Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ GIÁO dục GIÁ TRỊ đạo đức TRUYỀN THỐNG dân tộc CHO THANH NIÊN TỈNH bắc GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.16 KB, 108 trang )

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIÁ

3

TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
CHO THANH NIÊN TỈNH BẮC GIANG
1.1. Quan niệm và vai trò giáo dục giá trị đạo đức truyền

9

thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang
1.2. Những nhân tố quy định việc giáo dục giá trị đạo đức

9

truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang
Chương 2 GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG

33

DÂN TỘC CHO THANH NIÊN TỈNH BẮC GIANG
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân

42

tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang hiện nay


2.2. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc

42

giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh
niên tỉnh Bắc Giang hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

64
81
83
89

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện từ năm 1986,
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nền kinh tế mở đang hội nhập tích cực
vào quá trình toàn cầu hóa, bộc lộ cả mặt tích cực và tiêu cực, tác động tới các
giá trị tinh thần, đặc biệt là đạo đức của con người hiện nay.
Bắc Giang - một tỉnh trung du, miền núi phía bắc của Tổ quốc cũng
đang tham gia tích cực vào quá trình hội nhập. Nền kinh tế tỉnh trong những
năm gần đây đã có nhiều khởi sắc. Đời sống của người dân có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế thì vấn đề đạo đức cho người dân,
đặc biệt là đạo đức thanh niên trong những năm gần đây của tỉnh còn nhiều

vấn đề đặt ra.
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một
phần rất lớn vào thế hệ trẻ nói chung, thanh niên nói riêng. Liệu chúng ta
có thể giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt
lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Trong
những điều kiện mới của đất nước, chúng ta đã chuẩn bị “hành trang” gì
cho họ? Điều tiên quyết và không thể thiếu đó là “truyền thống dân tộc”,
những truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước
và giữ nước đã giúp chúng ta “hội nhập” mà không bị “hòa tan”, phát
triển mà không bị “mất gốc”, trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất
cả những điều đó đã và đang giúp cho thanh niên Việt Nam nói chung thanh niên Bắc Giang nói riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình,
đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Hiện nay, một bộ phận thanh niên chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ
cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Với các biểu hiện suy thoái đạo đức trong thanh niên như lôi kéo bè cánh để
3


đánh nhau (cả trai lẫn gái), thậm chí hành hung cả thầy cô giáo; bạn bè chém
giết lẫn nhau chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ, trẻ vị thành niên cũng gây ra nhiều
vụ án mạng. Những biểu hiện đó ở một bộ phận thanh niên đang làm xói mòn
những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho thanh niên tỉnh Bắc Giang là vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện
nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn chọn đề tài: “Giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Một số công trình nghiên cứu liên quan đến đạo đức truyền thống dân tộc
Mảng đề tài về truyền thống và đạo đức truyền thống được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu và có nhiều công trình, bài viết có giá trị. Đó

là những công trình như: "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam"[24] (1980) của GS. Trần Văn Giàu. Công trình này tập trung vào những
nội dung chủ yếu là truyền thống và đạo đức truyền thống của dân tộc, về vai
trò của chúng trong lịch sử vẻ vang của dân tộc ta và nhấn mạnh vai trò của
truyền thống hiện nay, khi đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng giao lưu quốc tế.
Bài viết “Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức cho thanh
niên Việt Nam hiện nay” [57] của Nguyễn văn Phúc (2000). Bài viết này cho
chúng ta một cách nhìn khái quát về vai trò của tình cảm đạo đức trong đời
sống con người, trên cơ sở đó khẳng định sự cần thiết phải giáo dục tình cảm
đạo đức trong đời sống xã hội. ở một mức độ nào đó, đây là nguồn tư liệu quý
để tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuốn sách “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” [26] của Trịnh Duy Huy (2009), đã trình bày hệ
4


thống lý luận, thực trạng, giải pháp để xây dựng đạo đức mới trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Công trình “Một số vấn đề lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”
[73] do Huỳnh Khái Vinh chủ biên (2001), đã cho thấy rõ: lối sống, đạo đức
và chuẩn giá trị xã hội là những yếu tố cơ bản trong đời sống của mỗi con
người, gắn liền với các cơ sở kinh tế, chính trị, tư tưởng và mọi mặt của đời
sống xã hội, từ thực trạng tác động của các yếu tố đó, tác giả đưa ra giải pháp
để xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội.
* Một số công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho thanh niên
Khi nghiên cứu về đối tượng thanh niên, gần đây có một số công trình
có đề cập đến sự phát triển đạo đức và định hướng giá trị đạo đức cho thanh
niên như: TS Thái Duy Tuyên về "Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh

niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường", (Tạp chí Triết học, số
1/1995); Trần Xuân Vinh (Viện Thanh niên) về "Sự biến đổi một số giá trị cơ
bản của thanh niên Việt Nam hiện nay", (Tạp chí Triết học, số 1/1995); Các
công trình nghiên cứu chuyên sâu và bài viết của PGS.TS Đặng Cảnh Khanh
về đối tượng thanh niên cũng như một số luận án, luận văn khác bước đầu đã
đưa ra những nhận xét, đánh giá về thế hệ trẻ Việt Nam, về vai trò và đặc điểm
phát triển đạo đức và về những thay đổi trong sự phát triển đạo đức, lối sống
của họ trong điều kiện mới.
Đề tài khoa học “Vấn đề định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên
Việt Nam hiện nay”[55] do Trần Sỹ Phán (2011), đã phân tích sự cần thiết
phải định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Trên cơ sở thực trạng định hướng giá
trị đạo đức cho thanh niên Việt Nam thời gian qua, tác giả đề xuất một số giải
pháp cơ bản để định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
5


