Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

KHAI QUAT PHONG THUY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.88 KB, 49 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>KHÁI QUÁT PHONG THUỶ Tôi thấy trên diền đàn phong thuỷ cũng như ngoài đời mỗi người một lý. Mỗi người đều mang một trường phái mình học ra coi nó là độc tôn rồi chê bai phái khác là bàng môn ngoại đạo, Điều này vô cùng tai hại cho hậu học. Họ chẳng biết phải theo ai học ai, vô hình đã làm cho môn phong thuỷ càng trở nên huyền bí hoặc làm cho nhiều người thấy nghi hoặc không đủ tin tưởng vào môn này. Thật là buồn lắm lắm ! Tôi viết bài này nhằm hai mục đích, Một là muốn khẳng định phong thuỷ là một môn khoa học đã được chứng nghiệm từ hàng nghìn năm. Hai là dùng chút kiến thức ít ỏi của tôi cung cấp một trong hàng nghìn cách tiếp cận môn phong thuỷ qua sách vở, ngõ hầu có thể giúp các bạn yêu thích môn này đi sâu nghiên cứu 1- Phong Thuỷ là một môn Khoa Học : Gồm ba phần - Cơ sở lý luận - Các chứng nghiệm - Tại sao lại có người nghi hoặc môn phong thuỷ a- Cơ sở lý luận : Từ hàng nghìn năm nay triết học phương đông, triết học cổ đại, triết học phương tây và cả triết học của chủ nghĩa cộng sản ... cũng đều khẳng định rằng vạn vật đều hình thành và phát triển do sự tồn tại của hai mặt "đối lập" hay nói khác đi là "âm và dương". Tuy vậy duy chỉ có triết học phương đông hiểu rõ vật là gì , coi nó như một "vũ trụ" vận hành theo qui luật của tự nhiên và qui nó về một hệ cơ sở là "Ngũ Hành" Bài viết của tôi về "cơ sở lý luận" để viết đầy đủ sẽ rất dài không những thế bản thân tôi thấy không cần thiết vì rất nhiều khái niệm cơ bản các bạn có thể tham khảo trong tác phẩm " Ứng dụng trường khí trong đời sống và kiến trúc" cũng như các bài viết của các vị khác về "khí công", "Thiền", "Bùa chú" ....trong mục khoa học huyền bí của diễn đàn này do vậy tôi sẽ chỉ đề cập các vấn đè mấu chốt. Với tinh thần như vậy tôi xin tiếp tục Nói là hệ cơ sở vì nhìn chung trên trái đất này có thể qui vạn vật vể năm hành cũng giống như trong thương mại quốc tế người ta qui mọi đồng tiền của các nước về hệ cơ sở là đông đô la Mỹ vậy. Xét đến đối tượng nghiên cứu cũng như các vấn đề cần giải quyết của khoa hoc phương đông thì với hệ cơ sở nay là đủ. Bản thân "vật" là một thực thể tồn tại khách quan,hoàn toàn không phụ thuộc vào việc con người có nhận biết được nó hay không vì "vật" tồn tại ở hai dạng "Hình và Khí". "Vật" cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ" nên khí cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ". Đây chính là vấn đề mấu chốt của phong thuỷ. Từ xa xưa cũng như ngày nay các khí công sư, các bậc chân tu...có thể nhìn thấy khí (trường năng lượng), hơn nữa là với mọi màu sắc khác nhau. Xem khí của người để đoán mệnh, bệnh, Nhìn khí của hiện trường để phá án . Các bạn chớ có kinh ngạc vì đó là nguyên lý "Có hình tất có khí" và "đã có khí rồi thì có hình". các bậc cao nhân xưa đã nắm được đặc điểm khí có hình mà phát minh ra phép "Vọng Khí" dùng để lựa chọn một cách tốt nhất trường khí của môi trường, chọn nơi tốt nhất để ở hoặc táng người thân. Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng trong cả vũ trụ này "khí" tồn tại ở khắp mọi nơi nó.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> chính là "hạt" cơ bản cấu tạo nên vũ trụ. Bước tiếp theo ta xét đến trái đất "khí" tồn tại trong bầu khí quyển, Khí tới từ vũ trụ xa sôi. Bản thân khí cũng chỉ là "vật" do vậy nó bao gồm khí âm và khí dương mà ta có thể qui về hệ cơ sở "Thất sắc cửu khí" : -. Khí nhất bạch tham lang Khí nhị hắc cự môn khí tam bích lộc tồn khí tứ lục văn khúc khí ngũ hoàng liêm trinh khí lục bạch vũ khúc khí thất xích phá quân khí bát bạch tả phụ khí cửu tử hữu bật. Theo qui luật "có hình tất có khí" khí mang tính âm sẽ bị hấp thụ bởi các dỉnh núi cao rồi "thẩm thấu" theo các mạch núi mà sau này ta gọi là "long"... Cũng theo qui luật "có khí tất có hình" mà các long này sẽ dần biến đổi hình dạng cho phù hợp với "Khí" ở trong nó chính vì thế mà các cao nhân xưa mới đưa ra các khái niệm "ngũ tinh ,cửu tinh..." trong phong thuỷ khi xét về hình thế. Như vậy Khái niệm "khí" là mấu chốt của phong thuỷ xem ra là chưa đủ mà còn phải xét đến hình vì cả hình lẫn khí mới là hai mặt của một vấn đề (nhất âm nhất dương chi vị đạo) Một vấn đề lớn nữa phải chú ý là tính chất của "khí". Khí bị nước hấp thụ hay nói khác đi "khí" gặp nước thì dừng. Như người viết đã đề cập một lần "Khí" là dương thì "hình" là âm. Bản thân hình gồm núi (long) và nước thì núi là âm mà nước là dương (phù hợp qui luật trong âm có dương trong dương có âm) do vậy phong thuỷ địa đạo luôn luôn phải nhớ câu "sơn thuỷ hữu tình" Theo qui luật "cô âm bất sinh thuần dương bất phát" thì chỉ khi có đủ âm dương thì mới động dục mà sinh sản nên những nơi "sơn hoàn thuỷ bão" thì nhiều khả năng có địa "kết", nói nhiều khả năng vì vẫn chưa đủ điều kiện. Tại sao vậy? Vì như đã nói ở trên "khí" mang tính âm thẩm thấu qua "long" đi mãi cho đến nơi kết sẽ đột (âm) khởi kết huyệt và rất nhiều các ứng "tinh". Các ứng tinh này sẽ có vai trò "ăng ten" thu các khí mang tính dương trên không trung. Kết quả âm dương thiên địa giao hoà mà kết huỵêt. Các cao nhân xưa quả thật vô cùng thâm sâu khi đưa ra nhận định "chứng ứng" ứng với thiên tinh trên trời khiến cho nhiều hậu học không đủ cơ duyên chẳng biết đâu mà lần.... Tương tự như vậy "Khí" mang tính dương cũng thẩm thấu... và kết huyệt theo cơ chế tương tự song thể kết có khác nhau ở chỗ "Nhũ đột" và "oa kiềm" "Dương giáng âm thăng" phu gặp phụ kết thúc một chu trình của sự vân động. Xét việc trong vũ trụ này ngoài "Thiên Địa" còn phải xét đến "Nhân" vì Thiên địa nhân là hợp nhất. Như đã đề cập ở trên con người là "vật" là tiểu vũ trụ do vậy con người có hình có khí chỉ có khác là khí của con người có tính "hữu cơ", có nguồn gốc từ tế bào, axit amin, albumin,nhân tế bào và đặc biệt là có nguồn gốc từ axit deoxiribonucleic tức là mật mà di truyền ADN. Chính vì thế phong thuỷ không chỉ đề cập đến khí của một cá nhân mà còn nói đến khí của cả một dòng họ.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Xương sống của "trường khí dòng họ" cũng chính là mật mã di truyền của dòng họ đó. Đặc điểm của "trường khí hữu cơ" ngoài các đặc điểm có tính chất sóng,hạt,năng lượng và định hướng còn có hai đặc điểm rất rõ nét một là tính có thể khống chế, tức là chịu ý niệm khống chế. Đặc điểm này có thể nhìn thấy được trong các thí nghiêm đo đạc trường năng lượng nhân thể, Trạng thái tinh thần có thể ảnh hưởng đến độ mạnh yếu của của trường nhân thể. Hai là mức độ "thanh" hay "trọc" của "trường nhân khí" là phụ thuộc vào bản tính "thiện" hay "ác" của cá nhân người có trường khí đó và cũng từ dó có ảnh hưởng đến trường khí của dòng họ mà anh ta được sinh ra . Theo kinh nghiệm quan sát nhiều năm của người viết các vị chân tu đã từ bỏ được tham sân si thường trông rất phúc hậu, sắc khí tươi nhuận, rất dễ gần và đặc biệt trường khí của họ rất lớn có thể cải tạo được khí xấu của nơi mà họ sinh sống. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đến cơ chế của sự kết phát.Theo người viết cơ chế của sự kết phát có hai giai đoạn : Giai đoạn 1 : Người viết gọi giai đoạn này là giai đoạn hấp thụ trực tiếp, xẩy ra khi bản thân con người (trường nhân thể) hấp thụ được khí tốt của môi trường "huyệt".Trung tâm "huyệt" đóng vai trò như một "máy phát sóng truyền hình" và trường nhân thể đóng vai trò của "máy thu hình". Trường nhân thể nào có cùng tần số lập tức bắt được sóng năng lượng của trung tâm huyệt một cách trực tiếp, như vậy càng ở gần trung tâm huyệt sóng bắt được càng rõ nét và tương ứng mức độ kết phát càng lớn và càng dễ kết phát. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng không phải ai cũng có thể nhận được năng lượng này thậm chí là ở ngay trung tâm phát sóng. Thêm nữa thường trung tâm phát sóng càng "tốt" năng lượng sóng càng "thanh" do vậy trường nhân thể phải "thanh" mới có thể nhận được sóng tốt, điều này giải thích câu "tiên tích đức hậu tầm long" cũng như qui luật nhân quả một cách rõ ràng Giai đoạn 2 : người viết gọi là giai đoạn gián tiếp hấp thụ Đối với người sống sau khi nhận được năng lượng sóng từ các trung tâm năng lượng truyền đến sau khi hấp thụ một phần bản thân sẽ trở thành một trạm phát chuyển tiếp để truyền năng lượng đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống khác trên cơ sở mật mã di truyền. Dĩ nhiên là các trường nhân thể càng "non trẻ" càng dễ dàng hấp thụ năng lượng Đối với người đã chết Xương, tóc.... là những thứ tồn tại ở dạng hình trong một thời gian dài sẽ là các trung tâm tiếp nhận sóng và phát tiếp đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống cũng trên cơ sở mật mã di truyền. Với cơ chế như vậy to có rút ra hai nhận xét quan trọng sau : 1- Không nhất thiết phải đặt nhà,sống, táng ... tại trung tâm huyệt mới có sự kết phát ( tất nhiên thực tế lại có khác không tiện giải thích). Tuy vậy nếu đặt đúng huyệt sự kết phát sẽ dễ dàng và lớn hơn rất nhiều.Thêm nữa sự tiếp nhận sóng có giới hạn về không gian 2- Không phải ai, dòng họ nào cũng đều kết phát thậm chí đăt...tại huyệt mà chỉ có sự ứng hợp mới đẫn đến kết phát cụ thể là huyệt tốt sẽ tìm nhừng trường nhân thể tốt của một dòng họ mà cho năng lượng. Khoa học hiện đại ngày nay khi nghiên cưú các vấn đề thực tiễn thường dùng phương pháp mô hình hoá, đơn giản hoá sau đó phát triển dần cho gần với mô hình thực tế rồi đem ra áp dụng. Các bài viết về phong thuỷ cũng vậy, người viết thực ra từ đầu.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> đến giờ đã đưa ra một mô hình đơn giản để dễ dàng cho việc nghên cứu còn trong thực tế mô hình phong thuỷ còn phức tạp hơn gấp bội phần. Sự phức tạp của nó thể hiện ở các điểm sau : Một là "trường nhân thể" không đơn thuần chỉ là một trung tâm thu và phát năng lựơng sóng mà nó là một "trường hữu cơ" với đầy đủ các tính chất phức tạp của nó mà người viết không dám và cũng không đủ hiểu biết để có thể trình bày ở trên diễn đàn này. Hy vọng rằng một ngày nào đó, một ai đó có đủ "cơ duyên" dể làm việc này Hai là sự vận động của vũ trụ là không ngừng "không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông" do vậy các "trung tâm năng lượng" là biến đổi không ngừng lúc mạnh, lúc yếu, lúc cát, lúc hung.... do vậy phong thuỷ mới có khái niệm "vận" và "Mở huyệt, đóng huyệt" Ba là sự kết hợp của hai "trung tâm năng lượng huyệt và trường nhân thể" là một cơ chế phức tạp không đơn thuần như đã mô tả ở trên Bốn là có tồn tại một cơ chế điều khiển của các trung tâm năng lượng Năm là các trung tâm năng lượng có trung tâm "sống" và các trung tâm "chết" Một câu hỏi được đặt ra là với mô hình trên, cách tiếp cận của phong thuỷ có khoa học không?Xin thưa là hoàn toàn khoa học vì nó có cơ sở là qui luật, thực nghiệm và chứng nghiệm. Trước khi phân tích tiếp tính khoa học của nó người viết xin nhắc lại một "tiên đề" vô cùng cũ kỹ đó là hà đồ và lạc thư với hai cơ số thông suốt cả quá trình nghiên cứu của học thuật phương đông là cơ số 2 và 3. Ngày nay hầu như ai cũng biết có hai khái niệm là qui luật phổ biến và qui luật xã hội trong đó qui luật phổ biến bao trùm qui luật xã hội, nó tồn tại và vận động khách quan chi phối vạn vật trong vũ trụ không có giới hạn này. Khi xuất hiện con người thì hình thành các qui luật xã hội, nó chi phối con người trong khuôn khổ củ vũ trụ quan (Qui luật phổ biến). Quay lại với hà đồ và lạc thư, Hà đồ lấy cơ số 2 là cơ sở đại diện cho âm và dương (nhị nguyên)chi phối mọi hoạt động của vũ trụ. Lạc thư lấy cơ số 3 là cơ sở đại diện cho thiên ,địa, nhân (tam tài) chi phối mọi hoạt động của con người trong vũ trụ vì thế người xưa cho rằng Hà đồ ứng vói thiên tiên là thể (là viên gạch), lạc thư ứng với hậu thiên là dụng ( là nhà, là trường học..) do vậy cơ số 3 được dùng là cơ sở cho mọi ngiên cứu về phong thuỷ nói riêng và các môn học phương đông nói chung (VD :cửu cung hay can vi thiên, chi vi địa, âm vi nhân ..). Nói như vậy không có nghĩa chúng ta loại bỏ cơ số 2 mà trong quá trình nghiên cứu chúng vẫn không thể tách dời nhau. Với hai tiên đề có tính phổ quát trên người xưa cho rằng xem và nghiên cứu phong thuỷ phải trên cơ sở : HÌNH LÝ KHÍ SỐ MỆNH Người viết sẽ lần lượt đi qua các cấu phần của HÌNH- LÝ KHÍ-SỐ-MỆNH HÌNH : Phái hình thế ra đời từ rất lâu tại Trung Quốc mà người đại diện là Dương Quân Tùng với luận thuyết nổi tiếng "âm dương thư hùng". Người viết xin trích một đoạn trong sách của ông " Thư (giống cái ) là âm, Hùng ( giống đực ) là dương có hai khí . Nói về thư hùng cũng giống như vợ chồng vậy, vợ chồng giao hợp thì sinh ra con cái. Thư hung giao hợp thì sinh ra vạn vật, đó là đại cơ – cơ hội lớn hoá sinh của trời đất. vì vậy trước tiên phải xem thư hung của long gia". Qua đây ta có thể rút ra cơ sở của phái hình thế chính là "dương hoá khí âm tạo hình","nhìn hình đoán khí". Hình và khí như bóng với hình như vợ với chồng quấn quít bên nhau không rời đan.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> xen chia xẻ động dục mà sinh con đẻ cái. Phái hình thế đã xây dựng được một khối lượng lớn các luận thuyết tương đối hệ thống đồng thời đưa các quan niệm "tôn tộc ", "thiên phụ, địa mẫu" và hình tượng người phụ nữ. Họ coi quả đất là mẹ của muôn vật và hình tượng hoá khu vưc kết huyệt bằng hình tượng của người phụ nữ ( huyệt ví như nơi sinh sản của phụ nữ): " Núi non vạn dặm, nơi nào cũng có tổ tông, nếu gặp cha mẹ dực dục,thai tức sau đó hình thành. Nhận hình lấy huyệt, biết rõ nơi cha sinh thành, nơi mẹ dưỡng dục.Thiên môn tất phải mở ra sơn thuỷ sẽ đến. Địa hộ tất phải đóng lại sơn thuỷ sẽ về.Thiên môn là nơi nước đến, địa hộ là nơi nước đi. Huyệt ở nơi đó, không ở nơi khác. Trong chỗ nhô lên vẫn có hang hốc, ở nơi cao có thấp,trong hang hốc vẫn có chỗ nhô cao, trong chỗ thấp vẫn có chỗ cao…" " Đạo lý của thiên hạ, âm dương ngũ hành không thoát ra ngoài một cái vòng. Vòng này là huyệt của sinh tử. Giữa trời đất có vòng nhỏ, vòng lớn, hiểu được vòng này đâu đâu cũng là vòng. Trời đất xoay chuyển, ai hiểu được trăm ngàn điều lý thú trong vòng này là tiên giữa trần gian….. Vòng này là vòng thiên vòng địa, tròn cùng không tròn, vuông cũng không vuông, dẹt cũng không dẹt, dài cũng không dài, ngắn cũng không ngắn, rộng cũng không rộng, nhọn cũng không nhọn, trọc cũng không trọc, trong ý thức con người như có như không đó là vòng tự nhiên. Âm dương đứng ở trong đó, ngũ hành sinh ra ở trong đó. Trong vòng hơi lõm xuống như nước mà không phải nước. Ngoài vòng hơi nhô nên như cát mà không phải cát.." Để có thể nghiên cứu sâu và chi tiết phái hình thế đưa vô vàn khái niệm như Long, thuỷ, huyệt, án, sa, thanh long , bạch hổ, huyền vũ, chu tước, thai tức, thiềm ,cầu , hà tu , hợp khâm, , ỷ chi, sứ huyệt tất , thiên tâm thập tự…. Từ đó lại phân loại nhiều loại long , thuỷ…. Ôi! Vô cùng công phu và phức tạp nhưng nguyên lý xét cho cùng không ngoài đưa chúng về hai hệ cơ sở âm dương ngũ hành và hệ cửu tinh như đã đề cập để dễ bề nghiên cứu. Tuy vậy cũng không quên nhắc nhở hậu học rằng thực tế thì vô cùng phức tạp hình thù là muôn hình vạn trạng (Vì không phải là khí thuần nhất), nên khi nghiên cứu khảo sát thần lực phải tinh tường chớ có nhầm lẫn. Người viết và các đồng đạo khác đã bỏ ra rất nhiều công sức để đi tìm cũng như xem lại các cuộc đất trứ danh phải thừa nhận rằng thực tế khác xa với sách vở nó đòi hỏi một sự nhậy bén trong tâm trí một thần lực tinh tường và quan trọng là chữ " Ngộ" của đạo. Có lẽ vì vậy mà học địa lý bị ngừơi ta cho là khó chăng? Nhưng có đủ "căn, duyên và nghiệp" thì chắc chắn sẽ thành công. Xét cho cùng mục đích của phái hình thế là tìm ra ngũ quyết địa lý bao gồm Long , huyệt, sa, thuỷ, hướng tức là nghiên cứu địa khí của khu vực cần phải khảo sát hay nói rộng ra là đi tìm trung tâm "phát sóng" LÝ KHÍ : Trái với phái hình thế nhấn mạnh "Khí hành tuỳ theo thế đất", phái lý khí cho rằng vạn vật, thiên địa đều do khí sinh ra " tất cả mọi vật đều là khí", "núi sông thuỷ thổ đều có chứa khí là đại trạch của tạo hoá vì vậy khí lưu hành đầy trong vũ trụ. Thiên địa vạn vật đều là một thể". Vạn vật của thiên địa đều là một thể do vậy giữa chúng phải có một điểm chung, đó chính là "lý". "Lý" tồn tại hiện thực nhưng lại vô hình, sự kết hợp của "lý" và "hình" chính là tượng của khí. "Lý" sinh ra từ khí, "lý" của vạn vật trong tự nhiên có quan hệ mật thiết với loài người đó chính là qui luật của thời gian và không gian, qui luật của vũ trụ về phương vị của thời gian và không gian. Dựa trên cái "lý" đó phái lý khí đã xây dựng một khối lượng đồ sộ các hệ thống lý thuyết trên cơ sở của ngũ hành sinh khắc, âm dương bát quái, cửu tinh, bát môn, thập nhị bát tú, thập nhị tứ sơn, 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa, 24 huyệt châu bảo….với hai trọng điểm lý luận - Lấy phương vị là chính tức khí ở phương vị khác nhau thì tốt xấu khác nhau - Lấy thời gian làm chủ tức cùng một phương vị thì tại các thời điểm khác nhau thì.