Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua hoạt động nghệ thuật tại câu lạc bộ trúc xinh (nhà văn hóa thiếu nhi thành phố bắc ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
**************

Vâ thÞ hà phương

Giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua hoạt Động
nghệ thuật tại câu lạc bộ trúc xinh
(nhà văn hóa thiếu nhi thành phố bắc ninh)

LUN VN THC S VĂN HÓA HỌC

(8 quyen y mau, co chu gay, mau 7 san)

HÀ NỘI – 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT
VỚI GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI ................................................ 9
1.1Những vấn đề về giáo dục thẩm mỹ ................................................................. 9
1.1.1 Khái niệm về thẩm mỹ ............................................................................. 9
1.1.2 Bản chất của giáo dục thẩm mỹ ............................................................. 11
1.1.3 Các hình thức, biện pháp giáo dục thẩm mỹ........................................... 16
1.2 Đặc điểm lứa tuổi thiếu nhi ........................................................................... 18
1.2.1 Quan niệm về thiếu nhi .......................................................................... 18
1.2.2 Đặc điểm trí tuệ lứa tuổi thiếu nhi.......................................................... 20
1.2.3 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu nhi ......................................................... 23
1.3 Hoạt động động nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi .............. 28


1.3.1 Đặc trưng của hoạt động nghệ thuật ....................................................... 28
1.3.2 Nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ .......................................................... 32
1.3.3 Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi................. 39
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 42
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI
THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT TẠI CÂU LẠC BỘ TRÚC
XINH .................................................................................................................... 43
2.1. Khái quát về Câu lạc bộ Trúc Xinh ............................................................. 43
2.1.1. Cơ cấu tổ chức câu lạc bộ Trúc Xinh .................................................... 43
2.1.2 Đối tượng phục vụ của câu lạc bộ Trúc Xinh ........................................ 45
2.1.3 Mơ hình hoạt động của câu lạc bộ Trúc Xinh........................................ 46
2.2 Thực trạng hoạt động nghệ thuật tại Câu lạc bộ Trúc Xinh ...................... 48
2.2.1 Hoạt động dạy và học nghệ thuật .......................................................... 48
2.2.2 Hoạt động sáng tác nghệ thuật .............................................................. 68
2.2.3 Hoạt động biểu diễn, triển lãm nghệ thuật ............................................. 78
2.2.4 Hoạt động giao lưu, thưởng thức nghệ thuật ......................................... 83
2.2.5 Hoạt động đọc và làm theo sách............................................................ 84
2.3 Tác động của hoạt động nghệ thuật tại Câu lạc bộ Trúc Xinh tới việc phát
triển thẩm mỹ cho thiếu nhi ................................................................................ 86
2.3.1 Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ.................................................. 86
2.3.2 Hình thành thị hiếu thẩm mỹ tích cực ................................................... 90
2.3.3 Phát triển năng lực sáng tạo thẩm mỹ................................................... 93
2.4. Những hạn chế trong các hoạt động nghệ thuật tại Câu lạc bộ Trúc Xinh với
việc giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi................................................................... 97
2.4.1. Hạn chế trong hoạt động dạy và học nghệ thuật .................................... 97
2.4.2 Hạn chế trong hoạt động sáng tác nghệ thuật ........................................ 98


2.4.3 Hạn chế trong công tác tổ chức các chương trình giao lưu, biểu diễn,
thưởng thức nghệ thuật .......................................................................................... 99

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 100
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI TẠI CÂU LẠC BỘ TRÚC XINH THÔNG
QUA CÁC HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT ...................................................... 102
3.1 Nâng cao chất lượng nghệ thuật ................................................................ 102
3.1.1 Hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, giáo viên. ..... 102
3.1.2 Nâng cao chất lượng các sáng tác nghệ thuật ...................................... 104
3.1.3 Chọn lọc và đầu tư chất lượng cho các tiết mục và chương trình biểu diễn
nghệ thuật. ........................................................................................................... 106
3.2 Tổ chức các hoạt động nghệ thuật phù hợp với tâm lý lứa tuổi thiếu nhi 108
3.2.1 Lập kế hoạch tổng thể tổ chức các hoạt động nghệ thuật theo từng giai
đoạn trong năm .................................................................................. 108
3.2.2 Căn cứ vào tâm lý, nhu cầu thiếu nhi, lựa chọn hình thức, nội dung,
phương pháp tổ chức hoạt động nghệ thuật phù hợp. ......................... 108
3.2.3 Đa dạng hóa các loại hình họat động nghệ thuật ................................. 111
3.3. Xây dựng chương trình giáo dục thẩm mỹ toàn diện trên cơ sở phối hợp và
tăng cường tổ chức các cuộc thi, giao lưu biểu diễn nghệ thuật ...................... 113
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 115
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 118
PHỤ LỤC...............................................................................................................136


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

CLB


Câu lạc bộ

ĐBSH

Đồng bằng sông Hồng

HĐNT

Hoạt động nghệ thuật

GDTM

Giáo dục thẩm mỹ

NTN

Nhà thiếu nhi

PGS.TSKH

Phó giáo sư tiến sĩ khoa học

THCS

Trung học cơ sở

TNCS HCM

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh


TP

Thành phố

TNTP

Thiếu niên Tiền phong

TTVH – TT

Trung tâm Văn hóa thể thao

VHTT&DL

Văn hóa Thể thao và Du lịch


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn cho lứa tuổi thiếu nhi trong
hưởng thụ, đánh giá, thực hành và sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật đang trở thành
vấn đề được quan tâm nhiều hơn trong nhà trường và xã hội.
Sự tiếp cận và giao lưu văn hóa quốc tế rộng rãi đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến
việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật của lứa tuổi thiếu nhi. Thông
qua sự tiếp cận này, các em có điều kiện hơn trong việc thưởng thức cái hay, cái đẹp
của các nền văn hóa trên Thế giới. Từ đó, thị hiếu thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật của
các em được phát triển một cách đa dạng và ngày càng phong phú hơn. Tuy nhiên,
dưới tác động của hội nhập, khuynh hướng thương mại hóa văn hóa đã tác động

không nhỏ đến thị hiếu, thẩm mỹ của tuổi trẻ. Thị hiếu, thẩm mỹ nghệ thuật ở các em
có sự đan xen nhiều kiểu, nhiều dạng khác nhau: có thị hiếu tốt, có thị hiếu khơng
lành mạnh, trái với truyền thống văn hóa dân tộc. Chính những thị hiếu sai lệch đó đã
dẫn đến sự suy thối về đạo đức và lối sống của khơng ít em khi lớn lên sau này.
Có thể nói, việc đưa nghệ thuật vào giáo dục thẩm mỹ sẽ là biện pháp hữu
hiệu, lâu dài để định hướng thẩm mỹ và phát triển năng lực sáng tạo thẩm mỹ trong
nghệ thuật nói riêng và trong cuộc sống nói chung cho thiếu nhi – nguồn lực tiềm
năng của đất nước.
Câu lạc bộ Trúc Xinh – Nhà thiếu nhi Thành phố Bắc Ninh tuy mới thành lập
cách đây vài năm nhưng đã mạnh dạn thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ cho
thiếu nhi thông qua các hoạt động sinh hoạt nghệ thuật sâu sắc và phong phú. Tuy
nhiên, chiến lược và các hoạt động giáo dục của câu lạc bộ vẫn chưa thực sự hoàn
thiện và còn vấp phải nhiều hạn chế, khiến cho hiệu quả giáo dục chưa cao. Do đó,
câu lạc bộ này cần có những nghiên cứu sâu hơn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua các hoạt động nghệ thuật.
Xuất phát từ tình hình đó, tác giả quyết định chọn đề tài: “Giáo dục thẩm mỹ cho
thiếu nhi thông qua hoạt động nghệ thuật tại câu lạc bộ Trúc Xinh” để nghiên cứu và bảo
vệ trong lễ bảo vệ luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Về các vấn đề Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục lý
tưởng thẩm mỹ, vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ…, ở nước ta cho đến
nay đã có một số cơng trình nghiên cứu và đề cập như: “Giáo dục thẩm mỹ và xây
dựng con người mới” – Tác giả Lê Anh Trà; “Giáo dục thẩm mỹ, mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn” – Tác Giả Đỗ Huy; “Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng lực sáng
tạo của con người” của TS Nguyễn Ngọc Thu”… là những cơng trình có tính chất
chun sâu về mỹ học và GDTM. Các tác giả của những cơng trình này đã đi sâu
nghiên cứu những phương diện khác nhau của GDTM, vai trò của GDTM, quan hệ
biện chứng giữa giáo dục đạo đức với GDTM và khẳng định vai trò quan trọng của

