Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Luận văn thạc sĩ quản lý văn hóa tổ chức hoạt động văn hóa cho thanh niên quận hai bà trưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH 
 

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
 
 

THÀNH THỊ KIỀU OANH
 

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CHO
THANH NIÊN QUẬN HAI BÀ TRƯNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ VĂN HÓA

 
 
HÀ NỘI ‐ 2013
 

 


MỤC LỤC
MỤC LỤC

1

DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT



3

DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ

4

MỞ ĐẦU

5

Chương 1: HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VÀ NHU CẦU VĂN HĨA CỦA THANH 13

NIÊN
1.1.

1.2.

Văn hóa và hoạt động văn hóa

13

1.1.1. Quan niệm về văn hóa

13

1.1.2. Các loại hình hoạt động văn hóa

18


1.1.3. Các hình thức hoạt động văn hóa của thanh niên hiện nay

23

Vai trị của hoạt động văn hóa đối với thanh niên

25

1.2.1. Vai trị của hoạt động văn hóa đối với việc hồn thiện nhân cách

25

1.2.2. Vai trị của hoạt động văn hóa với việc giáo dục truyền thống yêu nước và 26
đ ị n h h ư ớ n g l ý t ư ở n g c h o t h a n h n i ê n
1.2.3. Vai trị của văn hóa trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí lành mạnh cho thanh
28
niên
Xu hướng Nhu cầu văn hóa của thanh niên hiện nay
1.3.

1.2.1. Đặc điểm và tâm lý của thanh niên

30

1.2.2. Các xu hướng nhu cầu văn hóa của thanh niên hiện nay

30

1.2.3. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa góp phần quan trọng vào việc định hướng 38
n h u

c ầ u
v ă n
h ó a
c ủ a
t h a n h
n i ê n
40
Tiểu kết

41
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CHO 42

THANH NIÊN QUẬN HAI BÀ TRƯNG
2.1.

Tổng quan về quận Hai Bà Trưng và đặc điểm thanh niên quận

42


2.2.

2.1.1. Khái quát về quận Hai Bà Trưng.

42

2.1.2. Một số đặc điểm của thanh niên quận Hai Bà Trưng

44


2.1.3. Đời sống văn hóa của thanh niên quận Hai Bà hiện nay

47

Khảo sát các thiết chế văn hóa và loại hình văn hóa đã tổ chức cho thanh niên 49
tại quận Hai Bà Trưng
2.2.1. Các thiết chế văn hóa tại quận Hai Bà Trưng

49

2.2.2. Thực trạng việc tổ chức các hoạt động văn hóa tại quận Hai Bà Trưng của
53
các cơ quan văn hóa Nhà nước
2.2.3. Thực trạng việc tổ chức các hoạt động văn hóa tại quận Hai Bà Trưng của
các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước
2.3.

61

Hiệu quả của các loại hình văn hóa đã triển khai

65

2.3.1. Các kết quả qua phản ánh từ dư luận

65

2.3.2. Các kết quả qua điều tra xã hội học và phỏng vấn nhóm

66


2.3.3. Bài học kinh nghiệm từ thực tế công tác tổ chức hoạt động văn hóa cho 70
thanh niên quận Hai Bà Trưng
Tiểu kết

72

Chương 3: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỔ

CHỨC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CHO THANH NIÊN
73
QUẬN HAI BÀ TRƯNG
3.1.

Nhu cầu về nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa của quận Hai Bà Trưng 73
trước mắt và lâu dài
3.1.1. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa cho thanh niên

73

3.1.2. Trách nhiệm của các cơ quan văn hóa quận Hai Bà Trưng trong việc nâng
cao chất lượng hoạt động văn hóa cho thanh niên
74
3.2.

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa cho thanh niên Quận Hai 87
Bà Trưng hiện nay
3.2.1. Đổi mới phương pháp tiếp cận và giáo dục thanh niên thông qua hoạt động
87
văn hóa

3.2.2. Đảm bảo tính định hướng tư tưởng và chính trị cho thanh niên


3.2.3. Đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực tổ chức hoạt động văn hóa

89

3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa

90

3.2.5. Đẩy mạnh việc tham gia phát triển thị trường văn hóa

91

3.2.6. Làm tốt cơng tác phối kết hợp với các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn
Quận

92
95

3.3.

Một số kiến nghị

96

3.3.1. Kiến nghị về chính sách văn hóa

96


3.3.2. Kiến nghị với các cơ quan có chức năng tổ chức hoạt động văn hóa

99

Tiểu kết

101

KẾT LUẬN

102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

103

PHỤ LỤC

108

DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ đầy đủ
BDNT: Biểu diễn nghệ thuật
CLB: Câu lạc bộ
CNH-HĐH Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa
ĐVTN: Đồn viên thanh niên
GS: Giáo sư



GD&ĐT: Giáo dục và đào tạo
HBT: Hai Bà Trưng
HĐND: Hội đồng nhân dân
LHTN: Liên hiệp thanh niên
NVH: Nhà văn hóa
Nxb: Nhà xuất bản
PGS.TS: Phó giáo sư. Tiến sĩ
TDTT: Thể dục thể thao
THCS: Trung học cơ sở
TN: Thanh niên
TNCS: Thanh niên cộng sản
TW: Trung ương
UBND: Uỷ ban nhân dân
UNESCO: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của liên
hợp quốc
VH:
VHCS:
VHNT:
VHTT:

Văn hóa
Văn hóa cơ sở
Văn hóa nghệ thuật
Văn hóa thơng tin

DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ

STT


Tên các bảng biểu

Trang


01

Bảng 2.1: Số lượng cửa hàng Internet trên địa bàn các Phường

65

02

Bảng 2.2: Đánh giá về nội dung và chất lượng hoạt động của các thiết

68

chế Nhà nước tại quận Hai Bà Trưng
03

Bảng 2.3: Đánh giá về mức độ tham gia các thiết chế Nhà nước của thanh

68

niên tại quận Hai Bà Trưng
04

Bảng 2.4: Nhu cầu tham gia hoạt động văn hóa của

68


thanh niên quận Hai Bà Trưng
05

Bảng 2.5: Sự khác nhau trong đánh giá về nhu cầu hưởng thụ văn hóa

70

của thanh niên khối Phường
06

Bảng 2.6: Đánh giá về thực trạng tổ chức các hoạt động văn hóa của

71

thiết chế Nhà nước tại quận Hai Bà Trưng
07

Bảng 2.7: Đánh giá về các dịch vụ văn hóa tại quận Hai Bà Trưng

71


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam sau 25 năm đổi mới, đất nước đã có nhiều chuyển biến sâu sắc
trên mọi mặt của đời sống xã hội. Những thành tựu đạt được về kinh tế - chính trị văn hoá - xã hội đã khẳng định sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo đất nước của
Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy đã bàn nhiều về văn hóa, nhưng mãi cho tới các

