ra những bất cập của
pháp luật Việt Nam cũng như bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật để trên cơ
sở đó luận giải cho các giải pháp hồn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Luận án là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tương đối tồn diện, cụ
thể và có hệ thống về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM,
cả trong nước và nước ngồi. Những đóng góp mới nổi bật của Luận án thể hiện ở

6


những nội dung sau:
-

Luận án đã làm rõ khái niệm về thẩm quyền tư pháp, thẩm quyền hỗ trợ

tư pháp của TA đối với TTTM và chỉ ra những đặc điểm, nội dung của thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến
pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, cũng như nhưng
nội dung cơ bản của nó.
-

Luận án đã luận giải về sự cần thiết phải có các quy định của pháp luật

về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM và vai trò của việc thực thi
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA theo quy định của pháp luật đối với TTTM.
-


Luận án đã phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về

thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM và đặt nó trong mối
quan hệ so sánh với các quy định có liên quan của Cơng ước New York và Luật
Mẫu UNCITRAL, cũng như phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến
các quy định này. Từ đó, Luận án chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp
luật cũng như những hạn chế trong việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM trên thực tế.
-

Luận án đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của

pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM
và các giải pháp để thực thi hiệu quả thẩm quyền của TA Việt Nam đối với TTTM
một cách hiệu quả trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án đã góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM.
Kết quả nghiên cứu của Luận án là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên
cứu, giảng dạy và học tập về pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật TTTM nói
chung và pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giải
thích và áp dụng LTTTM và BLTTDS, cụ thể là các quy định liên quan đến thẩm

7


quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM.
Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, phát triển nguồn lực và xây dựng
các cơ chế thực thi được đưa ra trong Luận án còn là tài liệu tham khảo bổ ích cho

TA, TTV, cơ quan ban hành pháp luật và cả các bên tranh chấp khi họ đưa vụ việc
ra giải quyết tại TTTM.
7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
án gồm 4 chương.
Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết liên quan đến
đề tài Luận án
Chƣơng 2. Những vấn đề lý luận về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án
đối với trọng tài thương mại.
Chƣơng 3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của Tòa án Việt Nam đối với trọng tài thương mại.
Chƣơng 4. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án Việt Nam đối với trọng tài
thương mại.

8


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
Liên quan đến đề tài Luận án, trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu, NCS
sẽ tập trung phân tích tình hình nghiên cứu về hai vấn đề quan trọng. Thứ nhất là tình
hình nghiên cứu về TTTM nói chung. Thứ hai là các nghiên cứu về thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM.
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về trọng tài thương mại nói chung
Với ý nghĩa là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp tồn tại song
hành cùng TA, TTTM đã hình thành và phát triển khá lâu ở trên thế giới, đặc biệt là tại
một số quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ, Đức v... v [55, tr. 524], [103]; [199]. Do đó, có

một khối lượng khá đồ sộ các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước liên quan đến
TTTM nói chung cũng như liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ của TA đối với TTTM.
1.1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về khái niệm và đặc điểm của trọng tài
thương mại
Khái niệm của TTTM đã được nêu trong một số cơng trình khoa học như
“Fouchard Gaillard Goldman on International Commercial Arbitration” (Fouchard
Gaillard Goldman về TTTM Quốc tế) của các tác giả E. Gaillard và J. Savage. Theo
đó, “trọng tài” được hiểu là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp tư
thay thế TA dựa trên thỏa thuận của các bên. Trong đó, tố tụng trọng tài được tiến
hành khơng cơng khai trừ khi các bên có thỏa thuận khác, đồng thời phán quyết do
HĐTT ban hành mang tính chung thẩm và ràng buộc các bên tranh chấp [125, tr. 757]. Cùng quan điểm này, tác giả Gary B. Born cho rằng “Trọng tài là - chỉ là- một thủ
tục mà các bên đồng thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan khơng thuộc
chính phủ, được lựa chọn bởi hoặc cho các bên, để ban hành một quyết định ràng
buộc giải quyết tranh chấp đó theo một thủ tục công bằng, không thiên vị, cho phép