GDTM đối với việc xây dựng và phát triển toàn diện con người, đặc biệt là đối với
thế hệ trẻ hiện nay.
Các tác giả như Vũ Khiêu, Như Thiết, Nguyễn Văn Huyên, Hồng Mai, Lương
Quỳnh Khuê… đã bàn nhiều đến mối quan hệ của nghệ thuật và công chúng. Một số
luận án Tiến sỹ nhiều năm về trước cũng đã nghiên cứu những khía cạnh và hình
thức cụ thể của GDTM bằng nghệ thuật. Chẳng hạn như trong nghiên cứu: “Giáo dục
thẩm mỹ cho thanh niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hóa”, tác giả đã phân
tích Vai trị của giáo dục thẩm mỹ đối với việc hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa
cho thanh niên; những tác động của các giá trị văn hóa truyền thống và sự phát triển
kinh tế - xã hội với việc giáo dục lý tưởng thẩm mỹ ở hệ thống thiết chế nhà văn hóa,
từ đó đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng thẩm
mỹ cho thanh niên trong hệ thống thiết chế nhà văn hóa. Các tác giả Lê Quang Vinh –
“Vai trị của văn học trong giáo dục thẩm mỹ”, tác giả Đỗ Xuân Hà - “Giáo dục thẩm
mỹ, món nợ lớn đối với thế hệ trẻ; Tác giả Trần Túy - “Vai trò của nghệ thuật trong giáo
dục thẩm mỹ”… đã đi vào nghiên cứu sâu hơn về mỗi quan hệ, cơ chế tác động của
nghệ thuật trong quá trình giáo dục thẩm mỹ.
Quan hệ của nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ là một vấn đề rất sâu, rộng và phức
tạp, đặc biệt là cơ chế tác động của nghệ thuật tới các nhóm cơng chúng khác nhau. Các
tác giả cũng những nghiên cứu đi trước đã khai thác rất nhiều về giáo dục thẩm mỹ và cơ
chế tiếp nhận trong giáo dục thẩm mỹ, một số cơng trình đã đề cập đến vấn đề giáo dục
thẩm mỹ thông qua nghệ thuật và các phong trào văn hóa văn nghệ. Tuy nhiên, các đề tài
này chủ yếu đề cập chung chung, không hướng đến lứa tuổi cụ thể trong phạm vi cụ thể
nào.


Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được của những cơng trình đi
trước, luận văn này sẽ tập trung đi sâu vào nghiên cứu cụ thể hơn về các hoạt động
nghệ thuật nhằm giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi tại câu lạc bộ Trúc Xinh – Nhà
thiếu nhi Thành phố Bắc Ninh
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giáo dục thẩm mỹ, nghệ thuật
và tầm quan trọng của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, luận văn khảo sát và đánh
giá thực trạng các hoạt động nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi tại câu
lạc bộ Trúc Xinh – Nhà thiếu nhi Thành phố Bắc Ninh. Từ đó, tác giả đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và nâng cao giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi
thông qua các hoạt động nghệ thuật tại câu lạc bộ Trúc Xinh.
Nhiệm vụ:
- Phân tích vai trị, tác động của nghệ thuật trong việc hình thành xúc cảm, thị
hiếu và lý tưởng thẩm mỹ lành mạnh, đúng đắn, cao đẹp.
- Khảo sát các hoạt động nghệ thuật và tác động của nó tới q trình giáo dục
thẩm mỹ cho thiếu nhi tại câu lạc bộ Trúc Xinh.
- Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của câu
lạc bộ trong việc đưa nghệ thuật vào giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào vấn đề lý luận thực tiễn về bản chất, vai trò của giáo
dục thẩm mỹ, tác động của nghệ thuật đối với việc giáo dục thẩm mỹ , trong đó đặc
biệt chú ý tới đối tượng thiếu niên, nhi đồng.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu các hoạt động nghệ thuật trong chương trình
giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi tại câu lạc bộ Trúc Xinh – Nhà thiếu nhi Thành phố
Bắc Ninh trong giai đoạn từ 2005 – 2010.


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận Mỹ học, giáo dục học, Tâm lý học, văn hóa
học của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tuởng Hồ Chí Minh để phân tích bản chất của
giáo dục thẩm mỹ và vai trị của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ.

Tác giả cũng đã vận dụng những nghị quyết của Đảng, những chỉ đạo trong
văn kiện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng thời có tham khảo các cơng trình nghiên
cứu khoa học trước đây để hồn thành luận văn của mình.
Trong q trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp: Phân tích,
tổng hợp, lịch sử và logic, phương pháp điều tra xã hội học, sử dụng các kiến thức
liên ngành về văn hóa nghệ thuật.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Luận văn vận dụng những phát hiện mới trong nghiên cứu nghệ thuật nhằm
phân tích sâu hơn vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ và cơ chế tác động
của nó đến sự phát triển hài hòa nhân cách của thiếu nhi.
Luận văn nghiên cứu thực trạng quá trình hoạt động của câu lạc bộ Trúc Xinh
– Nhà thiếu nhi Thành Phố Bắc Ninh, chương trình giáo dục thẩm mỹ kết hợp với
những bộ mơn và các hoạt động nghệ thuật cho thiếu nhi, từ đó rút ra những kết luận
về các mặt tích cực, hạn chế và các nguyên nhân
Luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao việc giáo dục thẩm mỹ
cho thiếu nhi tại câu lạc bộ Trúc Xinh qua các hoạt động nghệ thuật.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động nghệ thuật với giáo dục
thẩm mỹ cho thiếu nhi.
Chương 2: Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua hoạt
động nghệ thuật tại câu lạc bộ Trúc Xinh.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cho thiếu
nhi qua các hoạt động nghệ thuật tại câu lạc bộ Trúc Xinh.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT VỚI GIÁO
DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI


1.1

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC THẤM MỸ

1.1.1 Khái niệm về thẩm mỹ
Trong thực tế có rất nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của cái đẹp, cái
thẩm mỹ. Các nhà Triết học duy tâm chủ quan, khách quan quan niệm cái đẹp là một
loại cảm giác đặc biệt của một cá nhân nào đó, là trị chơi cầu kỳ của trí tưởng tượng,
là những phán đốn thuần t của đầu óc con người hoặc là hình ảnh của một ý niệm
tuyệt đối, là hồi quang của cái đẹp vĩnh cửu và siêu nhiên, khơng liên hệ gì với hiện
thực, là sự linh cảm thần bí. Với quan niệm như vậy thì vai trò của giáo dục thẩm mỹ
hoặc đã bị phủ nhận hoặc nó chỉ là nhân tố bên ngồi có tác dụng làm tăng nhanh hay
kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự nhiên bị chế ước bởi tính di truyền mà
thôi.
Đối lập với các quan điểm trên, mỹ học Mác – Lê nin với tư cách là một
ngành khoa học triết học, nghiên cứu lĩnh vực cái thẩm mỹ như là biểu hiện chuyên
biệt của các quan hệ giá trị của con người đối với thế giới và lĩnh vực hoạt động nghệ
thuật của con người.
Mỹ học Mác – Lê nin đã vạch ra bản chất của thẩm mỹ trong đời sống, trong
nghệ thuật, đề ra nguyên tắc chung của việc chiếm lĩnh thế giới về mặt thẩm mỹ, phát
hiện các quy luật hoạt động thẩm mỹ của con người. Cái đẹp và cái xấu, cái bi và cái
hài, cái cao cả và cái thấp hèn, cái anh hùng và cái đê tiện – đó là những thuộc tính có
thực của mọi sự vật, hiện tượng và tình huống trong hiện thực, được cảm nhận bằng
tình cảm thẩm mỹ và được biểu hiện trong những cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ.
Mỹ học Mác – Lê nin còn khẳng định cái đẹp là một giá trị, nguồn gốc của cái
đẹp là cuộc sống, là hiện thực xã hội với tồn bộ tính đa dạng của nó, nó tồn tại một
cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của riêng ai. Và cuộc sống cao hơn
nghệ thuật, nhưng nghệ thuật là lĩnh vực tập trung một cách cô đọng cái đẹp của hiện
thực, đồng thời cũng là công cụ để xã hội tác động đến những khía cạnh thầm kín và

sâu xa trong tâm hồn con người, nghệ thuật phản ánh chân thành cuộc sống đồng thời
phê phán, đánh giá và làm lại cuộc sống theo lý tưởng thẩm mĩ của người nghệ sỹ,


xây dựng một mơ hình – hình tượng cao hơn cuộc sống. Nghệ thuật chân chính kích
thích “người nghệ sỹ” trong mỗi con người, nghĩa là xây dựng trong mỗi con người
sự nhạy cảm về cái đẹp và lòng mong muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống hiện thực.
Nghệ thuật có khả năng mạnh mẽ thống nhất tình cảm, tư tưởng – ý chí của quần
chúng theo phương hướng của lý tưởng cách mạnh.
Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở của quan hệ thẩm mĩ đối với hiện
thực. Chính trong hoạt động mang tính xã hội này đã hình thành nên năng lực sáng
tạo theo quy luật cái đẹp và xem xét mọi sự vật, hiện tượng với cái “độ thẩm mỹ”.
Nhờ đó con người đã tìm thấy trong thế giới tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong
nghệ thuật cái thẩm mĩ đa dạng.
Như vậy:
Cái đẹp là một giá trị, bằng hành động của chính mình con người mới nhận
thức được cái giá trị đó.
Theo đó, Giáo sư Nguyễn Lân, trong cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt đã định
nghĩa:
Thẩm mỹ là hiểu biết và thưởng thức cái đẹp
Đời sống thẩm mỹ được cấu thành bởi ba bộ phận sau:
Bản chất của đời sống thẩm mỹ

Trong đó:

Khách
thể
thẩm
mỹ


Chủ
thể
thẩm
mỹ

Nghệ
thuật

- Chủ thể thẩm mỹ: Phản ánh các hoạt động của con người thông qua giác
quan như cảm xúc thẩm mỹ và ý thức thẩm mỹ.
Đối tượng thẩm mỹ đó là:
Cái đẹp
Của tự nhiên và xã hội
Cái xấu
Cái bi
Cái hài


- Khách thể thẩm mỹ: Nói đến cái xấu, cái đẹp, cái trác tuyệt, cái bi kịch, cái
hài kịch. Chúng có quan hệ với nhau.
- Nghệ thuật: Được xem là phương tiện quan trọng để thực hiện giáo dục
thẩm mỹ.
Cùng với sự ra đời và phát triển của giới tự nhiên, lồi người cũng dần dần
từng bước tiến hóa, tự hồn thiện mình. Từ đó, đối tượng thẩm mỹ được phát triển.
Trước đây con người chỉ biết ăn no, mặc ấm, nhưng giờ đây nhu cầu đó khơng cịn
đáp ứng nữa. Thay vào đó là: ăn ngon, mặc đẹp.
Như vậy, chúng ta thừa nhận: “Sống đúng, sống tốt, sống đẹp” không chỉ là
khát vọng của một dân tộc mà là khát vọng của tồn nhân loại từ cổ chí kim, từ Bắc
đến Nam, từ Đông sang Tây. Nhưng việc sống thế nào cho đúng, cho tốt, cho đẹp vẫn
luôn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp thuyết phục. Tuy vậy, theo quan điểm của

Nho giáo, Phật giáo đế nay, các chuẩn mực đó vẫn xoay quanh trục giá trị: Chân –
Thiện – Mỹ với một hệ thống giá trị tương ứng.
Thẩm mỹ cũng là mục tiêu giáo dục mà xã hội ngày nay đang thực hiện. Giáo
dục thẩm mỹ là một bộ phận tất yếu hợp thành của hệ thống giáo dục, nhằm tạo ra
những con người phát triển toàn diện.
1.1.2 Bản chất của giáo dục thẩm mỹ
1.1.2.1 Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành của giáo dục xã hội
Theo nghĩa hẹp, giáo dục thẩm mỹ là q trình tác động có định hướng, có kế
hoạch và có ý thức của con người nhằm hình thành và phát triển trong họ các năng
lực nhận thức, cảm thụ và sáng tạo các giá trị thẩm mỹ. Nói cách khác, mục đích trực
tiếp của giáo dục thẩm mỹ là phát triển năng lực hoạt động lĩnh vực thẩm mỹ với tính
cách là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người. Trong sự tương ứng với các
năng lực nhận thức, đạo đức và các năng lực thực tiễn, năng lực thẩm mỹ tham gia
vào sự hình thành nhân cách toàn vẹn của con người. Do vậy, sự phát triển nhân cách
phụ thuộc vào sự phát triển của năng lực thẩm mỹ như là một bộ phận, một thành tố
cấu thành nhân cách. Trong cơ cấu chung của nhân cách, năng lực thẩm mỹ có qua
lại với các năng lực ngồi thẩm mỹ. Nó chịu ảnh hưởng của năng lực nhận thức, đạo
đức cũng như năng lực thực tiễn, đồng thời lại ảnh hưởng tới sự phát triển của các
năng lực này. Vì vậy, giáo dục thẩm mỹ với tính cách là q trình hình thành và phát
triển năng lực thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành hữu cơ của giáo dục xã hội. Nó


thống nhất và tác động qua lại với giáo dục nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thể
lực và giáo dục các năng lực cụ thể khác. Tuy nhiên, năng lực thẩm mỹ của con
người không chỉ được thể hiện và thực hiện trong sự đồng hóa hiện thực về mặt thẩm
mỹ như là một lĩnh vực hoạt động chun biệt của con người. Khơng phải chỉ trong
q trình nhận thức, cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ con người mới thể hiện năng lực
thẩm mỹ.
Trong quá trình đồng hóa hiện thực nói chung, nghĩa là trong mọi hoạt động
sống của mình, con người đều có thể “áp dụng thước đo thích hợp cho đối tượng. Do

đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”[4, tr.93] . Như vậy,
trong khi thể hiện các năng lực ngoài thẩm mỹ, con người vẫn hoạt động theo quy
luật của cái đẹp, tạo ra khía cạnh thẩm mỹ cho các hoạt động đó. Mức độ bộc lộ khía
cạnh thẩm mỹ của các hoạt động sống của con người, nhìn chung, phụ thuộc vào mức
độ phát triển các năng lực nhân cách của họ. Sự hoàn thiện nhân cách là đảm bảo cho
khả năng hoạt động theo quy luật cái đẹp của con người. Do đó, giáo dục nói chung,
với tính các là q trình làm phát triển tồn diện nhân cách cũng chính là q trình
àm phát triển năng lực thẩm mỹ của con người, năng lực hoạt động theo quy luật của
cái đẹp. Theo nghĩa đó, giáo dục xã hội cũng chính là giáo dục thẩm mỹ. Chính xác
hơn, giáo dục xã hội, tự nó và về bản chất đã bao chứa, đã bộc ộ khía cạnh giáo dục
thẩm mỹ.
Như vậy, theo nghĩa rộng, giáo dục thẩm mỹ bao chứa hai phương diện:
Phương diện hình thành năng lực thẩm mỹ với tính cách là năng lực đặc thù (trong sự
tương ứng với các năng lực ngoài thẩm mỹ) và phương diện hình thành năng lực hoạt
động theo quy luật cái đẹp trong mọi lĩnh vực của xã hội và con người. Sự thống nhất
giữa giáo dục thẩm mỹ và giáo dục xã hội, vai trò của giáo dục thẩm mỹ với tính cách là
một bộ phận hợp thành hữu cơ của giáo dục xã hội cần được xem xét theo cả nghĩa rộng
và nghĩa hẹp như vậy.
Vì thế, giáo dục thẩm mỹ, theo quan điểm Mác xít được thể hiện trong tất cả
các lĩnh vực hoạt động xã hội và con người.
1.1.2.2 Tính đặc thù của giáo dục thẩm mỹ
Trung tâm của giáo dục thẩm mỹ là tạo ra những năng lực hiểu biết, đánh giá
và sáng tạo thẩm mỹ. Xét từ góc độ mỹ học, xây dựng con người phát triển toàn diện


chính là hình thành một chủ thể thẩm mỹ tài năng, sáng tạo. Chủ thể thẩm mỹ là con
người – xã hội có ý thức xã hội nói chung và có ý thức thẩm mỹ nói riêng. Một chủ
thể thẩm mỹ không thể sống và sáng tạo theo quy luật của cái đẹp nếu như khơng có
những năng lực giúp con người đồng hóa thẩm mỹ với hiện thực.
Năng lực là một phạm trù của tâm lý học dung để chỉ các thuộc tính tâm sinh

lý cũng như phẩm chất về thể chất và tinh thần của mỗi cá nhân giúp họ hoạt động
tích cực trong đời sống xã hội. Nói cách khác, năng lực là một tổng hợp những thuộc
tính của cá nhân con người, đáp ứng nhu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động có kết
quả cao.
Năng lực thẩm mỹ với tính cách là năng lực hoạt động, chỉ có thể hình thành
trong thực tiễn thẩm mỹ. Mác đã chỉ ra rằng do hoạt động thực tiễn mà con người
khác loài vật. Hành động lịch sử đầu tiên của con người là sáng tạo ra công cụ lao
động. Chính việc sáng tạo ra cơng cụ lao động đã tách con người khỏi thế giới động
vật. Khi có cơng cụ sản xuất thì con người khơng chỉ ăn những thứ có sẵn trong tự
nhiên mà cịn sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình,
biết tạo ra thước đo khơng chỉ cho mình mà cịn cho mn lồi, do đó: “Con người
cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”[3, tr.93] . Quy luật của cái đẹp
được Mác hiểu không phải đơn giản là một trong những mặt mà là một trong những
mặt căn bản của hoạt động thực tiễn. Do vậy, thực tiễn thẩm mỹ rõ ràng là một hoạt
động sáng tạo. Mác đã viết rằng: “Chỉ có thơng qua sự phong phú đã được phát triển
về mặt vật chất của bản thân con người thì sự phong phú của tính cảm giác chủ
quan của con người mới phát triển và một phần, thậm chí lần đầu tiên mới được sản
sinh ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức”[3, tr.137]. Lỗ
tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức là hoạt động đặc thù của
chủ thể thẩm mỹ.
Thống nhất trong các hoạt động của con người với tư cách con người tộc loại
và các quan hệ xã hội của con người, Mác đã đặt cơ sở thiết yếu nhất cho quá trình
con người trở thành một chủ thể thẩm mỹ. Khi Mác mượn câu nói của Phrăngcơlanh
để định nghĩa: “Người là động vật biết chế tạo cơng cụ lao động” thì ở đó Mác đã
nhìn thấy con người là sản phẩm trực tiếp của tự nhiên, và thơng qua lao động nó sẽ
tự phát hiện ra cái năng khiếu tiềm tàng trong bản thân mình. Bản chất của giáo dục
thẩm mỹ khơng hề gói trọn trong ý nghĩa là giáo dục có tính trường quy. Khái niệm


giáo dục thẩm mỹ mang ý nghĩa hình thành thẩm mỹ. Đó là q trình con người được

trưởng thành về nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ thông qua lao động. Nhờ lao
động, con người đã tác động vào thiên nhiên, cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ
đời sống cho con người. Bằng lao động con người đã biến mình thành sản phẩm trực
tiếp của tự nhiên, thành con người xã hội. Con người vừa là một thực thể của tự
nhiên, vừa là một thực thể của xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, các quan hệ xã
hội của con người được hình thành. Từ thực tiễn, con người tự rèn luyện, tự trưởng
thành, tự giáo dục và tự phát triển chính bản thân mình. Bản chất thật sự của giáo dục
thẩm mỹ là bằng thực tiễn thẩm mỹ , con người đã trở thành một chủ thể thẩm mỹ
biết nhận thức, cải tạo và đánh giá mọi quan hệ của con người theo quy luật của cái
đẹp. Thông qua lao động, con người đã phát hiện ra rằng vẻ đẹp và tính hữu ích gắn bó
chặt chẽ với nhau. Nhờ lao động, ở con người đã nảy sinh những tình cảm thẩm mỹ, các
nhu cầu, thị hiếu và lý tưởng về cái đẹp. Nhờ lao động, con người đã biết phân biệt cái
xinh xắn với cái quái gở, cái đẹp với cái xấu. Các chuẩn mực xã hội về mặt thẩm mỹ đã
xuất hiện cùng lao động.
Từ thực tiễn, Mác đã nhìn thấy tồn bộ sự vận động mãnh liệt của con người
và xã hội con người mà trước đó người ta đã khơng hiểu được hoặc hiểu một cách sai
lệch về sự vận động của con người. Và cũng bằng cách hiểu mang tính chất cách
mạng về con người, trên thực tế, Mác đã mở đường cho cả quá trình thưởng thức,
đánh giá và sáng tạo chủ thể thẩm mỹ.
Mác cho rằng, đầu tiên con người phải ăn, mặc, ở, đi lại và làm việc rồi sau đó
mới đến làm triết học, nghệ thuật. Dưới ánh sáng của quan điểm thực tiễn, quan điểm
về con người của Mác, quan hệ thẩm mỹ xuất hiện muộn hơn quan hệ thực dụng.
Nói một cách khác, lịch sử lao động dài hơn lịch sử quan hệ thẩm mỹ. Con người
lòng nặng trĩu lo âu chuyện sinh tồn thì khơng có cảm giác gì về thẩm mỹ. Lúc đầu,
những nhu cầu về sinh tồn chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong đời sống con
người. Trong quá trình lao động thực tiễn, con người đã tự hồn thiện thơng qua việc
hồn thiện các cơng cụ sản xuất và cơng cụ chiến đấu. Đó là q trình thẩm mỹ hóa
quan trọng của chủ thể người. Đối với mỹ học và nghiên cứu nghệ thuật, quan điểm
thực tiễn của Mác lần đầu tiên trong lịch sử mỹ học đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng
giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng thẩm mỹ. Chính nhờ thơng qua thực tiễn mà chủ

thể thẩm mỹ đã phát hiện thấy các giá trị thẩm mỹ của đối tượng. Nhờ hoạt động thực