thập kỷ gần đây, vấn đề phát triển kinh tế phải dựa trên nền tảng của phát triển văn
hoá mới được đặt ra, được khẳng định là một quy luật tất yếu khách quan của phát
triển. Với Việt Nam, cho đến trước Đại hội XI, Đảng ta chưa trực tiếp xác định
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, mới đề cập đến mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Có thể
nói, đây là bước đột phá, cụ thể hóa và chính thức khẳng định vai trị, “mối quan
hệ” của văn hóa đối với sự phát triển, tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng XI dành hẳn một phần trong 12 phần lớn đề
cập đến chăm lo phát triển văn hóa. Để thực hiện được các mục tiêu, giải pháp mà
Đại hội Đảng XI đã đề ra, cần có sự vào cuộc của nhiều ngành, nhiều cấp và tồn
thể xã hội. Trong đó, về trách nhiệm, tiên phong phải là các cơ quan, đơn vị thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa; Về địa giới, Thủ đơ Hà
Nội với vai trị “Trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn
hoá… của cả nước”, phải đi đầu trong việc thực hiện mục tiêu “Bảo tồn và phát
huy tinh hoa văn hoá truyền thống của Thủ đơ ngàn năm văn hiến, góp phần xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: xây
dựng con người Thủ đô văn minh, thanh lịch, tiêu biểu cho trí tuệ và truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam” (Pháp lệnh Thủ đô).


Những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới, sự tác động của quá trình mở cửa, hội nhập và kết quả
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) về “Cơng tác thanh niên trong tình hình mới”, đã tạo sự chuyển
biến rõ nét, sâu sắc về tình hình thanh niên Thủ đơ. Nhiều mặt mạnh của thanh niên như trình độ học vấn, bản
lĩnh chính trị, tính năng động, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần thi đua tình nguyện, chủ động, chuẩn bị hành
trang để lập thân, lập nghiệp ... được khẳng định và phát huy. Đại bộ phận thanh niên tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ủng hộ và hăng hái tham gia vào công cuộc đổi mới, sự CNH HĐH Thủ đô và đất nước.

Là một trong những quận lâu đời, có nhiều đóng góp tích cực trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng Thủ đơ, quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đơng – Nam
nội thành Thủ đô Hà Nội, là một trong những quận đơng dân cư, có bề dày truyền

thống cách mạng và nhiều di tích lịch sử, văn hóa có giá trị. Qua 25 năm đổi mới,
hòa trong sự phát triển chung của Thủ đô và cả nước, quận Hai Bà Trưng đã có
những bước chuyển tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước
được nâng cao. Nhu cầu văn hóa của nhân dân dần được đáp ứng, mức thụ hưởng
văn hóa và chất lượng dịch vụ văn hóa cung cấp cho người dân được nâng lên.
Hoạt động văn hóa ở quận Hai Bà Trưng đã có bước phát triển nhanh chóng với
nhiều loại hình đa dạng phong phú. Tuy nhiên, việc tổ chức các hoạt động văn hóa
cho thanh niên trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua vẫn còn tồn tại
một số yếu kém, bất cập: nội dung nghèo nàn, ít đổi mới, thiếu hấp dẫn, hình thức
manh mún, chắp vá, phân tán, chưa hình thành nhiều trung tâm lớn, các tụ điểm
văn hóa tương xứng với nhu cầu và thị hiếu của thanh niên. Bộ máy quản lý về văn
hóa thơng tin từ quận đến cơ sở cịn nhiều bất cập, chưa có sự phân cơng trách
nhiệm rành mạch. Từ việc nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa, các hoạt động
văn hóa trong đời sống xã hội nói chung và với thanh niên nói riêng, kết hợp với
đánh giá sơ lược thực trạng các loại hình hoạt động văn hóa trên địa bàn Quận Hai
Bà Trưng cho thấy việc nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa cho thanh niên
là việc làm hết sức cần thiết, đem lại cho chúng ta nhận thức rõ hơn về văn hóa cả
về lý luận và thực tiễn. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Tổ chức hoạt động


văn hóa cho thanh niên Quận Hai Bà Trưng” làm luận văn tốt nghiệp trình độ
cao học, với mong muốn tổ chức hoạt động văn hóa phù hợp với nguyện vọng của
thanh niên quận nhà, đồng thời đáp ứng cho yêu cầu công việc mà bản thân đang
trực tiếp được giao phó.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thanh niên chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu dân số và cơ cấu lao động xã hội, có tiềm năng hùng hậu
về nhiều mặt, là nguồn nhân lực quan trọng có vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế xã hội, thực
hiện CNH – HĐH Thủ đô và đất nước. Thanh niên là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
khác nhau. Hoạt động văn hóa là một trong những yếu tố góp phần hình thành nhân cách của thanh niên.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn, tiêu biểu như:

- GS Dương Phú Hiệp (2011) và tập thể các tác giả với cơng trình Vấn đề phát triển văn hóa và con
người Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản thế giới 2011. Trong cuôn sách tập hợp nhiều bài viết của nhiều
học giả nghiên cứu về nhiều vấn đề liên quan đến văn hóa, con người, thanh niên, quản lý văn hóa, thiết
chế văn hóa, những vấn đề tiếp cận và những góp ý mới đối với việc xây dựng nền văn hóa mới.
- Tác giả Nguyễn Trần Bạt với cuốn sách: Văn hóa và con người. Trong cuốn sách của mình, tác giả
đã nêu khái niệm, bản chất, cấu trúc của văn hóa, mối liên hệ giữa văn hóa với các yếu tố lịch sử, kinh tế,
và giao lưu văn hóa trong bối cảnh mới cùng những vấn đề liên quan đến văn hóa chính trị.
- PGS.TS. Phạm Hồng Tung (2010), “Văn hóa và lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế - Một số vấn đề lý thuyết và cách tiếp cận”, đề tài nghiên cứu khoa học,
Đại học Quốc gia Hà Nội (VNH3.TB6.602). Đề tài này đã được công bố thành sách là: Thanh niên và lối
sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia 2011. Trong đề tài, tác giả đã đề cập tới một số khái niệm cơng cụ và khía cạnh phương pháp luận của
các vấn đề nghiên cứu về thanh niên, văn hóa thanh niên và lối sống thanh niên nói chung để bước đầu
xây dựng những nguyên tắc cho cách tiếp cận và nghiên cứu những xu hướng biến đổi của văn hóa và lối
sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh ngày nay.
- Đinh Thị Vân Chi (2003): Nhu cầu giải trí của thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Tác giả
đã làm rõ vai trò và tầm quan trọng của giải trí trong đời sống xã hội, đồng thời giúp chúng ta một tổng
quan về giải trí của thanh niên hiện nay.
- Phạm Duy Đức chủ nhiệm đề tài (2004), ”Nghiên cứu phát triển các hoạt động văn hóa vui chơi giải
trí ở Thủ đơ Hà Nội. Thực trạng và giải pháp”, (tổng quan khoa học) Sở Văn hóa thơng tin Hà Nội.