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> tốt xấu khác nhau Xét cho cùng mục đích của phái lý khí là tìm ra hướng và thời gian tức là nghiên cứu thiên khí của cả một vùng hay nói rộng ra là nghiên cứu làm sao có thể nhận sóng tốt nhất ngòai trung tâm phát sóng Xét về tổng thể hai phái "hình thế" và "lý khí" là không thể tách rời, mặc dù cả hai phái đều xây dựng trên cơ sở lý luận riêng của mình. Phái lý khí so với phái hình thế có cơ sở lý luận tương đối hoàn chỉnh hơn. Phái hình thế từ rất sớm đã lựa chọn địa hình, địa thế và điều kiện môi trường làm điểm xuất phát xây dựng nên hệ thống học thuyết của mình. Phái lý khí xuất phát từ quan hệ của khí, số, lý mong muốn tìm được qui luật và mối liên hệ nào đó giữa con người và "thiên lý" nhằm đạt được sự thông đạt của khí, lý giữa con người và môi trường, từ đó tìm ra môi trường lý tưởng có lợi cho nhân sinh. Nhìn trên tổng thể có thể nói sự truy tìm chiều sâu lý luận của phái lý khí cao hơn phái hình thế. Tuy vậy ranh gới giữa chúng là không rõ ràng, hai phái đều có những điểm chung về thực chất đó chính là "khí", "sinh khí" và người xưa cũng đã dần dần nhận rõ điều này xin trích một đoạn sách cổ : "Người không biết về loan đầu không thể nói đến lý khí. Người không biết về lý khí không thể nói đến loan đầu. Người tinh thông loan đầu cuối cùng sẽ tự hợp với lý khí. Người tinh thông lý khí cuối cùng sẽ tự hợp với loan đầu. Loan đầu không chỉ có long, huyệt, sa, thuỷ đó mới chỉ là nội dung sơ lược. Cần phải tìm hiểu rõ về địa thế cao thấp , nguồn nước tụ tán, hướng thế của sa pháp, long khí dầy mỏng, thời khắc hưng vượng …". Điều này càng nói rõ lên rằng hình thế và lý khí là một tổng thể, là hai mắt xích không thể tách rời. Câu chuyện này cũng giống câu truyện dài và ly kỳ của khoa học phương tây đưa dến kết luận : " Ánh sáng vừa có tính chất sóng vừa có tính chất hạt" tức vừa là hình (hạt) vừa là khí (sóng) SỐ : Vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (hệ cơ số 2 âm và dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái có thể biểu diễn mọi sự kiện, sự vật từ nhỏ vô cùng đến lớn vô cùng. Phong thuỷ là một môn khoa học nghiên cứu về phạm trù "khí và hình" nên đương nhiên không vượt qua sự chi phối của qui luật phổ biến với hệ cơ số 2 do vậy việc áp dụng kinh dịch vào phong thuỷ đã được người xưa chú ý và theo người viết đây chính là phương pháp nhiên cứu phong thuỷ đỉnh cao mà ít người biết tới. Điểm lại sách cổ của phái hình thế ta bắt gặp nhiều đến quái, tượng trong việc luận đoán cát hung cho một cuộc đất. Tuy vậy về mặt lý luận vẫn còn sơ sài so với phái lý khí đã hình thành một hệ thống lý luận áp dụng kinh dịch đến độ tinh vi thể hiên ở ba điểm sau : Một là : Về mặt phương hướng người xưa đã tiến hành đưa quẻ vào từng phương vị của lục thập thấu địa long, thất thập nhị xuyên sơn hổ và địa nguyên qui tàng quái phân kim sau đó tiến hành đưa quẻ vào đến từng long khí rồi dựa trên hai nguyên tắc "Có động mới có dụng" và "cùng tất biến" để diễn quái kết hợp với mệnh chủ biến theo không gian, thời gian cùng hoạ phúc của họ mà luận cát hung… Hai là : Về mặt thời gian trên cơ sở của huyền không phi tinh kết hợp với huyền không đại quái đã mang lại đỉnh cao cho huyền không học – Môn môn phong thuỷ bí truyền mới được phổ biến ra dân gian từ đời Thanh Ba là : Việc ứng dụng của Mai hoa dịch số, Bốc phệ, quẻ Khổng Minh … vào phong thuỷ tạo thêm một cơ sở kiểm chứng cũng phát triển mới đưa phong thuỷ nên một tầm cao mới nhất là trong cuộc sống hiện đại ngày nay.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> MỆNH (Người viết tự thấy cần đưa vào) : Con người là chủ nhân của quả đất, là tinh hoa của vũ trụ, là linh trưởng của van vật. Tất cả những gì mà con người nghiên cứu là nhằm mục đích phục vụ cho chính họ. Vì vậy không nằm ngoài - con người cũng là một đối tượng nghiên cứu chính của phong thuỷ. Con người từng giờ từng phút đều chịu ảnh hưởng tốt xấu của các nguyên tố, tín hiệu và năng lượng của thiên nhiên bao la là quả đất và vũ trụ. Thêm nữa con người còn chịu ảnh hưởng của các tín hiệu,năng lượng… của các thành viên trong gia đình, dòng họ,banh bè, cộng đồng… nên việc nghiên cứu qui luật ảnh hưởng của những năng lượng, tín hiệu ấy đối với sinh mệnh con người từ đó tìm ra phương pháp cầu lợi bỏ hại, tìm cát bỏ hung là điều tối cần thiết Theo người viết con người là một sinh mệnh hữu cơ cao cấp nhất do nhiều nguyên tố hoá học cấu thành, bản thân cơ thể con người cùng sinh ra các tín hiệu và năng lượng hữu cơ. Những tín hiệu và năng lượng này phải hiệp đồng, đồng bộ với tín hiệu, năng lượng của thiên nhiên, môi trường mới có thể đạt tới hiệu ứng cùng rung động, con người mới càng phát triển. Nhìn lại phong thuỷ cổ ta thấy người xưa cũng đã tiến hành nghiên cứu mệnh trong phong thuỷ (cung phi, yếu tố phúc đức, tâm linh…) tuy vậy có thể nói là sơ sài hoặc không viết ra hết. Tuy vậy các bạn vẫn có thể tìm ra hướng đi cho mình trong quá trình nghiên cứu phong thuỷ tín hiệu sinh mệnh con người ( mà sau này có thể mở rộng ra cho dòng họ, dân tộc..) trên cơ của đông y học ( Linh qui bát pháp, thời châm học, ngũ vận lục khí..), Cảm xạ học (Cơ chế của rung động), Mệnh học ( Tửvi, Tử bình, Tướng học..), Khí công học, Đạo lão, Phật học… Trên đây ASVN đã cung cấp cho các bạn một cái nhìn mới về phong thuỷ trên cơ sở các qui luật và nguyên tắc cụ thể, đồng thời cũng đã giới thiệu khái quát với các vị phương pháp tiếp cận nghiên cứu và thực hành của phong thuỷ cổ xưa như một minh chứng cho tính "khoa học" của nó nhưng do thời gian có hạn người viết không thể tiếp tục đi sâu thêm. Trước khi kết thúc phần cơ sở lý luận tôi xin đưa ra một luận điểm tổng quát hơn khi nghiên cứu phong thuỷ trong thế giới hiện đại và theo người viết đây cũng là hướng đi mà phong thuỷ học cần hướng tới đó là nghiên cứu phù hiệu học với hai chủ đề chính : 1- Phù hiệu học vô cơ : Một cuộc đất đẹp long tới phải trường viễn có tống có nghinh, long phải biến từ già sang trẻ ngũ hành luân phiên mới có sinh khí, thuỷ phải uốn lượn đi theo hữu tình chồng vợ.Khi kết huyệt phải đúng cách thanh long như đùa dỡn, bạch hổ như phục quì, huyền vũ cao dầy như cúi đàu còn chu tuớc như đang nhẩy múa.... vậy thực chất là gì?. Cả cuộc đất là một "Phù" vô cơ khổng lồ tích khí của vũ trụ hàng nghìn, triệu năm. "Phù hiệu học vô cơ" chuyên nghiên cứu qui luật tích tụ năng lượng tốt xấu (khí) của hình sông thế núi,kiến trúc nhà cửa đường xá... về mặt thời gian và không gian nói khác đi là phong thuỷ cơ bản 2.Phù hiệu học hữu cơ : Chúng ta thường nghe trận đồ chấn yểm,phù chú, bùa ngải, âm binh phù thuỷ ... tất cả đều liên quan tới trường khí hữu cơ mà đặc tính của chúng có tính điều khiển theo ý niệm và tính tồn trữ. "Phù hiệu học hữu cơ" chuyên nghiên cứu quiluật điều khiển,sinh tồn...của trường năng lượng hữu cơ về mặt thời gian và không gian Chỉ khi chúng ta nắm được hai khía cạnh trong cùng một vấn đè đã nêu thì phong thuỷ mới có thể phất triển nên tầm cao của khoa học.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> b- Các Chứng Nghiệm Phong Thuỷ : 1- Ba miền quê của các nhân tài đất bắc : Người viết xin bắt đầu từ tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì ( Về mặt Phong thuỷ). Hà đông là tỉnh ở bắc bộ do pháp lập ra năm 1888. Tỉnh lị ở làng Cầu Đơ, nên tỉnh lúc này gọi là tỉnh cầu Cầu Đơ, năm 1904 mới đổi tên là tỉnh Hà Đông. Vị trí của tỉnh Hà Đông nằm ở phía tây sông Nhị Hà ( đáng lẽ ra, theo lý do đó, tỉnh này phải gọi là Hà Tây mới đúng, nhưng có lẽ những người đặt tên tỉnh lấy lý do là tỉnh này là đất văn vật như đất Hà Đông bên Trung Quốc). Tỉnh Hà Đông gồm một thị xã, tỉnh lị ở trên dòng sông Nhuệ và chín huyện : Chương Mỹ, Đan Phượng, Từ Liêm, Hoài Đức( nay là Mỹ Đức), Phú Xuyên , Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hoà, sau năm 1963 hợp nhất với tỉnh Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây, tỉnh lị vẫn ở Hà Đông . Năm 1977, bị cắt các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ ,Ba Vì và một phần huyện Chương Mỹ Về Hà Nội, sau lại trở về tỉnh Hà Tây. Tỉnh Hà Đông hồi pháp thuộc có nhiều nghề thủ công phát đạt, quê hương của rất nhiều các nhân vật nổi tiếng xưa nay : Chu Văn An,Hoàng Tăng Bí,Bùi Huy Bích, Bùi Bị, Lương Văn Can, Đặng trần Côn, Nguyễn quí Cảnh, Lê ngô cát, Nguyễn Công Cơ,Dương bá Cung , Ngô Đình Chất, Phạm Giao, Ngô Thời Du, Nguyễn Danh Dự, Lê Đại, Từ Đạm, Nguyễn Như Đỗ, Nguyễn Quí Đức, Đỗ Thế Gia ,Vũ Phạm Hàm , Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trọng Hợp, Đặng Huấn,Nguyễn kiều, Nguyễn Bá Kỳ, Nguyễn Phi Khanh, Dương Khuê, Dương Lâm, Ngô sĩ Liên, Nguyễn hữu liêu , Đặng Đình Long, Đoàn Trần Nghiệp, Ngô Thời Nhậm, Nhàn Khanh, Đào Quang Nhiêu, Lý Ông Trọng, Phan Lê Phiên, Lý Trần Quán, Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Quyện, Phạm Quỳnh, Hà Tống Quyền, Nguyễn Siêu, Ngô Thời Sĩ, Lý tử tấn , Phan Phù Tiên, Phạm Tu, Đặc Đình Tướng, Nguyễn Công Thái , Trình Thanh, Tô Hiến Thành, Nguyễn hải thần , Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Thuyến, Nguyễn viết Thứ, Đặng Trần Thường, Bùi Xương Trạch ,Nguyễn Trãi, Vũ Công Trấn, Nguyễn quốc Trinh, Nguyễn Thời Trung, Nguyễn Trực, Lưu nguyên Ân,Bùi bỉnh Uyên, Bùi Vịnh... Hiện nay còn có rất nhiều các nhân vật đang tại chức mà người viết không muốn nêu tên tại đây. Nói về huyện Thanh Trì : huyện thuộc phủ Thường Tín, Tỉnh Hà Nội (1831) sau thuộc Hà Đông (1888) nay nhập vào Hà Nội. Trước là châu Thượng Phúc về đời Lý sau là huyện Long Đàm. Đời Lê vì kị huý tên vua Lê Thế Tông đổi là huyện Thanh Trì. Huyện bắc giáp quận Hai bà Trưng và huyện Từ Liêm. Đông giáp sông Hồng ngăn cách với huyện Gia Lâm và văn Giang. Nam giáp Thường Tín. Tây giáp Hoài Đức. Huyện có nhiều đầm tự nhiên : Linh Đường, Thánh Liệt(đầm Sét), Vạn Xuân, đầm Mực...Từ thời Lê về trước có 60 người thi đỗ đại khoa. Đình ngoài Thanh Liệt thờ Phạm Tu, đình trong thờ Chu Văn An, đình Đông Phù Và Việt Yên thờ sứ quân Nguyễn Siêu, đình Tả Thanh Oai thờ Lê Đại Hành, đình Quí Đô thờ Tô Hiến Thành, đình Triều Khúc thờ Phùng Hưng. Quê của Lê Đình Diên, Bùi Huy Bích, Chu văn An , Bạch Thái Bưởi, Đặng Trần Côn, Đồ Lệnh danh, Phạm Quỳnh, Phạm Dao, Nguyễn Phương Đỉnh, Nguyễn Như Đổ, Nguyễn trọng Hợp, Nguyễn Hải Thần, Trần Hoà, Lê Bá ly, Nguyễn Nghi, Hoàng thị Ngọc san, Lê San, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Công Thể, Đỗ Lệnh thiên lưu Tiệp, Bùi xương Trạch, Nguyễn Quốc Trinh, Bùi Trụ, Nguyễn Đình trụ,Phạm Tu, Nguyễn Huy Túc, Lưu nguyên Uân, Cung Đình Vận, Nguyễn Viêm, Viễn Chiếu Thiền Sư, Đàm xuân Vực ... đất này thực chất đã sinh ra Vua... Tại sao miền quê này có nhiều nhân tài đến vậy? xin thưa đó là phong thuỷ hợp cách. Trước khi tiến hành phân tích về phong thuỷ chúng ta sẽ tiếp tục du ngoạn tới vùng.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> đất thứ hai đó là Bắc Ninh với trung tâm là huyện Đông Ngàn. Bắc Ninh tỉnh ở phía đông bắc thành Hà Nội, đời Lê là trấn Kinh Bắc, năm Minh Mạng thứ ba (1822) đổi là trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi là tỉnh Bắc Ninh. Năm 1895, Pháp chia tỉnh Bắc Ninh thành hai tỉnh Bắc Ninh và Lục Nam (sau năm 1963 đổi là tỉnh Bức Giang), sau hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Bắc Ninh hồi Minh Mạng gồm phủ từ sơn (huyện Đông Ngàn do phủ kiêm lý), huyện Tiên Du, huyện Võ Giàng, Quế Dương, Yên Phong, phủ Thuận An, sau đổi là Thuận Thành ( gồm huyện Gia Lâm , Văn Giang, Gia Bình, Lạng Tài), Phủ Thiên Phúc, Phủ Lạng Giang. Tỉnh bắc Ninh phía tây có sông Hồng ngăn cách với Hà Nội, khoảng giữa có sông Cầu chảy đến Phả Lại, thì gặp sông Đuống với sông Thương. Vùng Lạng Giang thì núi non hiểm trở, còn vùng Bắc Ninh thì ruộng đồng bằng phẳng , xanh tốt, thỉnh thoảng có những đồi núi thấp có tên tuổi gắn với lịch sử như : núi Sóc Sơn, núi Tiên Du, núi Vũ Ninh, núi Thiên thai. Bắc Ninh có tiếng là đất văn vật nhất của cả nước, có Lê văn Thịnh đỗ trạng nguyên đầu tiên về đời Lý, Nguyễn Quan Quang trạng nguyên đầu tiên về đời Trần, số trạng nguyên và tiến sĩ nhiều nhất so với các tỉnh khác, là quê hương của : Hoàng Hoa thám, Đốc Quế, Đốc Sung, Đốc Mỹ, Lãnh Điềm, Hai Tước, Đốc Tác, Quản Kỳ, Đội Văn, Lãnh Giới, Lãnh Giám , Lãnh Thiết, Cai Bình, Cai Biên, Đề hoàng, Đề Năm , Đề Kiều, Nguyễn Án, Trần danh Án, Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Cao, Nguyễn Đăng Cảo, Phạm Huy Cơ, Nguyễn Văn Cừ, Đào Cử, Nguyễn tự Cường, Đặng Công Chất, Trần Quang Châu, Phó Đức chính, Lê duy Đản, Nguyễn Cư Đạo, Nguyễn Tư Giản, Trương hát, Trương Tống, Đặng thị Huệ, Đàm Thuận Huy, Sư Huyền Quang, Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Bá Kỳ, Hoàng Sĩ Khải, Trần Danh Lâm, Đoàn văn Lễ, Ngô Luân, Lê tuấn Mậu, Cao bá Nhạ, Lê Quýnh, Nguyễn Quyền, Hoàng Công Phu, Nguyễn quan Quang, Cao Bá Quát, Nguyễn Đăng Sở, Nguyễn Mậu Tài, Dương Trọng Tế, Ngô Thầm, Nguyễn Miễn Thiệu, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thủ Tiệp, Hứa tam Tĩnh, Ngô sách Tuấn, Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn nghiên Tư, Nguyễn Gia Thiều, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Nhân Thiếp, Lê văn Thịnh, Nguyễn Thực, Phạm Văn Tráng, Lý Công Uẩn, Sư Vạn Hạnh … Đông Ngàn huyện thuộc Phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc về đời Lê, có 13 tổng, địa thế rộng, trước là châu Cổ Lãm, Lê Đại Hành đổi là châu Cổ Pháp, nhà Lý đổi là phủ Thiên Đức, tên Đông Ngàn xuất hiện từ thời Trần, đời Minh là huyện Đông Ngàn phủ Bắc Giang, Lê Thánh Tông đổi thành phủ Từ Sơn… Đây là huyện có truyền thống văn hoá lâu đời ( 130 người đỗ đại khoa đến hết triều Lê và 174 người hết triều Nguyễn). Quê hương của rất nhiều nhân sĩ như Nguyễn Án, Nguyễn Tự Cường, Đặng công Chất, Nguyễn Chính, Nguyễn Tư Giản, Quách Giai, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Đình Huấn, Nguyễn văn Huy, Trần Lâu, Nguyễn Hữu Nghiêm, Nguyễn Giáo Phương, Nguyễn Quan Quang, Phạm Thái, Nguyễn Giản Thanh, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Thực, Ngô Thế Tri, Ngô Gia Tự, Lý Công Uẩn, Vạn thế Thiền Sư…đây cũng là đất phát chín đời vua lý đặt dấu ấn cho thời kỳ hưng vượng của đất Việt Miền quê thứ ba mà người viết muốn đề cập ở đây chính là tỉnh Hải Dương mà trung tâm là huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách. Hải Dương là tỉnh ở bắc bộ, xưa giáp sông Hồng , ở về phía đông của kinh thành, nên còn gọi là tỉnh Đông. Về đời Lê là một trong tứ nội Trấn (Sơn Tây,Sơn Nam, Kinh Bắc,Hải Dương). Năm 1466 gọi là thừa tuyên Nam Sách, năm 1469 đổi là thừa tuyên Hải Dương, Vua tương Dực đổi là trấn Hải Dương. Đời Mạc trích các phủ Thuận An thuộc Trấn Kinh Bắc, Phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình thuộc trấn Sơn Nam cho thuộc về trấn Hải Dương vì là quê hương của nhà Mạc. Sau nhà Lê xoá bỏ những việc làm của nhà Mạc, trấn Hải Dương trở về địa giới cũ. Năm 1831 đặt là tỉnh Hải Dương gồm phủ Thượng Hồng sau đổi là Phủ Bình Giang, phủ Hạ Hồng sau đổi là phủ Ninh Giang, Phủ Nam Sách ( huyện Thanh Lâm do phủ kiên lí), phủ Kinh.