Tạp chí lý luận chính trị “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
trong Trường phổ thông hiện nay” [54] của Phạm Nguyên Nhung (2013),
trong đó tác giả đưa ra một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao
chất lượng giáo dục trong trường phổ thông hiện nay là phải tăng cường có
hiệu quả việc giảng dạy môn Giáo dục công dân - một môn học ảnh hưởng
trực tiếp đến việc cung cấp tri thức đạo đức cũng như điều chỉnh hành vi đạo
đức của học sinh.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ được
nội dung, tầm quan trọng cũng như đề xuất một số giải pháp thiết thực, để
giáo dục ý thức đạo đức cho thanh niên ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Những kết quả nghiên cứu trên đây đã cung cấp thêm tài liệu tham
khảo bổ ích để tác giả đi sâu nghiên cứu vấn đề mà tác giả lựa chọn. Tuy

nhiên theo giới hạn hiểu biết của tác giả chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu một cách có hệ thống về vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc cho thanh niên ở tỉnh Bắc Giang.
Do vậy, tác giả thấy cần phải đi sâu nghiên cứu vấn đề “Giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang hiên nay”,
qua đó luận giải những đặc điểm có tính quy luật, đề xuất những giải pháp cơ
bản giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên Tỉnh Bắc
Giang hiện nay. Đây là vẫn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo của tỉnh Bắc Giang hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vẫn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang và đề xuất một số giải
pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang hiện nay.
6


*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ quan niệm, vai trò, những nhân tố ảnh hưởng tới việc giáo dục đạo
đức truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang hiện nay và chỉ ra nguyên
nhân của những thực trạng đó.
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên Tỉnh
Bắc Giang.

* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho thanh niên Tỉnh Bắc Giang, (thanh niên học đường từ 15 đến 22 tuổi);
thời gian khảo sát từ năm 2009 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giáo dục giá trị đạo đức
truyền thốngdân tộc. Ngoài ra, luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu
của một số công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn quá trình quán triệt, thực hiện các quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo, xây dựng thanh niên vững mạnh về mọi mặt; đặc biệt là thực trạng giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang hiện
nay, từ kết quả điều tra khảo sát của tác giả.
7


* Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú trọng phương pháp logic và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học, phương pháp
chuyên gia…
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu và giảng dạy đạo đức học. Đề tài cũng có ý nghĩa
đối với công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên tỉnh Bắc Giang
hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham

khảo và phụ luc.

8


Chương 1
NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO THANH NIÊN TỈNH BẮC GIANG
1.1. Quan niệm và vai trò của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang
1.1.1. Quan niệm về giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho thanh niên tỉnh Bắc Giang
* Quan niệm giá trị truyền thống và giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
Từ điển Tiếng Việt quan niệm, giá trị được hiểu là cái làm cho một vật
có ích lợi, là đáng quý về một mặt nào đó; là tác dụng, hiệu lực; là lao động
xã hội của những người sản xuất hàng hóa kết tinh vào sản phẩm hàng hóa;
Số đo của một đại lượng hay số được thay thế bằng một ký hiệu.
Theo giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng
định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là bao hàm quan điểm coi giá trị gắn
liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc
con người và vươn tới”[10, tr.16].
Truyền thống luôn là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu từ nhiều khía cạnh. Nói một cách ngắn gọn, thì truyền thống là "Thói
quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác" [56, tr.1017].
GS. Nguyễn Trọng Chuẩn cũng cho rằng: "Nói đến truyền thống là nói đến
phức hợp những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những phong tục, lối
sống, cách ứng xử, ý chí của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử,
đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác" [10, tr.16].
Như vậy, truyền thống được hiểu như là tập hợp những tư tưởng, tình

cảm, thói quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng người
nhất định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn định và
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống là tinh hoa đã được
9


chắt lọc qua thử thách của thời gian và được nâng cao dần theo trình độ phát
triển mọi mặt của con người và xã hội mà không xa rời nguồn cội. Trải qua
hàng ngàn năm lịch sử, những truyền thống đó đã tạo nên bản sắc của dân tộc
Việt Nam, tâm hồn và bản lĩnh của con người Việt Nam.
Giá trị truyền thống, theo quan điểm lịch sử và biện chứng, ở một thời
điểm lịch sử nhất định, truyền thống bao giờ cũng có tính hai mặt: mặt tích
cực và mặt tiêu cực. Mặt tích cực bao gồm những yếu tố ưu việt, tiến bộ, phù
hợp và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc;
còn mặt tiêu cực là hiện thân của sức ỳ, của sự bảo thủ, lạc hậu, có ảnh hưởng
tiêu cực tới sự phát triển của xã hội. Hai mặt mâu thuẫn đó cùng tồn tại song
song trong di sản truyền thống và có khi đan xen, chồng chéo lên nhau. Tuy
nhiên, khi nói đến giá trị truyền thống là ta muốn nói tới những mặt tốt đẹp,
mặt tích cực, là đặc trưng cho bản sắc dân tộc trong truyền thống và đã trở
nên ổn định, lâu bền, có khả năng trao truyền lại qua không gian và thời gian,
là những gì mà chúng ta cần duy trì và phát triển. "Nói đến giá trị tức là muốn
khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi
giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng
thôi thúc con người hành động và vươn tới"[10, tr.16]. Hơn nữa, "Không phải
cái gì tốt thì mới được gọi là giá trị, mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản,
có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự
nhận định và hướng dẫn sự hành động, thì mới được mang danh là giá trị
truyền thống" [22, tr.50].
Trong hệ thống giá trị văn hóa, tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam
ta, nổi bật nhất là đạo đức truyền thống. Đạo đức truyền thống "Đã được gìn giữ