- Nhóm tác giả Đỗ Huy, Chu Khắc, Vũ Khắc Liên, Trường Lưu, Lê Quang Thiêm (1993), Nhân
cách văn hóa trong bảng giá trị Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Các tác giả tập trung làm rõ
nhân cách văn hóa biểu đạt cho những giá trị cơ bản trong bảng giá trị Việt Nam và cũng góp phần tích
cực vào việc hình thành bảng giá trị Việt Nam. Trong nhân cách văn hóa, tính cách, hành động văn hóa,
mơi trường văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng.
- TS Hồng Thu Hương (2010) có bài viết: Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO
đối với các hành vi văn hóa xã hội của thanh niên Việt Nam in trong sách kỷ yếu Hướng tới xây dựng các
chuẩn mực xã hội trong khuôn khổ tổ chức thương mại thế giới WTO, nhà xuất bản Thế giới. Trong bài

viết đã nêu ra những phân tích về hành vi văn hóa, xã hội của thanh niên hiện nay, đặc biệt nhấn mạnh
đến đối tượng là sinh viên. Đặt ra vấn đề xây dựng chuẩn mực cho thanh niên Việt Nam hiện nay trong
bối cảnh hội nhập quốc tế và bài học từ Trung Quốc.
- Tác giả Phan Ngọc (1998) với cuốn sách Bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong cuốn sách, tác giả đã
đưa ra một số định nghĩa thao tác luận về văn hóa, phương thức tiếp cận văn hóa. Nêu ra đặc điểm, sự
hình thành văn hóa Việt Nam và đưa ra những quan điểm bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam
trong thời đại mới.
- Tác giả Phạm Thái Việt và Đào Ngọc Tuấn (2004) với cuốn sách: Đại cương về văn hóa Việt Nam.
Trong đó, hai tác giả đã trình bày việc hệ thống hóa và ứng dụng các khái niệm cũng như phương pháp
tiếp cận văn hóa học. Chỉ ra những mặt thực tiễn, tinh thần của văn hóa Việt Nam trong lịch sử. Thêm vào
đó là sớm đặt ra những vấn đề về tác động của tồn cầu hóa với bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhìn chung, đã có một số cơng trình nghiên cứu về văn hóa và nhu cầu giải trí của thanh niên hoặc
đề cập đến việc tổ chức các hoạt động giải trí cho thanh niên. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào trực tiếp
nghiên cứu việc tổ chức hoạt động văn hóa cho thanh niên tại Quận Hai Bà Trưng và đặt hoạt động này
trong bối cảnh hiện nay. Các cơng trình nêu ở trên là sự gợi ý và cung cấp một số cơ sở luận cứ, luận chứng
để hoàn thành việc nghiên cứu đề tài của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng nhu cầu hoạt động văn hóa của thanh niên Quận Hai Bà Trưng
trong 10 năm qua (2001 - 2011), luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tổ chức có hiệu quả hoạt động
văn hóa cho thanh niên Quận trong giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


- Phân loại hoạt động văn hóa và kết quả tổ chức hoạt động văn hóa tại Quận Hai Bà Trưng.
- Tìm hiểu nhu cầu văn hóa của thanh niên Quận Hai Bà Trưng.
- Tìm hiểu bối cảnh và những tác động tạo nên thay đổi trong văn hóa của thanh niên thời kỳ đổi
mới và hội nhập.
- Làm rõ những mặt tích cực và những mặt cần bổ xung, thay đổi trong tổ chức hoạt động văn hóa
cho thanh niên Quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm tổ chức hiệu quả hoạt động văn hóa trong thanh niên, thu hút
thanh niên tham gia vào các hoạt động của Đoàn TN - Hội LHTN và các thiết chế văn hóa trên địa bàn
Quận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài tập trung khảo sát nhu cầu văn hóa của thanh niên Quận HBT.
- Đề tài khảo sát hoạt động văn hóa dành cho thanh niên tại Quận HBT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đê tài tiến hành khảo sát tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
- Đề tài khảo sát những cách thức và hoạt động văn hóa của các thiết chế văn hóa và cơ quan
chức năng như Phịng Văn hóa, Nhà văn hóa và Đồn TNCS Hồ Chí Minh Quận.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở luật pháp và các chính sách văn hóa Việt Nam, đề tài triển khai các phương pháp cụ
thể như: tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh và đối chiếu, điền dã thực tế, quan sát trực tiếp, phỏng vấn
nhóm, các phương pháp liên ngành của văn hóa học và quản lý văn hóa.
- Phương pháp tổng hợp: nghiên cứu về văn hóa nói chung và quản lý văn hóa nói riêng có nhiều
đề tài, nhiều cơng trình nghiên cứu nên tác giả đã tập hợp những ý kiến, những cơng trình mang tính tiêu
biểu để thực hiện nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả cịn tổng hợp những kết quả thực hiện của công tác hoạt
động thanh niên trên địa bàn nghiên cứu là Quận Hai Bà Trưng.
- Phương pháp thống kê: dựa trên những số liệu điều tra xã hội học, những số liệu về quản lý văn
hóa, tác giả đã thực hiện phương pháp thống kê để cho ra những kết quả nghiên cứu.


- Phương pháp quan sát trực tiếp, phỏng vấn nhóm: với tư cách là người trong cuộc, tác giả đã
trực tiếp tham gia vào các hoạt động của thanh niên trong quận Hai Bà Trưng trên phương diện vừa là
người quản lý, vừa là người tham gia các hoạt động văn hóa. Cùng với đó, tác giả đã điều tra bảng hỏi
cùng với phỏng vấn các nhóm thanh niên để có thể tìm hiểu thực trạng hoạt động văn hóa của thanh niên,
tìm hiểu những đánh giá của người dân và thanh niên về các thiết chế văn hóa trên địa bàn quận.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đóng góp một số kiến giải và đánh giá về hoạt động văn hóa của thanh niên hiện nay

một cách có luận cứ khoa học, sẽ hữu ích cho những ai quan tâm tới tổ chức các hoạt động vui chơi giải
trí cho thanh niên.
- Luận văn sẽ đóng góp cho các cơ quan chức năng và tổ chức Đoàn Thanh Niên tại quận Hai Bà
Trưng trong việc thu hút đông đảo thanh niên tham gia các hoạt động văn hóa.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các học viên khi nghiên cứu về chuyên ngành Quản lý
văn hóa tại Trường đại học Văn hóa Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu (08 trang), Kết luận (01 trang), Danh mục tài liệu tham khảo (05 trang) và
Phụ lục (18 trang), nội dung luận văn được chia thành 03 chương:
Chương 1: Hoạt động văn hóa và nhu cầu văn hóa của thanh niên (29 trang)
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động văn hóa cho thanh niên quận Hai Bà Trưng (.31 trang)
Chương 3: Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa cho thanh niên quận Hai Bà
Trưng (29 trang)