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Môn. Năm 1968 sát nhập tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Hải Dương, trừ huyện Đông Triều có dẫy Yên Tử cao từ 837m đến 1068m và huyện Chí Linh có núi Phả lại, núi Côn Sơn không cao mấy còn ra toàn đồng bằng được tưới tiêu bằng các sông Thái Bình chảy qua giữa tỉnh và các chi lưu Sông Kinh Thầy, Sông Kinh Môn, Sông Luộc làm biên giới với tỉnh Thái Bình. Tỉnh Hải Dương là tỉnh giầu có về sản xuất lương thực và nghề thủ công, lại là tỉnh văn vật có nhiều người thi đỗ đại khoa về đời Lê và dời Nguyễn. Quê hương của nhiều nhânvật lịch sử : Phạm Ban, Lại kim Bảng, Nguyễn thái Bạt, Mạc Thị Bưởi, Vũ Cán, Nguyễn Hữu Cầu, Lý Tử Cán, Nguyễn Cừ, Trần Quốc Trân, Mạc Đĩnh Chi, Trần Khắc Chung, Lê thiếu Đĩnh, Khúc Thừa Dụ, Nguyễn Thị Duệ, Mạc Đăng Dung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Dữ, Trần Nguyên Đán, Vũ Phương Đề, Vũ Duy Đoán, Phạm Đồn, Phạm tiến Đức, Đoàn Nhữ Hải, Đinh nhã Hành, Phạm Hạp, Ngô Hoán, Phạm Đình Hổ, Lương Nhữ Hộc, Nguyễn Huân, Lê Huân, Phạm chí Hương ,Vũ Hữu, Trần Thời Kiến, Yết Kiêu, Bùi Bá Kỳ, Trần Quốc lặc, Phạm Cự Lượng, Nguyễn mại, Phạm Tông Mại, Phạm sư Mệnh, Vù Văn Mật, Lê Nại, Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Trác Oánh, Pháp Loa, Trần Phong, Đinh Văn Phục, Đỗ Quang, Phạm quỳnh, Võ quỳnh, Đinh văn Tả, Nguyễn Quý Tân, Vũ Huy Tấn, Mạc Hiển Tích, Đốc Tít, Nhữ Đình Toản, Vũ Như Tô, Lê cảnh Tuân, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Tiển, Thái Thuận, Trần Đình Thám, Đinh văn Thảm, Phạm Quý Thích, Đoàn Thượng, Phạm Đình Trạc, Phạm Đình Trọng, Pham Công Trứ, Vũ văn Uyên... Đất này cũng đã phát bá nghiệp cho nhà Mạc, hiện nay có rất nhiều các nhân vật chủ chốt đang tại chức cũng sinh ra tại đây. Nam Sách tên phủ lộ về đời Trần , đời Lê và đời Nguyễn, gồm các huyện Thanh lâm, Chí Linh, Thanh Hà. Phủ Nam sách có sông bao quanh ( sông Lục Nam, Lục Đầu, Thái Bình, Kinh Thầy). Phủ nổi tiếng về văn học. Từ đời Lê về trước, có 165 người đỗ đại khoa, nhiều nhất các phủ trong toàn quốc, riêng huyện Thanh Lâm có 93 người là huyện đỗ đật cao nhì nước sau huyện Đông Ngàn 130 người. Trên đây là ba miền quê mà người viết muốn cùng các bạn phân tích vì chúng có những đặc điểm phong thuỷ rất đặc trưng không vùng nào giống vùng nào . Từ xưa đến nay các phong thuỷ sư thực thụ đều phải bắt đầu từ đại cục - nhìn đại cục mà đoán định sự suy thịnh của một nước trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, nó gắn liền với sự hưng vong của đại đô, tiếp đó mới xét tới trung cục để định rõ sự thịnh vượng hay suy tàn của đại quận, châu phủ - biết mà dùng vào việc bổ trợ nguyên khí cho đế đô, cuối cùng mới xét đến tiểu cục – nhìn nó mà thấu hiểu vận mệnh của làng xóm, gia tộc và cá nhân con người, nói thì tác bạch như vậy nhưng luận thì chúng là một thực thể thống nhất. Cũng chính vì lý do như vậy mà khi luận long kết huyệt ta phải phân ra "tam tụ". "Đại tụ" là nơi có thể làm đại đô của một nước. "Trung tụ thích hợp cho đại quận châu phủ là các thành phố vệ tinh tiếp sức cho đại đô. "Tiểu tụ" dĩ nhiên là cho tạo làng đặt xóm hay dương cơ và âm phần. Nhìn tổng thể hình sông thế núi của Đất Việt Ngàn Năm cả đồng bằng sông Hồng là đại cục mà nguyên khí đại tụ tại Thăng Long xứng đáng là đại đô nhiều đời ( tuy vậy cần có nhiều cải tại mới phát huy hết sức mạnh vốn có của nó), vận mệnh của quốc gia phần nhiều được quyết định bởi phong thuỷ của đại cục này. Xét tới ba tỉnh Hà Đông , Bắc Ninh và Hải Dương là trung cục mà nguyên khí "trung tụ" tại ba huyện Thanh trì, Đông ngàn và Thanh Lâm, ba nơi này tạo thành thế chân vạc tiền, tả, hữu hỗ trợ nguyên khí cho Thăng Long (Tất nhiên còn nhiều trung cục khác hỗ trợ). Để thấy được sự độc đáo của mỗi vùng chúng ta sẽ lần lượt tiến hành phân tích hình sông thế núi của ba khu vực này : Tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì toạ lạc trên một miền đất đồng bằng lưng dựa núi mặt hướng thuỷ là nơi long đình khí chỉ của một một long mạch tới từ Trung Quốc. Long mạch - Chi trung kết cán- cỡ trung bình chạy theo hướng tây bắc đông nam ( kẹp bởi hai đại giang là Đà giang và Mã Giang) bắt nguồn từ sơn nguyên.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Tây Tạng chạy qua Vân Nam Trung Quốc hướng về phía nam qua Lào vào Việt Nam tại tỉnh Điện Biên, Lai châu với các dãy núi cao trên 2000m . Khi tiến vào Việt Nam long bắt đầu thoát xác từ già hoá trẻ- dấu hiệu của sinh khí tăng dần, đến khu vực hồ Hoà Bình Trung cán long này thúc yết rồi phân ra làm ba nhánh Tả chi tạo thành tay long quay ngược lên phía bắc đi theo Đà giang tạo thành dãy Ba vì hùng vĩ với ba ngọn núi là núi Ông, núi Bà (1120m) và núi Chẹ ( Tản Viên 1287m), ngọn giữa Tản Viên có hình thắt cổ bồng, trên toả ra như cái tán ( long mạch đại quí cách). Hữu chi tạo thành tay hổ tiếp tục di chuyển về phía đông nam rồi tách ra làm 3 chi nhỏ phân cách bởi hai con sông là sông Bồi và sông Bưởi. Chi ngoài cùng còn rất hùng hậu đột khởi nên dãy núi Phu Nha Phong cao 1587 m kẹp bởi hai con sông là sông Mã và sông Bưởi. Chi giữa long đi trường viễn tạo thành dày Tam Điệp chạy ra sát biển, kẹp bởi hai con song Bưởi và Bồi. Chi trong cùng chạy về khu vực chùa Hương nổi tiếng và kết thúc tai nơi giao hội của hai con song Bồi và Đáy. Trung chi huyền vũ khí mạch trung tụ chạy về phía đông bắc "băng hồng" qua song đáy thoát hết sát khí hướng về Thăng Long Hà Nội và kết thúc tại huỵên Thanh Trì. Tại nơi kết thúc này hàng loạt các gò đống đột khởi như một hệ thống mà phía trước là một loạt các đầm nước tự nhiên trong và sâu nổi tiếng ( Phía giáp Thanh Trì với sông Hồng là rốn nước của thành phố) tạo thành một trong năm các thức kết huỵêt gọi là "Cứ thuỷ cục". Tới đây chắc các bạn đã rõ vì sao nơi này chiếm tới 70% nhân tài của một vùng rộng lớn rồi. Tỉnh Bắc Ninh tương tự như tỉnh lị Hà Đông toạ lạc trên một miền đất đồng bằng bằng phẳng có triều cao từ 20 đến 50 m so với mặt nước biển , lưng dựa núi mặt nhìn núi xa xa về phía đông là Lục Đầu giang ( cách cục đặc biệt). Tỉnh là nơi kết thúc của một long mạch đại cán phát nguyên từ Tây Tạng rẽ nhánh về phía đông ( Tay long của đại cục Thăng Long) đi qua Trung Quốc, một chi long của đại cán long này rẽ nhánh xuống phía nam tạo thành cánh cung Ngân Sơn cao trên 1800 m chạy xuống miền bắc của nước Việt qua Cao Bằng, Bắc Cạn chi long này trẻ hoá. Trên đường đi của cánh cung Ngân Sơn một chi long nhỏ tiếp tục tách ra chạy theo hướng tây nam tạo ra núi Phia Booc cao 1578 m đi qua Tuyên Quang ( kẹp giữa hai song Thao và Cầu) chuyển hướng đông nam đột khởi lên dãy Tam Đảo có 3 đỉnh nhô lên liền nhau gần Thác Bạc, như ba hòn đảo : Phù Nghĩa, Thạch Bàn và Thiên Thị cao tương ứng 1250m, 1420m, 1591m . Dãy Tam Đảo tiếp tục di chuyển theo hướng đông nam khởi núi Sóc Sơn trung tụ tai huyện Đông Ngàn, dư khí còn tiếp tục di chuyển đột khởi một loạt các dãy núi chay theo hướng bắc nam là Tiên Du, Vũ Ninh và Thiên Thai ngăn lấp lấy minh đường trước mặt. Thế của long gia thì thật là kém xa so với Hà Đông tuy vậy nó lại quí ở chỗ có nhiều các chi long khác chầu về như cánh cung Sông Gâm, cánh cung Bắc Sơn, dẫy Cai Kinh, dẫy Mẫu Sơn và cánh cung Đông Triều, nên cuối cùng thì sinh khí chầu tụ xem ra lại nhỉnh hơn so với thế đất của tỉnh Hà Đông. Xét riêng huyện Đông Ngàn là một vùng đồng bằng phì nhiêu lưng dựa vào dãy Tam Đảo có hình "thương khố", phía trước hướng về Lục Đầu giang lại bị ngăn lấp bởi ba dãy núi Tiên Sơn, Vũ Ninh và Thiên Thai chính là đại quí cách kết huyệt mà không cần có nước trong phong thuỷ gọi là "Can pha cục". Người viết xin trích một đoạn trong sách cổ " Phía trước địa huỵêt không có thuỷ lưu, không tìm thấy thuỷ, núi non hai bên tiền, tả, hữu chắn ngang ngăn lấp minh đường là đại quí địa nếu hành long có hình thương khố". Đến đây thì chắc ai cũng hiểu tại sao Đông Ngàn lại là huyện có nhiều người đõ đạt cao đến như vậy, thêm nữa vì hành long có hình "thương khố' nên đây cũng là huyện giầu nhất miền bắc nếu không muốn nói là cả nước có nhiều nhân vật sinh ra tại đây có tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đồng Việt Nam. Người viết đã có dịp ghé thăm Đền Đô thời tám vị vua nhà Lý ( vua thứ chín được thờ tại nơi khác) được nghe câu truyện dòng họ Lý được ngôi đất cửu long tranh châu ( một cụ già còn.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> thuật lại xưa kia khi cụ còn bé khi trời mua to quả là có nhiều dòng nước chầu về một khu đất) mà phát ra chín đời vua Lý lưu danh sử sách , ngẫm thì cũng không sai vì trung cục đại quí cách còn thiếu thuỷ của tiểu cục quí cách nữa thôi là đủ cho đế nghiệp. Tỉnh Hải Dương toạ lạc trên vùng đất trung tâm đồng bằng bắc bộ xung quanh được bao bọc bởi các con sông chính : S. Thái Bình, Kinh Thầy ở phía đông, S. Lục Nam, Đuống ở phía bắc, S. Hồng ở phía tây và S. Luộc ở phía đông, ngoài ra trong địa phận tỉnh còn có các sông như : S. Rang, S. Kinh Môn, S. Sặt, S. Hương, S. Đá Vách, S. Cẩm Giàng, S. Cửa An, S. Tứ Kỳ, S. Mía… chảy qua mà sông nào cũng uốn lượn hữu tình. Tỉnh có hai trung tụ là Nam Sách và Bình Giang ( sẽ đề cập sau) cách thức kết của hai trung tụ này đều lấy thuỷ là trọng Xét về sơn, địa mạch của Hải Dương là sự chầu tụ và giao thoa của của 4 địa mạch lớn từ phía tây bắc, bắc, đông và đông bắc đổ dồn về phía Lục Đầu Giang Xét về thuỷ, Lục Đầu Giang là cách cục thuỷ vô cùng đặc biệt mang lại vượng khí lớn cho cả vùng đất. Ta sẽ đi sâu một chút để phân tích đặc điểm này qua quái tượng 1. Lục đầu mang tượng âm vì lục tượng quái là âm, tụ tại miền bắc là nơi âm sinh đến cực điểm kết hợp với Cửu Long Giang ( Cửu Vĩ Long Giang) mang tượng dương vì cửu là dương, tản ra ở miền nam nơi dương sinh đến cực điểm tạo thành thế cửu lục xung hoà âm dương hợp khắc của nước Việt ( tượng này nói lên rất nhiều điều …) 2. Âm lục, dương cửu, đầu dương , đuôi âm nên thấy rõ nguyên lý của vũ trụ trong âm có dương , trong dương có âm. 3. Lục Đầu Giang nếu nhìn qua thì thực chất chỉ có 4 dòng thuỷ lai chầu về là : S. Cầu, S. Thương, S. Lục Nam và S. Đuống ( S. Thiên Đức) còn hai sông là S. Thái Bình và S. Kinh Thầy là hai dòng thuỷ khứ. Như vậy sao gọi là Lục Đầu được ? Tuy vậy trong lịch sử có hai lần triều cường qua cửa Thái Bình và Bạch Đằng làm đổi dòng của hai con sông này tạo ra những cuộn xoáy lớn tại Lục Đầu ( do 6 dòng nước đổ về) Lục Đầu trở về đúng nghĩa của nó là địa tượng sau đó xuất hiện nhân tài xuất chúng là hai vị anh hùng dân tộc gắn liền với hệ thống này là Ngô Quyền và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn Huyện Nam Sách là trung tụ thứ nhất của Hải Dương được bao bọc bởi hai con sông Thái Bình và Kinh Thầy, đây là cách thức kết mà phong thuỷ gọi là hoành thuỷ cục ( thuỷ thành uốn lượn bao bọc). Phần lớn vượng khí của Lục Đầu dồn tụ về khu vược này tạo ra hàng nghìn gò đống lớn nhỏ đột khởi như một hệ thống mà Thanh Lâm là trung tâm, điều này giải thích tại sao huyện Nam Sách thị trấn Thanh Lâm từ xưa đến nay nhân tài sinh ra mãi không hết. BƯỚC ĐẦU LÀM QUEN VỚI PHONG THUỶ Người Viết : ... Dưới bút danh ASVN Tặng các bạn yêu thích môn phong thuỷ Nhân thấy có nhiều bạn muốn học phong thuỷ nên tôi xin có mấy ý kiến như sau : Tôi thấy trên các diễn đàn phong thuỷ cũng như ngoài đời mỗi người một lý. Mỗi người đều mang một trường phái mình học ra coi nó là độc tôn rồi chê bai phái khác.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> là bàng môn ngoại đạo, điều này vô cùng tai hại cho hậu học. Họ chẳng biết phải theo ai học ai, vô hình chung đã làm cho môn phong thuỷ càng trở nên huyền bí hoặc làm cho nhiều người thấy nghi hoặc không đủ tin tưởng vào môn này. Tôi viết bài này nhằm hai mục đích, một là muốn khẳng định phong thuỷ là một môn khoa học đã được chứng nghiệm từ hàng nghìn năm, hai là dùng chút kiến thức ít ỏi của tôi cung cấp một trong hàng nghìn cách tiếp cận môn phong thuỷ qua sách vở, ngõ hầu có thể giúp các bạn yêu thích môn này đi sâu nghiên cứu PHẦN MỘT : Phong Thuỷ là một môn khoa học gồm ba phần - Cơ sở lý luận - Các chứng nghiệm - Tại sao lại có người nghi hoặc môn phong thuỷ a- Cơ sở lý luận : Từ hàng nghìn năm nay triết học phương đông, triết học cổ đại, triết học phương tây và cả triết học của chủ nghĩa cộng sản ... cũng đều khẳng định rằng vạn vật đều hình thành và phát triển do sự tồn tại của hai mặt "đối lập" hay nói khác đi là "âm và dương". Tuy vậy duy chỉ có triết học phương đông hiểu rõ vật là gì , coi nó như một "vũ trụ" vận hành theo qui luật của tự nhiên và qui nó về một hệ cơ sở là "ngũ hành" Bài viết của tôi về "cơ sở lý luận" để viết đầy đủ sẽ rất dài không những thế bản thân tôi thấy không cần thiết vì rất nhiều khái niệm cơ bản các bạn có thể tham khảo trong các tác phẩm "Kinh Dịch", "Địa Lý Tả Ao", "Địa Lý Toàn Thư"," Ứng dụng trường khí trong đời sống và kiến trúc"… cũng như các bài viết của các vị khác về "khí công", "Thiền", "Bùa chú" ....trong mục khoa học huyền bí của diễn đàn lysodongphuong.com do vậy tôi sẽ chỉ đề cập các vấn đề mấu chốt. Với tinh thần như vậy tôi xin tiếp tục Nói là hệ cơ sở vì nhìn chung trên trái đất này có thể qui vạn vật vể năm hành "kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ" cũng giống như trong thương mại quốc tế người ta qui mọi đồng tiền của các nước về hệ cơ sở là đông đô la Mỹ vậy. Xét đến đối tượng nghiên cứu cũng như các vấn đề cần giải quyết của khoa hoc phương đông mà cụ thể là môn phong thuỷ thì với hệ cơ sở nay là đủ. Bản thân "vật" là một thực thể tồn tại khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào việc con người có nhận biết được nó hay không vì "vật" tồn tại ở hai dạng "hình và khí". "vật" cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ" nên khí cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ", đây chính là vấn đề mấu chốt của địa lý phong thuỷ. Từ xa xưa cũng như ngày nay các khí công sư, các bậc chân tu...có thể nhìn thấy khí (trường năng lượng), hơn nữa là với mọi màu sắc khác nhau, xem khí của người để đoán mệnh, bệnh, nhìn khí của hiện trường để phá án . Các bạn chớ có kinh ngạc vì đó là nguyên lý "Có hình tất có khí" và "đã có khí rồi thì có hình". Các bậc cao nhân xưa đã nắm được đặc điểm khí có hình mà phát minh ra phép "Vọng Khí" dùng để lựa chọn một cách tốt nhất trường khí của môi trường, chọn nơi tốt nhất để ở hoặc táng người thân. Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng trong cả vũ trụ này "khí" tồn tại ở khắp mọi nơi nó chính là "hạt" cơ bản cấu tạo nên vũ trụ. Bước tiếp theo ta xét đến trái đất "khí" tồn tại trong bầu khí quyển, "khí" tới từ vũ trụ xa xôi. Bản thân khí cũng chỉ là "vật" do.