tiễn của con người mà sự vật được trải ra thành một thế giới quan hệ biết bao phong
phú.
Theo Mác, q trình đồng hóa của con người về mặt thẩm mỹ bao gồm sự
tương tác của cấu trúc sau đây:
- Cấu trúc của bản thân đối tượng thẩm mỹ
- Cấu trúc của chủ thể thẩm mỹ tác động vào đối tượng thẩm mỹ
- Cấu trúc của quan hệ giữa đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ
- Cấu trúc của sản phẩm quan hệ thẩm mỹ giữa chủ thể và đối tượng
- Tái cấu trúc quan hệ thẩm mỹ mới cao hơn, phù hợp hơn với hoạt động thực
tiễn mới của con người.
Đây là cơ chế của mối quan hệ thẩm mỹ nói chung và cũng là cơ chế của quan
hệ giữa chủ thể và đối tượng trong giáo dục thẩm mỹ
1.1.2.3 Sự thống nhất giữa cái xã hội và cái sinh học người trong giáo dục thẩm mỹ
Để hình thành một chủ thể thẩm mỹ có khả năng cảm thụ, đánh giá và sáng
tạo thẩm mỹ cũng như nghệ thuật, không thể bỏ qua các nhân tố sinh học người, nhất
là đơi tai và đơi mắt. Khơng có bộ phận than quản tốt thì sự rèn luyện miệt mài cũng
khơng hát hay được. Khơng có cảm quan thị giác về hình thức thì dù có lao động
nghệ thuật thật lực cũng khơng tạo ra bức tranh có giá trị cao.
Hoạt động thẩm mỹ là hoạt động gắn với mọi sự thưởng ngoạn với cái đẹp và
hình tượng. Đặc điểm này bắt nguồn sâu xa từ bản chất của quan hệ thẩm mỹ. Đó là
quan hệ giữa đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ mang tính hình tượng, cảm tính.
Trong quan hệ thẩm mỹ, đối tượng là đối tượng của chủ thể, vì chủ thể và cho chủ
thể. Sự thống nhất tồn vẹn – cảm tính của đối tượng hiện thực được con người tiếp
nhận dưới dạng cảm xúc – tình cảm là đặc trưng cơ bản của quan hệ thẩm mỹ. Đi
theo phương thức tư duy hình tượng, ý thức thẩm mỹ vừa giữ lại những ấn tượng cảm
tính, vừa có khả năng khám phá những mối liên hệ có tính bản chất sâu kín bên trong
của đối tượng. Đặc trưng hình tượng – cảm tính của ý thức thẩm mỹ được bộc lộ

quán xuyến trong mọi thành tố cấu trúc của nó. Điều này nói rõ bản chất đặc thù của
giáo dục thẩm mỹ là khác với giáo dục đạo đức hay giáo dục tri thức. Giáo dục tri


thức là giáo dục theo tư duy khoa học, giáo dục đạo đức là giáo dục theo chuẩn mực
thiện – ác.
Hoạt động thẩm mỹ phải tiến hành theo phương thức trực tiếp – cảm tính, nên
trong năng lực thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ, các yếu tố bẩm sinh như độ nhạy của
tai, mắt, độ khéo léo của đôi bàn tay, trí tưởng tượng phong phú, tư duy hình tượng
phát triển mạnh, óc liên tưởng nhanh và độc đáo…giữ vai trò quan trọng.
Năng khiếu bẩm sinh là những yếu tố sinh lý ban đầu nằm rất sâu kín trong cơ
thể. Những khả năng ban đầu ấy chủ yếu gắn liền với các hoạt động sống ở những
thời kỳ thơ ấu của đời người. Để những khả năng ấy trở thành sức mạnh sáng tạo, cần
được giáo dục, rèn luyện cơng phu qua các quan hệ thực tiễn. Đồng chí Trường
Chinh đã viết:
Không quan niệm tài năng và thiên tài là những cái gì siêu hình, bẩm sinh
đã có. Sự cấu tạo của khối óc và truyền thống gia đình có phần ảnh hưởng
tới văn nghệ sĩ. Những tài năng và thiên tài chủ yếu là những cái mà
người ta có thể do dày cơng học tập, rèn luyện mà tạo nên được [2, tr.232]
Mục đích khởi đầu của giáo dục thẩm mỹ là xây dựng những tình cảm thẩm
mỹ tốt đẹp, và mục đích cuối cùng của nó là xây dựng con người phát triển toàn diện.
Sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ của chúng ta mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc bởi vì nó
quan tâm đến khả năng nhận thức, đánh giá và sáng tạo của mỗi người và hướng tới
việc giải phóng nhân cách, sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ của chúng ta không những
không tách rời khỏi các mục tiêu của sự nghiệp giáo dục chung của tồn xã hội mà
cịn hỗ trợ cho sự nghiệp giáo dục chung, cùng đạt tới mục tiêu của mình. Tuy nhiên,
việc giáo dục thẩm mỹ không thể tách rời cở sở sinh học người, các năng khiếu và tài
năng. Vì thế, hơn bất cứ một lĩnh vực giáo dục nào khác, giáo dục thẩm mỹ cần quan
tâm tới năng khiếu và tài năng của con người từ những lứa tuổi nhỏ nhất.
1.1.3 Các hình thức, biện pháp giáo dục thẩm mỹ

Con người phát triển tồn diện khơng phải là con người được hình thành bẩm
sinh. Trước hết nó phải được giáo dục thông qua hệ thống xã hội. Sự nghiệp giáo dục
thẩm mỹ có hệ thống địi hỏi 4 yêu cầu cơ bản sau đây:


 Phải căn cứ vào lứa tuổi để có những biện pháp tác động giáo dục thẩm mỹ
khác nhau, có mục tiêu và nội dung tri thức khác nhau, từ đó hình thành những khả
năng sáng tạo phong phú.
 Giáo dục thẩm mỹ địi hỏi tính liên tục. Tính liên tục ở đây khơng phải như
một vịng trịn khép kín mà nó là những vịng xốy ốc. Ở mỗi vịng xốy rộng đều có
hệ thống đón nhận và chuẩn bị mở rộng khả năng sáng tạo tốt hơn, cao hơn
 Tính liên tục trong giáo dục thẩm mỹ phải gắn với tính logic. Tính logic
đảm bảo cho sự phát triển từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến chỗ hồn
thiện hơn.
 Giáo dục thẩm mỹ khơng thể thiếu đi các quan điểm tồn diện. Nó đảm
bảo khả năng phát huy mọi mặt sáng tạo của con người
Dù giáo dục thẩm mỹ có một hệ thống kiến thức rộng là vậy, nhưng điểm
trung tâm nhất của nó vẫn là nhằm xây dựng những năng lực thẩm mỹ khởi đầu từ
việc hoàn thiện các giác quan mang lại sự phát triển phong phú về tinh thần như tai,
mắt…Mac cho rằng: Sự hình thành các giác quan này ‘là cơng việc của toàn bộ lịch
sử thế giới đã diễn ra từ trước tới nay”. Nghĩa là rèn luyện cách nhìn, cách nghe và cả
cách làm bằng hai bàn tay nữa thì xuất hiện một năng lực cảm xúc đúng đắn và từ đó
nảy sinh một cách phổ biến những tài năng sáng tạo.
Ở nước ta, trong nhiều năm nay, việc giáo dục thẩm mỹ đã được tiễn hành
trong các trường nghệ thuật, trong một số trường Đoàn, một số trường Đại học, một
số Đoàn thanh niên địa phương… Tuy nhiên, các biện pháp giáo dục cũng chưa thật
thống nhất. Tùy theo nghề nghiệp xã hội và đối tượng tiếp nhận khác nhau mà mỗi
cơ sở giáo dục ưu tiên cho một biện pháo. Để cho sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ đạt
kết quả tốt và có hệ thống, hiện nay, các nhà nghiên cứu đã nêu lên bốn hình thức
giáo dục thẩm mỹ cơ bản cho tuổi trẻ như sau:

1 – Giáo dục thẩm mỹ bằng văn hóa – nghệ thuật
2 – Giáo dục thẩm mỹ bằng cách nêu gương
3 – Giáo dục thẩm mỹ bằng lao động và thông qua lao động
4 – Giáo dục thẩm mỹ bằng mỹ học Mác – Lênin
Nghệ thuật được xem là phương tiện quan trọng nhất để thực hiện giáo dục
thẩm mỹ. Nguyên tắc cơ bản là phải sử dụng hình tượng cụ thể để tạo ra con người
cảm xúc cá nhân mạnh mẽ. Các hoạt động nghệ thuật nhằm mục tiêu giáo dục nhân
cách con người. Hoạt động này nhằm cung cấp những tri thức về mỹ học và nghệ


thuật, giáo dục cho học sinh cách cảm thụ trực tiếp các loại hình nghệ thuật, tạo điều
kiện kích thích hoạt động sáng tạo, đồng thời củng cố, nâng cao, phát triển thẩm mỹ
cho đối tượng giáo dục.
Trong thực tế hiện nay, điểm yếu nhất của hoạt động này là cách tổ chức chưa
thể hiện được đặc trưng của hoạt động nghệ thuật. Do đó, tất cả các khâu giúp cho
học sinh cảm thụ, đánh giá thẩm mỹ còn rất yếu hoặc không đầy đủ. Giáo dục thẩm
mỹ bằng văn hóa nghệ thuật với việc tạo ra một sân chơi bổ ích là điều thiết thực và
thực sự cần thiết. Để nâng cao giáo dục thẩm mỹ bằng văn hóa nghệ thuật, cần thực
hiện theo quy trình nhất định:
Bước 1 – Định hướng hoạt động: Bao gồm các hình thức hoạt động nhằm tạo
tâm thế, cung cấp tri thức, cung cấp các kiến thức thực tế cho quá trình cảm thụ và
sáng tạo thẩm mỹ.
Bước 2 – Tổ chức trải nghiệm và sáng tạo thẩm mỹ: Bao gồm các hình thức
hoạt động cụ thể, các sân chơi lồng ghép việc truyền đạt kiến thức nghệ thuật và cơ
hội thực hành nghệ thuật nhằm giúp học sinh tiếp xúc trực tiếp với đối tượng thẩm
mỹ, tạo điều kiện cho học sinh phát huy cao khả năng sáng tạo thẩm mỹ.
Bước 3 – Tổ chức đánh giá và thu hoạch: Bao gồm các hình thức hoạt động
nhằm nâng cao và giúp học sinh tự khẳng định mình, tự đánh giá, so sánh bản thân
trong tập thể với tư cách là một chủ thể thẩm mỹ, phát huy tác dụng của các kết quả
hoạt động.


1.2 ĐẶC ĐIỂM LỨA TUỔI THIẾU NHI
1.2.1 Quan niệm về thiếu nhi
Lứa tuổi thiếu nhi (thiếu niên và nhi đồng) là một giai đoạn quan trọng trong
độ tuổi trẻ em, với những đặc điểm tâm sinh lý đặc thù có ý nghĩa đặc biệt trong sự
phát triển nhân cách của con người [16, tr.5].
Trẻ em được coi là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời con người, giai đoạn chuẩn
bị các phẩm chất, năng lực cần thiết để tham gia lao động xã hội. Trẻ em là đối tượng
thu hút sự quan tâm nhiều nhất của các nhà sư phạm, tâm lý học, Triết học… trong
đó có các nhà văn hóa học.
Các nhà tâm lý học cho rằng: trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại, mà là
một thực thể đang phát triển và vận động theo quy luật đặc thù. Sự vận động tất yếu


của trẻ em do quá trình phát triển bên trong của nó sẽ tạo ra sự phủ định bản thân để
chuyển thành người lớn. Sự phát triển này diễn ra đồng thời trong q trình trẻ lĩnh
hội nền văn hóa loài người. Những biến đổi về chất trong tâm lý là dấu hiệu quan
trọng đánh dấu bước chuyển biến căn bản của trẻ em từ nhóm tuổi này sang nhóm
tuổi khác.
Theo công ước Quốc tế, khái niệm “trẻ em” được tính từ lọt lịng đến 16 tuổi,
trong đó có những giai đoạn phát triển khác nhau. Các giai đoạn lứa tuổi của trẻ em
là những thời kỳ phát triển nhất định, đóng kín một cách tương đối, là kết quả của
nhiều yếu tố: đều kiện sống và hoạt động của trẻ cùng hệ thống các yêu cầu đề ra cho
trẻ trong giai đoạn đó; các mối quan hệ của trẻ với môi trường xung quanh; vốn tri
thức và kiểu hoạt động mà trẻ đã nắm được cùng với phương thức lĩnh hội các tri
thức đó; đặc điểm phát triển cơ thể của trẻ…Trong các yếu tố đó, có những yếu tố là
chủ đạo, có tác dụng quyết định, làm nên những nét căn bản đặc trưng co giai đoạn
lứa tuổi, đồng thời chi phối tính chất của các hoạt động khác.
Xuất phát từ quan điểm đó, tâm lý học đã xác định các giai đoạn lứa tuổi chủ
yếu đối với trẻ em như sau:

* Giai đoạn trước tuổi đi học: từ sơ sinh đến trước 6 tuổi bao gồm hai thời kỳ:
- Tuổi sơ sinh (từ lọt lòng mẹ đến 12 tháng): hoạt động chủ đạo là hoạt động
giao tiếp với mẹ và những người xung quanh.
- Tuổi mầm non (từ 1 đến 6 tuổi): hoạt động chủ yếu là vui chơi
* Giai đoạn tuổi học sinh: Từ 6 đến 15 tuổi (tương đương với độ tuổi học sinh tiểu
học và trung học cơ sở) bao gồm hai thời kỳ:
- Thời kỳ đầu tuổi học (từ 6 – 11 tuổi) là độ tuổi nhi đồng hay học sinh tiểu
học: hoạt động chủ đạo là học tập nhằm vào phần lĩnh hội hệ thống tri thức vỡ lòng
và kinh nghiệm xã hội.
- Thời kỳ giữa tuổi học (từ 11 đến 15 tuổi) là độ tuổi thiếu niên hay học sinh
trung học cơ sở: cùng với hoạt động học tập, hoạt động chung trong nhóm bạn trở
thành nét chủ đạo trong đời sống.
Như vậy, thiếu nhi (thiếu niên, nhi đồng) là trẻ em ở độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi.


Mỗi giai đoạn lứa tuổi có vai trị nhất định trong quá trình phát triển nhân cách
của trẻ. Lứa tuổi thiếu nhi là giai đoạn phát triển phức tạp nhất và quan trọng nhất. Ở
tuổi này, hoạt động học tập chiếm ưu thế, tạo điều kiện cho các em lĩnh hội nền văn
hóa lồi người một cách tích cực nhất, đồng thời cũng là giai đoạn nhân cách hình
thành và phát triển mạnh mẽ, địi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt. Việc nghiên cứu
về tâm lý, tình cảm, trí tuệ lứa tuổi thiếu nhi càng được tiến hành kỹ sẽ càng mang
lại hiệu quả cao trong việc giáo dục cũng như đình hình tư tưởng, cảm xúc, thị hiếu
cho các em.
1.2.2 Đặc điểm trí tuệ lứa tuổi thiếu nhi
1.2.2.1 Độ tuổi nhi đồng (từ 6 – 11 tuổi)
 Sự phát triển tri giác
- Nét đặc trưng của tri giác là tính chất ít phân hố của nó. Nhi đồng phân biệt
những đối tượng giống nhau còn sai lầm và chưa chính xác. Thường nó phân biệt
những chi tiết ngẫu nhiên mà người lớn ít chú ý đến, nhưng lại khơng nhìn thấy được
những chi tiết quan trọng và bản chất.