Chương 1
HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VÀ NHU CẦU VĂN HÓA CỦA THANH NIÊN

1.1. Văn hóa và hoạt động văn hóa
1.1.1. Quan niệm về văn hóa
Văn hóa (culture) là một từ ngữ rất phổ biến hiện nay và là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành
khoa học. Trong hoàn cảnh kinh tế thế giới mở cửa, đặc biệt là từ những năm 1990 trở lại đây, sự giao lưu giữa
các quốc gia ngày càng mạnh mẽ bởi tác động của q trình tồn cầu hóa, và trong hồn cảnh đó, văn hóa lại là
một chủ đề nổi lên hơn bao giờ hết. Cả thể giới chú ý đến vai trò của các nhân tố văn hóa đối với các quá trình
phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đến giờ vẫn chưa có một sự thống nhất rõ ràng nào về văn hóa. Theo tính
tốn của hai nhà văn hóa học Hoa Kỳ là A. Krober và C. Kluckholn năm 1952 đã có khoảng 150 định nghĩa
khác nhau về văn hóa [50, tr.11] và hiện nay số định nghĩa về văn hóa lên đến hơn 600 định nghĩa khác nhau.
Định nghĩa văn hóa đầu tiên được biết đến là định nghĩa miêu tả của Edward B.Taylor (1871)
trong đó liệt kê tất cả những gì mà khái niệm văn hóa bao hàm, đó là:
văn hóa hay văn minh hiểu theo ý nghĩa dân tộc bao quát của nó, là một tổng thể phức

hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ
năng lực và tập quán nào được lĩnh hội bởi con người với tư cách thành viên của xã hội
[22, tr. 116-117].
Các định nghĩa tâm lý học trong đó nhấn mạnh vào q trình thích nghi với mơi trường, q trình
học hỏi hình thành thói quen, lối ứng xử của con người mà tiêu biểu là định nghĩa của W. Summer và A.
Keller:
Tổng thể những sự thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là
văn hóa, hay văn minh…Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp
những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa [50, tr. 11-12].
Các định nghĩa cấu trúc lại chú trọng tới tổ chức cấu trúc của văn hóa như định nghĩa của R.
Linton chú trọng đến hai khía cạnh:
a) Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã
hội; b) Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ửng xử mà người ta học được và các kết quả ửng


xử mà cách thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ
kế thứ [50, tr. 12].
Xét từ nguồn gôc của văn hóa, nhà xã hội học P. Sorokin định nghĩa:
Với nghĩa rộng nhất của từ, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến
bởi hoạt động có ý thức hay vơ thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác
động đến lối ứng xử của nhau [50, tr.12].

Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở
nước ngồi khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do
UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai
nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì:
Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh
thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một
cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn
hóa khơng chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống,

những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những
truyền thống, tín ngưỡng…
Cịn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng
(ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó
có đặc thù riêng” [28, tr.314]. Cách tiếp cận của UNESCO được khá nhiều người
nghiên cứu ở Việt Nam chia sẻ như ơng Nguyễn Trần Bạt cũng xác định:
Văn hóa, nói một cách giản dị, là những gì cịn lại sau những chu trình
lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc
với nhau. Thơng qua mỗi một chu kỳ của sự phát triển, dân tộc đó
tương tác với mình và với những dân tộc khác, cái còn lại được gọi là
bản sắc, hay còn gọi là văn hóa [3, tr. 23-24].
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Trong đó, đảng kể
đến là định nghĩa khá phức tạp của nhà nghiên cứu Phan Ngọc:


Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân
hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều bị cá nhân này hay
tộc người này mơ hình hóa theo cái mơ hình tồn tại trong biểu tượng.
Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới
hình thức dễ thấy nhất biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng cả cá
nhân hay người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc
người khác [36, tr.17-18].
Đơn giản và dễ hiểu hơn với mọi người là định nghĩa của chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người cho rằng:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng
tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa [30, tr.431].
Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm tồn bộ những gì do con người sáng

tạo và phát minh ra, là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan đến
đời sống con người. Phạm Văn Đồng cho rằng:
Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vơ cùng phong phú và rộng
lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên mà có liên
quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình
con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư
tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy
cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản
lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ
mình và không ngừng lớn mạnh.


Nhận thức rõ về vai trò và tầm quan trọng của văn hoá, Đảng ta đưa ra văn kiện
nổi tiếng, đó là “Đề cương văn hóa Việt Nam” (năm 1943). Trong văn kiện này xác
định rõ: Văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hố).
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ
mới ra đời, ngay trong những năm tháng đầu tiên của Nhà nước Việt Nam mới, dù
phải đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, giữ vững thành quả cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa
mới cho dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ ra trong phát biểu của Người tại Đại hội văn hố
tồn quốc lần I (năm 1946): “Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”.
Song mốc đánh dấu về sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn hoá của
Đảng thể hiện ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khoá VIII: “Xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[12, tr.58] (năm
1998). Đây là một Văn kiện mang tính cương lĩnh của Đảng ta về văn hố trong
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đây cũng chính là cơ sở, định
hướng cho việc xây dựng đời sống văn hóa, lối sống văn hóa đối với từng con
người và cho cả cộng đồng xã hội ở nước ta trong thời kỳ cách mạng mới. Trong
bài phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định cùng với q trình dựng nước và giữ

nước, nền văn hóa Việt Nam đã hình thành và phát triển. Bằng lao động sáng tạo
và ý chí bền bỉ, kiên cường, nhân dân ta đã xây dựng nên một nền văn hóa kết tinh
sức mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự
trường tồn của dân tộc. Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh
thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và
giữ nước. Nhờ nền tảng và sức mạnh văn hóa mà nhiều thời kì bị đơ hộ, dân tộc ta
vẫn cố giữ vững và phát huy bản sắc của mình, chẳng những khơng bị đồng hóa
mà cịn quật cường đứng dậy, giành độc lập, lấy sức ta giải phóng cho ta.
Như vậy, Văn hóa là sản phẩm của con người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham


gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua q trình xã hội hóa. Văn
hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của
con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Định nghĩa của UNESCO:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong hiện tại,
qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định
bản sắc riêng của mình [49, tr.23].
Định nghĩa của giáo sư Hà Văn Tấn: Văn hóa là hệ thống ứng xử của con
người với thiên nhiên và xã hội, là sản phẩm hoạt động của con người trong mối
quan hệ tương tác với tự nhiên và xã hội, diễn ra trong không gian, thời gian và
hồn cảnh nhất định.
1.1.2. Các loại hình hoạt động văn hóa
Hoạt động văn hóa là hoạt động thỏa mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng các

tác phẩm văn hóa của con người. Các hoạt động văn hóa được hình thành và phát
triển như là một đòi hỏi tất yếu của xã hội. Đặc biệt ở các đô thị, hoạt động văn hóa
được xem như một bộ phận cấu thành, làm nên diện mạo đời sống đô thị. Các hoạt
động này nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giáo dục
nếp sống lành mạnh và phong cách ứng xử có văn hóa cho mọi người; kế thừa và
phát huy truyền thống nhân ái, nghĩa tình, thuần phong mỹ tục; nâng cao hiểu biết
và trình độ thẩm mỹ, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân; ngăn chặn sự
xâm nhập và bài trừ những sản phẩm văn hóa có nội dung độc hại; góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.