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> vậy nó bao gồm khí âm và khí dương mà ta có thể qui về hệ cơ sở "Thất sắc cửu khí" : -. Khí nhất bạch tham lang ngũ hành mộc sắc xanh Khí nhị hắc cự môn ngũ hành thổ sắc vàng khí tam bích lộc tồn ngũ hành thuộc thổ sắc vàng khí tứ lục văn khúc ngũ hành thuộc mộc sắc xanh khí ngũ hoàng liêm trinh ngũ hành thuộc thổ sắc vàng khí lục bạch vũ khúc ngũ hành thuộc kim sắc trắng khí thất xích phá quân ngũ hành thuộc kim sắc trắng khí bát bạch tả phụ ngũ hành thuộc thổ sắc vàng khí cửu tử hữu bật ngũ hành thuộc hoả sắc đỏ. Theo qui luật "có hình tất có khí" khí mang tính âm sẽ bị hấp thụ bởi các đỉnh núi cao rồi "thẩm thấu" theo các mạch núi, đất mà sau này ta gọi là "long"... Cũng theo qui luật "có khí tất có hình" mà các long này sẽ dần biến đổi hình dạng cho phù hợp với "khí" ở trong nó chính vì thế mà các cao nhân xưa mới đưa ra các khái niệm "ngũ tinh ,cửu tinh, cửu diệu..." trong phong thuỷ khi xét về hình thế. Như vậy khái niệm "khí" là mấu chốt của phong thuỷ xem ra là chưa đủ mà còn phải xét đến hình vì cả hình lẫn khí mới là hai mặt của một vấn đề (nhất âm nhất dương chi vị đạo) Một vấn đề nữa phải chú ý là tính chất của "khí", khí bị nước hấp thụ hay nói khác đi "khí" gặp nước thì dừng. Như người viết đã đề cập một lần trong diễn đàn lysodongphuong.com "khí" là dương thì "hình" là âm. Bản thân hình gồm núi (long) và nước thì núi là âm mà nước là dương (phù hợp qui luật trong âm có dương trong dương có âm) do vậy phong thuỷ địa đạo luôn luôn phải nhớ câu "sơn thuỷ hữu tình" Theo qui luật "cô âm bất sinh độc dương bất phát" thì chỉ khi có đủ âm dương thì mới động dục mà sinh sản nên những nơi "sơn hoàn thuỷ bão" thì nhiều khả năng có địa "kết", nói nhiều khả năng vì vẫn chưa đủ điều kiện. Tại sao vậy? vì như đã nói ở trên "khí" mang tính âm thẩm thấu qua "long" đi mãi cho đến nơi kết sẽ đột (âm) khởi hoặc bình (dương) oa kết huyệt với rất nhiều các ứng "tinh". Các ứng "tinh" này sẽ tạo ra một vùng lòng chảo có vai trò "ăng ten" thu các khí mang tính dương trên không trung tụ lại trong thuỷ . Kết quả âm dương thiên địa giao hoà mà kết huỵêt. Các cao nhân xưa quả thật vô cùng thâm sâu khi đưa ra nhận định "chứng ứng" ứng với thiên tinh trên trời khiến cho nhiều hậu học không đủ cơ duyên chẳng biết đâu mà lần.... Song song với quá trình trên "khí" mang tính dương cũng thẩm thấu vào nước và ánh sáng tạo thành các dòng sông con suối đi sát bên "long" như vợ với chồng tới nơi long đình khí chỉ,"địa hộ" đóng lại, âm trữ dương tồn thì tạo ra địa "kết" , song thể kết có khác nhau ở chỗ "nhũ ,đột" và "oa, kiềm". Theo qui luật " dương hấp âm hô" thì khí âm sẽ kết kiểu "oa, kiềm" còn khí dương thì kết kiểu "nhũ, đột" , đó là nói về sự "kết" ở vùng sơn cốc. Còn về hai khái niệm sơn cốc và bình điền thì theo qui luật " Vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng" thì sơn cốc núi cao nên gọi là lão âm, thung lũng bằng phẳng ở đây gọi là thiếu dương tương tự như vậy bình điền cả một bằng phẳng không biến đổi nên gọi là lão dương, các gò đồi đột khởi tại đây gọi là thiếu âm. Nơi sơn cốc âm khí thì thu lại còn nơi bình điền khoáng dã dương khí thì tản ra do vậy huyệt kết nơi sơn cốc cần rộng rãi còn nơi bình điền thì lại cần thu lại không ngoài nguyên lý của trời đất là "lấy cái thừa bù cái thiếu".

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Với cơ chế tương tự khí dương theo nước mưa, ánh sáng… thẩm thấu xuống đất bằng cả một vùng bình nguyên đồng bằng rộng lớn (lão dương). Long mạch ở bình nguyên dẫn khí dương đi , những nơi khởi cao hơn dù là chút ít (cao nhất thốn vi sơn, đê nhất thốn vi thuỷ) là dấu tích của long đó vì có dấu hiệu của âm dương giao hoà sinh khí, đến khi khởi lên một loạt tinh phong quần tụ cũng là lúc thuỷ đổ dồn về thì có kết tác vì thuỷ tích khí dương còn các tinh phong (ứng tinh) đột khởi nơi bình địa thu khí âm thật là một nơi "thiên tạo địa thiết" dành cho người có đủ cơ duyên. "Dương thăng âm giáng" phu gặp phụ kết thúc một chu trình của sự vân động của thiên và địa. Xét việc trong vũ trụ này ngoài "thiên địa" còn phải xét đến "nhân" vì thiên địa nhân là hợp nhất. Như đã đề cập ở trên con người là "vật" là tiểu vũ trụ do vậy con người có hình có khí chỉ có khác là khí của con người có tính "hữu cơ", có nguồn gốc từ tế bào, axit amin, albumin,nhân tế bào và đặc biệt là có nguồn gốc từ axit deoxiribonucleic tức là mật mà di truyền ADN. Chính vì thế phong thuỷ không chỉ đề cập đến khí của một cá nhân mà còn nói đến khí của cả một dòng họ và cao nữa là khí của cả một dân tộc. Ta sẽ xem xét một chút về trường nhân khí, trường nhân khí có hai loại "dương và âm" đàn ông thuộc dương còn đàn bà thuộc âm, dù là âm hay dương thì trường nhân khí cũng có thể qui về tập hợp của cửu khí và năm ngũ hành vì thế trong đông y người ta có thể chia các bộ phận ra âm dương và ngũ hành . Cửu khí trong cơ thể vận hành theo các kinh mạch. Bản thân các kinh mạch lại chia ra thành âm dương , chính phụ và giao của các kinh mạch chính là nơi âm dương giao hoà hay còn gọi là huyệt đạo. Huyệt đạo cũng chia ra âm dương chính phụ nó là nơi tiếp nhận tín hiệu của môi trường (người viết có biết một số vị luyện cảm xạ một thời gian các huyệt đạo được khai mở, khi đến các khu vực có trường khí xấu ,huyệt " trường cường" của họ có cảm giác đau nhói). Các cao nhân xưa qua quá trình khổ luyện khi đã đả thông các kinh lạc, huyệt (mở các Luân Xa) thì có thể cảm nhận được khí. Xương sống của "trường khí dòng họ" cũng chính là mật mã di truyền của dòng họ đó. Đặc điểm của "trường khí hữu cơ" ngoài các đặc điểm có tính chất sóng, hạt, năng lượng và định hướng còn có hai đặc điểm rất rõ nét một là tính có thể khống chế, tức là chịu ý niệm khống chế, đặc điểm này có thể nhìn thấy được trong các thí nghiệm đo đạc trường năng lượng nhân thể, trạng thái tinh thần có thể ảnh hưởng đến độ mạnh yếu của của trường nhân thể. Hai là mức độ "thanh" hay "trọc" của "trường nhân khí" là phụ thuộc vào bản tính "thiện" hay "ác" , tham sân si của cá nhân người có trường khí đó và cũng từ dó có ảnh hưởng đến trường khí của dòng họ mà anh ta được sinh ra . Theo kinh nghiệm quan sát nhiều năm của người viết các vị chân tu đã từ bỏ được tham sân si thường trông rất phúc hậu, sắc khí tươi nhuận, rất dễ gần và đặc biệt trường khí của họ rất lớn có thể cải tạo được khí xấu của nơi mà họ sinh sống. Các dòng họ lớn có nhiều đóng góp cho sự phát triển của xã hội thường thế lực, trường tồn và sản sinh ra những nhân tài xuất chúng. Đến đây người viết đã dần dần hé mở hai trung tâm năng lượng , một là "huyệt" theo khái niệm phong thuỷ là nơi thiên gặp địa, âm và dương của vũ trụ giao hoà. Hai là trung tâm nhân thể chính là con người tạo vật bậc cao của vũ trụ. Hai trung tâm này có một đặc điểm quan trọng là vừa thu vừa phát "sóng" năng lượng (khí). Điều này là hoàn toàn có cơ sở vì bản thân con người có thể hút "chân khí" của người khác, khí của tự nhiên và cũng có thể cho người khác "chân khí" của mình, đây là.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> việc có thực người viết xin được miễn giải thích thêm ( tham khảo các đề tài về khí công , thiền).Trung tâm thứ hai (Huyệt) cũng hoạt động với cơ chế như vậy "thu và phát". Người viết và một số đồng đạo đã nghiên cứu và thực nghiệm trên một số cuộc đất phát hiện ra rằng có những nơi sau khi khảo sát cảm thấy vô cùng mệt mỏi, "chân khí" bị mất đi. Nhưng cũng có nhiều nơi đến đây cảm giác rất dễ chịu, sảng khoái thậm chí khi đi mà bị ốm khi về đã khỏi bệnh. Xin đừng ngạc nhiên có vùng quê (Sơn Tây) có cuộc đất vô cùng tốt hễ có ai ( không phải là tất cả) ốm qua loa đến đây "thắp hương" khi về đã khỏi bệnh nên dân trong vùng gọi đó là " mô thần y ". Giải thích sự việc này là vì trong cơ thể con người sự cân bằng âm dương là tối quan trọng, mọi sự mất cân bằng đều dẫn đến bệnh tật và việc chữa bệnh thực chất là làm cho âm dương cân bằng. Trong tự nhiên có sự tồn tại những nơi mà trường khí của nó kích thích các kinh mạch của con người trợ giúp nó thông xuốt dẫn đến sự cân bằng về mặt năng lượng do vậy mà nó không chỉ giúp một số người khỏi bệnh mà còn giúp các bậc chân tu nhanh chóng đả thông hai vòng tiểu , đại chu thiên hay nói khác đi là khai mở các "luân xa" một các dễ dàng. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đến cơ chế của sự kết phát. Theo người viết cơ chế của sự kết phát có hai giai đoạn Giai đoạn 1 : Người viết gọi giai đoạn này là giai đoạn hấp thụ trực tiếp, xẩy ra khi bản thân con người (trường nhân thể) hấp thụ được khí tốt của môi trường "huyệt".Trung tâm "huyệt" đóng vai trò như một "máy phát sóng truyền hình" và trường nhân thể đóng vai trò của "máy thu hình". Trường nhân thể nào có cùng tần số lập tức bắt được sóng năng lượng của trung tâm huyệt một cách trực tiếp, như vậy càng ở gần trung tâm huyệt sóng bắt được càng rõ nét và tương ứng mức độ kết phát càng lớn và càng dễ kết phát. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng không phải ai cũng có thể nhận được năng lượng này thậm chí là ở ngay trung tâm phát sóng. Thêm nữa thường trung tâm phát sóng càng "tốt" năng lượng sóng càng "thanh" do vậy trường nhân thể cũng phải "thanh" mới có thể nhận được sóng tốt, điều này giải thích câu "tiên tích đức hậu tầm long" cũng như qui luật nhân quả một cách rõ ràng Giai đoạn 2 : người viết gọi là giai đoạn gián tiếp hấp thụ Đối với người sống sau khi nhận được năng lượng sóng từ các trung tâm năng lượng truyền đến sau khi hấp thụ một phần bản thân sẽ trở thành một trạm phát chuyển tiếp để truyền năng lượng đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống khác trên cơ sở mật mã di truyền (đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu) . Dĩ nhiên là các trường nhân thể càng "non trẻ" càng dễ dàng hấp thụ năng lượng Đối với người đã chết xương, tóc.... là những thứ tồn tại ở dạng hình trong một thời gian dài sẽ là các trung tâm tiếp nhận sóng và phát tiếp đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống cũng trên cơ sở mật mã di truyền. Con cháu của người trong mộ tự nhiên sẽ hấp thụ khí tốt này mà trở nên"thanh, phú ,quí" mà dân gian gọi là mộ "phát" Với cơ chế như vậy ta có rút ra hai nhận xét quan trọng sau : 1- Không nhất thiết phải đặt nhà,sống, táng ... tại trung tâm huyệt mới có sự kết phát ( tất nhiên thực tế lại có khác không tiện giải thích). Tuy vậy nếu đặt đúng huyệt sự kết phát sẽ dễ dàng và lớn hơn rất nhiều.Thêm nữa sự tiếp nhận sóng có giới hạn về không gian điều này giải thích tại sao có nhiều người sống tai quê hương rất vất vả nhưng khi đi xa ( Mỹ) lại học hành thành đạt, trở nên giàu có đó là vì không chịu sự tác động xấu của trường khí dòng họ ở quê lại hấp thụ được vượng khí tại nơi ở mới.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> 2- Không phải ai, dòng họ nào cũng đều kết phát thậm chí là đăt nhà, mộ tại huyệt mà chỉ có sự ứng hợp mới đẫn đến kết phát, cụ thể là huyệt tốt sẽ tìm nhừng trường nhân thể tốt của một cá nhân, dòng họ mà cho năng lượng Khoa học hiện đại ngày nay khi nghiên cưú các vấn đề thực tiễn thường dùng phương pháp mô hình hoá, đơn giản hoá sau đó phát triển dần cho gần với mô hình thực tế rồi đem ra áp dụng. Các bài viết về phong thuỷ cũng vậy, người viết thực ra từ đầu đến giờ đã đưa ra một mô hình đơn giản để dễ dàng cho việc nghiên cứu còn trong thực tế mô hình phong thuỷ còn phức tạp hơn gấp bội phần. Sự phức tạp của nó thể hiện ở các điểm sau : Một là "trường nhân thể" không đơn thuần chỉ là một trung tâm thu và phát năng lựơng sóng mà nó là một "trường hữu cơ" với đầy đủ các tính chất phức tạp của nó ( có sự sinh trưởng và phát triển, có ý niệm) mà người viết không dám và cũng không đủ hiểu biết để có thể trình bày ở trên diễn đàn này, hy vọng rằng một ngày nào đó, một ai đó có đủ "cơ duyên" để làm việc này Hai là sự vận động của vũ trụ là không ngừng "không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông" do vậy các "trung tâm năng lượng" là biến đổi không ngừng lúc mạnh, lúc yếu, lúc cát, lúc hung.... do vậy phong thuỷ mới có khái niệm "vận" và "mở huyệt, đóng huyệt" điều này cũng tương đồng với học thuyết " Linh qui bát pháp, tý ngọ lưu chú" trong đông y khi nghiên cứu con người Ba là sự kết hợp của hai "trung tâm năng lượng huyệt và trường nhân thể" là một cơ chế phức tạp không đơn thuần như đã mô tả ở trên vì nó còn chịu sự tác động của rất rất nhiều trường khí hữu cơ khác mà một tong số đó người xưa gọi là "long thần hộ vệ"… Bốn là có tồn tại một cơ chế điều khiển của các trung tâm năng lượng do vậy mà các môn chấn yểm bùa ngải … ra đời Năm là các trung tâm năng lượng có trung tâm "sống" và các trung tâm "chết" . Sống thì tự sinh có thể dùng lâu dài mà không hết còn chết thì chỉ dùng trong khoảng thời gian ngắn là cạn kiệt Sáu là khí là không thuần khiết một hành mà có thể vừa mang tính mộc vừa mang tình thổ...vì thế thực tế phong thuỷ càng khó hơn nhiều so với lý thuyết. Đồng ý như vậy rồi, một câu hỏi được đặt ra là với mô hình trên, cách tiếp cận của phong thuỷ có khoa học không? Xin thưa là hoàn toàn khoa học vì nó có cơ sở là qui luật, thực nghiệm và chứng nghiệm. Trước khi phân tích tiếp tính khoa học của nó người viết xin nhắc lại một "tiên đề" vô cùng cũ kỹ đó là "hà đồ" và "lạc thư" với hai cơ số thông suốt cả quá trình nghiên cứu của học thuật phương đông là cơ số 2 và 3. Ngày nay hầu như ai cũng biết có hai khái niệm là qui luật phổ biến và qui luật xã hội trong đó qui luật phổ biến bao trùm qui luật xã hội, nó tồn tại và vận động khách quan chi phối vạn vật trong vũ trụ không có giới hạn này. Khi xuất hiện con người thì hình thành các qui luật xã hội, nó chi phối con người trong khuôn khổ củ vũ trụ quan (Qui luật phổ biến). Quay lại với hà đồ và lạc thư, Hà đồ lấy cơ số 2 là cơ sở đại diện cho âm và dương (nhị nguyên)chi phối mọi hoạt động của vũ trụ. Lạc thư lấy cơ số 3 là cơ sở đại diện cho thiên ,địa, nhân (tam tài) chi phối mọi hoạt động của con người trong vũ trụ vì thế người xưa cho rằng hà đồ ứng vói thiên tiên là thể (là viên gạch), lạc thư ứng với hậu thiên là dụng ( là nhà, là trường học..) do vậy cơ số 3 được dùng là cơ sở cho mọi nghiên cứu về phong thuỷ nói riêng và các môn học phương đông.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> nói chung (VD : cửu cung hay can vi thiên, chi vi địa, âm vi nhân ..). Nói như vậy không có nghĩa chúng ta loại bỏ cơ số 2 mà trong quá trình nghiên cứu chúng vẫn không thể tách dời nhau. Với hai tiên đề có tính phổ quát trên người xưa cho rằng : xem và nghiên cứu phong thuỷ phải trên cơ sở : HÌNH LÝ KHÍ SỐ MỆNH Người viết sẽ lần lượt đi qua các cấu phần của HÌNH- LÝ KHÍ-SỐ-MỆNH HÌNH : Phái hình thế ra đời từ rất lâu tại Trung Quốc mà người đại diện là Dương Quân Tùng với luận thuyết nổi tiếng "âm dương thư hùng". Người viết xin trích một đoạn trong sách của ông " Thư (giống cái ) là âm, Hùng ( giống đực ) là dương có hai khí . Nói về thư hùng cũng giống như vợ chồng vậy, vợ chồng giao hợp thì sinh ra con cái. Thư hùng giao hợp thì sinh ra vạn vật, đó là đại cơ – cơ hội lớn hoá sinh của trời đất. vì vậy trước tiên phải xem thư hung của long gia". Qua đây ta có thể rút ra cơ sở của phái hình thế chính là "dương hoá khí âm tạo hình","nhìn hình đoán khí". Hình và khí như bóng với hình như vợ với chồng quấn quít bên nhau không rời đan xen chia xẻ động dục mà sinh con đẻ cái. Phái hình thế đã xây dựng được một khối lượng lớn các luận thuyết tương đối hệ thống đồng thời đưa các quan niệm "tôn tộc ", "thiên phụ, địa mẫu" và hình tượng người phụ nữ. Họ coi quả đất là mẹ của muôn vật và hình tượng hoá khu vưc kết huyệt bằng hình tượng của người phụ nữ ( huyệt ví như nơi sinh sản của phụ nữ): " Núi non vạn dặm, nơi nào cũng có tổ tông, nếu gặp cha mẹ dực dục,thai tức sau đó hình thành. Nhận hình lấy huyệt, biết rõ nơi cha sinh thành, nơi mẹ dưỡng dục.Thiên môn tất phải mở ra sơn thuỷ sẽ đến. Địa hộ tất phải đóng lại sơn thuỷ sẽ về.Thiên môn là nơi nước đến, địa hộ là nơi nước đi. Huyệt ở nơi đó, không ở nơi khác. Trong chỗ nhô lên vẫn có hang hốc, ở nơi cao có thấp,trong hang hốc vẫn có chỗ nhô cao, trong chỗ thấp vẫn có chỗ cao…Đạo lý của thiên hạ, âm dương ngũ hành không thoát ra ngoài một cái vòng. Vòng này là huyệt của sinh tử. Giữa trời đất có vòng nhỏ, vòng lớn, hiểu được vòng này đâu đâu cũng là vòng. Trời đất xoay chuyển, ai hiểu được trăm ngàn điều lý thú trong vòng này là tiên giữa trần gian….. Vòng này là vòng thiên vòng địa, tròn cùng không tròn, vuông cũng không vuông, dẹt cũng không dẹt, dài cũng không dài, ngắn cũng không ngắn, rộng cũng không rộng, nhọn cũng không nhọn, trọc cũng không trọc, trong ý thức con người như có như không đó là vòng tự nhiên. Âm dương đứng ở trong đó, ngũ hành sinh ra ở trong đó. Trong vòng hơi lõm xuống như nước mà không phải nước. Ngoài vòng hơi nhô nên như cát mà không phải cát.." Để có thể nghiên cứu sâu và chi tiết phái hình thế đưa vô vàn khái niệm như Long, thuỷ, huyệt, án, sa, thanh long , bạch hổ, huyền vũ, chu tước, thai tức, thiềm ,cầu , hà tu , hợp khâm, , ỷ chi, sứ huyệt tất , thiên tâm thập tự…. Từ đó lại phân loại nhiều loại long , thuỷ…. Ôi! Vô cùng công phu và phức tạp nhưng nguyên lý xét cho cùng không ngoài đưa chúng về hai hệ cơ sở âm dương ngũ hành và hệ cửu tinh như đã đề cập để dễ bề nghiên cứu. Tuy vậy cũng không quên nhắc nhở hậu học rằng thực tế thì vô cùng phức tạp hình thù là muôn hình vạn trạng (Vì khí không phải là thuần nhất), nên khi nghiên cứu khảo sát thần lực phải tinh tường chớ có nhầm lẫn. Người viết và các đồng đạo khác đã bỏ ra rất nhiều công sức để đi tìm cũng như xem lại các cuộc đất trứ danh phải thừa nhận rằng thực tế khác xa với sách vở nó đòi hỏi một sự nhậy bén trong tâm trí một thần lực tinh tường và quan trọng là chữ " ngộ" của đạo. Có lẽ vì vậy mà học địa lý bị ngừơi ta cho là khó chăng? Nhưng có đủ "căn, duyên và nghiệp" thì chắc chắn sẽ không phụ lòng người..