và nâng cao từ đời này qua đời khác trở thành một tình cảm sâu sắc, một lẽ sống
của toàn thể nhân dân, một niềm tự hào cao quý ở mỗi người" [27, tr.71].
Đạo đức nói chung là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh
10


giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội;
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác đạo đức phản ánh tồn tại xã
hội. Sự xuất hiện của ý thức đạo đức là do nhu cầu khách quan của sự phát
triển nhận thức, của đời sống xã hội, trước hết là do nhu cầu phối hợp, tương
trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất, trong việc phân phối sản phẩm xã hội,
trong đấu tranh, đạo đức thay đổi tùy theo sự thay đổi của tồn tại xã hội. Cùng
với sự phát triển của sản xuất, của tiến bộ xã hội, những qui tắc, chuẩn mực,
phạm trù đạo đức theo đó cũng tăng lên, phản ánh đời sống xã hội ngày càng
phong phú, đa dạng hơn, trở thành một trong những phương thức điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi con người sao cho phù hợp với
yêu cầu của xã hội. Ph.Ăngghen viết: "Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về
đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã
hội lúc bấy giờ" [42, tr.161].
Nếu như truyền thống - như đã đề cập ở trên - là những gì đã được
hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử dân tộc, đã trở nên ổn định và
lưu truyền từ đời này qua đời khác, thì đạo đức truyền thống là những
quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi ứng xử, thói quen,
tập quán... đạo đức đã có từ lâu đời và được trao truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Đạo đức truyền thống Việt Nam là bản sắc của dân tộc Việt
Nam, là cốt lõi của đời sống văn hóa, tinh thần của chúng ta. Đó không
phải là một cái gì thiên định, mà được hình thành và được bồi đắp qua hàng

thế kỷ cho đến ngày nay.
Giá trị đạo đức truyền thống là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý
tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người với con người, giữa con người
với tự nhiên, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhằm điều chỉnh và
chuẩn hóa hành vi của con người một cách tự nguyện, tự giác.
11


Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của
dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các giá trị đạo đức
chiếm vị trí nổi trội, tạo nên cốt lõi của nó. Nói đến các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm
chất tốt đẹp đã được hình thành và bảo lưu cho tới thời điểm hiện tại. Đó là các
giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ
biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân và
xã hội.
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang.
Theo từ điển tiếng Việt, giáo dục là tác động có hệ thống đến sự phát triển
tinh thần, thể chất con người, để họ dần có được những phẩm chất năng lực như
yêu cầu đề ra [56]. Theo đó, cũng như hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục
đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng giáo dục nhằm hình thành trong họ ý
thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng đạo đức và định hướng cho hành vi đạo đức.
Nhiều giá trị và phẩm chất đạo đức ở con người được hình thành chủ yếu bằng
con đường giáo dục.
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc
Giang chính là giúp họ hình thành phát triển những phẩm chất đạo đức trong
sáng mà chính bản thân họ và cũng như xã hội cần. Trong chiến lược con
người Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc giáo dục các giá trị văn
hóa, đạo đức, vì nó góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển

nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh
đã dạy: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên” [45,
tr.383]. Ở tỉnh Bắc Giang, việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho thanh niên là nhằm trang bị cho họ hệ thống những giá trị đạo đức cao
đẹp của dân tộc Việt Nam đã được gìn giữ và phát triển qua bao thế hệ
12


Người Việt. Đây là điều kiện thuận lợi để thanh niên có nền tảng vững chắc
cho sự hình thành phát triển nhân cách của mình.
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là hoạt động có mục
đích của các chủ thể và đối tượng giáo dục, nhằm trang bị những giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên, thông qua hệ thống nội
dung, hình thức, biện pháp khoa học, góp phần hoàn thiện phẩm chất
nhân cách cho thanh niên tỉnh Bắc Giang.
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên tồn tại
như một hệ thống luôn ở trạng thái vận động, phát triển không ngừng, diễn
ra trong môi trường nhà trường và xã hội. Sự vận động, phát triển đồng bộ,
tổng hợp của các thành tố tạo nên sự vận động, phát triển của quá trình giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên Bắc Giang. Đó là quá
trình tương tác hợp quy luật giữa giáo dục và đào tạo của Nhà trường với sự
tự giáo dục, rèn luyện của người học nhằm hình thành, phát triển ở họ những
chuẩn mực đạo đức cách mạng theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Quan niệm
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên Bắc Giang biểu
hiện trên những nội dung sau:
Một là, mục đích giáo dục nhằm trang bị cho người học hệ thống giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam; hình thành, phát triển ở họ những phẩm
chất đạo đức cách mạng trên cơ sở, nền tảng giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc; đồng thời để hình thành, phát triển bản lĩnh chính trị, năng lực, phong cách
của người thanh niên theo mục tiêu đào tạo. Mục đích giáo dục giá trị đạo đức