9


các bên được trình bày về vụ việc của mình” [101, tr. 4]; [102, tr. 3-5]. Đồng thời, các
cơng trình nghiên cứu cũng đều thống nhất và ủng hộ cách giải thích của thuật ngữ
“thương mại” theo chú thích 2 cho khoản 1 Điều 1 của Luật Mẫu UNCITRAL. Theo
đó, thương mại phải được giải thích theo nghĩa rộng, để chỉ những vấn đề liên quan
đến các quan hệ có tính chất thương mại, dù quan hệ đó phát sinh từ hợp đồng hay
ngồi hợp đồng [189, chú thích 2, khoản 1 Điều 1].
Một số các tài liệu tiêu biểu khác cũng bàn về đặc trưng của TTTM hay các thủ
tục trọng tài cụ thể như cuốn “A practical approach to arbitration law” (Tiếp cận
thực tế đối với pháp luật trọng tài) của hai tác giả Andrew Tweeddale and Keren
Tweeddale [186, tr. 3-22], hay bộ tài liệu “Course on Dispute Settlement” (Khoá
học về giải quyết tranh chấp) của UNCTAD về việc ban hành PQTT và chấm dứt
tố tụng [193]; về áp dụng BPKCTT tại TA trong khi giải quyết tại TTTM [194],

và nhiều tài liệu khác [102, tr. 3-4], [100, tr. 4-5]. Theo các nghiên cứu này,
TTTM mang những đặc trưng điển hình so với các phương thức giải quyết tranh
chấp khác như TA, hịa giải thương mại v.v.. Đó là, trọng tài là một cơ quan tài
phán mang tính chất tư, thậm chí mối quan hệ giữa các bên và TTV có thể xem
xét dưới góc độ quan hệ hợp đồng; tố tụng trọng tài linh hoạt và dựa trên thỏa
thuận của các bên và không công khai; việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM có
tính chung thẩm và ràng buộc các bên tranh chấp.
Đáng lưu ý là, ở Việt Nam, có thể nói khái niệm “trọng tài” đã xuất hiện ở Việt
Nam từ những năm 1960. Tuy nhiên, trọng tài kinh tế khi đó là một cơ quan của Nhà
nước, có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế và xử lý các vi
phạm hợp đồng kinh tế. Chỉ đến khi có Nghị định số 116-CP ngày 05/09/1994, các
Trung tâm Trọng tài Kinh tế mới được coi là một tổ chức xã hội- nghề nghiệp có thẩm
quyền giải quyết một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn tách rời với chức năng
quản lý nhà nước như trước đây. Mặc dù vậy, cơ chế trọng tài kinh tế theo Nghị định
số 116-CP vẫn chưa thực sự phù hợp với những đặc trưng cơ bản của của TTTM như
được nêu tại Mục 2.2.2 của Luận án, đặc biệt là liên quan đến tính chung thẩm của

10


PQTT. Chính vì vậy, NCS chỉ tổng hợp các nghiên cứu về TTTM và thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM kể từ sau khi có PLTTTM cho đến nay.
Đối với nhóm cơng trình nghiên cứu trong giai đoạn từ khi có PLTTTM đến
trước khi LTTTM được ban hành, chủ yếu các cơng trình này tập trung phân tích
những thành tựu và hạn chế của PLTTTM, từ đó làm cơ sở cho những kiến nghị bổ
sung, sửa đổi cho LTTTM. Tiêu biểu như Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Minh Ngọc
có đề tài nghiên cứu về “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” [37] cho thấy một số quy định về
TTTM của pháp luật Việt Nam còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa tương thích với
pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế, ví dụ vấn đề về thẩm quyền của HĐTT, các