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Xét cho cùng mục đích của phái hình thế là tìm ra ngũ quyết địa lý bao gồm Long , huyệt, sa, thuỷ, hướng tức là nghiên cứu địa khí của khu vực cần phải khảo sát hay nói rộng ra là đi tìm trung tâm "phát sóng" trong tự nhiên LÝ KHÍ : Người đại diện là Lại Văn Tuấn hay còn gọi là Lại Bố Y thầy của Lưu Cơ (Đại Quân Sư của Chu Nguyên Chương thái tổ nhà Minh), trái với phái hình thế nhấn mạnh "Khí hành tuỳ theo thế đất", phái lý khí cho rằng vạn vật, thiên địa đều do khí sinh ra " tất cả mọi vật đều là khí", "núi sông thuỷ thổ đều có chứa khí là đại trạch của tạo hoá vì vậy khí lưu hành đầy trong vũ trụ. Thiên địa vạn vật đều là một thể". Vạn vật của thiên địa đều là một thể do vậy giữa chúng phải có một điểm chung, đó chính là "lý". "Lý" tồn tại hiện thực nhưng lại vô hình, sự kết hợp của "lý" và "hình" chính là tượng của khí. "Lý" sinh ra từ khí, "lý" của vạn vật trong tự nhiên có quan hệ mật thiết với loài người đó chính là qui luật của thời gian và không gian, qui luật của vũ trụ về phương vị của thời gian và không gian. Dựa trên cái "lý" đó phái lý khí đã xây dựng một khối lượng đồ sộ các hệ thống lý thuyết trên cơ sở của ngũ hành sinh khắc, âm dương bát quái, cửu tinh, bát môn, thập nhị bát tú, thập nhị tứ sơn, 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa, 24 huyệt châu bảo, tử phụ tài quan quí nhân lộc mã, thiên địa nhân qui tàng quái phân kim….với hai trọng điểm lý luận - Lấy phương vị là chính tức khí ở phương vị khác nhau thì tốt xấu khác nhau - Lấy thời gian làm chủ tức cùng một phương vị thì tại các thời điểm khác nhau thì tốt xấu khác nhau Xét cho cùng mục đích của phái lý khí là tìm ra hướng và thời gian tức là nghiên cứu thiên khí của cả một vùng hay nói rộng ra là nghiên cứu làm sao có thể nhận sóng tốt nhất dù ở trong hay ngòai trung tâm phát sóng Xét về tổng thể hai phái "hình thế" và "lý khí" là không thể tách rời, mặc dù cả hai phái đều xây dựng trên cơ sở lý luận riêng của mình. Phái lý khí so với phái hình thế có cơ sở lý luận tương đối hoàn chỉnh hơn. Phái hình thế từ rất sớm đã lựa chọn địa hình, địa thế và điều kiện môi trường làm điểm xuất phát xây dựng nên hệ thống học thuyết của mình. Phái lý khí xuất phát từ quan hệ của khí, số, lý mong muốn tìm được qui luật và mối liên hệ nào đó giữa con người và "thiên lý" nhằm đạt được sự thông đạt của khí, lý giữa con người và môi trường, từ đó tìm ra môi trường lý tưởng có lợi cho nhân sinh. Nhìn trên tổng thể có thể nói sự truy tìm chiều sâu lý luận của phái lý khí cao hơn phái hình thế. Tuy vậy ranh giới giữa chúng là không rõ ràng, hai phái đều có những điểm chung về thực chất đó chính là "khí", "sinh khí" và người xưa cũng đã dần dần nhận rõ điều này : "Người không biết về loan đầu không thể nói đến lý khí. Người không biết về lý khí không thể nói đến loan đầu. Người tinh thông loan đầu cuối cùng sẽ tự hợp với lý khí. Người tinh thông lý khí cuối cùng sẽ tự hợp với loan đầu. Loan đầu không chỉ có long, huyệt, sa, thuỷ đó mới chỉ là nội dung sơ lược. Cần phải tìm hiểu rõ về địa thế cao thấp , nguồn nước tụ tán, hướng thế của sa pháp, long khí dầy mỏng, thời khắc hưng vượng …". Điều này càng nói rõ lên rằng hình thế và lý khí là một tổng thể, là hai mắt xích không thể tách rời. Câu chuyện này cũng giống câu truyện dài và ly kỳ của khoa học phương tây đưa dến kết luận : " Ánh sáng vừa có tính chất sóng vừa có tính chất hạt" tức vừa là hình (hạt) vừa là khí (sóng) SỐ : Vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (hệ cơ số 2 âm và dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái có thể biểu diễn mọi sự kiện, sự vật từ nhỏ vô cùng đến lớn vô cùng. Phong thuỷ là một môn khoa học nghiên cứu về phạm trù "khí và hình" nên đương nhiên không vượt qua sự chi phối của qui luật phổ biến với hệ cơ số 2 do vậy việc áp dụng kinh dịch vào phong thuỷ đã được người xưa.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> chú ý và theo người viết đây chính là phương pháp nhiên cứu phong thuỷ đỉnh cao mà ít người biết tới. Điểm lại sách cổ của phái hình thế ta bắt gặp nhiều đến quái, tượng trong việc luận đoán cát hung cho một cuộc đất. Tuy vậy về mặt lý luận vẫn còn sơ sài so với phái lý khí đã hình thành một hệ thống lý luận áp dụng kinh dịch đến độ tinh vi thể hiện ở ba điểm sau : Một là : Về mặt phương hướng người xưa đã tiến hành đưa quẻ vào từng phương vị của lục thập thấu địa long, thất thập nhị xuyên sơn hổ rồi từ đó tạo ra ba vòng thiên nguyên, địa nguyên và nhân nguyên qui tàng quái phân kim sau đó tiến hành đưa quẻ vào đến từng long khí rồi dựa trên hai nguyên tắc "Có động mới có dụng" và "cùng tất biến" để diễn quái kết hợp với mệnh chủ biến theo không gian, thời gian cùng hoạ phúc của họ mà luận cát hung… Hai là : Về mặt thời gian trên cơ sở của huyền không phi tinh kết hợp với huyền không đại quái đã mang lại đỉnh cao cho huyền không học – Môn môn phong thuỷ bí truyền mới được phổ biến ra dân gian từ đời Thanh Ba là : Việc ứng dụng của Mai hoa dịch số, Bốc phệ, quẻ Khổng Minh … vào phong thuỷ tạo thêm một cơ sở kiểm chứng cũng phát triển mới đưa phong thuỷ nên một tầm cao mới nhất là trong cuộc sống hiện đại ngày nay MỆNH (Người viết tự thấy cần đưa vào) : Con người là chủ nhân của quả đất, là tinh hoa của vũ trụ, là linh trưởng của van vật. Tất cả những gì mà con người nghiên cứu là nhằm mục đích phục vụ cho chính họ. Vì vậy không nằm ngoài - con người cũng là một đối tượng nghiên cứu chính của phong thuỷ. Con người từng giờ từng phút đều chịu ảnh hưởng tốt xấu của các nguyên tố, tín hiệu và năng lượng của thiên nhiên bao la là quả đất và vũ trụ. Thêm nữa con người còn chịu ảnh hưởng của các tín hiệu,năng lượng… của các thành viên trong gia đình, dòng họ,banh bè, cộng đồng… nên việc nghiên cứu qui luật ảnh hưởng của những năng lượng, tín hiệu ấy đối với sinh mệnh con người từ đó tìm ra phương pháp cầu lợi bỏ hại, tìm cát bỏ hung là điều tối cần thiết Theo người viết con người là một sinh mệnh hữu cơ cao cấp nhất do nhiều nguyên tố hoá học cấu thành, bản thân cơ thể con người cùng sinh ra các tín hiệu và năng lượng hữu cơ. Những tín hiệu và năng lượng này phải hiệp đồng, đồng bộ với tín hiệu, năng lượng của thiên nhiên, môi trường mới có thể đạt tới hiệu ứng cùng rung động, con người mới càng phát triển. Nhìn lại phong thuỷ cổ ta thấy người xưa cũng đã tiến hành nghiên cứu mệnh trong phong thuỷ (cung phi, yếu tố phúc đức, tâm linh…) tuy vậy có thể nói là sơ sài hoặc không viết ra hết. Tuy vậy các ta vẫn có thể tìm ra hướng đi cho mình trong quá trình nghiên cứu phong thuỷ tín hiệu sinh mệnh con người ( mà sau này có thể mở rộng ra cho dòng họ, dân tộc..) trên cơ của đông y học ( Linh qui bát pháp, thời châm học, ngũ vận lục khí..), Cảm xạ học (Cơ chế của rung động), Mệnh học ( Tửvi, Tử bình, Tướng học..), Khí công học, Đạo lão, Phật học… Trên đây ASVN đã cung cấp cho các bạn một cái nhìn mới về phong thuỷ trên cơ sở các qui luật và nguyên tắc cụ thể, đồng thời cũng đã giới thiệu khái quát với các vị phương pháp tiếp cận nghiên cứu và thực hành của phong thuỷ cổ xưa như một minh chứng cho tính "khoa học" của nó nhưng do thời gian có hạn người viết không thể tiếp tục đi sâu thêm. Trước khi kết thúc phần cơ sở lý luận tôi xin đưa ra một luận.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> điểm tổng quát hơn khi nghiên cứu phong thuỷ trong thế giới hiện đại và theo người viết đây cũng là hướng đi mà phong thuỷ học hiện đại cần hướng tới đó là nghiên cứu phù hiệu học với hai chủ đề chính : 1- Phù hiệu học vô cơ : Một cuộc đất đẹp long tới phải trường viễn có tống có nghinh,thượng sa hậu vệ, long phải biến từ già sang trẻ ngũ hành luân phiên ( có âm có dương) mới có sinh khí, thuỷ phải trong, sâu, uốn lượn đi theo hữu tình chồng vợ. Khi kết huyệt phải đúng cách long đình khí chỉ thanh long như đùa dỡn, bạch hổ như phục quì, huyền vũ cao dầy như cúi đàu còn chu tuớc như đang nhẩy múa, minh đường phải ngay ngắn, nước phải khuất khúc trong xanh, thuỷ khẩu phải có thần tinh trấn giữ.... vậy thực chất là gì?. Cả cuộc đất chính là một "Phù" vô cơ khổng lồ tích khí của vũ trụ hàng nghìn, triệu năm. Như vậy "Phù hiệu học vô cơ" chuyên nghiên cứu qui luật tích tụ năng lượng tốt xấu (khí) của hình sông thế núi,kiến trúc nhà cửa đường xá... về mặt thời gian và không gian nói khác đi là phong thuỷ cơ bản 2.Phù hiệu học hữu cơ : Chúng ta thường nghe trận đồ chấn yểm, phù chú, bùa ngải, âm binh phù thuỷ ... tất cả đều liên quan tới trường khí hữu cơ mà đặc tính của chúng có tính điều khiển theo ý niệm, tính tồn trữ và tính sinh trưởng. Như vậy "Phù hiệu học hữu cơ" chuyên nghiên cứu qui luật điều khiển,sinh tồn...của trường năng lượng hữu cơ về mặt thời gian và không gian Nếu coi âm là tĩnh dương là động thì hữu cơ là âm còn vô cơ là dương. Hữu cơ nương vào vô cơ mà sinh, vô cơ nương vào hữu cơ mà phát triển vậy thì chỉ khi chúng ta nắm được hai khía cạnh trong cùng một vấn đè đã nêu thì phong thuỷ mới có thể phất triển nên tầm cao của khoa học b- Các Chứng Nghiệm Phong Thuỷ : 1- Ba miền quê của các nhân tài đất bắc : Người viết xin bắt đầu từ tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì ( Về mặt Phong thuỷ). Hà đông là tỉnh ở bắc bộ do pháp lập ra năm 1888. Tỉnh lị ở làng Cầu Đơ, nên tỉnh lúc này gọi là tỉnh Cầu Đơ, năm 1904 mới đổi tên là tỉnh Hà Đông. Vị trí của tỉnh Hà Đông nằm ở phía tây sông Nhị Hà ( đáng lẽ ra, theo lý do đó, tỉnh này phải gọi là Hà Tây mới đúng, nhưng có lẽ những người đặt tên tỉnh lấy lý do là tỉnh này là đất văn vật như đất Hà Đông bên Trung Quốc). Tỉnh Hà Đông gồm một thị xã, tỉnh lị ở trên dòng sông Nhuệ và chín huyện : Chương Mỹ, Đan Phượng, Từ Liêm, Hoài Đức( nay là Mỹ Đức), Phú Xuyên , Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hoà, sau năm 1963 hợp nhất với tỉnh Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây, tỉnh lị vẫn ở Hà Đông . Năm 1977, bị cắt các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ ,Ba Vì và một phần huyện Chương Mỹ Về Hà Nội, sau lại trở về tỉnh Hà Tây. Tỉnh Hà Đông hồi pháp thuộc có nhiều nghề thủ công phát đạt, quê hương của rất nhiều các nhân vật nổi tiếng xưa nay : Chu Văn An,Hoàng Tăng Bí,Bùi Huy Bích, Bùi Bị, Lương Văn Can, Đặng trần Côn, Nguyễn quí Cảnh, Lê ngô cát, Nguyễn Công Cơ,Dương bá Cung , Ngô Đình Chất, Phạm Giao, Ngô Thời Du, Nguyễn Danh Dự, Lê Đại, Từ Đạm, Nguyễn Như Đỗ, Nguyễn Quí Đức, Đỗ Thế Gia ,Vũ Phạm Hàm , Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trọng Hợp, Đặng Huấn,Nguyễn kiều, Nguyễn Bá Kỳ, Nguyễn Phi Khanh, Dương Khuê, Dương Lâm, Ngô sĩ Liên, Nguyễn hữu liêu , Đặng Đình Long, Đoàn Trần Nghiệp, Ngô Thời Nhậm, Nhàn Khanh, Đào Quang Nhiêu, Lý Ông Trọng, Phan Lê Phiên, Lý Trần Quán, Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Quyện, Phạm Quỳnh, Hà Tống Quyền, Nguyễn Siêu, Ngô Thời Sĩ, Lý tử tấn , Phan Phù Tiên, Phạm Tu, Đặc Đình Tướng, Nguyễn.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Công Thái , Trình Thanh, Tô Hiến Thành, Nguyễn hải thần , Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Thuyến, Nguyễn viết Thứ, Đặng Trần Thường, Bùi Xương Trạch ,Nguyễn Trãi, Vũ Công Trấn, Nguyễn quốc Trinh, Nguyễn Thời Trung, Nguyễn Trực, Lưu nguyên Ân,Bùi bỉnh Uyên, Bùi Vịnh... Hiện nay còn có rất nhiều các nhân vật đang tại chức mà người viết không muốn nêu tên tại đây. Nói về huyện Thanh Trì : huyện thuộc phủ Thường Tín, Tỉnh Hà Nội (1831) sau thuộc Hà Đông (1888) nay nhập vào Hà Nội. Trước là châu Thượng Phúc về đời Lý sau là huyện Long Đàm. Đời Lê vì kị huý tên vua Lê Thế Tông đổi là huyện Thanh Trì. Huyện bắc giáp quận Hai bà Trưng và huyện Từ Liêm. Đông giáp sông Hồng ngăn cách với huyện Gia Lâm và văn Giang. Nam giáp Thường Tín. Tây giáp Hoài Đức. Huyện có nhiều đầm tự nhiên : Linh Đường, Thánh Liệt(đầm Sét), Vạn Xuân, đầm Mực...Từ thời Lê về trước có 60 người thi đỗ đại khoa. Đình ngoài Thanh Liệt thờ Phạm Tu, đình trong thờ Chu Văn An, đình Đông Phù Và Việt Yên thờ sứ quân Nguyễn Siêu, đình Tả Thanh Oai thờ Lê Đại Hành, đình Quí Đô thờ Tô Hiến Thành, đình Triều Khúc thờ Phùng Hưng. Quê của Lê Đình Diên, Bùi Huy Bích, Chu văn An , Bạch Thái Bưởi, Đặng Trần Côn, Đồ Lệnh danh, Phạm Quỳnh, Phạm Dao, Nguyễn Phương Đỉnh, Nguyễn Như Đổ, Nguyễn trọng Hợp, Nguyễn Hải Thần, Trần Hoà, Lê Bá ly, Nguyễn Nghi, Hoàng thị Ngọc san, Lê San, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Công Thể, Đỗ Lệnh thiên lưu Tiệp, Bùi xương Trạch, Nguyễn Quốc Trinh, Bùi Trụ, Nguyễn Đình trụ,Phạm Tu, Nguyễn Huy Túc, Lưu nguyên Uân, Cung Đình Vận, Nguyễn Viêm, Viễn Chiếu Thiền Sư, Đàm xuân Vực ... đất này thực chất đã sinh ra "Vua"... Tại sao miền quê này có nhiều nhân tài đến vậy? xin thưa đó là phong thuỷ hợp cách. Trước khi tiến hành phân tích về phong thuỷ chúng ta sẽ tiếp tục du ngoạn tới vùng đất thứ hai đó là Bắc Ninh với trung tâm là huyện Đông Ngàn. Bắc Ninh tỉnh ở phía đông bắc thành Hà Nội, đời Lê là trấn Kinh Bắc, năm Minh Mạng thứ ba (1822) đổi là trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi là tỉnh Bắc Ninh. Năm 1895, Pháp chia tỉnh Bắc Ninh thành hai tỉnh Bắc Ninh và Lục Nam (sau năm 1963 đổi là tỉnh Bức Giang), sau hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Bắc Ninh hồi Minh Mạng gồm phủ từ sơn (huyện Đông Ngàn do phủ kiêm lý), huyện Tiên Du, huyện Võ Giàng, Quế Dương, Yên Phong, phủ Thuận An, sau đổi là Thuận Thành ( gồm huyện Gia Lâm , Văn Giang, Gia Bình, Lạng Tài), Phủ Thiên Phúc, Phủ Lạng Giang. Tỉnh bắc Ninh phía tây có sông Hồng ngăn cách với Hà Nội, khoảng giữa có sông Cầu chảy đến Phả Lại, thì gặp sông Đuống với sông Thương. Vùng Lạng Giang thì núi non hiểm trở, còn vùng Bắc Ninh thì ruộng đồng bằng phẳng , xanh tốt, thỉnh thoảng có những đồi núi thấp có tên tuổi gắn với lịch sử như : núi Sóc Sơn, núi Tiên Du, núi Vũ Ninh, núi Thiên thai. Bắc Ninh có tiếng là đất văn vật nhất của cả nước, có Lê văn Thịnh đỗ trạng nguyên đầu tiên về đời Lý, Nguyễn Quan Quang trạng nguyên đầu tiên về đời Trần, số trạng nguyên và tiến sĩ nhiều nhất so với các tỉnh khác, là quê hương của : Hoàng Hoa thám, Đốc Quế, Đốc Sung, Đốc Mỹ, Lãnh Điềm, Hai Tước, Đốc Tác, Quản Kỳ, Đội Văn, Lãnh Giới, Lãnh Giám , Lãnh Thiết, Cai Bình, Cai Biên, Đề hoàng, Đề Năm , Đề Kiều, Nguyễn Án, Trần danh Án, Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Cao, Nguyễn Đăng Cảo, Phạm Huy Cơ, Nguyễn Văn Cừ, Đào Cử, Nguyễn tự Cường, Đặng Công Chất, Trần Quang Châu, Phó Đức chính, Lê duy Đản, Nguyễn Cư Đạo, Nguyễn Tư Giản, Trương hát, Trương Tống, Đặng thị Huệ, Đàm Thuận Huy, Sư Huyền Quang, Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Bá Kỳ, Hoàng Sĩ Khải, Trần Danh Lâm, Đoàn văn Lễ, Ngô Luân, Lê tuấn Mậu, Cao bá Nhạ, Lê Quýnh, Nguyễn Quyền, Hoàng Công Phu, Nguyễn quan Quang, Cao Bá Quát, Nguyễn Đăng Sở, Nguyễn Mậu Tài, Dương Trọng Tế, Ngô Thầm, Nguyễn Miễn Thiệu,.