- Tri giác của nhi đồng gắn chặt với hành động, với hoạt động thực tiễn của
trẻ. Tri giác sự vật có nghĩa là làm một cái gì đó với sự vật, cầm nắm, sờ mó sự vật
ấy.
- Tri giác thời gian và không gian ở nhi đồng hãy còn yếu. Trẻ chưa hiểu hết
các khái niệm "thế kỷ", "thiên kỷ", "kỷ nguyên", "thời đại", độ lớn của các nước, các
lục địa, các biển và đại dương, chiều dài của những con sông và chiều cao của những
ngọn núi. Tất cả những điều đó đều được trẻ tri giác một cách không phân biệt "từ
lâu", "ở xa", "rất dài", "rất cao" v.v...
- Trong quá trình học tập, tri giác của trẻ được tổ chức lại, được nâng lên trình
độ phát triển cao hơn. Việc khái niệm, gọi tên sự vật, phân biệt các đối tượng, xác
định thời gian sẽ dần dần thay đổi và rõ nét hơn trong tri giác của trẻ thơng qua q
trình học tập.
Ở đây vai trị của giáo viên là rất lớn. Giáo viên khơng chỉ dạy trẻ kỹ năng
nhìn, mà cịn dạy kỹ năng xem xét, khơng chỉ dạy nghe mà cịn dạy trẻ lắng nghe,
dạy trẻ phát hiện những dấu hiệu và những thuộc tính bản chất của sự vật và hiện
tượng. Để từ đó trẻ nhìn nhận, ghi nhớ sự vật và hiện tượng thông qua bản chất.


 Sự phát triển chú ý:
- Đặc điểm cơ bản của lứa tuổi này là chú ý có chủ định hãy cịn yếu. Khi đến
trường trẻ em cịn chưa có sự chú ý có mục đích. Chúng chủ yếu chú ý đến cái gì mà
chúng trực tiếp thấy thú vị, đến cái gì nổi bật nhờ tính thực rõ và khác thường. Vì
vậy, việc sử dụng rộng rãi các tài liệu trực quan, như các tranh minh hoạ, hình vẽ,
hình mẫu, mơ hình là điều kiện quan trọng nhất để tổ chức sự chú ý.
- Khả năng điều chỉnh, điều khiển chú ý còn bị hạn chế ở tuổi nhi đồng. Bản
thân q trình học tập địi hỏi các em phải rèn luyện thường xuyên sự chú ý có chủ
định, nỗ lực ý chí để tập trung. Trên cơ sở đó các em nhi đồng sẽ hình thành được kỹ
năng tổ chức, điều chỉnh, điều khiển chú ý của mình một cách có ý thức.
 Trí nhớ.
- Nhờ ảnh hưởng của hoạt động học tập, trí nhớ của các em nhi đồng được phát

triển theo hai hướng: tăng cường việc ghi nhớ có ý nghĩa, ghi nhớ từ ngữ - lơgic (so với
ghi nhớ trực quan - hình tượng) và điều khiển một cách có ý thức trí nhớ của mình (ghi
nhớ, tái hiện, nhớ lại).
- Các em nhi đồng (đặc biệt là lớp 1 - lớp 2) có khuynh hướng ghi nhớ máy
móc, bằng cách nhắc lại một cách máy móc. Chúng thường đọc thuộc lịng tài liệu
học tập theo đúng từng câu từng chữ, mà không sắp xếp lại, khơng sửa đổi lại, khơng
có ý định diễn đạt nội dung của bài theo cách hiểu của mình.
 Sự phát triển tưởng tượng.
- Tưởng tượng của nhi đồng được hình thành trong quá trình hoạt động học
tập dưới tác dụng những yêu cầu của hoạt động này. Những ấn tượng trực tiếp xem
viện bảo tàng và triển lãm, xem phim, tham gia lao động... góp phần phát triển trí
tưởng tượng.
- Trong lứa tuổi nhi đồng, tưởng tượng tái tạo được hồn thiện, gắn liền với
những hình tượng đã tri giác từ trước hoặc tạo ra những hình tượng phù hợp với
những mô tả, sơ đồ, tranh vẽ v.v.
- Tưởng tượng sáng tạo, với tư cách là xây dựng những hình ảnh mới gắn liền với
sự cải tạo, chế biến những ấn tượng của kinh nghiệm quá khứ, kết hợp chúng lại thành một
tổ hợp mới mẻ cũng được tiếp tục phát triển. Trẻ đôi khi kể lại một cách say mê về một sự
kiện nào đó, khơng chủ tâm và khơng chủ định đã đưa vào sự kiện đó phần thêm thắt của


mình, làm phong phú câu chuyện kể. Do những chi tiết "bịa đặt" của trẻ, câu chuyện trở
nên sinh động và gây hứng thú nhiều hơn, kích thích khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ và
khả năng tưởng tượng của trẻ phát triển.
 Sự phát triển tư duy.
- Trong quá trình học tập, tư duy của trẻ nhi đồng thay đổi rất nhiều. Trẻ nhi
đồng, đặc biệt là 7-8 tuổi, thường tư duy bằng những phạm trù cụ thể, bằng cách dựa
vào những thuộc tính trực quan của sự vật, hiện tượng cụ thể... Nhờ ảnh hưởng của
học tập, trẻ dần dần chuyển từ nhận thức các mặt bên ngoài của hiện tượng đến nhận
thức những mặt bản chất của chúng.

- Hoạt động phân tích - tổng hợp ở đầu tuổi nhi đồng còn rất sơ đẳng. Cuối
tuổi nhi đồng khả năng phân tích tổng hợp đã cao hơn, đã chú ý đến mối liên hệ giữa
các sự vật và hiện tượng.
- Ở tuổi nhi đồng cịn gặp một khó khăn nhất định khi xác định và hiểu mối quan
hệ nhân - quả, từ nguyên nhân suy ra kết quả dễ hơn là từ kết quả suy ra nguyên nhân.
Nhà trường, cha mẹ, anh chị phụ trách cần phải có chương trình dạy, học thích
hợp, phương pháp đúng đắn để phát triển trí tuệ của các em.
1.2.2.2 Độ tuổi thiếu niên (từ 11 – 15 tuổi)
Sự thay đổi tính chất và các hình thức hoạt động cùng với óc tị mò, ham hiểu biết
đang phát triển, đòi hỏi hoạt động trí tuệ của thiếu niên phải có tổ chức và cao hơn.
- Khi xem xét các sự vật và hiện tượng, thiếu niên có khả năng phân tích, tổng hợp
phức tạp hơn. Thiếu niên bắt đầu sử dụng những biện pháp đặc biệt để ghi nhớ như so
sánh, hệ thống hoá, phân loại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu được giữ gìn trong trí
nhớ cũng được tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng giảm dần nhường chỗ cho ghi nhớ
lơgic, ghi nhớ có ý nghĩa, hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn.
Trong lứa tuổi thiếu niên sự chú ý có chủ định, bền vững được hình thành.
Tính lựa chọn của chú ý được bộc lộ rất rõ ở thiếu niên. Trong lứa tuổi này,
khối lượng chú ý tăng lên rõ rệt, đồng thời khả năng di chuyển chú ý từ thao tác này
đến thao tác khác, từ loại hoạt động này đến loại hoạt động khác cũng được tăng
cường rõ rệt.


- Đến thời kỳ thiếu niên các em đã có những điều kiện để tư duy tốt. Hệ thần
kinh phát triển hoàn thiện, hoạt động phong phú, đa dạng: nội dung học tập mang
tính khoa học cao hơn.
Sự chiếm ưu thế của tư duy trừu tượng là đặc điểm cơ bản về hoạt động tư duy của
thiếu niên. Tuy nhiên tư duy trực quan không mất đi mà vẫn tồn tại và được phát triển và
vẫn giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc chung của tư duy.
Đối với thiếu niên, sự phát triển tư duy phê phán là một đặc điểm rất rõ. Khác với
nhi đồng, thiếu niên luôn có ý kiến riêng, độc lập của mình trước mỗi vấn đề.