truyền thống dân tộc cho thanh niên luôn được được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo của Nhà trường, vai trò của các chủ thể và đối tượng giáo dục trong việc quán
triệt phương châm, nguyên lý, quy luật và vận dụng các hình thức, biện pháp giáo
dục nhằm đạt kết quả tốt nhất.

13


Hai là, chủ thể giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh
niên bao gồm toàn bộ lực lượng giáo dục của Nhà trường. Đó là các tổ chức
Đảng, Ban Giám hiệu, đội ngũ giáo viên, tổ chức Đoàn Thanh niên. Mỗi lực
lượng có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều thống nhất ở mục đích
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên. Chủ thể của quá
trình tự giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc đó là thanh niên. Tính tích
cực, chủ động, tự giác phấn đấu, rèn luyện và tiếp nhận sự giáo dục của Nhà
trường có vai trò trực tiếp quyết định đến sự hình thành phát triển đạo đức
của mỗi thanh niên. Thực chất đây được xem là khâu quan trọng trong quá
trình giáo dục, đó là biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Vì
vậy, phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, sự phối hợp chặt
chẽ giữa các chủ thể nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp vào giáo dục giá trị
đạo đức dân tộc cho thanh niên tỉnh Bắc Giang.
Ba là, đối tượng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là thanh
niên. Thanh niên vừa là khách thể, chịu sự điều khiển chi phối của các chủ thể
giáo dục thông qua thực hiện mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống, vừa là chủ thể tự tổ chức, tự định hướng
quá trình lĩnh hội tri thức về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho bản
thân. Không ai khác, họ chính là người biến quá trình đào tạo của nhà trường
thành quá trình tự đào tạo của mỗi người. Với ý nghĩa ấy, họ là nhân tố trực
tiếp quyết định đến quá trình tiếp thu giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
nhằm hoàn thiện phẩm chất nhân cách người thanh niên. Do đặc điểm của đối

tượng giáo dục, vì vậy giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc phải đi
sâu nghiên cứu đặc điểm tâm lý, trình độ nhận thức, nhu cầu của đối tượng để
có các biện pháp giáo dục cho phù hợp.
Bốn là, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là quá trình tác
động có hệ thống, liên tục của các chủ thể giáo dục. Quá trình tác động có hệ
14


thống, liên tục nhằm hình thành, phát triển ở thanh niên Bắc Giang những
chuẩn mực đạo đức của dân tộc.
Năm là, những nội dung giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
thanh niên tỉnh Bắc Giang được thông qua dưới nhiều hình thức, biện pháp với
những phương tiện giáo dục tác động phong phú linh hoạt. Thông qua việc thực
hiện các hình thức tổ chức dạy học như: diễn giảng, thảo luận, xêmina, làm bài tập
thực hành, thực tập, kiểm tra, các hoạt động rèn luyện ngoại khoá; các hoạt động
chính trị - xã hội; thông qua sử dụng tổng hợp các hình thức, biện pháp, phương
tiện của công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác chính sách; thông qua quá
trình tự tu dưỡng, rèn luyện của người học theo các chuẩn mực đạo đức xã hội. Tất
cả những hình thức, biện pháp đó đều có vị trí, vai trò quan trọng đối với việc
thực hiện các nội dung giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
thanh niên Bắc Giang, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, liên hệ
nhau trong chỉnh thể của phương thức giáo dục. Vì vậy, không được coi nhẹ
hoặc tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức, biện pháp nào.
Sáu là, thông qua giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
thanh niên nhằm hoàn thiện phẩm chất nhân cách của họ. Các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc có vai trò quan trọng trong giáo dục nhân cách, khái
quát lại ở những điểm cơ bản sau: là cơ sở nền tảng để phát triển nhân cách
mới cho thanh niên tỉnh Bắc Giang nói riêng và thanh niên Việt Nam nói
chung; là động lực, là ngọn nguồn phát triển dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh
thần và bản lĩnh cho thế hệ thanh niên vươn lên trong giai đoạn mới; các giá

trị đạo đức truyền thống được kế thừa đã trở thành các phẩm chất đặc biệt của
thanh niên, giúp họ đứng vững trước tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị
trường và toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất
lưu ý đến nguyên tắc này. Người chỉ rõ: “Đời sống mới không phải cái gì cũ
cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ...
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp
15