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thủ Tiệp, Hứa tam Tĩnh, Ngô sách Tuấn, Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn nghiên Tư, Nguyễn Gia Thiều, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Nhân Thiếp, Lê văn Thịnh, Nguyễn Thực, Phạm Văn Tráng, Lý Công Uẩn, Sư Vạn Hạnh … Đông Ngàn huyện thuộc Phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc về đời Lê, có 13 tổng, địa thế rộng, trước là châu Cổ Lãm, Lê Đại Hành đổi là châu Cổ Pháp, nhà Lý đổi là phủ Thiên Đức, tên Đông Ngàn xuất hiện từ thời Trần, đời Minh là huyện Đông Ngàn phủ Bắc Giang, Lê Thánh Tông đổi thành phủ Từ Sơn… Đây là huyện có truyền thống văn hoá lâu đời ( 130 người đỗ đại khoa đến hết triều Lê và 174 người hết triều Nguyễn). Quê hương của rất nhiều nhân sĩ như Nguyễn Án, Nguyễn Tự Cường, Đặng công Chất, Nguyễn Chính, Nguyễn Tư Giản, Quách Giai, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Đình Huấn, Nguyễn văn Huy, Trần Lâu, Nguyễn Hữu Nghiêm, Nguyễn Giáo Phương, Nguyễn Quan Quang, Phạm Thái, Nguyễn Giản Thanh, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Thực, Ngô Thế Tri, Ngô Gia Tự, Lý Công Uẩn, Vạn thế Thiền Sư…đây cũng là đất phát chín đời vua lý đặt dấu ấn cho thời kỳ hưng vượng của đất Việt Miền quê thứ ba mà người viết muốn đề cập ở đây chính là tỉnh Hải Dương mà trung tâm là huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách. Hải Dương là tỉnh ở bắc bộ, xưa giáp sông Hồng , ở về phía đông của kinh thành, nên còn gọi là tỉnh Đông. Về đời Lê là một trong tứ nội Trấn (Sơn Tây,Sơn Nam, Kinh Bắc,Hải Dương). Năm 1466 gọi là thừa tuyên Nam Sách, năm 1469 đổi là thừa tuyên Hải Dương, Vua tương Dực đổi là trấn Hải Dương. Đời Mạc trích các phủ Thuận An thuộc Trấn Kinh Bắc, Phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình thuộc trấn Sơn Nam cho thuộc về trấn Hải Dương vì là quê hương của nhà Mạc. Sau nhà Lê xoá bỏ những việc làm của nhà Mạc, trấn Hải Dương trở về địa giới cũ. Năm 1831 đặt là tỉnh Hải Dương gồm phủ Thượng Hồng sau đổi là Phủ Bình Giang, phủ Hạ Hồng sau đổi là phủ Ninh Giang, Phủ Nam Sách ( huyện Thanh Lâm do phủ kiên lí), phủ Kinh Môn. Năm 1968 sát nhập tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Hải Dương, trừ huyện Đông Triều có dẫy Yên Tử cao từ 837m đến 1068m và huyện Chí Linh có núi Phả lại, núi Côn Sơn không cao mấy còn ra toàn đồng bằng được tưới tiêu bằng các sông Thái Bình chảy qua giữa tỉnh và các chi lưu Sông Kinh Thầy, Sông Kinh Môn, Sông Luộc làm biên giới với tỉnh Thái Bình. Tỉnh Hải Dương là tỉnh giầu có về sản xuất lương thực và nghề thủ công, lại là tỉnh văn vật có nhiều người thi đỗ đại khoa về đời Lê và dời Nguyễn. Quê hương của nhiều nhânvật lịch sử : Phạm Ban, Lại kim Bảng, Nguyễn thái Bạt, Mạc Thị Bưởi, Vũ Cán, Nguyễn Hữu Cầu, Lý Tử Cán, Nguyễn Cừ, Trần Quốc Trân, Mạc Đĩnh Chi, Trần Khắc Chung, Lê thiếu Đĩnh, Khúc Thừa Dụ, Nguyễn Thị Duệ, Mạc Đăng Dung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Dữ, Trần Nguyên Đán, Vũ Phương Đề, Vũ Duy Đoán, Phạm Đồn, Phạm tiến Đức, Đoàn Nhữ Hải, Đinh nhã Hành, Phạm Hạp, Ngô Hoán, Phạm Đình Hổ, Lương Nhữ Hộc, Nguyễn Huân, Lê Huân, Phạm chí Hương ,Vũ Hữu, Trần Thời Kiến, Yết Kiêu, Bùi Bá Kỳ, Trần Quốc lặc, Phạm Cự Lượng, Nguyễn mại, Phạm Tông Mại, Phạm sư Mệnh, Vù Văn Mật, Lê Nại, Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Trác Oánh, Pháp Loa, Trần Phong, Đinh Văn Phục, Đỗ Quang, Phạm quỳnh, Võ quỳnh, Đinh văn Tả, Nguyễn Quý Tân, Vũ Huy Tấn, Mạc Hiển Tích, Đốc Tít, Nhữ Đình Toản, Vũ Như Tô, Lê cảnh Tuân, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Tiển, Thái Thuận, Trần Đình Thám, Đinh văn Thảm, Phạm Quý Thích, Đoàn Thượng, Phạm Đình Trạc, Phạm Đình Trọng, Pham Công Trứ, Vũ văn Uyên... Đất này cũng đã phát bá nghiệp cho nhà Mạc, hiện nay có rất nhiều các nhân vật chủ chốt đang tại chức cũng sinh ra tại đây. Nam Sách tên phủ lộ về đời Trần , đời Lê và đời Nguyễn, gồm các huyện Thanh lâm, Chí Linh, Thanh Hà. Phủ Nam sách có sông bao quanh ( sông Lục Nam, Lục Đầu, Thái Bình, Kinh Thầy). Phủ nổi tiếng về văn học. Từ đời Lê về trước, có 165 người đỗ đại khoa, nhiều nhất các phủ trong toàn quốc, riêng huyện Thanh Lâm có 93 người là.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> huyện đỗ đật cao nhì nước sau huyện Đông Ngàn 130 người. Trên đây là ba miền quê mà người viết muốn cùng các bạn phân tích vì chúng có những đặc điểm phong thuỷ rất đặc trưng không vùng nào giống vùng nào . Từ xưa đến nay các phong thuỷ sư thực thụ đều phải bắt đầu từ đại cục - nhìn đại cục mà đoán định sự suy thịnh của một nước trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, nó gắn liền với sự hưng vong của đại đô, tiếp đó mới xét tới trung cục để định rõ sự thịnh vượng hay suy tàn của đại quận, châu phủ - biết mà dùng vào việc bổ trợ nguyên khí cho đế đô, cuối cùng mới xét đến tiểu cục – nhìn nó mà thấu hiểu vận mệnh của làng xóm, gia tộc và cá nhân con người, nói thì tách bạch như vậy nhưng luận thì chúng là một thực thể thống nhất. Cũng chính vì lý do như vậy mà khi luận long kết huyệt ta phải phân ra "tam tụ". "Đại tụ" là nơi có thể làm đại đô của một nước. "Trung tụ thích hợp cho đại quận châu phủ là các thành phố vệ tinh tiếp sức cho đại đô. "Tiểu tụ" dĩ nhiên là cho tạo làng đặt xóm hay dương cơ và âm phần. Nhìn tổng thể hình sông thế núi của Đất Việt Ngàn Năm cả đồng bằng sông Hồng là đại cục mà nguyên khí đại tụ tại Thăng Long, xứng đáng là đại đô nhiều đời ( tuy vậy cần có nhiều cải tạo mới phát huy hết sức mạnh vốn có của nó, bản thân Thăng Long cũng có rất nhiều phá cách), vận mệnh của quốc gia phần nhiều được quyết định bởi phong thuỷ của đại cục này. Xét tới ba tỉnh Hà Đông , Bắc Ninh và Hải Dương là trung cục mà nguyên khí "trung tụ" tại ba huyện Thanh trì, Đông ngàn và Thanh Lâm, ba nơi này tạo thành thế chân vạc tiền, tả, hữu hỗ trợ nguyên khí cho Thăng Long (Tất nhiên còn nhiều trung cục khác hỗ trợ). Để thấy được sự độc đáo của mỗi vùng chúng ta sẽ lần lượt tiến hành phân tích hình sông thế núi của ba khu vực này : Tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì toạ lạc trên một miền đất đồng bằng lưng dựa núi mặt hướng thuỷ là nơi long đình khí chỉ của một một long mạch tới từ Tây Tạng Trung Quốc. Long mạch - Chi trung kết cán- cỡ trung bình chạy theo hướng tây bắc đông nam ( kẹp bởi hai đại giang là Đà giang và Mã Giang) bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng chạy qua Vân Nam Trung Quốc hướng về phía nam qua Lào vào Việt Nam tại tỉnh Điện Biên, Lai châu với các dãy núi cao trên 2000m . Khi tiến vào Việt Nam long bắt đầu thoát xác từ già hoá trẻ- dấu hiệu của sinh khí tăng dần, đến khu vực hồ Hoà Bình Trung cán long này thúc yết rồi phân ra làm ba nhánh Tả chi tạo thành tay long quay ngược lên phía bắc đi theo Đà giang tạo thành dãy Ba vì hùng vĩ với ba ngọn núi là núi Ông, núi Bà (1120m) và núi Chẹ ( Tản Viên 1287m), ngọn giữa Tản Viên có hình thắt cổ bồng, trên toả ra như cái tán ( long mạch đại quí cách chỉ tiếc càn long khởi tổ đến khi kết huyệt lại chuyển từ hướng ly do vậy kiền long bị lửa đốt lúc phát thì lớn mà chẳng bền có lẽ vậy mà đất Đường Lâm sinh hai Vua hiển hách mà chỉ trụ được có một đời thật là tiếc quá). Hữu chi tạo thành tay hổ tiếp tục di chuyển về phía đông nam rồi tách ra làm 3 chi nhỏ phân cách bởi hai con sông là sông Bồi và sông Bưởi. Chi ngoài cùng còn rất hùng hậu đột khởi nên dãy núi Phu Nha Phong cao 1587 m kẹp bởi hai con sông là sông Mã và sông Bưởi. Chi giữa long đi trường viễn tạo thành dày Tam Điệp chạy ra sát biển, kẹp bởi hai con sông Bưởi và Bồi. Chi trong cùng chạy về khu vực chùa Hương nổi tiếng và kết thúc tai nơi giao hội của hai con sông Bồi và Đáy. Trung chi huyền vũ khí mạch trung tụ chạy về phía đông bắc "băng hồng" qua sông Đáy thoát hết sát khí hướng về Thăng Long Hà Nội và kết thúc tại huỵên Thanh Trì. Tại nơi kết thúc này hàng loạt các gò đống đột khởi như một hệ thống mà phía trước là một loạt các đầm nước tự nhiên trong và sâu nổi tiếng ( Phía giáp Thanh Trì với sông Hồng là rốn nước của thành phố) tạo thành một trong năm các thức kết huỵêt gọi là "Cứ thuỷ cục" với ngoại cục là con sông Hồng bao bọc. Tới đây chắc các bạn đã rõ vì sao nơi này không những đã phát vua ( vua là ai xin miễn bàn) mà còn chiếm tới 70% nhân tài của một vùng rộng lớn rồi..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Tỉnh Bắc Ninh tương tự như tỉnh lị Hà Đông toạ lạc trên một miền đất đồng bằng bằng phẳng có triều cao từ 20 đến 50 m so với mặt nước biển , lưng dựa núi mặt nhìn núi xa xa về phía đông là Lục Đầu giang ( cách cục đặc biệt). Tỉnh là nơi kết thúc của một long mạch đại cán phát nguyên từ Tây Tạng rẽ nhánh về phía đông ( Tay long của đại cục Thăng Long) đi qua Trung Quốc, một chi long của đại cán long này rẽ nhánh xuống phía nam tạo thành cánh cung Ngân Sơn cao trên 1800 m chạy xuống miền bắc của nước Việt qua Cao Bằng, Bắc Cạn chi long này trẻ hoá. Trên đường đi của cánh cung Ngân Sơn một chi long nhỏ tiếp tục tách ra chạy theo hướng tây nam tạo ra núi Phia Booc cao 1578 m đi qua Tuyên Quang ( kẹp giữa hai song Thao và Cầu) chuyển hướng đông nam đột khởi lên dãy Tam Đảo có 3 đỉnh nhô lên liền nhau gần Thác Bạc, như ba hòn đảo : Phù Nghĩa, Thạch Bàn và Thiên Thị cao tương ứng 1250m, 1420m, 1591m . Dãy Tam Đảo tiếp tục di chuyển theo hướng đông nam khởi núi Sóc Sơn băng qua sông Cà Lồ, trung tụ tai huyện Đông Ngàn, dư khí còn tiếp tục di chuyển đột khởi một loạt các dãy núi chay theo hướng bắc nam là Tiên Du, Vũ Ninh và Thiên Thai ngăn lấp lấy minh đường trước mặt. Thế của long gia thì thật là kém xa so với cuộc đất Hà Đông tuy vậy nó lại quí ở chỗ có nhiều các chi long khác chầu về như cánh cung Sông Gâm, cánh cung Bắc Sơn, dẫy Cai Kinh, dẫy Mẫu Sơn và cánh cung Đông Triều, nên cuối cùng thì sinh khí chầu tụ xem ra lại nhỉnh hơn so với thế đất của tỉnh Hà Đông. Xét riêng huyện Đông Ngàn là một vùng đồng bằng phì nhiêu lưng dựa vào dãy Tam Đảo có hình "thương khố", dãy Sóc Sơn và vùng Cổ Loa, phía trước hướng về Lục Đầu giang lại bị ngăn lấp bởi ba dãy núi Tiên Sơn, Vũ Ninh và Thiên Thai chính là đại quí cách kết huyệt mà không cần có nước trong phong thuỷ gọi là "Can pha cục". Người viết xin trích một đoạn trong sách cổ " Phía trước địa huỵêt không có thuỷ lưu, không tìm thấy thuỷ, núi non hai bên tiền, tả, hữu chắn ngang ngăn lấp minh đường là đại quí địa nếu hành long có hình thương khố". Đến đây thì chắc ai cũng hiểu tại sao Đông Ngàn lại là huyện có nhiều người đõ đạt cao đến như vậy, thêm nữa vì hành long có hình "thương khố' nên đây cũng là huyện giầu nhất miền bắc nếu không muốn nói là cả nước có nhiều nhân vật sinh ra tại đây có tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đồng Việt Nam. Người viết cũng đã có dịp ghé thăm Đền Đô thờ tám vị vua nhà Lý ( vua thứ chín được thờ tại nơi khác) được nghe câu truyện dòng họ Lý được ngôi đất cửu long tranh châu ( một cụ già còn thuật lại xưa kia khi cụ còn bé khi trời mua to quả là có nhiều dòng nước chầu về một khu đất) mà phát ra chín đời vua Lý lưu danh sử sách , ngẫm thì cũng không phải là vô lý vì trung cục đại quí cách còn thiếu thuỷ của tiểu cục quí cách nữa thôi là đủ cho đế nghiệp. Tỉnh Hải Dương toạ lạc trên vùng đất trung tâm đồng bằng bắc bộ xung quanh được bao bọc bởi các con sông chính : S. Thái Bình, Kinh Thầy ở phía đông, S. Lục Nam, Đuống ở phía bắc, S. Hồng ở phía tây và S. Luộc ở phía đông, ngoài ra trong địa phận tỉnh còn có các sông như : S. Rang, S. Kinh Môn, S. Sặt, S. Hương, S. Đá Vách, S. Cẩm Giàng, S. Cửa An, S. Tứ Kỳ, S. Mía… chảy qua mà sông nào cũng uốn lượn hữu tình. Tỉnh có hai trung tụ là Nam Sách và Bình Giang ( sẽ đề cập sau) cách thức kết của hai trung tụ này đều lấy thuỷ là trọng Xét về sơn, địa mạch của Hải Dương là sự chầu tụ và giao thoa của của 4 địa mạch lớn từ phía tây bắc, bắc, đông và đông bắc đổ dồn về phía Lục Đầu Giang Xét về thuỷ, Lục Đầu Giang là cách cục thuỷ vô cùng đặc biệt mang lại vượng khí lớn cho cả vùng đất. Ta sẽ đi sâu một chút để phân tích đặc điểm này qua quái tượng 1. Lục đầu mang tượng âm vì lục tượng quái là âm, tụ tại miền bắc là nơi âm sinh.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> đến cực điểm kết hợp với Cửu Long Giang ( Cửu Vĩ Long Giang) mang tượng dương vì cửu là dương, tản ra ở miền nam nơi dương sinh đến cực điểm tạo thành thế cửu lục xung hoà âm dương hợp khắc của nước Việt ( tượng này nói lên rất nhiều điều …) 2. Âm lục, dương cửu, đầu dương , đuôi âm nên thấy rõ nguyên lý của vũ trụ trong âm có dương , trong dương có âm. 3. Lục Đầu Giang nếu nhìn qua thì thực chất chỉ có 4 dòng thuỷ lai chầu về là : S. Cầu, S. Thương, S. Lục Nam và S. Đuống ( S. Thiên Đức) còn hai sông là S. Thái Bình và S. Kinh Thầy là hai dòng thuỷ khứ. Như vậy sao gọi là Lục Đầu được ? Tuy vậy trong lịch sử có ba lần triều cường qua cửa Thái Bình và Bạch Đằng làm đổi dòng của hai con sông này tạo ra những cuộn xoáy lớn tại Lục Đầu ( do 6 dòng nước đổ về) Lục Đầu trở về đúng nghĩa của nó là địa tượng sau đó xuất hiện nhân tài xuất chúng là ba vị anh hùng dân tộc gắn liền với hệ thống này là Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn . Trải qua hàng nghìn năm bồi đắp nay cửa sông đã lùi ra xa hiện tượng lục đầu chầu tụ có lẽ không xảy ra nữa. Huyện Nam Sách là trung tụ thứ nhất của Hải Dương được bao bọc bởi hai con sông Thái Bình và Kinh Thầy, đây là cách thức kết mà phong thuỷ gọi là "hoành thuỷ cục" ( thuỷ thành uốn lượn bao bọc). Phần lớn vượng khí của Lục Đầu dồn tụ về khu vưc này tạo ra hàng nghìn gò đống lớn nhỏ đột khởi như một hệ thống mà Thanh Lâm là trung tâm, điều này giải thích tại sao huyện Nam Sách thị trấn Thanh Lâm từ xưa đến nay nhân tài sinh ra mãi không hết. 2- Một dòng họ vượng phát bởi hai cuộc đất một âm (mộ Tổ) một dương (nhà thờ họ) như một cặp "thư hùng". Ai qua Hải Dương nhiều lần chắc không thể không biết câu chuyện về dòng họ Vũ nổi tiếng khoa bảng trong các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam 1200 năm qua. Là một người họ Vũ tác giả không muốn đi quá sâu phân tích phong thuỷ của hai cuộc đất này mà chỉ muốn nhắc đến nó như là một chứng nghiệm mà thôi. Ngược dòng lịch sử khoảng 1200 năm về trước nước Việt khi đó đang bị đô hộ bởi nhà Đường Gia phả của dòng họ còn chép lại : Trải bao đời thanh bạch có nhau Cụ Vũ Huy ở bên tàu Thuộc tỉnh Phúc Kiến - Thường Châu là nhà Vốn nho gia lại là nhà địa lý Sang Việt Nam chủ ý tầm long Đi đến Nam Sách tỉnh Đông Thấy đất bách nhạn bay trông hồi sào Đem mộ tổ táng vào chính huyệt Đất công khanh phát tiếp muôn đời ……. Một miếng đất như chìm như nổi Trăm nhạn bay tụ hội hồi sào Giữa đồng gò đống nổi cao Địa danh Nam Sách huyệt giao toàn tài Qua ngày một ngày hai ấn định Đưa tổ về chính huyệt tang treo Rằng như sách dạy mang theo Đất này mãi mãi phát nhiều công khanh.