Tuy nhiên cần phải chú ý khuynh hướng tranh cãi khơng có căn cứ, bướng
bỉnh là hiện tượng thường gặp ở tuổi thiếu niên.
1.2.3 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu nhi
1.2.3.1 Độ tuổi nhi đồng
 Tính cách của nhi đồng.
Tính cách của nhi đồng hình thành do tác động của các kích thích trực tiếp
những lý do ngẫu nhiên, mà khơng suy nghĩ và cân nhắc mọi tình huống. Vì vậy mà
khơng phải tất cả mọi trường hợp nhi đồng vi phạm nội qui đều được giải thích bằng
tính vơ kỷ luật.
- Ở lứa tuổi này, các em phục tùng người lớn một cách tuyệt đối và đồng thời
chúng cũng rất nhạy cảm với sự đối xử của người lớn. Tuổi nhi đồng là tuổi có nhiều
nét tính cách tốt như: lịng vị tha, tính ham hiểu biết, tính chân thực. Tính bắt chước
cũng là một đặc điểm quan trọng của lứa tuổi này. Điều đó, một mặt cũng có tác
dụng tốt trong giáo dục, song cũng có một số tác hại các em không chỉ bắt chước
những điều tốt.
- Thiếu sót trong tính cách thường gặp ở trẻ nhi đồng là tính khí thất thường và
bướng bỉnh. Đó là do giáo dục gia đình chưa đúng mức. Trẻ quen được thoả mãn tất
cả những nguyện vọng và nhu cầu. Đây là hình thức phản ứng lại những yêu cầu mà
người lớn đề ra cho nó, chống lại sự cần thiết phải hy sinh cái "nó muốn" cho cái nó
"phải làm".
- Trong lứa tuổi nhi đồng, ý chí chưa được phát triển đầy đủ, tính độc lập cịn
yếu, tính tự chủ, khả năng kiềm chế cịn thấp. Khi gặp thất bại, trẻ có thể mất lịng tin
vào sức lực và khả năng của mình. Giữa tuổi nhi đồng xuất hiện tính kiên trì bền bỉ,
song các em dễ lầm lẫn bền bỉ với sự bướng bỉnh.


- Cuối cùng, nhi đồng dưới ảnh hưởng của giáo dục và dạy học đúng đắn, khả
năng điều chỉnh ý chí đối với hành vi được phát hiện, khả năng tự kiềm chế và kiểm
tra hành vi của mình xuất hiện, những xung động trực tiếp bị nén lại, tính kiên trì và
khả năng vượt khó tăng lên.

 Tình cảm của nhi đồng.
-

Ở tuổi nhi đồng, đời sống tình cảm chiếm ưu thế hơn so với đời sống nhận
thức.
Thứ nhất, nhi đồng rất xúc cảm, được thể hiện trước hết ở sự tri giác, quan sát,

tưởng tượng, hoạt động trí tuệ của các em thường đượm màu sắc cảm tính.
Hai là, trẻ nhi đồng (đặc biệt 7-8 tuổi) chưa biết kiềm chế những tình cảm của
mình, chưa biết kiểm tra sự thể hiện tình cảm ra bên ngồi.
Ba là, tình cảm của các em chưa bền vững, xúc cảm rất không ổn định, thường
hay thay đổi tâm trạng, hay thiên về xúc động, biểu lộ rất mạnh và trong chốc lát sự
vui mừng, tự hào, hờn giận, lo sợ.
- Ở tuổi nhi đồng ở các tình cảm cấp cao cũng được phát triển khá rõ nét. Tình
cảm đạo đức xuất hiện vào giữa tuổi nhi đồng như tình cảm tập thể, tình cảm bạn bè,
tình u đất nước, lịng thương người, thật thà, ngay thẳng. Tình cảm nghĩa vụ xuất
hiện vào cuối tuổi nhi đồng, nhưng chưa đủ bền vững và hồn tồn khơng phải là tình
cảm độc lập. Tình cảm trí tuệ của nhi đồng được thể hiện qua tính tị mị, sự ngạc
nhiên nghi ngờ khi nhận biết các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, sự hài
lòng khi đạt được kết quả học tập hoặc thất vọng khi khơng giải được bài tập. Tình
cảm thẩm mỹ bộc lộ khá rõ nét khi được tri giác cái đẹp, tuy nhiên khả năng cảm thụ
cái đẹp chưa sâu sắc đầu đủ.
 Hứng thú của nhi đồng.
- Trong những năm đầu tiên học tập ở trường phổ thông, hứng thú của trẻ phát
triển rất rõ nét, đặc biệt là hứng thú nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung
quanh, tính tị mị ham hiểu biết. Đầu tiên, ở các em xuất hiện hứng thú đối với
những sự việc riêng lẻ những hiện tượng riêng biệt (lớp 1, 2) sau đó đến các hứng thú
gắn liền với sự phát hiện những nguyên nhân, qui luật, các mối liên hệ và quan hệ
phụ thuộc giữa các hiện tượng (lớp 3, 4 và đặc biệt là lớp 5).



- Ở nhi đồng có sự phát triển các loại hứng thú sau: Hứng thú đọc sách được
hình thành cùng với sự phát triển kỹ xảo đọc. Hứng thú kỹ thuật được hình thành
nhanh chóng (chủ yếu ở con trai). Ở nông thôn, trẻ bắt đầu thể hiện rõ hứng thú với
nông nghiệp. Từ lớp 3, các hứng thú học tập, bắt đầu được phân hoá, hứng thú với
các bài toán, bài văn, bài thơ hay, bức tranh đẹp...
- Trong tuổi nhi đồng những khả năng phát triển to lớn về mặt nghệ thuật, thẩm mỹ
của trẻ được hình thành. Trẻ thường rất thích thú vẽ, nặn, hát, nhạc. Việc tổ chức đúng đắn
hoạt động này có tác dụng phát triển những tình cảm thẩm mỹ này ở các em. Đó là tiền đề
để phát triển khả năng văn học, âm nhạc, vẽ ở lứa tuổi lớn hơn.
1.2.3.2 Độ tuổi thiếu niên
 Khuynh hướng muốn làm người lớn.
Sự hình thành cảm giác độc đáo rằng mình là người lớn, coi mình như người
lớn, là một thành viên bình đẳng với người lớn là một cấu tạo tâm lý trung tâm của
lứa tuổi thiếu niên. Những biểu hiện cụ thể là: Sự hình thành phong thái chững chạc
trong phạm vi đạo đức - xã hội (như thoát khỏi sự ràng buộc với người lớn, có quan
điểm và lập luận riêng của mình), trong hoạt động trí tuệ (độc lập lĩnh hội tri thức),
trong hứng thú (bắt chước người lớn), trong vui chơi giải trí và hành vi cử chỉ bề
ngồi. Thiếu niên không muốn người lớn can thiệp vào đời sống cá nhân.
Những thiếu niên có khuynh hướng cường điệu hố ý nghĩa của những thay
đổi nhanh chóng của bản thân. Ở tuổi này xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu muốn
làm người lớn với khả năng thực tế chưa tương xứng với nhu cầu đó, với kinh
nghiệm sống cịn ít ỏi. Khát vọng muốn độc lập là một nguyện vọng có ích và tốt
đẹp, nhưng nó có thể mang những hình thức tiêu cực là chống đối ảnh hưởng của
người lớn.
Vì vậy cơng tác giáo dục cần phải tính đến quyền độc lập và tự chủ tương đối
cao của thiếu niên, ln ln khích lệ, động viên những cố gắng của chúng và cách
giúp đỡ, hướng dẫn tốt nhất cho lứa tuổi này là cách nêu gương của người lớn: cha,
mẹ, thầy cô giáo, anh chị phụ trách...



×