Nghị định số 103/2009/NĐ-CP của Chính phủ về Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch
vụ văn hoá công cộng được ban hành, quy định các hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa
cơng cộng bao gồm: lưu hành, kinh doanh băng, đĩa ca nhạc, sân khấu; biểu diễn nghệ thuật, trình diễn
thời trang; triển lãm văn hóa, nghệ thuật; tổ chức lễ hội; viết, đặt biển hiệu; hoạt động vũ trường, karaoke,
trò chơi điện tử, các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa và các hình thức vui chơi giải trí khác.
Trên cơ sở các đạo luật và các văn bản pháp quy đã được ban hành, hoạt động văn hóa được
nhóm lại trong các lĩnh vực sau:
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực báo chí, xuất bản, Internet, quảng cáo.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực điện ảnh.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực thư viện, bảo tồn, bảo tàng, di sản.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa thông tin cơ sở.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa các dân tộc thiểu số.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực quyền tác giả, nhuận bút.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực xuất nhập khẩu văn hóa phẩm, xúc tiến du lịch và giao lưu văn
hóa.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy quản lý văn hóa.
- Các hoạt động thuộc lĩnh vực đào tạo.

- Các hoạt động thuộc lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn
hoá.
Bản thân các hoạt động văn hóa rất phong phú, đa dạng về hình thức: từ biểu diễn nghệ thuật,
chiếu phim, băng hình, khiêu vũ, hát karaoke đến các hình thức vui chơi giải trí khác.
* Phân theo tính chất hoạt động của các tác phẩm văn hóa, ta có các loại hình sau:


- Tết, lễ, hội: Về cơ bản đây là loại hình văn hóa đáp ứng nhu cầu tâm linh, cộng cảm, gắn kết
cộng đồng và vui chơi của con người, giải tỏa tâm lý và thể chất. Tết, lễ, hội được tổ chức quanh năm.
- Vui chơi giải trí: Vui chơi giải trí là nhu cầu văn hóa cơ bản của con người nhằm giải tỏa
những căng thẳng do lao động đưa lại, bù đắp những thiếu hụt về đời sống tinh thần, tạo điều kiện để con
người phát triển về thể lực, trí lực và tình cảm, thơng qua các loại trò chơi, trò diễn, đồ chơi .... thỏa mãn
nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Xã hội ngày nay phát triển làm xuất hiện rất nhiều các loại hình vui
chơi giải trí, mỗi loại hình mang những đặc điểm và sự bổ ích khác nhau, lượng người tham gia cũng
không bằng nhau. Với lứa tuổi thanh niên, đây là giai đoạn hoàn thiện nhân cách, trưởng thành của các cá
nhân. Hoạt động vui chơi giải trí được tầng lớp thanh niên rất quan tâm vì qua đó, họ có điều kiện để thể
hiện mình, học hỏi và trau dồi những kinh nghiệm sống từ bạn bè, cộng đồng xã hội.. Từ tháng 10 năm
1999, khi Chính phủ áp dụng hai ngày nghỉ cuối tuần thì nhu cầu vui chơi giải trí lại càng cao.
- Các loại hình nghệ thuật: Đó là việc sáng tạo và thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật: sáng tác thi – ca
– nhạc – họa – truyện.., xem phim, nghe ca nhạc, thăm các di tích, thắng cảnh...
- Thể dục thể thao: Hoạt động TDTT là hoạt động văn hóa thể chất. Thể dục là các hoạt động giáo dục, rèn luyện
thể chất làm cho con người trở nên khỏe đẹp. Thể thao là các hoạt động thao diễn, phô bày vẻ đẹp của cơ thể và sức mạnh
thể lực của con người; bao gồm các hoạt động như tập thể dục, các mơn thể thao (bóng đá, bóng bàn, cầu lơng...), các trị
chơi thể lực (nhảy dây, đá cầu, cà kheo...)
- Thơng tin đại chúng: Thông tin đại chúng vừa là một loại hình văn hóa vừa là phương thức truyền tải
các loại hình văn hóa bao gồm đọc – xem, nghe, nghe – nhìn. Cụ thể thể như đọc - xem sách báo, tranh ảnh,
triển lãm, hội chợ, internet..., nghe nói chuyện, nghe thuyết trình..., thơng tin, quảng cáo...
- Du lịch, dịch vụ: Du lịch, dịch vụ là hoạt động văn hóa mang tính tổng hợp, ngun hợp nhưng
cũng mang tính chuyên biệt. Con người tham gia các hoạt động du lịch, dịch vụ vừa để đáp ứng nhu cầu

thực dụng vừa đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí. Bao gồm du lịch văn hóa, sinh thái, thám hiểm...; dịch vụ
mua sắm, may mặc, thư giãn....
- Ẩm thực: Ăn uống cũng là một hoạt động văn hóa. Ngồi yếu tố sinh học, ăn uống trở thành văn
hóa ẩm thực khi món ăn, thức uống thể hiện một trình độ tinh thần, thẩm mỹ của con người. Đó là việc
thưởng ngoạn các món ăn q hiếm, có thể chữa bệnh, bồi bổ sức khỏe, hay ăn uống trong các dịp sinh
nhật, cưới hỏi, lễ, tết...
*Phân theo chủ thể tổ chức hoạt động