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> 3- Những Làng khoa bảng nổi tiếng Việt Nam : Xin được trích dẫn một số bài viết của các tác giả khác để làm dẫn chứng : a- Thôn Linh khê, Xã Thanh Quang huyện Nam Sách Thật khó có thể tìm được một làng quê có vẻn vẹn 1075 nhân khẩu, với 300 hộ gia đình, mà trong đó có đến 150 cử nhân các ngành, 7 thạc sĩ, hơn 80 giáo viên các cấp, 50 sinh viên đại học, 1 tiến sĩ tương lai đang làm luận án tại Nhật Bản. Đó là thôn Linh Khê, xã Thanh Quang (Nam Sách - Hải Dương). Linh Khê, một làng quê bé nhỏ nằm nép mình bên dòng sông Kinh Thầy, nơi cách đây mấy chục nǎm đã ghi nhận sự trưởng thành của thầnđồng thơ Trần Đǎng Khoa; và cách xa hơn 7 thế kỷ là sự xuất hiện lừng lẫy củaLưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Cạnh tấm bia cổ của di tích, ông Đỗ Minh Hoàng, một nhà giáo về hưu cho biết, từ xa xưa dân làng Linh Khê đã có ước muốn được đem cái chữ, kiến thức của đạo làm người dạy bảo học sinh. Chính vì thế, hết thế hệ này nối tiếp thế hệ kia mà đến nay trong cả thôn đã có tổng cộng 85 người làm nghề dạy học ở mọi cấp, mọi nơi. Lướt nhanh ngón tay, nhà giáo Đỗ Minh Hoàng đã bấm được sơ sơ gần chục gia đình có tới ba đời làm nghề dạy hoc như gia đình cụ Lương Quang Diễn, những gia đình có từ hai giáo viên trở lên thì không thể nhớ hết.... Cá biệt có gia đình cụ Đỗ Vǎn Dần có tổng cộng 10 người làm nhà giáo. Nǎm nay, cả thôn có hơn mười người đi thithì có tới 7 em đỗ đại học với số điểm cao vào các trường “rắn” như: ĐH Bách Khoa, ĐH Xây Dựng, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền,... Làng Linh Khê đã chứng kiến rất nhiều câu chuyện cảm động đến chảy nước mắt về các gia đình nuôi con học đại học. Nào thì nhà bán ruộng, bán đất; nào thì nhà bố mẹ làm lụng vất vả, bữa cơm chỉ có quả cà bát canh để còn dành dụm từng đồng, tháng tháng gửi cho các con; có nhà thì ông bố sẵn sàng đi đào mộ thuê vào dịp cuối nǎm cũngchỉ với một mục đích duy nhất là để kiếm tiền cho con ǎn học. Khó khǎn là vậy, nhưng dân làng Linh Khê cũng vì thế mà ngày càng toả sáng hơn với thế hệ trẻ hôm nay. Những tấm bằng kĩ sư, cử nhân mà con em quê hương đạt được ngày một nhiều. b- Bắc Cổ Am nam Hành Thiện Quê hương Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Quê hương Vương Quốc Chính, thủ lĩnh Tín nghĩa hội 1879 chống Tây cứu nước. Tôi cùng kiến trúc sư Phạm Vũ Hội về Cổ Am, theo con đường mà có lẽ ngày xưa Trạng Trình đã đi từ kinh đô về quê để ở ẩn, khi ông chán ngấy cái triều đình nhà Mạc suy đốn. "Thôi thôi mặc lũ thằng hề/Gió mây ta lại tìm về gió mây" (Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - NBK). Phạm Vũ Hội là một người đa tài. Anh thiết kế kiến trúc, làm thơ, soạn nhạc và nặn tượng. Anh nặn tượng, danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm và nghiên cứu về Trạng Trình với lòng sùng kính một thiên tài. Phạm Vũ Hội còn là tác giả của dự án tôn tạo khu di tích Trạng Trình thuộc vực Cổ Am - Lý Học..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Chúng tôi đến bến phà Khuể. Con sông Văn Úc sóng cuồn cuộn đổ ra biển Đông. Lòng sông rộng, nước vàng đục màu phù sa diễu quanh thân phà - Thuỷ sắc ngưng hoàng lục nhiễu hàng (Quá thao Giang – NBK). Cứ theo thơ vãn của Trạng Trình mà suy thì có lẽ khi qua sông này cũng đã cảm khái nhớ tới Xích xích tuyệt xướng của Tô Đông Pha với câu mở đầu: "Đại Giang Động Thứ, lãng đào tận, thiến cổ phong lưu nhân vật..."- Sông lớn chảy về Đông, cuốn trôi hào kiệt nghìn đời...". Bên kia sông Vãn Úc là huyện Tiên Lãng, có làng An Tử Hạ, quê vị khoa bảng Nhữ Văn Lan, ông ngoại Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là vị tố của họ Nhữ, đỗ tiến sĩ năm 1463, đời Lê, làm đến chức Thượng thư bộ Hộ; sau được thờ ở đình miếu làng An Tử Hạ. Họ Nhữ còn có nhiều người đỗ đại khoa. Ngôi đền An Tử Hạ thờ Nhữ Văn Lan đã bị giặc Pháp đốt phá, nhưng tượng và biển tiến sĩ của ông vẫn còn. Một người con của Nguyễn Bỉnh Khiêm sang quê ngoại lập nghiệp, thành một chi họ Nguyễn lớn ở Tiên Lãng. Ở đây còn có khu Mả Nghè, nơi an táng vợ chồng Nhữ Văn Lan và con gái Nhữ Thị Thục (mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm). Qua thị trấn Tiên Lãng, đến bến Hàn, nhưng không phải đi đò như ngày xưa mà có cây cầu phao bắc qua sông. Sông Hàn còn gọi là Tuyết Giang. Xưa, bên sông này có quán Trung Tân, nơi Trạng Trình ngồi ngâm vịnh, viết những bài Ngụ hứng và nghiền ngẫm thế cuộc, thiên cơ, quốc vận. Chợt nhớ câu thơ của Tuyết Giang phu tử (NBK): "...Phong ổn phàm quy hàn phố nguyệt/Thiên tình long hiện viễn sõn vân..." (Gió lặng buồm xuôi về bến lạnh/Trời mây rồng hiện đỉnh non xa. - Trung Tân quán ngụ hứng). Qua sông Hàn, chúng tôi đi dọc theo đường số 354 đến địa phận Lý Học - Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, vùng đất nổi danh. Phạm Vũ Hội bảo tôi: - Cụ Trạng tiên lượng việc vị lai như thần. Cái câu ''Bao giờ Tiên Lãng chia đôi, sông Hàn nối lại thì tôi lại về", đến bây giờ mới rõ. Cái năm cầu phao sông Hàn được bắc nối hai huyện Tiên Lãng - Vĩnh Bảo; con sông đào cổ xưa chảy ngang qua Tiên Lãng bị bỏ lấp từ lâu được khơi lại; thì ngay sau đó rộ lên hội thảo, sưu tầm khảo cứu về danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rồi văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được in ra, cả ''Sấm Ký Trạng Trình'' nữa. Thiên tài của Người đã được công nhận và tôn vinh. Thế là Người đã về đúng với ngôi vị của mình. Một thời Sấm Ký bị coi là sách mê tín dị đoan. Bây giờ dùng Lý học mà suy thì có nhiều việc đã xảy ra rất linh nghiệm. Phạm Vũ Hội giao thiệp với hoạ sĩ Giang Phiếm, là cháu đời thứ mười sáu của Trạng Trình đã đổi thành họ Giang. Một thời cả dòng tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm phải thay tên đổi họ, ly tán thập phương. Cổ Am nổi tiếng vì vùng đất này sinh nhiều bậc tài danh ở mọi thời. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người mà khi ra đời, theo giai thoại, quan chiêm bốc chuyên theo dõi thiên tượng của triều đình Bắc phương đã dâng biểu tấu: ''Có ngôi sao lạ to bằng cái đấu xuất hiện ở phương Nam, ứng với một chân nhân đã ra đời''. Sau này, Nguyễn Bỉnh Khiêm được phong tước Trình Tuyền hầu (nên mới gọi là Trạng Trình), Chu Sán, danh sĩ đời nhà Minh nhận xét: ''An Nam Lý học hữu Trình Tuyền'' - Nước Nam có Trình Tuyền hầu thông hiểu Lý số. Có lẽ vì thế mà đất Trung Am, nơi có Đền Trạng bây giờ được gọi là Lý học. Cổ Am trước khi Trạng Trình xuất thế, có nhiều địa danh mang những tên nôm na để quy ước, chỉ dùng cho mỗi việc định vị địa điểm, như ở nhiều các làng quê khác. Vậy mà khi Trạng Trình về quê ở ẩn thì xuất hiện những tên văn chương: quán Trung Tân, Am Bạch Vân, sông Tuyết Giang, gò Bút Kình Thiên, Nghiên Long Đồ, bãi Lý Ngý Quần Ngọc, cầu Trường Xuân... Về cây cầu Trường Xuân, Phạm Vũ Hội kể: Trước khi phong Trạng nguyên cho thí sinh đỗ đầu khoa thi Đình, vua Tự Đức sát hạch thêm; Ngài hỏi về cầu Trường Xuân. Thí sinh này quê đất Vĩnh Lại, Đông Hải, kinh sử thuộc làu làu, nhưng lại không biết gì về cầu Trường Xuân. Vua hỏi thí sinh đỗ thứ hai quê ở miền Trung. Người này thưa rằng cây cầu đá ấy ở Cổ Am do Trạng Trình cho xây cất để dân đi làm đồng áng đỡ vất vả, trên thân cầu có chữ ''Thường Xuân Kiều'' do chính tay Trạng viết. Sĩ tử đỗ đệ nhất khoa bị giáng xuống thứ ba vì không.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> thâm hiểu về bản quán của mình và về Trạng Trình, phải nhường lại danh khôi nguyên cho anh chàng miền Trung nọ. Vua không vui, cho rằng làm quan mà không thấu hiểu quê hương đất nước thì trị dân sao được. (Phiến đá khắc chữ 'Trường Xuân Kiều'' nay vẫn còn). Phạm Vũ Hội nói tiếp: - Cả vùng đất này xưa là Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương. Thập bát trang Am, có mười tám trang mang tên Am. Thượng Am, Hạ Am, Trung Am, Đông Am, Nam Am, Lạng Am, Tiền Am, Liên Am, Ngãi Am, Hội Am v.v... Trạng Trình về quê ở ẩn, xây quán Trung Tân ở bến Trung Lệ bên bờ Tuyết Giang, dựng Am Bạch Vân. Người làm hàng nghìn bài thơ Hán, Nôm và Bạch Vân thí tập, Trình Quốc công thi tập... Người còn chủ trương xây chùa tôn thờ các danh nhân; bắc cầu giúp dân. Cổ Am khi ấy rất nghèo. Trạng mở trường dạy học. Người đọc sách thánh hiền đều biết: Kiệt, Trụ ác vương vô đạo ngược đãi trung thần, chí sĩ; chà đạp lễ nghĩa khiến trăm họ ngu hèn để dễ bề cai trị, muôn đời sau còn oán hận. Nghiêu, Thuấn khuyến nông, huấn học làm cho thiên hạ được sống trong thái bình thịnh trị, tiếng thơm ngàn nãm. Nhân tài chẳng tự nhiên mà có như hoa dại bên đường. Để khuyến học, Trạng Trình cho dựng một trụ đá cao trên đỉnh cái gò đầu làng, đặt tên là Bút Kình Thiên. Chúng tôi đứng lặng ngắm gò đất có những cây sà cừ, bạch đàn đứng thẳng tắp với dáng những ''quản bút chống trời". Trụ đá nay không còn nữa nhưng vẫn còn ngôi miếu cổ tôn nghiêm. Những cái tên ở Cổ Am thoạt nghe thấy có vẻ chữ nghĩa quá; không nôm na cụ thể như những vùng quê khác để dân quê dễ nhớ. Nhưng ngẫm ra Trạng đâu phải là người khoe chữ. Cổ Am đáng được đặt những tên như thế lắm vì đất này có không ít các bậc khoa bảng đỗ đạt cao ở mọi thời. Trần Lương Bật đỗ tiến sĩ năm 1664, đời Hậu Lê, làm đến chức Hữu thị lang bộ Binh, khi mất còn được truy phong chức Tả thị lang. Trần Công Hân đỗ tiến sĩ năm 1733, thời Hậu Lê; giữ chức Đãi chế Viện Hàn lâm; đi dẹp giặc bị tử trận, được truy phong Đông Các Đại học sĩ. Lê Huy Thái đỗ Phó bảng năm 1846, đời nhà Nguyễn.. . Sau này Cổ Am còn có hai nhà văn nổi tiếng trên vãn đàn Việt Nam một thời, đó là hai anh em Trần Tiêu, Trần Khánh Dư (tức Khái Hưng trong Tự Lực văn đoàn). Chùa Đông A ở đây do Trần Mỹ, phụ thân của hai nhà văn bỏ công tạo dựng. Theo các thần phả, thần tích và Từ đĩển Bách khoa Địa danh Hải Phòng thì, cùng với những làng xã thuộc Vĩnh Bảo, Cổ Am thờ nhiều vị thần làm thành hoàng vì có công chống giặc ngoại xâm trong các cuộc bình Chiêm, chinh Man, cự Nam Hán, phá Tống, diệt Nguyên - Mông. Dân Cổ Am dù nghèo nhưng cũng lập đền miếu khang trang để tôn thờ những người bảo hộ dân, những vị quan thương dân như con. Đình, miếu Cổ Am thờ bốn vị thành hoàng trong đó có Không Hoàng đại vương, một vị quan đời Lý, bỏ của riêng phát chẩn cho dân vào năm mất mùa. Nam Hải đại vương tức quan Thái uý Tô Hiến Thành đời Lý, đi tuần qua làng đã ban ơn cho dân chúng. Cổ Am có chùa Mét là công trình kiến trúc đẹp do Trần Khắc Trang chủ xưởng xây cất Hai nhà văn Trần Tiêu và Khái Hýng đều là di duệ của Trần Khắc Trang. Cổ Am có những dòng họ nổi tiếng. Ngoài họ Nguyễn với Trạng Trình Lưỡng quốc anh hùng không đối thủ, như các môn đệ tôn vinh ông sau này; còn có họ Trần, một họ lớn vốn ở Tức Mạc (Nam Hà) di đến đây khai hoang lập ấp. Theo gia phả họ Trần ở Cổ Am, một vọng tộc có nhiều nhà khoa bảng, thì thủy tổ họ Trần là một vị tướng chỉ huy cánh quân phía Bắc trong trận Hàm Tử nổi tiếng năm 1407, bị trọng thương, được đưa về Cổ Am dưỡng thương rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây. Cổ Am vào thời nào cũng có hào kiệt. Vương Quốc Chính, đời nhà Nguyễn năm 1879 lập Tín nghĩa Hội, chủ trương bình Tây phục quốc, từng đem nghĩa quân đến tận thành Hà Nội tiến công tập kích quân Pháp. Đầu năm 1930, Trần Quang Diệu, Đào Vãn Thê khởi nghĩa chống Pháp, giết tri phủ, đánh chiếm huyện lỵ, khí thế ngùn ngụt. Robin, thống sứ Bắc Kỳ đã cho máy bay ném xuống Cổ Am đến nãm mươi bảy.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> quả bom (một con số đáng kinh hoàng vào thời đó), rồi dàn quân càn quét, đốt phá; nhưng đã không khuất phục được vùng đất phát tích những bậc kiệt hiệt song toàn văn võ. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nếu ở quê ngoại của Trạng Trình nổi danh "Tiên Lãng chống càn", thì Vĩnh Bảo - Cổ Am quê nội của Người cũng lừng lẫy với những chiến công diệt giặc trên đường số 10. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi không thể thống kê những chiến tích, những hy sinh của người Cổ Am trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc sau này bằng những con số đáng thán phục được viết bởi những bàn tay chuyên cửi canh dệt vải, dệt chiếu, trồng trọt và làm sơn mài... Nghề dệt chiếu ở đây đã có từ lâu đời và rất phát đạt. Cho dù chiếu ni-lông, chiếu tre, chiếu gỗ đã từng được coi là thời thượng, thì rồi người ta vẫn cứ nằm chiếu gon dệt cói. Biết đâu cái cô gái bán chiếu gon xưa ở Tây Hồ đã làm Ức Trai tiên sinh cảm động sinh tình ở tuổi bảy mươi lại có dây mơ rễ má với đất Cổ Am này? Tôi đã nhìn thấy cảnh những cô gái dệt chiếu. Động tác luồn cói, giật khung, rồi đặt khuôn hoa phết màu; cứ thoăn thoắt nhịp nhàng, mạnh mẽ mà uyển chuyển; bền bỉ thường nhật, nên thân hình các cô rất thẩm mỹ. Khi một mẻ chiếu hoa được đồng loạt phơi dưới nắng, màu sắc rực rỡ bừng lên như ngày hội. Kiến trúc sư Phạm Vũ Hội nói với tôi về cái dự án tâm huyết của anh: - Tôi muốn tu tạo những di tích Trạng Trình ở vùng Cổ Am và bên quê ngoại của Người như nó đã từng có theo cảnh sắc của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, và phải giữ vững "chân long'' với những nguyên tắc về Phong thủy. Nên đầu tư một cách tinh tế vào khu Đền Trạng. Thế nhưng người ta đã mở ra một quy hoạch bề rộng, dùng hệ thống giao thông bàn cờ; lại thêm những cột đèn cao áp hình tàu chuối. Nhiều cây cối bị chặt quang làm mất đi vẻ u tịch. Lại còn đào một cái hồ rất lớn, xây kè bờ, lát gạch lá dừa lối đi quanh hồ như một công viên thành phố, theo xu hướng ''đô thị hoá'' hiện nay. Có lẽ lại phải chờ cho đến khi người ta hiểu ra được rằng phải giữ lấy cái tinh thần đạm bạc mà thanh cao của Tuyết Giang phu tử. * Chúng tôi đi qua cánh đồng trồng thuốc lào. Những cây thuốc thân thấp mập mạp lá to đang kỳ bánh tẻ, mùi thuốc lá thoảng lẫn trong vị ngọt ngào của ngô non và đòng đòng quanh đấy, như một sự tẩm ướp tinh tế. Tôi sực nhớ: Cổ Am thuộc xứ thuốc lào. Ai cũng biết câu ca dao: ''Nhớ ai như nhớ thuốc lào/ Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên". Một hơi thuốc rút đến kiệt lửa đóm, rồi phả khói mù mịt làm cảnh vật trước mắt chập chờn ẩn hiện như thực như ảo: ''Thoáng bóng ai về trong khói thuốc/Mắt cười lúng liếng lá răm tươi...” Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và tập Đồng Khánh dư địa chí lược gọi cây thuốc lào là Tương tư thảo. ''Tương tư thảo'' - Cổ Am, vùng đất văn nhân hào kiệt có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - bậc kỳ tài, và có một loài cây kỳ thú mang cái tên gợi thương nhớ như vậy. c- Nam Hành Thiện Từ huyện lỵ (mới) huyện Xuân Trường, Nam Định đi qua giáo phận Bùi Chu, mất khoảng mười phút xe ô tô là đến làng Hành Thiện. Hành Thiện là ngôi làng cổ thuộc hành lang phủ Thiên Trường, cái tên Hành Thiện có từ đời Lê Trung Hưng thứ nhất, năm 1454. Hành Thiện, tạm giải nghĩa là nơi chỉ làm những điều lành, điều thiện. Bản đồ làng Hành Thiện mang hình một con cá chép: đầu hướng Nam, đuôi hướng Bắc, bụng hướng Tây, lưng hướng Đông. Nơi đầu cá có miếu thờ thần Tam giáp, người có công đầu tạo lập làng. Nơi bụng cá là chợ Hành Thiện, một cái chợ quê rất đông đúc. Khu dân cư ở từ mang cá đến rốn cá, được chia thành 14 khúc, mỗi khúc cách nhau 60 mét. Chiều sâu của khúc dài nhất là 600 mét, khúc ngắn nhất là 200 mét. Mỗi khúc.