tranh chấp HĐTT có thể giải quyết v.v... Mặc dù vậy, một số vấn đề được quy định
trong PLTTTM về cơ bản đã phù hợp với pháp luật quốc tế như hiệu lực pháp lý của
PQTT, xác định vấn đề có thể giải quyết bằng TTTM, giá trị pháp lý của thỏa thuận
trọng tài, thẩm quyền của HĐTT.v…v. [11], [88]. Tuy nhiên, TTTM lại vẫn “trong
cảnh thất nghiệp”, vẫn chưa được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam, trái ngược với thực tế
là TA luôn trong tình trạng quá tải [86].
Sau khi LTTTM ra đời, nhiều cơng trình nghiên cứu đã phân tích bối cảnh ra
đời của LTTTM cũng như những điểm mới của LTTTM để cho thấy tinh thần chung
của LTTTM là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động của TTTM, mở
rộng thẩm quyền của TA trong việc hỗ trợ tố tụng trọng tài, giúp tố tụng trọng tài được
thuận lợi, tiết kiệm và hiệu quả hơn [22], [26]. Đồng thời, LTTTM đã tiếp thu được
những nguyên tắc cơ bản nhất về việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM trên thế giới
và trong Luật Mẫu UNCITRAL như nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên
(party autonomy), tính độc lập của thỏa thuận trọng tài (separability) và vấn đề thẩm
quyền của thẩm quyền, tức là quyền được tự xem xét vấn đề thẩm quyền của HĐTT
(competence-competence), tính chung thẩm của PQTT (finality), nguyên tắc tố tụng
công bằng (due process), và nguyên tắc bảo mật (confidentiality) [10]. Đặc biệt là
LTTTM đã đưa phạm vi “hoạt động thương mại” trong pháp luật TTTM Việt Nam đạt

11


đến tiêu chuẩn thế giới theo Luật Mẫu UNCITRAL [122, tr. 2]. Tuy nhiên, khái niệm
“thương mại” ở Việt Nam sẽ được diễn giải phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 3
Luật Thương mại năm 2005 và vẫn có một số ý kiến cho rằng tranh chấp ngồi hợp
đồng sẽ không giải quyết được bằng TTTM tại Việt Nam [90], [123].
1.1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về phân biệt trọng tài thương mại trong
nước và trọng tài thương mại nước ngoài
Do phạm vi thẩm quyền của TA đối với TTTM trong nước và nước ngoài khác
nhau, nên cần phải có các tiêu chí thích hợp để xác định khi nào thì TTTM đó được

xem là TTTM trong nước và khi nào là TTTM nước ngồi. Một số cơng trình tiêu
biểu nghiên cứu về vấn đề này như cuốn “The UNCITRAL Secretariat Guide on the
Convention on the recognition and enforcement of foreign arbitral awards” (Hướng
dẫn của Ban thư ký UNCITRAL về Công ước về công nhận và thi hành PQTT nước
ngồi) [190, tr.18-26], bài viết có tên “When Is an Arbitral Award Nondomestic Under
the New York Convention of 1958?” (Khi nào một PQTT không được coi là phán
quyết nội địa theo Công ước New York 1958?) của giáo sư Albert Jan van de Berg
[200]. Nghiên cứu các tài liệu trên cho thấy quy định tại Điều 1 của Công ước New
York 1958, tiêu chí chủ yếu dựa vào để xác định “quốc tịch” của PQTT là địa điểm
nơi PQTT được cơng bố. Ngồi ra, phụ thuộc vào quy định của pháp luật của từng
quốc gia, một PQTT được tuyên tại chính nước đó nhưng vẫn khơng được coi là
PQTT trong nước (“non-domestic” arbitration) [105, tr. 237], [117, tr. 102-103], [190,
tr.18-26]. Trong trường hợp đó, các PQTT khơng được coi là PQTT trong nước sẽ vẫn
phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành tại quốc gia nơi có tài sản cần thi hành.
Tuy nhiên trên thực tế, quy định này hầu như khơng được áp dụng vì các bên thường
chọn luật điều chỉnh tố tụng trọng tài thông qua việc chọn địa điểm giải quyết tranh
chấp và do đó, có quan điểm cho rằng trọng tài được tiến hành theo pháp luật tố tụng
trọng tài của quốc gia đó được xem là Trọng tài trong nước [200].
Tại Việt Nam, một số cơng trình nghiên cứu cũng luận giải về các tiêu chí để
xác định PQTT trong nước và PQTT nước ngoài theo cả BLTTDS 2004 [20]; [61]