Chủ thể tổ chức các hoạt động văn hóa bao gồm cá nhân, nhóm, cộng đồng. Có thể trừu tượng
hóa để chia ra hai hình thức chính: một là nhóm – cộng đồng, hai là cá nhân.
Nhóm – cộng đồng: ở loại hình này cũng có thể chia nhỏ hơn:
- Nhóm: trong đó có nhóm cố định và nhóm ngẫu nhiên.
+ Nhóm cố định: các hoạt động văn hóa theo hình thức gia đình (lễ, tết, sinh nhật, mừng thọ, du
lịch, đi xem hát, nghe đài, xem ti vi, liên hoan gia đình...)
+ Nhóm khơng cố định: nhóm bạn bè, tổ, đội công tác, học tập, câu lạc bộ (quần tụ, trao đổi, kỷ
niệm – sinh nhật, ăn mừng, liên hoan...)
- Cộng đồng: là đơn vị lớn hơn nhóm (tổ, đội) bao gồm khối phố, phường xã đến quận, huyện, thành phố
và cả nước. Hình thức giá trị cộng động cũng rất phong phú: lễ hội lịch sử, lễ hội tơn giáo, hoạt động thể thao văn
hóa, hội thi, hội diễn, mittinh quần chúng.... do đơn vị cộng đồng tổ chức.
- Cá nhân: theo các lứa tuổi, nhu cầu, giới tính, nghề nghiệp, trình độ khác nhau.
* Phân theo khơng gian - thời gian
- Phân theo không gian: phân theo địa điểm, mơi trường diễn ra hoạt động văn hóa.
+ Khơng gian nhỏ hẹp: đó là khơng gian thường diễn ra hoạt động của một cá nhân, hoặc một vài
người như trong phòng làm việc, buồng ngủ, phòng karaoke, phòng trà... Mọi người có thể nghe nhạc,
xem phim, sáng tác nghệ thuật, trị chuyện...
+ Khơng gian vừa: đó là khơng gian diễn ra các hoạt động văn hóa của một nhóm nhỏ, một tập
thể nho như gia đình, nhóm bạn bè. Khơng gian đó chủ yếu ở câu lạc bộ, trong gia đình. Người ta cũng
xem ti vi, nghe radio, trò chuyện, trao đổi và tổ chức sinh nhật, lễ mừng thọ hay ngày tết, giỗ...
+ Khơng gian rộng: đó là khơng gian thường diễn ra hoạt động văn hóa của một nhóm, cộng

đồng, tập hợp đơng đảo thanh niên. Khơng gian đó là trong nhà văn hóa, nhà hát, nhà thi đấu hoặc ở ngoài
trời như quảng trường, sân vận động, địa điểm di tích lịch sử, bãi biển và khu du lịch... Ở đó thanh niên
được tham gia các hoạt động văn hóa mang tính tổng hợp: hưởng thụ các sản phẩm văn hóa – thể thao,
tham gia sáng tạo và biểu hiện các hoạt động văn hóa – thể thao, vừa có hoạt động văn hóa cảu cá nhân,
vừa có hoạt động của nhóm, cộng đồng.
- Phân theo thời gian: đó là sự phân loại theo chu kỳ thời gian dài ngắn của cả một cộng đồng chứ không
phải các giai đoạn của đời sống cá nhân.


+ Hoạt động văn hóa theo thường nhật: đó là các hoạt động trong một ngày, bao gồm học tập, làm
việc, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí...
+ Hoạt động văn hóa theo kỳ dịp: nghỉ cuối tuần, nghỉ hè, nghỉ đơng, nghỉ tết...
Nghỉ cuối tuần là kỳ dịp có chu kỳ ngắn. Người ta tham gia các hoạt động văn hóa trong khơng
gian nhỏ hẹp hoặc khơng gian vừa và với một nhóm nhỏ gia đình, bạn bè...
Nghỉ hè, nghỉ lễ - tết – hội: Có chu kỳ dài hơn nghỉ cuối tuần và thường định kỳ hàng tháng, hàng
năm. Các hoạt động văn hóa mang tính tổng hợp hết sức phong phú, đa dạng. Đặc biệt trong các lễ - tết –
hội người ta được vui chơi giải trí trong một không gian rộng lớn và với một số lượng người đơng đảo với
đủ mọi lứa tuổi.
Tóm lại, phân loại các loại hình hoạt động văn hóa như trên chỉ mang tính chất tương đối, khơng
phải là việc làm có tính chất mơ tả hay thống kế (vì khơng ai thống kê đầy đủ được) mà quan trọng là để
tổ chức, điều khiển và quản lý cho phù hợp với chủ thể, đối tượng và mục đích của chúng. Đó là nhiệm
vụ hết sức quan trọng và cần thiết của những nhà quản lý hoạt động văn hóa hiện nay.
1.1.3. Các hình thức hoạt động văn hóa của thanh niên hiện nay
Trong các văn bản pháp lý của Việt Nam hiện nay, lứa tuổi thanh niên ở Việt Nam chưa có sự
thống nhất giữa các văn bản. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả xác định độ tuổi
thanh niên được ghi trong Luật thanh niên (Luật số 53/2005/QH11) được Quốc hội khóa XI thơng qua đã
quy định tại Điều 1: “Thanh niên quy định trong luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến
ba mươi tuổi” Đây cũng là điều được ghi nhận tại Điều 1, mục 2 của Điều lệ Đồn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh (2007). Thanh niên là một bộ phận trong xã hội và văn hóa thanh niên trước hết phải được
coi là một bộ phận khơng tách rời của văn hóa dân tộc [48, tr.75]. Những hoạt động văn hóa của thanh

niên cũng thể hiện những đặc điểm, đặc trưng và sắc thái riêng của văn hóa thanh niên, xuất phát từ chính
vị thế đặc biệt của nhóm thanh niên.
Những hình thức hoạt động văn hóa của thanh niên hiện nay vơ cùng đa dạng với những sự thay
đổi của cuộc sống nên không thế liệt kê hết tất cả những hoạt động này. Nhưng với đặc điểm của thanh
niên cũng như cấu trúc kết cấu của văn hóa thanh niên nói riêng hay văn hóa dân tộc nói chung, ta có thể
phân những hình thức hoạt động văn hóa của thanh niên hiện nay theo các hình thức cơ bản sau:
- Thứ nhất là những hoạt động tri thức – trí tuệ, lứa tuổi thanh niên là lứa tuổi mà đa số đều đang
tham gia các hoạt động liên quan đến học tập trau dồi kiến thức để chuẩn bị hành trang lập thân lập
nghiệp. Hình thức hoạt động này của thanh niên kéo dài từ những năm cấp ba cho đến hết thời đại học,