lý...Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm..Cái gì mới mà hay, thì ta phải
làm”[47, tr.112-113].
* Nội dung một số giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc cần giáo
dục cho thanh niên Tỉnh Bắc Giang
Nội dung giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc bao gồm giáo
dục về: lòng yêu nước; truyền thống đoàn kết và ý thức cộng đồng; truyền
thống nhân ái - yêu thương con người; truyền thống hiếu học, ham hiểu biết,
có ý chí vượt khó; truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo.
Giá trị lòng yêu nước
Yêu nước là tình cảm của tất cả mọi dân tộc trên thế giới chứ không phải
chỉ là tình cảm, là truyền thống riêng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ở mỗi
một quốc gia dân tộc thì tình cảm này lại được thể hiện khác nhau và mang
những nội dung không hoàn toàn trùng nhau. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng
yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử dân tộc Việt Nam từ ngàn
xưa cho tới hôm nay.
Yêu nước là tình yêu đối với đất nước, là lòng trung thành với Tổ quốc
biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ và đem lại nhiều lợi
ích cho Tổ quốc và nhân dân. Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân
ta từ xưa tới nay. Lòng yêu nước có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ

quốc, của nhân dân lên trên hết, là chăm lo xây dựng quê hương đất nước, sẵn
sàng chống đô hộ và xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn và
phát huy văn hóa dân tộc. Lòng yêu nước của dân tộc ta đã trở thành triết lý
sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ nghĩa yêu nước như giáo sư Trần Văn
Giàu đã viết: “Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt
Nam được bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi người đối với quê hương
mình tiến lên thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ của nhận thức
16


đúng sai, tốt xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương lược xây dựng và
bảo vệ nước nhà” [23, tr.7]
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, lịch
sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, yêu nước trước hết là nêu cao tinh thần
chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Điều này đã được chứng minh
qua lịch sử đấu tranh của dân tộc ta để bảo vệ độc lập dân tộc xây dựng đất
nước. Trải qua hơn một nghìn năm dưới ách đô hộ của thực dân phong kiến
phương Bắc, cha ông ta vẫn kiên cường giữ nước, giữ làng. Mỗi làng xóm
Việt Nam là một thành trì vững chắc chống lại chính sách đô hộ của bọn
ngoại bang, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Khi đất nước đã hoàn toàn giải
phóng, truyền thống yêu nước được thể hiện trong điều kiện tồn tại của nhà
nước phong kiến độc lập. Trong khoảng thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV, nhân
dân cả nước thực sự bắt tay vào xây dựng đất nước. Công cuộc khai khẩn
đất đai, xây dựng các công trình thủy lợi, phát triển nông nghiệp, mở mang
nhiều ngành nghề đã góp phần hình thành một nền kinh tế tự chủ, đáp ứng
phần lớn các nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong nước và đặt cơ sở cho
việc ngoại giao với các nước khác. Trên cơ sở kinh tế đó, nhà nước phong
kiến được củng cố và phát triển với đầy đủ các thiết chế chính trị, quân sự,
văn hóa ý thức dân tộc do đó cũng được tăng cường và củng cố thêm.
Truyền thống đó một lần nữa lại được phát huy cao độ trong cuộc chiến

đấu vì độc lập tự do của nhân dân ta. Cuộc chiến đó diễn ra trong sự so sánh
lực lượng chênh lệch có lợi về phía địch. Trong điều kiện đó, tinh thần yêu
nước, ý chí bất khuất kiên cường là nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức
mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta. Chính lòng yêu nước nồng nàn,
tinh thần dân tộc sâu sắc đã giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, chiến
thắng mọi thế lực xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
tới nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
17


một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[48, tr.171].
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì truyền thống yêu nước của
dân tộc ta được biểu hiện chủ yếu ở tình yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội,
không chỉ yêu nhân dân nước mình mà còn biết quý trọng, yêu mến nhân dân
nước khác. Yêu nước hiện nay là nâng cao lòng tự hào dân tộc, tin tưởng ở
tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, phấn
đấu thực hiện một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam sớm được hình thành, được
thử thách và khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, được bổ sung và phát
triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và của thời đại. Kế
thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước trong hoàn cảnh lịch sử mới vừa là trách
nhiệm, vừa là vinh dự lớn lao đối với mỗi người dân Việt Nam hiện nay nói
chung, thanh niên Tỉnh Bắc Giang nói riêng.
Giá trị truyền thống đoàn kết và ý thức cộng đồng
Tinh thần đoàn kết bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước và nó cũng là biểu
hiện của chủ nghĩa yêu nước. Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả cộng
đồng dân tộc trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện tất yếu để

bảo tồn dân tộc, nhất là khi đất nước có giặc ngoại xâm. Tinh thần ấy thể hiện
từ rất sớm ngay trong truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con”. Nhờ đoàn kết
mà cha ông ta đã sáng tạo nên nền văn minh Sông Hồng, đặt cơ sở cho toàn
bộ tiến trình về sau của lich sử. Đoàn kết đã giúp nhân dân ta vượt qua những
thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, phát triển sản xuất để phục vụ đời sống
của mình. Tinh thần đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân
ta đánh thắng mọi thế lực xâm lược.
Tinh thần đoàn kết của người Việt Nam, trước tiên, được thể hiện trong
gia đình, trong cộng đồng làng xã, và hơn hết, trong toàn thể cộng đồng các
18