12


cũng như theo quy định hiện hành của LTTTM và BLTTDS 2015 [9]. Theo đó, việc
xác định một PQTT là PQTT trong nước hay PQTT nước ngoài theo pháp luật Việt
Nam hiện nay lại dựa vào tiêu chí quốc tịch của trọng tài chứ khơng phải tiêu chí lãnh
thổ. Năm 2017, TANDTC và Tổ chức Tài chính Quốc tế, các chuyên gia quốc tế và
trong nước đã phối hợp cho ra đời cuốn “Sổ tay pháp luật về Trọng tài và Hịa giải”,
trong đó đưa ra hướng dẫn và làm rõ hơn cách xác định Trọng tài trong nước và Trọng

tài nước ngoài theo pháp luật Việt Nam [71, tr. 22-23]. Tuy nhiên, quan điểm chung
của các tác giả là việc căn cứ vào tiêu chí quốc tịch của trọng tài cũng cịn nhiều bất
cập và khơng phù hợp với Công ước New York và thực tiễn TTTM quốc tế.
Như vậy, có thể thấy khái niệm về TTTM đã được hiểu tương đối thống nhất
trong các cơng trình nghiên cứu, đó là, một cơ quan tài phán tư được thành lập để giải
quyết các tranh chấp về thương mại và có nhiều ưu điểm so với các phương thức giải
quyết tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải v.v.. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có một quan điểm thống nhất về TTTM trong nước và TTTM nước ngoài bởi vì
luật pháp của các nước có quy định khác nhau trong việc phân định thế nào là TTTM
nước ngoài hay TTTM trong nước.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án
đối với trọng tài thương mại
1.1.2.1. Các cơng trình nghiên cứu về thẩm quyền của Tịa án đối với trọng
tài thương mại nói chung
Thứ nhất, đối với vấn đề thẩm quyền tƣ pháp của TA quốc gia nói chung.
Đây là vấn đề đã được nghiên cứu trong nhiều tài liệu, như cuốn “Tinh thần pháp luật”
nổi tiếng của Montesquieu hay “Nhà nước pháp quyền” của Joef Thesing [56]. Ngồi
ra, có một số tài liệu tiêu biểu nghiên cứu chuyên sâu về thẩm quyền tư pháp của TA
trong hệ thống pháp luật của một quốc gia cụ thể và theo các thể chế chính trị khác
nhau. Ví dụ, đối với chính thể cộng hịa tổng thống của Mỹ có ấn phẩm the U.S
Constitution Annotate (Chú giải về Hiến pháp Hoa Kỳ) của Cơ quan nghiên cứu Quốc
Hội Hoa Kỳ [172], chính thể cộng hịa lưỡng tính của Pháp như bài viết “The

13


Judiciary and the Separation of Powers” của tác giả Jean-Marc Sauvé [162] v.v… Từ
đó, cho thấy sự đa dạng trong cách hiểu cũng như cách thực thi, áp dụng thẩm quyền
tư pháp của TA của các quốc gia này.
Liên quan đến vấn đề này, có một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu tại Việt