cao đẳng hay trung cấp nghề. Một bộ phận thanh niên tiếp tục nâng cao trình độ của mình lên các bậc học
cao hơn. Có thể thấy rõ ngày càng có nhiều sân chơi trí tuệ của thanh niên như những cuộc thi Tuổi trẻ
sáng tạo, Thắp sáng tài năng trẻ, Robocon… Có thể nói đây là một hoạt động văn hóa chiếm nhiều thời
gian nhất của thanh niên.
- Thứ hai là những hoạt động văn hóa tín ngưỡng: khơng thể phủ nhận rằng ngày nay, đời sống
tín ngưỡng tâm linh ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong xã hội. Và đặc biệt, các hoạt động văn hóa
tín ngưỡng ngày càng thu hút đối tượng tham gia là thanh niên như: Lễ Noel hằng năm, Lễ hội Chùa
Hương, Lễ giổ tổ Hùng Vương,…
- Thứ ba là những hoạt động văn hóa mang tính thẩm mỹ, lựa chọn cái đẹp: lựa chọn và hướng tới
cái đẹp luôn là một yếu tố tâm lý của con người nói chung và thanh niên nói riêng. Ngày càng có nhiều sự
quan tâm của thanh niên đến những xu hướng văn hóa mới trong sự giao lưu văn hóa tồn cầu. Những xu
hướng phong cách nghệ thuật, thời trang, âm nhạc, điện ảnh, văn học… ngày càng có những sự ảnh
hưởng đến thanh niên. Bên cạnh đó, những vẻ đẹp truyền thống được giao lưu với văn hóa hiện đại cũng
được tiếp biến làm cho mới mẻ hơn hoạt động văn hóa.
- Thứ tư là những hoạt động lao động sản xuất kinh tế: đây là những hoạt động chiếm một khoảng
thời gian khá lớn của đối tượng thanh niên là những người đã đi làm. Hoạt động sản xuất kinh doanh đã
tạo ra những giá trị văn hóa của xã hội. Và thanh niên chính là những nhân tố mới tạo nên những giá trị
lao động sản xuất mới.
- Thứ năm là những hoạt động văn hóa giải trí của thanh niên: nhu cầu giải trí là nhu cầu của mọi

đối tượng, mọi lứa tuổi trong xã hội chứ khơng riêng chỉ mình thanh niên. Nhưng đối với đối tượng thanh
niên, nhu cầu giải trí sau những giờ lao động, học tập là rất cần thiết để tái tạo lại sức lao động, học tập…
Các hoạt động giải trí của thanh niên có rất nhiều như thể dục thể thao, các hoạt động văn hóa văn nghệ, đọc
sách, nghe nhạc, xem phim, chơi game…Bên cạnh những hoạt động văn hóa giải trí lành mạnh thì hiện nay
có một bộ phận thanh niên có tham gia những hoạt động mang tính chất khơng lành mạnh như đánh cờ bạc,
bia rượu,…
Các hình thức hoạt động văn hóa của thanh niên hiện nay ngày càng có xu hướng đa dạng hơn và
điều này cần có sự quan tâm, nghiên cứu của những nhà quản lý văn hóa để thấy rõ được những xu hướng
đó, để khuyến khích và phát huy những xu hướng tích cực cho xã hội và hạn chế, giảm thiểu ảnh hưởng của
những xu hướng tiêu cực đối với thanh niên.
1.2. Vai trò của hoạt động văn hóa với thanh niên


1.2.1. Vai trị của hoạt động văn hóa đối với việc hoàn thiện nhân cách
Thanh niên là những con người trong độ tuổi mang tính chất quá độ từ trẻ em sang người lớn. Và
độ tuổi này là giai đoạn quan trọng của mỗi con người. Đây là gia đoạn con người có những nhận thức
mới về cuộc sống, chịu ảnh hưởng từ những tương tác xã hội lớn từ gia đình, nhà trường, bạn bè, sách vở,
truyền thơng, các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội,…Đây là quá trình cá nhân tự nhận thức mình và tiếp
nhận những giá trị của xã hội để hình thành nên cái tôi cá nhân. Sự thống nhất giữa năng lực và phẩm chất
giai đoạn này là yếu tố quan trọng trong việc định hình nhân cách cá nhân.
Văn hóa, với tư cách vừa là sản phẩm, vừa là nền tảng, phương tiện cho hoạt động sáng tạo không
ngừng của con người luôn lưu giữ lại những giá trị tốt đẹp, định hình nên các chuẩn mực, các thang giá trị
trong xã hội. Các chuẩn mực, các thang giá trị này được đối tượng tiếp nhận, mà ở đây là thanh niên tiếp
nhận trong quá trình hội nhập từ cá nhân vào xã hội, tức là thông qua các hoạt động xã hội và văn hóa. Ở
độ tuổi thấp hơn, thì con người chỉ chủ yếu tiếp cận các thang giá trị, chuẩn mực từ phía gia đình, nhà
trường và chỉ trên lý thuyết. Chỉ khi bắt đầu đến lứa tuổi thanh niên, quá trình hội nhập cộng đồng mới
cho con người tiếp nhận một cách thức sâu sắc hơn về bề mặt thực tế xã hội, mà ở đó văn hóa xã hội đang
định hình những chuẩn mực. Qua việc tiếp nhận, định hình các giá trị, chuẩn mực của xã hội thơng qua
các hoạt động văn hóa, mỗi con người tự cá nhân hóa những suy nghĩ về các giá trị chuẩn mực đó để đưa
ra những cái nhìn của cá nhân mà mình cho là hợp lý. Và thể hiện nhân cách của mình qua các dạng thức

hoạt động của cuộc sống.
Ngày nay, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và văn hóa Việt Nam cũng đang
trong quá trình hội nhập với hệ quả là sự mất đi của một số giá trị văn hóa truyền thống và sự xâm nhập
của một số giá trị văn hóa ngoại lai. Với đặc tính của lứa tuổi thanh niên ưa tìm tịi, khám phá và thử
nghiệm thì quá trình tiếp nhận. lựa chọn các cách ứng xử văn hóa đã diễn ra nhanh chóng và rõ nét. Có
những biến đổi mang tính tích cực, phù hợp với những chuẩn mực, giá trị mới của quốc tế nhưng bên
cạnh đó lại cũng xuất hiện những biến đổi mang tính tiêu cực, là sản phẩm của những thứ văn hóa lệch
lạc. Điều này khiến chúng ta khơng thể khơng lưu tâm.
1.2.2. Vai trị của hoạt động văn hóa đối với việc giáo dục truyền thống yêu nước và định
hướng lý tưởng cho thanh niên
Văn hóa đóng vai trị quan trọng trong q trình hồn thiện nhân cách của con người nói chung và
ở lứa tuổi thanh niên nói riêng. Đặc biệt, trong đóng góp của văn hóa vào việc hình thành nhân cách,
khơng thể khơng nói đến vai trị giáo dục của các hoạt động văn hóa đối với truyền thống yêu nước, góp
phần xây dựng và định hướng lý tưởng cho thanh niên Việt Nam.