dân tộc Việt Nam. Có lẽ, hiếm có một dân tộc nào mà tinh thần đoàn kết lại
được biểu hiện nhiều và đa dạng như ở những làng quê Việt Nam. Ở bất cứ
lĩnh vực gì người ta cũng tạo ra sự nhất trí cao như Đào Duy Anh đã nhận xét:
“Ở trong một làng người ta thấy những cuộc đoàn kết nhỏ như hội tư văn gồm
những người có chức tước khoa danh, hội văn phả gồm những người nho học
mà không có phẩm hàm khoa mục gì, hội võ phả gồm những người quan võ,
hội đồng môn gồm có tất cả học trò của một thầy. Ngoài ra còn có vô số các
đoàn thể khác, như hội mua bán dùng cách gắp thăm hay bỏ tiền úp bát mà
lần lượt góp tiền cho nhau trong việc khánh hỷ, cùng là những hội bách nghệ
họp các thợ thủ công đồng nghiệp, hội chư bà họp các bà vãi lễ phật, hội đồng
quan họp những bà thờ đồng thánh, hội bát âm họp các tài tử âm nhạc, cho
đến hội chọi gà, hội chọi chim…xem thế thì thấy người nhà quê ta rất ham lập
hội” [1, tr.144].
Tinh thần cộng đồng làng xã được mở rộng thành tinh thần đoàn kết dân
tộc và không ngừng được nâng cao trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Từ kinh nghiệm thực tế ông cha ta đã khẳng định rằng “Đoàn kết thì sống,
chia rẽ thì chết”, rồi “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn
núi cao” và chắc rằng mỗi người trong chúng ta đều không thể quên được câu

chuyện “Bó đũa” về tinh thần đoàn kết trong gia đình. Trong lịch sử chống
giặc ngoại xâm, dựa vào tinh thần đoàn kết mà Ngô Quyền cùng nhân dân
ta đã làm nên chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng và cho tới ngày
hôm nay tinh thần ấy vẫn được phát huy cao độ.
Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng trở thành một truyền thống đạo
đức quý báu của dân tộc. Điều này đã được minh chứng trong toàn bộ tiến
trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói: dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong. Người
khẳng định: đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công. Trước khi đi xa trong Di chúc của mình Người đã căn dặn cán bộ, đảng
19


viên: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các
đồng chí từ Trung ương cho tới các chi bộ cần phải giữ gìn đoàn kết nhất trí trong
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” [50, tr.510].
Giá trị truyền thống nhân ái - yêu thương con người
Lòng nhân ái, yêu thương con người cũng là một trong những giá trị đạo
đức truyền thống cao đẹp của dân tộc ta. Truyền thống ấy có nguồn gốc sâu
xa từ sinh hoạt trong công xã nông thôn, được củng cố phát triển trong quá
trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước. Đối với con người Việt Nam, từ
lâu truyền thống nhân ái đã trở thành một nếp nghĩ, một cách sống không thể
thiếu. Tuy nhiên, trong những giai đoạn lịch sử cụ thể truyền thống ấy cũng
được biểu hiện ở những sắc thái khác nhau.
Lòng nhân ái, yêu thương con người là cơ sở quan trọng để thiết lập mối
quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Trước hết nó được thể
hiện trong mối quan hệ gia đình: trong mỗi gia đình người Việt ta có thể dễ
dàng nhận thấy tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ đối với con cái, luôn
hết lòng quan tâm, giáo dục con cái, ngược lại con cái phải có trách nhiệm tôn
kính cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi già yếu, anh em thì hết lòng yêu thương

đùm bọc nhau “anh em như thể tay chân”. Truyền thống nhân ái còn xuất phát
từ tình yêu quê hương đất nước, từ lòng yêu thương con người “thương người
như thể thương thân” của người dân Việt Nam.
Lòng nhân ái, yêu thương con người của người Việt còn thể hiện ở lòng
vị tha, cao thượng, không cố chấp với những kẻ lầm đường, lạc lối. Trong
Bình ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã từng viết: “Lấy đại nghĩa để thắng hung
tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Người Việt Nam luôn lấy tình yêu thương làm cách xử thế ở đời, lấy
lòng nhân nghĩa để quy phục người khác. Đối với kẻ thù còn mở đường hiếu
sinh khi chúng thua trận như vua Quang Trung khi đánh bại quân Thanh còn
cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân trở về nước. Sau này trong
20


các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chúng ta cũng luôn lấy tinh
thần đó để đối xử với họ, chính điều này đã đem đến sự cảm kích và thức tỉnh
lương tâm của nhiều người lính khi tham gia chiến trận ở Việt Nam.
Lòng nhân ái, yêu thương con người còn thể hiện ở sự yêu chuộng hòa
bình, khao khát hòa bình không chỉ cho dân tộc ta mà cho tất cả các nước trên
thế giới. Trong quan hệ bang giao với các nước láng giềng, nhân dân ta bao
giờ cũng trọng tình hòa hiếu, cố gắng tránh những xung đột dẫn đến đổ máu,
tận dụng mọi cơ hội để giải quyết hòa bình cuộc xung đột giữa nước mình với
các nước khác. Sinh thời Hồ Chủ tịch đã từng nói: Dân tộc ta là một dân tộc
giàu lòng bác ái, và chính Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, bao
dung, yêu thương đó.
Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam theo lập trường chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lòng nhân ái, bao dung của dân
tộc ta được nâng lên một tầm cao mới. Lý tưởng nhân đạo của giai cấp công
nhân là giải phóng người lao động thoát khỏi chế độ bóc lột, giải phóng các
dân tộc bị áp bức, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Vì thế, nó mang