Nam như cơng trình “Thể chế Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” của tác giả
Nguyễn Đăng Dung [8] hay bài viết “Về quyền tư pháp và chế độ tư pháp ở Việt
Nam” của tác giả Võ Khánh Vinh [94]. Một số tài liệu khác lại phân tích về thẩm
quyền xét xử của TA đối với các vụ việc kinh doanh thương mại nói chung theo pháp
luật tố tụng dân sự của Việt Nam [32]; [44]; [60]. Các cơng trình nghiên cứu này đều
thống nhất rằng quyền tư pháp là một trong những quyền lực quan trong trọng của
Nhà nước, được thực hiện thông qua TA. Thẩm quyền tư pháp của TA được quy định
trong Hiến pháp, gắn với việc được thực hiện hoạt động phân xử và phán xét tính đúng
đắn, tính hợp pháp của các hành vi, quyết định áp dụng pháp luật khi có sự tranh chấp
về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật. Đồng thời, thẩm quyền tư pháp
cũng là là thước đo đối với tính cơng bằng, hiệu quả của hệ thống tư pháp.
Thứ hai, các nghiên cứu chuyên sâu hơn về thẩm quyền của TA đối với
TTTM. Các nghiên cứu này cho thấy thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM
không chỉ thuộc về TA mà cịn có cả sự hỗ trợ của các cơ quan khác như cơ quan
thi hành án dân sự, viện kiểm sát v.v… [88]; [95, tr. 49]. Hơn nữa, so với
PLTTTM, LTTTM quy định thẩm quyền tư pháp của TA đối với hoạt động TTTM
một cách đầy đủ và toàn diện hơn, cả về vai trò hỗ trợ (chỉ định, thay đổi TTV vụ
việc; áp dụng BPKCTT; thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng; đăng ký
PQTT vụ việc) lẫn vai trò giám sát (giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của HĐTT;
giải quyết yêu cầu hủy PQTT) [1]; [2, tr. 49-55]; [63]. Đặc biệt, bài viết “Thẩm
quyền của HĐTT và vai trị của TA trong q trình tố tụng trọng tài” của tác giả
Đào Trí Úc cịn cho rằng “về bản chất, những thẩm quyền của TA phát sinh từ yêu
cầu của HĐTT chính là thẩm quyền của HĐTT chứ không đơn thuần là thẩm quyền
của TA. Chẳng qua các thẩm quyền đó được chuyển hóa thành những thẩm quyền

14


có tính quyền lực của Nhà nước”. [89, tr. 272].
Đáng lưu ý là, có quan điểm khác nhau giữa một số nghiên cứu trong việc

phân chia thẩm quyền hỗ trợ tư pháp và thẩm quyền giám sát của TA Việt Nam đối
với TTTM. Cụ thể, tác giả Nguyễn Thị Yến cho rằng thẩm quyền xem xét hủy hay
không hủy PQTT cũng mang tính chất hỗ trợ TTTM mà khơng phải là giám sát vì
điều đó có thể khắc phục được những sai phạm (nếu có) của HĐTT khi giải quyết
tranh chấp, làm cho vụ tranh chấp được giải quyết thực sự khách quan, cơng bằng,
đúng pháp luật. Trong khi đó, nếu PQTT đã tuyên không rơi vào trường hợp bị hủy
thì quyết định của TA sẽ một lần nữa khẳng định rằng HĐTT đã làm việc công
tâm, đúng pháp luật; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên và phán quyết
đó cần được các bên tơn trọng và tự nguyện thi hành hoặc được cưỡng chế thi hành
[95, tr. 46-51]. Một số tác giả khác cũng có cùng quan điểm như vậy. Theo đó, mặc
dù thẩm quyền hủy PQTT là thẩm quyền giám sát của TA, nhưng trong q trình
xem xét u cầu hủy đó, TA vẫn có thể hỗ trợ TTTM bằng việc loại bỏ căn cứ hủy
khi cho phép HĐTT khắc phục sai sót hoặc xem xét đến việc một bên đã bị mất yêu
cầu phản đối [18], [58] [13].
Ngược lại, một số tác giả lại cho rằng thẩm quyền của TA trong việc (i) Giải
quyết khiếu nại quyết định của HĐTT về thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không
thể thực hiện được và về thẩm quyền của HĐTT và (ii) Yêu cầu hủy PQTT quy
định tại điểm (e) và (f), khoản 1 Điều 7 LTTTM thể hiện sự giám sát của TA đối
với hoạt động TTTM. Các loại việc từ điểm (a) đến điểm (đ) và loại việc đăng ký
PQTT vụ việc thể hiện rõ vai trò hỗ trợ của TA [29, tr. 195-196]. Hiện nay, vấn đề
này vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Thứ ba, nhiều nghiên cứu đã đƣa ra lý giải về sự cần thiết phải có sự
tham gia của TA trong tố tụng trọng tài để hỗ trợ hay giám sát đối với TTTM.
Cụ thể, trong bài viết “A theoretical overview of the foundation of international
commercial arbitration” (Tổng quan lý thuyết về nền tảng của TTTM quốc tế), tác
giả Hong-lin Yu cũng đưa ra lý giải về cách thức tổ chức hoạt động của TTTM và