Con người Việt Nam nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng là con người tổ quốc luận [36,
tr. 31], tức là đối với anh ta, tổ quốc là trên hết. Minh chứng cho điều này chính là lịch sử dựng nước và
giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. Chỉ riêng trong suốt 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, hàng triệu người thanh niên đã ngã xuống vì lý tưởng độc lập dân tộc. Đã có những con người từ bỏ
sự phồn vinh giàu có nơi nước ngoài để trở về với tổ quốc, để phục vụ kháng chiến như Trần Đại Nghĩa,
Lương Định Của…Trong quá khứ, những giá trị văn hóa truyền thống và lý tưởng cộng sản đã có những
đóng góp to lớn cho việc giáo dục truyền thống yêu nước và lý tưởng cách mạng cho thanh niên.
Tuy nhiên, ngày nay, sau khi thống nhất nước nhà và sau 25 năm đổi mới, vấn đề giáo dục truyền
thống yêu nước và lý tưởng cho thanh niên lại đang đặt ra nhiều vấn đề. Một quan điểm cho rằng, thanh niên
Việt Nam ngày nay ít quan tâm đến tình hình, vận mệnh đất nước, ưa sống, suy nghĩ và hành động theo lối
thực dụng, vị kỷ cá nhân. Tình cảm yêu nước của họ đã phai nhạt hơn rất nhiều so với các thế hệ trước [48,
tr.276]. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X năm 2008 cũng nhận định: “…một bộ phận thanh niên sống thiếu lý
tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước”. Những hiện tượng trên hồn tồn trái ngược với
lẽ sống, hình ảnh của thế hệ thanh niên trong thời kỳ kháng chiến, những người đã làm nên các phong trào

thanh niên yêu nước sục sôi trong suốt những thập kỷ đất nước trải qua những thử thách khốc liệt nhất của các
cuộc chiến tranh yêu nước từ năm 1945 đến năm 1979 [48, tr. 277].
Nhưng bên cạnh đó, trái ngược với những hiện tượng trên là trong những năm gần đây đã xuất hiện
những hình thức mới bộc lộ rất rõ ràng tình cảm yêu nước, đôi khi không kém phần mãnh liệt của thanh niên
Việt Nam. Hình ảnh hàng chục nghìn cổ động viên bóng đá cổ vũ đội tuyển Việt Nam mà tuyệt đại đa số họ là
thanh niên khơng khó bắt gặp trên sân vận động Mỹ Đình hay các hoạt động “uống nước nhớ nguồn” của thế
hệ trẻ Việt Nam do Đoàn Thanh niên và Hội LHTN tổ chức. Theo kết quả nghiên cứu của cơng trình do PGS
Phạm Hồng Tung chủ nhiệm thì có đến 74.2% [46, tr. 283] số thanh niên được hỏi cho biết họ cơ bản quan
tâm hoặc rất quan tâm đến tương lai, vận mệnh của đất nước dù rằng đây khơng phải tiêu chí đứng hàng đầu
trong bảng xếp hạng các vấn đề quan tâm. Dù kết quả như vậy nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ thanh
niên Việt Nam hiện nay đang không quan tâm đến vận mệnh đất nước. Vấn đề thanh niên nước ta ngày nay
gặp khó khăn trong việc hình thành tỉnh cảm yêu nước sâu sắc như một giá trị đạo đức cốt lõi và nỗ lực hiện
thực hóa giá trị đó trong cuộc sống như vậy đến từ một nguyên nhân là họ đang được giáo dục không đúng về
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam [48, tr.284]. Trong đó những hoạt động văn hóa ảnh hưởng khơng nhỏ đến vấn
đề này. Những hoạt động văn hóa giáo dục truyền thống yêu nước và lý định hướng lý tưởng cho thanh niên
khơng có nhiều đổi mới trong hình thức tổ chức và thực hiện làm cho thanh niên không có nhiều sự quan tâm
đến những hoạt động này. Thêm vào đó là sự thâm nhập của những hoạt động văn hóa mới được giới trẻ quan
tâm hưởng ứng thì những người tổ chức, quản lý văn hóa lại chưa lưu tâm để có thể lồng ghép các chương
trình hoạt động cho phù hợp.


Vấn đề này đặt ra cho những người quản lý văn hóa phải quan tâm, làm thế nào để tạo ra những
hoạt động văn hóa cho thế hệ trẻ biết những phương thức bộc lộ tình cảm yêu nước phù hợp với thời đại
ngày nay và với bối cảnh tình hình đất nước, để họ chủ động và tự nguyện bộc lộ tình cảm u nước và
hiện thực hóa giá trị này vào trong hoạt động sống của mình. Phải giúp họ hiểu rằng, khơng nên chỉ biết
cổ vũ bóng đá hay biểu tình tự phát, mà phải biết yêu nước tức là góp phần làm cho đất nước thốt khỏi
tình trạng chậm phát triển, sớm gia nhập hàng ngũ những nước văn minh, tiên tiến nhất; yêu nước tức là
phải biết yêu con người, yêu đồng bào, tôn trọng con người trong mỗi hoạt động sống; yêu nước là phải
bảo vệ môi trường sống, sử dụng hợp lý các nguồn lực; yêu nước là phải biết chấp hành pháp luật, xa lánh
các tội phạm và tệ nạn xã hội; yêu nước là phải biết sống lành mạnh, văn minh, hội nhập quốc tế vì bản

thân, gia đình, xã hội và dân tộc;…[17, tr. 25-37].
1.2.3. Vai trị của văn hóa trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí lành mạnh cho thanh niên
Tuổi thanh niên là lứa tuổi không ngừng phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, đạo đức, đặc biệt
những phẩm chất quan trọng trong nhân cách, ở họ có những phẩm chất quan trọng của tuổi trưởng thành.
Bản thân lứa tuổi thanh niên luôn muốn tự khám phá những điều mới mẻ. Và những hoạt động văn hóa
thời điểm này có vai trị rất quan trọng. Chúng ta đều biết rằng, văn hố ln là nhu cầu thiết yếu trong
đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại.
Lứa tuổi thanh niên với những hoạt động chủ yếu là học tập và lao động sản xuất. Đặc biệt, với đối
tượng thanh niên ở quận Hai Bà Trưng với đặc thù là một quân của đô thị lớn, nên thanh niên quận Hai Bà
Trưng mang những tính chất của đối tượng thanh niên đơ thị với 3 nhóm chính sau:
- Đối tượng là học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông.
- Đối tượng là thanh niên tự do.
- Đối tượng là thanh niên cơng chức nhà nước hoặc có nghề nghiệp ổn định.
Với học sinh, sinh viên đô thị hiện nay, thời gian dành cho việc học tập chiếm một lượng thời gian rất
lớn trong ngày, bên cạnh việc học chính khóa, học sinh, sinh viên cịn chịu thêm những gánh nặng của việc
học thêm, làm thêm. Với đối tượng là thanh niên công chức, thanh niên đã đi làm thì thời gian dành cho cơng
việc cũng rất lớn. Với quỹ thời gian ít ỏi cịn lại phải dành cho những cơng việc gia đình và nghỉ ngơi nên thời
gian dành cho giải trí của thanh niên nói chung và thanh niên quận Hai Bà Trưng nói riêng là rất ít. Và do đó,
nhu cầu với việc giải trí là rất lớn, đặc biệt là nhu cầu giải trí một cách lành mạnh cho thanh niên. Việc đáp ứng
nhu cầu giải trí lành mạnh sẽ góp phần tích cực vào việc hoàn thiện nhân cách, xây dựng lối sống đẹp cho
thanh niên.


×