tính cách mạng, khoa học sâu sắc. Một trong những điều kiện cơ bản để giải
phóng con người là tạo ra khả năng con người có được những điều kiện vật
chất cần thiết đảm bảo sự tồn tại và phát triển. Muốn thế, mỗi người Việt
Nam phải nỗ lực hết mình nhất là tầng lớp thanh niên cần thấy rõ vai trò và
trách nhiệm của mình trước tương lai, phải có được thái độ, khát vọng hành
động tận tụy vì con người và tình yêu đối với con người.
Ngày nay, truyền thống đó đã và đang được Đảng, Nhà nước ta quan tâm
gìn giữ và phát huy bằng hàng loạt các hành động cụ thể. Bằng đường lối lãnh
đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng nhiều phong trào đã được khơi dậy, như:
“uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, nhiều chương trình hành động
21


vì người nghèo, từ thiện nhân đạo được quan tâm và thu hút sự tham gia đông
đảo của mọi tầng lớp.
Giá trị truyền thống hiếu học, ham hiểu biết, có ý chí vượt khó
Hiếu học, ham hiểu biết, có ý chí vượt khó vượt khổ từ lâu đã trở thành
một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Từ ngàn xưa ông cha ta đã từng dạy
“Không thầy đố mày làm nên”. Đó cũng là một triết lý sống của người Việt,
vì vậy người Việt từ xưa đến nay luôn coi trọng việc học hành, tôn sư trọng
đạo. Sớm nhận thức được việc học tập không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa
vụ của mỗi cá nhân, người xưa có câu: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất
học bất tri đạo” (Viên ngọc không mài dũa thì không thể thành đồ dùng được,
con người không học thì không biết đạo) và “Hiếu nhân, bất hiếu học kỳ tế dã
ngu” (Kể cả những người mong muốn làm điều nhân đức chí thiện nhưng
không học thì cũng bị sự ngu dốt che lấp đi). Vì vậy, học tập luôn được mọi
thế hệ cha anh ta quan tâm cố gắng, dù khó khăn thiếu thốn thì tinh thần ấy
vẫn luôn được phát huy cao độ.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục với truyền thống hiếu
học, tôn trọng hiền tài, ngay từ xưa ông cha ta đã biết bồi dưỡng nhân tài cho

đất nước. Quốc Tử Giám là một kiểu trường đại học quốc lập đầu tiên ở Việt
Nam được thành lập để đào tạo nhân tài. Trên bia số 1 của văn miếu đã ghi
“Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và
vươn cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi vậy, các đấng
thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn
kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc đầu tiên” [53, tr.19].
Người Việt ta có câu: Mồng một tết cha, mồng hai tết chú, mồng ba tết
thầy, “cơm cha, áo mẹ, nghĩa thầy”, “không thầy đố mày làm nên”. Để con cái
chuyên tâm vào học hành, các bậc cha mẹ rất chú trọng giáo dục con cái nhận
thức được ý nghĩa, lợi ích của sự học, “vàng chất bằng non, chẳng bằng cho
con đi học”.
22


Biết bao tấm gương vượt khó trong học tập như Nguyễn Ngọc Ký - một
người bị liệt cả hai tay từ nhỏ, nhưng đã quyết tâm học tập, tốt nghiệp cử
nhân khoa văn, làm giáo viên dạy văn ở một trường phổ thông. Bằng quyết
tâm lớn và lòng kiên trì, dũng cảm phi thường, anh đã làm điều khó có thể tin
là sự thật, anh viết bằng chân lên trang giấy.
Phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta rất quan tâm đến công tác giáo dục đào tạo, coi giáo dục đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người phấn đấu cho mục đích là
làm sao “ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học hành”.
Trong “Thư gửi cho học sinh” nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt
Nam độc lập, Bác đã viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam ta có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc, năm châu được hay không chính là nhờ phần lớn vào công học
tập của các em” [46, tr.23].
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu,

tạo mọi điều kiện cho sự phát triển giáo dục đào tạo. Ngày 2/10/1996 Hội
khuyến học Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất. Gần
đây, tháng 9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1271/QĐ TTg lấyngày 2/10 hằng năm là “Ngày khuyến học Việt Nam” với mục đích
động viên các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội tham gia công tác
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
Phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng người hiền tài càng trở nên có
ý nghĩa, tôn trọng trí thức, tôn trọng hiền tài, tôn trọng sáng tạo trên cơ sở nền
tảng đạo đức trong sáng. Như viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu đã khẳng định: “Hiếu
học là truyền thống quý báu từ ngàn xưa của dân tộc ta. Truyền thống ấy cần
được giữ gìn và phát huy trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, bất chấp những sóng gió của kinh tế thị trường” [7, tr.4].
23


Giá trị truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo
Tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo cũng là những
giá trị trong hệ giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trải qua
bao đời, ý thức đề cao lao động, chống thói lười biếng đã ăn sâu vào trong
tiềm thức của người dân Việt Nam. Thấu hiểu giá trị của sự kết hợp sức lao
động và đất đai, người Việt Nam chú trọng giáo dục, động viên giúp đỡ nhau
trong sản xuất, làm cho tấc đất trở thành tấc vàng. Lao động cần cù, sáng tạo
là nguồn gốc của mọi của cải và hạnh phúc.
Nhờ có đức tính cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo mà nhân dân ta đã
vượt qua bao nhiêu khó khăn, thử thách để tự khẳng định mình, đưa đất nước
từng bước đi lên. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, lao động chủ yếu là
thủ công, để có được hạt thóc, người nông dân Việt Nam phải một nắng hai
sương, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, những hình ảnh ấy đã được phản
ánh trong những câu ca dao của dân tộc như: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu;
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Ông cha ta cũng dặn rằng: "giàu đâu
những kẻ ngủ trưa, sang đâu những kẻ say sưa tối ngày”.