15



về thẩm quyền hỗ trợ hay giám sát của TA đối với TTTM dựa trên cơ sở bốn lý
thuyết là: (i) Lý thuyết về quyền tài phán (thẩm quyền của TA hay của Trọng tài
đều phải phù hợp với pháp luật của nước có địa điểm giải quyết tranh chấp bằng
TTTM), (ii) Lý thuyết về hợp đồng (xem xét mối quan hệ giữa TTTM và các bên
tranh chấp dưới góc độ pháp luật hợp đồng), (iii) Lý thuyết lai (the hybrid theory)
kết hợp cả lý thuyết về tài phán và lý thuyết về hợp đồng và cuối cùng là (iv) Lý
thuyết về quyền tự thỏa thuận của các bên (the autonomous theory) [138, tr. 255286]. Bài viết có nhan đề “Court Assistance in Arbitration- Some Observations on
the Critical Stand-by Function of the Courts” (Hỗ trợ của TA trong trọng tài – một
vài nhận định về chức năng quan trọng của TA) của tác giả Jan K. Schaefer cũng
phân tích và giải thích về việc tại sao sự hỗ trợ tư pháp của TA là cần thiết và cách
hiểu của vấn đề này dưới góc độ của bên yêu cầu hỗ trợ [163, tr. 251-240].
Tại Việt Nam, những nghiên cứu về thẩm quyền hỗ trợ của TA đối với
TTTM theo PLTTTM có bài viết “Pháp lệnh Trọng tài Thương mại- những thử
thách phía trước” của tác giả Trần Hữu Huỳnh [28] hay bài viết của tác giả
Nguyễn Thị Yến về “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của TTTM
theo PLTTTM 2003” đều có quan điểm rằng TA sẽ là trụ cột cho TTTM phát triển,
và TTTM sẽ khơng phát triển nếu khơng có sự hỗ trợ và giám sát có hiệu quả của
TA [95]. Tuy nhiên, cơ chế hỗ trợ của TA đối với TTTM theo PLTTTM chưa hiệu
quả, đặt TTTM vào vị trí bất lợi hơn nhiều so với TA [58]. Trong khi đó, LTTTM
đã khắc phục được nhiều bất cập của PLTTTM [22] và sự cần thiết phải có sự hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng đã được tác giả Phạm Thị Hồng Đào lý
giải dựa trên bản chất của TTTM, yêu cầu thực tiễn giải quyết tranh chấp và yêu
cầu quản lý của nhà nước [18].
Mặt khác, nhiều ý kiến trái chiều cũng được đưa ra liên quan đến vai trị của
TA đối với TTTM. Có ý kiến cho rằng nếu khơng có sự hỗ trợ tư pháp của TA thì
TTTM chỉ là vơ nghĩa [83], [87]; TTTM khơng thể phát triển mà khơng có sự hợp
tác và kiểm sốt cuối cùng của TA quốc gia [39, tr.24]. Có ý kiến lại cho rằng, sự