Bởi lao động rất vất vả nên ông cha ta rất quý trọng thành quả của lao
động và thường dạy con cháu rằng “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một
hạt đắng cay muôn phần”. Ngoài sự cần cù, chịu khó để có thể chống chọi với
thiên nhiên khắc nghiệt người Việt Nam còn cần có sự thông minh, sáng tạo
trong lao động bởi vậy mỗi người lao động Việt Nam từ ngàn đời xưa đã
không ngừng học hỏi, truyền thụ kinh nghiệm để cùng nhau phát triển. Bởi
vậy cần cù ở đây gắn liền với sự lao động có kế hoạch, sáng tạo, hiệu quả,
năng suất cao.
Truyền thống lao động cần cù, thông minh, sáng tạo của người Việt gắn
liền với tiết kiệm bởi ông cha ta ý thức rõ rằng: “Tiền vào nhà khó như gió
vào nhà trống”, rằng “Buôn tàu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện”, từ đó, ông
cha ta luôn nhắc nhở con cháu rằng “Được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi
24


thất bát lấy ai bạn cùng”. Nói về điều này Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: Cần, Kiệm
là những đức tính quan trọng không thể thiếu được của một con người, nếu
thiếu thì sẽ không thể thành người được.
Trong điều kiện hiện nay, cần cù, sáng tạo, tiết kiệm phải gắn với yêu
cầu nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội trong các
hoạt động của con người. Sáng tạo là tính cách đặc trưng của con người hiện
đại nói chung và thanh niên nói riêng. Sáng tạo phải được in dấu trong cách
nghĩ, cách làm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết trong cuộc sống hiện đại.
Đồng thời, cũng phải biết nhìn xa, trông rộng, mưu tính lâu dài vì cuộc sống
của mình và vì sự phát triển lâu dài của đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Bên cạnh những giá trị truyền thống tiêu biểu trên, dân tộc Việt Nam còn
có nhiều giá trị đạo đức tốt đẹp khác như đức tính khiêm tốn, thật thà, trung
thực, lòng thủy chung, tinh thần lạc quan những giá trị truyền thống này
không tồn tại một cách riêng lẻ biệt lập mà chúng tác động qua lại, bổ sung

cho nhau để tạo nên nét riêng trong nhân cách con người Việt. Chính vì lẽ đó,
những truyền thống tốt đẹp này đã được lưu giữ và phát huy qua nhiều thế hệ
cho đến ngày hôm nay.
Bên cạnh đó cần giáo dục cho thanh niên hiểu rõ bản chất, nắm vững
những phạm trù cơ bản của đạo đức như lẽ sống, hạnh phúc, lương tâm, cái
thiện và cái ác theo đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Vai trò của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
thanh niên tỉnh Bắc Giang
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước do Đảng ta lãnh đạo, nhằm xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng trở nên
giàu đẹp thì chúng ta cần có nguồn lực con người vững mạnh, đó phải là
những con người mới, những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, trong
đó, đức là gốc, là nền tảng để sử dụng hữu ích tài năng giúp mình, giúp nước
25


như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: có đức mà không có tài thì không có đủ
năng lực điều hành công việc. Có tài mà không có đức dẫn tới hỏng việc, có
hại cho cách mạng. Với chiến lược phát triển con người toàn diện phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thế hệ trẻ là đối tượng cần phải chú ý
đầu tiên, bởi lẽ, họ “là người chủ tương lai của nước nhà” và “muốn hồi sinh
dân tộc, trước hết phải hồi sinh thanh niên”.
Chính vì vậy, việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
thanh niên tỉnh Băc Giang có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt, khẳng định
điều đó là do:
Một là, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên
tỉnh Bắc Giang xuất phát từ vị trí, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
Thuật ngữ thanh niên dùng để chỉ những người đang học tập ở các
trường trung học phổ thông, cao đẳng và đại học,


thường có tuổi đời từ 15 -

. Trong những năm gần đây số lượng thanh niên ở cả nước và tỉnh Bắc
22
Giang không ngừng gia tăng. Đây là lực lượng trẻ, có học thức, nhạy cảm với
cái mới, năng động và sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học
hiện đại, là những chủ nhân tương lai của đất nước. Mặc dù vậy, họ chưa
được xác định về vị trí thực trong xã hội bởi họ chưa có nghề nghiệp ổn định,
hoạt động chính của họ là học tập, nghiên cứu khoa học và tham gia các hoạt
động xã hội.
Là những trí thức tương lai, thanh niên sớm có nhu cầu, khát vọng thành
đạt. Học tập ở các trường khác nhau là cơ hội tốt để thanh niên được trải
nghiệm và khẳng định bản thân, vì thế, thanh niên rất thích khám phá, tìm tòi

26


×