16



hỗ trợ của TA chỉ là giải pháp cần thiết trong những trường hợp nhất định để khắc
phục sự hạn chế liên quan đến thẩm quyền của TTTM với tư cách là một tổ chức
phi chính phủ [43], [44].
Tuy nhiên, nhiều cơng trình nghiên cứu đều thống nhất rằng vai trị của TA
đối với TTTM được thể hiện khơng giống nhau ở từng giai đoạn trong quá trình
giải quyết tranh chấp, mà cụ thể là trước khi tố tụng trọng tài bắt đầu, trong khi tiến
hành tố tụng trọng tài và sau khi phán quyết được ban hành, tức là kể cả sau khi kết
thúc tố tụng trọng tài [89, tr 275]. Trên cơ sở đó, trong phần nội dung dưới đây,
NCS sẽ tổng quan các cơng trình nghiên cứu về nội dung cụ thể của thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM dựa trên từng giai đoạn như đã nêu.
1.1.2.2. Các cơng trình nghiên cứu về nội dung cụ thể của thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của Tòa án đối với trọng tài thương mại trước khi bắt đầu và trong quá
trình tố tụng trọng tài
Thứ nhất, đã có nhiều nghiên cứu đi sâu phân tích cụ thể đối với từng thẩm
quyền nổi bật trong hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA quốc gia đối với TTTM trước
khi bắt đầu và trong quá trình tố tụng trọng tài. Cụ thể
Đối với việc thi hành thỏa thuận trọng tài. Căn cứ vào quy định tại khoản 3
Điều II của Công ước New York và khoản 1 Điều 8 của Luật Mẫu UNCITRAL,
hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất rằng TA có nghĩa vụ từ chối thụ lý đơn kiện
và hướng các bên tranh chấp ra trọng tài khi giữa các bên đã có một thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực [148, tr. 362], [187]. Đặc biệt, trong ấn phẩm “Bình luận Bộ
luật Tố tụng Dân sự, Luật Trọng tài Thương mại và thực tiễn xét xử”, khi phân tích
về nội dung thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong việc giải quyết khiếu nại đối
với quyết định về thẩm quyền của HĐTT, tác giả Tưởng Duy Lượng đã nhấn mạnh
rằng khi có đương sự khiếu nại quyết định về thẩm quyền của HĐTT thì TA cũng
chỉ xem xét trong phạm vi xác định TTTM có thẩm quyền hay khơng, chứ khơng
được giải quyết tranh chấp đó [29, tr. 220].

17



Đối với thẩm quyền của TA trong việc chỉ định và thay thế TTV Trọng tài vụ
việc. Nhiều cơng trình đã nghiên cứu cả quy định và thực tiễn áp dụng quy định của
pháp luật quốc tế liên quan đến ý nghĩa của thẩm quyền này [102, tr. 129], hay tiêu
chuẩn để lựa chọn, thay thế, chỉ định TTV [145], [149]. Tại Việt Nam, chưa có
nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề này mà mới chỉ có một số nghiên cứu dựa
trên một vài vụ việc thực tế của tác giả Đỗ Văn Đại trong ấn phẩm “Pháp luật
Trọng tài Thương mại Việt Nam- Bản án và bình luận bản án” (xuất bản năm
2017) hoặc được đề cập một phần trong bài viết “Giải quyết bằng Trọng tài
Thương mại adhoc ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” của tác giả Phan Thơng
Anh. Cịn lại các bài viết thường chỉ mới dừng lại ở việc diễn giải quy định của
pháp luật chứ chưa phân tích được thực tiễn áp dụng các quy định này trên thực tế
[29, tr. 209-219], [71, tr. 62-66].
Về thẩm quyền của TA trong việc áp dụng, thay đổi, hủy BPKCTT nhằm hỗ
trợ TTTM. Do đây là một trong những thẩm quyền hỗ trợ tư pháp quan trọng của
TA đối với TTTM nên đây có thể được xem là một trong những đề tài được nghiên
cứu nhiều nhất [33, tr. 70-80]; [36]; [59]. Cụ thể, nhiều bài viết đã phân tích sự cần
thiết của thẩm quyền này của TA đối với tố tụng trọng tài là vì có nhiều trường hợp
mà HĐTT khơng thể áp dụng BPKCTT ngay lập tức, do đó sẽ khó mà bảo vệ được
chứng cứ hay ngăn chặn thiệt hại [152, tr. 123], [157, tr. 108]; hay khi HĐTT
khơng có thẩm quyền áp dụng một biện pháp cụ thể nào đó [137]. Ngồi ra cịn có
các nghiên cứu về trình tự thủ tục áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT, các
biện pháp mà TA có thể áp dụng đối với việc giải quyết tranh chấp tại TTTM, các
rủi ro và các yếu tố phải được chứng minh để TA chấp nhận áp dụng các BPKCTT
đó [59, tr. 84-85], [208].
Về việc thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng. Hầu hết các nghiên
cứu đều chỉ ra rằng chỉ có TA của quốc gia nơi giải quyết tranh chấp bằng TTTM
mới có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM trong việc thu thập chứng cứ và
triệu tập người làm chứng [102, tr. 177-13]. Tuy nhiên, thủ tục tiến hành và điều


18


×