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> gọi là một dong. Dong dài được chia làm hai xóm, dong ngắn là một xóm. Từ rốn cá đến đuôi cá là ưng điền (ruộng gieo mạ) và nghĩa trang nhân dân của làng. Đuôi và vây sau của "con cá" có ngôi chùa Keo, xây dựng năm 1588. Theo xã chí của làng thì Hành Thiện xưa là vườn kim quất của vua Trần. Chạy dọc từ đầu tới đuôi Cá, sâu chuỗi 14 nãm là một con đường trục của làng lát gạch nghiêng. Đã hàng trăm năm con đường này hình thành nên hai dãy nhà hai bên như một đường phố, có các cửa hàng cửa hiệu buôn bán sầm uất. Theo cách nhìn của các nhà tử vi thì hình dáng của làng Hành Thiện ở thế cá hoá rồng. Phía ''bụng cá'' giáp làng Ngọc Tiên có hình giống một nghiên mực; phía "lưng cá'' giáp làng Hương Phúc có mảnh đất giống cái ngòi bút. Đầu cá Thành Hoàng ngự, làng sẽ giữ được bản sắc thuần phong. Đuôi cá Nguyễn Minh Không vừa là Thiền sư vừa là thi nhân ngự. Vậy luận theo Phong Thủy và Kinh Dịch thì Hành Thiện là đất phát tiết cho cả chính khách và thi nhân. Từ xa xưa vùng này đã có câu ngạn ngữ ''Bắc Cổ Am, Nam Hành Thiện'' ngụ ý: làng Cổ Am thuộc tỉnh Hải Dương xứ Đông xưa (nay là Vĩnh Bảo - Hải Phòng) cùng với làng. Hành Thiện của Nam Định có nhiều người học hành đỗ đạt cao. Tại làng Hành Thiện còn có câu ''Trai học hành, gái canh cửi'' để nói rằng cái đáng trọng nhất của con trai Hành Thiện là chuyện đèn sách; cái đáng yêu nhất của con gái Hành Thiện là chuyện kéo tơ, dệt vải. Con gái canh cửi thường trắng nõn nà, khéo tay, chăm chỉ. Đọc thơ Sóng Hồng ta cũng đủ thấy cái không khí của Hành Thiện: Trăng xuống làm gương em chải tóc Làm đèn anh học suốt đêm dài Chẳng hiểu các thầy địa lý chủ quan và khách quan đến đâu nhưng bao đời nay không ai về thăm Hành Thiện lại không thừa nhận: Hành Thiện là một làng địa linh nhân kiệt, khoa danh vang lừng khắp nước. Thời Nho học, làng Hành Thiện có 419 người đỗ đạt. Trong đó: 7 đại khoa (3 tiến sĩ, 4 phó bảng), 97 cử nhân, 315 tú tài. Người khai khoa cho làng là cụ Nguyễn Thiện Sĩ sinh năm 1501. Năm 1522 đỗ cử nhân. Người có bằng cấp cao nhất trong làng là cụ Đặng Xuân Bảng sinh năm 1828; năm 1856 đỗ Tam giáp tiến sĩ đệ nhất danh. Làng có 4 người làm quan Thượng thư; 4 người làm quan Tuần phủ; 4 người làm quan Tổng đốc; 23 người làm quan giúp việc triều đình; 69 người làm quan Tri phủ, Tri huyện; còn lai số người đỗ đạt trên đi làm thầy giáo, thầy thuốc ở khắp nơi. Thời học chữ Pháp, làng có 51 người đỗ đạt từ tú tài đến cử nhân, trong đó có Đặng Xuân Khu tốt nghiệp cao đẳng Thương mại Đông Dương. Thời hiện đại, làng Hành Thiện vẫn là ngôi làng có nhiều người học hành giỏi giang thi cử đỗ đạt nhiều nhất so với mọi ngôi làng trong tỉnh Nam Định. Cụ thể là: 88 người được Nhà nước phong hàm giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ và trên 600 người có bằng cử nhân. Trong khi đó dân số của làng chỉ có trên 6000 người. Vậy nên thời hiện đại vẫn có câu ngạn ngữ ''Đậu phụ Thủy Nhai, tú tài Hành Thiện''. Làng Thủy Nhai, cách Hành Thiện không xa là một làng thiên chúa giáo rất có tài làm đậu phụ. Còn Hành Thiện, dường như gia đình nào cũng có người đỗ Tú tài. Làng có 4 tướng lĩnh quân đội là Đặng Quốc Bảo, Đặng Kinh, Đặng Quân Thụy, Nguyễn Sĩ Quốc; 2 Anh hùng Lực lượng vũ trang là Phạm Gia Triệu, Nguyễn Đăng Kính. Hàm Bộ trưởng có Đặng Hồi Xuân, Đặng Vũ Chư. Tương hàm giáo sư có: Đặng Vũ Khiêu, Đặng Xuân Kỳ, Đặng Vũ Minh. Nhà văn Đặng Vũ Khiêu là Anh hùng Lao động. d- LàngTiến Sĩ. Người dân vùng đất Hải Dương có câu: "Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm". Đó là câu ca ca ngợi làng Đọc (làng Quan Tiền) là làng giàu nhất vùng, làng.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Nhữ nhiều thóc nhất vùng, còn làng Chằm (tên cúng cơm của làng Mộ Trạch) có nhiều người học giỏi đỗ cao nhất vùng còn được gọi là Làng tiến sĩ xứ Đông. Làng Mộ Trạch thuộc huyện Đường An, tỉnh Hải Dương nay là huyện Bình Giang - Hải Dương. Đây là một làng quê bình dị như bao làng quê khác vùng đồng bằng Bắc Bộ, lấy nghề nông làm trọng, ngoài ra còn có các nghề phụ như nghề mộc, dệt vải. Nhưng ở đây ta có thể tìm thấy một sự mẫu mực về tính hiếu học mà ít làng quê Việt Nam nào có được. Tiếng thơm của làng không những đi vào dân gian mà còn được chính các bậc Đế Vương thừa nhận. Dực Anh Tôn Hoàng đế (Vua Tự Đức) từng phải thốt lên rằng: "Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ" (một làng Mộ Trạch tài bằng nửa cả nước). Không phải ngẫu nhiên mà vua Tự Đức vốn thông minh hay chữ lại phải trầm trồ khen ngợi như vậy. Khởi nguồn để vua Tự Đức phải nhả "lời vàng" ấy chính là vào khoa thi năm Bính Thân năm 1656, Triều vua Lê Thần Tôn, cả nước chỉ chọn được 6 vị đỗ tiến sĩ thì làng Mộ Trạch đã chiếm 3 vị mà tuổi chỉ từ 21 đến 23 tuổi. Đó là Vũ Trác Lạc (21), Vũ Đăng Long (23) và Vũ Công Lượng (22). Kết quả được công bố, thấy làng Mộ Trạch đỗ nhiều, triều đình có sự ngờ vực nên bí mật rà xét lại việc thi cử. Triều đình chọn một quan giám khảo ra đề rất khó. Các thí sinh mỗi người phải ngồi trong một hố sâu làm bài thi. Trên mỗi hố úp một lồng để ngăn cách hoàn toàn giữa các thí sinh và quan giám khảo ngồi trên một lều cao quan sát. Chung cuộc các "sĩ tử" làng Mộ Trạch vẫn chiếm phân nửa số người đỗ, khiến Vua hết sức hài lòng, khâm phục và tin dùng. Có nhiều điều ngạc nhiên về bảng vàng khoa cử của làng Mộ Trạch, bởi vì làng Mộ Trạch chính là làng văn hiến nổi tiếng, là nơi "chôn nhau cắt rốn" của Trạng Cờ Vũ Huyến (người chỉ với 10 nước cờ giúp Vua thắng Xứ thần phương Bắc bằng mẹo đánh cờ giữa trưa nắng để chỉ nước đi cho Vua qua kẽ tia nắng của chiếc lọng), của Trạng Toán Vũ Hữu (người tính toán xây thành Thăng Long không thừa không thiếu một cân nguyên vật liệu và cũng là tác giả của cuốn sách "Lập thành toán pháp"), Trạng Vật Vũ Phong, Trạng Chạy Vũ Cương Trực và Trạng Chữ Lê Nai (đỗ Trạng Nguyên). Mộ Trạch cũng là quê hương của 36 tiến sĩ đại khoa (kể từ thời nhà Trần đến thế kỷ 18). Mở đầu trong "Bảng vàng tiến sĩ" của làng là hai anh em ruột Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi, cùng đỗ thái học sinh năm giáp thìn (1504) triều vua Trần Anh Tôn. Cha của hai ông chính là Vũ Nạp - phó tướng của Trần Quốc Bảo. Với chiến công đánh tan quân Nguyên trong trận Bạch Đằng, bắt sống tướng Ô Mã Nhi, Vũ Nạp được Vua ban bài vị và phong "Đồng giang hầu tả tướng quân". Có thể khẳng định trải suốt hơn 5 thế kỷ từ triều Trần qua triều Lê, Mạc đến thời Vua Lê, Chúa Trịnh, luôn luôn có các bậc anh tài làng Mộ Trạch mà trong đó đa phần là ruột thịt dòng họ Vũ, từng ra vào giáp mặt nhau như "cơm bữa" tại triều đình. Xin được đơn cử trường hợp cụ Vũ Quốc Sĩ, cụ là người có 5 con trai thì cả 5 người cùng làm quan to trong triều đình, trong đó có 3 người đỗ tiến sĩ. Trường hợp khác là Cụ Vũ Duy Chí - người đã làm quan tới chức Tể tướng qua hai triều Vua Lê. Cũng phải kể đến trường hợp 3 đời con trưởng cùng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Vua Lê Thánh Tôn, đó là Vũ Bạt Tụy (ông), Vũ Duy Đoán (cha), Vũ Duy Khuông (cháu). Những sự lạ ở mảnh đất Mộ Trạch nhỏ bé thì còn rất nhiều mà người viết không thể kể ra hết. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ tôn vinh Mộ Trạch là làng tiến sĩ, là làng tài "độc nhất vô nhị" ở đất Việt mình. Sở dĩ làng Mộ Trạch có nhiều người học giỏi đỗ cao như vậy bởi vì nơi đây là mảnh đất có truyền thống hiếu học, khuyến học hơn bất cứ nơi đâu. Tất cả con trai đều chăm chỉ dùi mài kinh sử để mong có ngày đỗ đạt chốn khoa trường. Điều thú vị là tất cả những thí sinh của làng muốn lên Kinh dự thi đều phải đăng ký vào sổ thi của làng và dứt khoát phải vượt qua kỳ thi thử tại quán Kỳ Anh nơi đầu làng. Những người có khoa bảng trong làng làm nhiệm vụ khảo xét bồi dưỡng lớp con em để họ có đủ năng lực và phẩm chất trước khi thi tài với thiên hạ. Nhờ truyền.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> thống giáo dục tốt mà người làng Mộ Trạch đã chiếm bảng vàng rực rỡ trong các kỳ triều đình mở hội thi. Điều đặc biệt là người làng Mộ Trạch dù làm quan tới chức nào cũng không ham lo xây dựng dinh thự mà luôn một lòng phục vụ đất nước, chăm lo chúng dân. Noi gương truyền thống cha ông, ngày nay con cháu cụ tổ họ Vũ làng Mộ Trạch cũng hết sức chăm chỉ học hành, mong thành đạt để góp phần xây dựng quê hương đất nước. Ngôi trường cấp 1 - 2 được xây dựng trong xã mà số đông học sinh là con em của làng Mộ Trạch theo học. Còn tại trường cấp 3 Bình Giang, nếu cứ học sinh của 3 xã khác hợp thành một lớp thì chỉ riêng học sinh của xã Tân Hồng (làng Mộ Trạch chiếm hơn phân nửa) cũng đủ một lớp rồi. Nếu xưa kia bảng vàng khoa cử của các thế hệ cha ông đã tôn vinh làng Mộ Trạch thành "Làng tiến sĩ" thì ngày nay truyền thống hiếu học vẫn được duy trì và thành tích học tập, đỗ đạt của thế hệ con cháu Mộ Trạch cũng ít làng quê nào sánh kịp. Có thể kể ra đây gia đình bác Vũ Đăng Giáp - một gia đình nghèo đến mức phải ở nhờ nhà thờ nọ. Vợ mất sớm bác phải nuôi 4 người con trai đi học. Mấy bố con tần tảo nuôi nhau, đến nay cả 4 người con đều tốt nghiệp đại học và cao đẳng và được nhà nước trọng dụng. Gia đình bác Vũ Xuân Phổ hết lòng chăm lo con cái học tập, nay một người là phó tiến sĩ còn 3 người khác đều đã tốt nghiệp đại học. Số người làm nghề dạy học ở Mộ Trạch thì chắc chắn nhiều hơn bất cứ một làng quê nào vì Mộ Trạch có truyền thống từ lâu làm nghề này. Ngoài ra, có rất nhiều người con của Mộ Trạch vì những lý do khác nhau phải xa quê hương nay đã thành đạt và tìm về cội nguồn. Trong số đó có thể kể ra như Tiến sĩ vật lý nguyên tử Vũ Khắc Thinh hiện đang nghiên cứu tại Nhật Bản, Tiến sĩ văn học Đặng Vũ Phương Chi đang công tác tại Paris, Giáo sư - Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, Giáo sư Vũ Khiêu... Tất cả đều là con cháu họ Vũ làng Mộ Trạch, tìm về quê hương với lòng thành thắp nén hương tưởng niệm người đã sinh ra dòng họ của mình. Nói về khoa cử, về tài năng của Mộ Trạch trước kia cũng như truyền thống hiếu hoc ngày nay thì còn rất nhiều điều thú vị. Nếu bạn muốn tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn xin mời bạn xuôi quốc lộ 5 về xứ Đông - Hải Dương, đất lành Mộ Trạch luôn rộng lòng đón bạn. Ngày mồng 8 tháng giêng hàng năm là ngày hội làng, con cháu họ Vũ Mộ Trạch khắp mọi nơi sẽ tìm về với quê hương vui ngày lễ hội và thắp nén hương tưởng nhớ người đã sinh ra dòng họ Vũ và tưởng nhớ cả các thế hệ cha ông đã góp phần lưu danh thơm làng Mộ Trạch đến muôn đời sau. e-LàngCổ Đô - Hà Tây * Làng là đất học, đất khoa cử. * Làng có hai vị Thượng thư nổi tiếng triều Lê, trong đó có một là Lưỡng Quốc thượng thư. * Làng có truyền thống đánh giặc cứu nước. * Làng lụa - Làng thơ - Làng hoạ sĩ. Ở quãng giữa hai ngã ba sông - sông Hông hợp lưu với sông Đà tại gót Nung (Địa thế tuyệt đẹp- ASVN), sông Lô hợp lưu với sông Hồng tại Việt Trì, còn gọi là Ngã Ba Hạc, địa danh đã đi vào văn thơ với bài Ngã Ba Hạc phú nổi tiếng của Nguyễn Bá Lân - có một ngôi làng nhỏ bé nằm ven sông, mang một cái tên khá độc đáo: làng Cổ Đô. Làng Cổ Đô ngày nay thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây. Từ ngày hình thành, Cổ Đô có nhiều tên khác nhau. Từ xa xưa, Cổ Đô có tên gọi là Cổ Cẩm, huyện Tiên Phong, trấn Sơn Tây. Sau đó được đổi tên là Yên Đô (hay An Đô). Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Cổ Đô có tên là Cổ Sắt, một cái tên tượng trưng cho ý chí kiên cường của người dân Cổ Đô đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp khi tạm bị chiếm. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Cổ Đô là một vùng tụ cư của các cộng đồng người Việt.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> cổ, có nhiều dấu vết văn hoá - lịch sử cùng nhiều hiện vật khảo cổ được chôn cất trong các khu mộ táng có niên đại từ thế kỷ III (trước Công nguyên) đến thế kỷ I (sau Công nguyên), như: bình, thạp gốm, rìu đồng, lưỡi xéo (binh khí), các viên gạch nung có hoa vãn hình ô trám. Những hiện vật đó được trưng bày tại nhà truyền thống của làng cùng với những tý liệu lưu giữ ở Viện Sử học, Viện Hán Nôm đã chứng minh cho nhận định đó. Làng Cổ Đô có ngôi đền nổi tiếng ở núi Cẩm Sơn,có kiểu kiến trúc cổ khá đặc biệt với cổng tam quan kỳ vĩ có đại tự đề Thánh tích Cẩm Sơn (dấu vết thánh ở núi Cẩm). Theo thần phả, đức thành hoàng được thờ ở ngôi đền này là một vị nhân thần đã chết tại Cổ Đô khi đang thực thi một sự nghiệp lớn là tìm cách khôi phục nhà Trần vào thế kỷ XIII. Vì vậy, trong ngôi đền có đại tự đề Đại đức đô thành hoàng (Thành hoàng có đức độ lớn). Cổ Đô còn có đền thờ bà Công chúa Thiếu Hoa, con gái vua Hùng đời thứ 9 từ thành Phong Châu sang dạy cho dân làng nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Lụa Cổ Đô là một trong những sản vật tiến vua, đã đi vào kho tàng ca dao cổ: Lụa này thật lụa Cổ Đô Chính tông lụa cống, các cô ưa dùng Tiếc rằng, nghề truyền thống này đã mai một; địa phương đang có phương án khôi phục. Cổ Đô vẫn được dân trong vùng tôn vinh là đất học, có truyền thống khoa bảng từ đời này sang đời khác. Tiêu biểu là hai vị Thượng thư nổi tiếng thời Lê: Nguyễn Sư Mạnh, Nguyễn Bá Lân, hai ông tổ của hai dòng họ Nguyễn lớn nhất làng. Nguyễn Sư Mạnh đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời Lê Thánh Tông. Được bổ làm quan, ông luôn tỏ ra là một ông quan thanh liêm, cương trực, được nhà vua tin cậy, phong cho chức Thượng thư Bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu. Thời ấy, giữa hai nước Đại Việt và Trung Hoa có nhiều bất hoà. Nguyễn Sư Mạnh vốn là người biết nhiều, hiểu rộng, được vua Lê cử đi sứ Trung Quốc (năm 1500). Có nhiều giai thoại về chuyến đi sứ này, được đòng họ Nguyễn truyền.tụng và ghi vào tộc phả. Khi vào yết kiến vua Minh, không biết vô tình hay hữu ý, Nguyễn Sư Mạnh không cài khuy áo, đế hở cả bụng. Vua Minh giận dữ, cho là sứ thần nước Nam thất lễ, hạch tội khi quân, định trục xuất về nước. Nguyễn Sư Mạnh quỳ tâu rằng: ''Vì đường sá xa xôi, bụng thần đầy chữ, nhiều ngày đi đường âm u, ẩm ướt, sợ khú mất chữ thánh hiền, thần xin được phanh áo ra hong, mong nhà vua đại xá''. Nghe vậy, vua Minh vừa muốn thử tài, vừa muốn hại người nước Nam, ra chiếu: ''Nếu sứ thần nước Nam là người hay chữ thì hãy giúp Thiên triều chép lại thiên Vi chính trong sách Luận mới bị thất lạc". Nguyễn Sự Mạnh nhận lời và hỏi lại: ''Đại vương cần thiên Vi chính trong bao nhiêu ngày?''. ''Trong 30 ngày phải hoàn tất", vua Minh hạ lệnh và ra điều kiện cho sứ thần không được ra khỏi dinh thự trong 30 ngày chép lại thiên Vi chính. Vua Minh chắc mẩm sứ thần nước Nam không thể làm nổi việc đó, sai người theo dõi. Lạ quá, gần hết thời hạn quy định mà không thấy sứ thần làm gì, chỉ ngồi đánh cờ. Đến ngày thứ 25, vua Minh sai người nhắc nhở, Nguyễn Sư Mạnh trả lời: “Ngày mai thần sẽ viết”. Đến ngày thứ 29, ông đã dâng thiên Vi chính cho vua Minh. Nhận sách, vua Minh khen sứ thần có trí nhớ tuyệt vời, sách chép lại y như bản chính, chỉ có chữ "công'' thừa một dấu chấm. Vua Minh hạch tội, Nguyễn Sư Mạnh khảng khái nói: ''Nếu thần viết thừa dấu chấm thì chắc chắn bản gốc của thượng quốc cũng thừa''. Vua Minh cho đem bản gốc ra so sánh thì y như lời Nguyễn Sư Mạnh, chữ ''công'' cũng thừa dấu chấm thật. Phục tài, vua Minh không lý gì để làm hại sứ thần nước Nam, lại phong cho ông chức Thượng thư của Trung Quốc. Bốn chữ ''Lưỡng quốc Thượng thư” được khắc tại từ đường họ Nguyễn.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Cổ Đô nhắc đến công lao của nhà ngoại giao đại tài Nguyễn Sư Mạnh. Từ đó, Nguyễn Sư Mạnh được nhà Lê tin dùng và được ban quốc tính họ Lê, được nhà vua gả cho công chúa, được phong chức Vinh Lộc Đại Phu, coi việc Viện Hàn lâm kiêm Đông Các Đại Học Sĩ. Tuy vậy ông vẫn sống giản dị, cửa nhà đơn sơ, tài sản không có gì đáng giá. Ông thọ 82 tuổi. Vị Thượng thư thứ hai, người của dòng họ Nguyễn thứ hai làng Cổ Đô, là một người không những nổi tiếng chốn quan trường, mà còn nổi tiếng về văn chương, thơ phú. Đó là Lục bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân, tác giả bài Ngã Ba Hạc phú nổi tiếng. Ông sinh ngày 27 tháng Giêng năm Canh Thìn (1700). Cha của Nguyễn Bá Lân là Nguyễn Công Hoàn, cũng là người nổi tiếng, được người đời liệt vào trong ''Tràng An tứ hổ'' (Bốn con hổ của đất Tràng An), gồm: Nhất Quỳnh, nhị Nham, Tam Hoàn, tứ Tuấn. Dù tài ba xuất chúng, nhưng con đường khoa cử của Nguyễn Công Hoàn thì lận đận. Năm Nguyễn Bá Lân 15 tuổi, ông Hoàn về dạy học ở quê để trực tiếp dạy con. Cha dạy con học nhưng đồng thời lại cùng nhau xướng hoạ văn chương. Nguyễn Bá Lân là một người ham mê đọc sách, nên kiến thức uyên bác, có tài ứng đáp, xuất khẩu thành chương.. . Có nhiều chuyện kể về xướng hoạ văn chương giữa hai cha con: Một hôm hai cha con qua đò, cha nhìn thấy đàn dê bên kia sông bèn ra bài phú Dịch đình dương xa phú (Bài phú xe dê cung cấm) và thách con: ''Sang bên kia sông, nếu ta làm xong bài phú mà con chưa xong, ta sẽ ném con xuống sông, còn không thì ngược lại”. Không ngờ, Nguyễn Bá Lân làm song bài phú trước cha, còn cha mới xong một nửa, nhưng ông không dám ném cha xuống sông, liền bị cha đánh. Đó là bài phú nổi tiếng được người đời truyền tụng Nhất độ giang thành chương phú (Bài phú làm trên một chuyến đò qua sông). Năm 18 tuổi, Nguyễn Bá Lân đỗ giải nguyên tại kỳ thi Hương. 20 tuổi, ông thi đỗ tại kỳ thi Hội, và 31 tuổi ông đô Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân tại kỳ thi Đinh năm Tân Hợi (1731). Về tài thơ văn của Nguyễn Bá Lân, không ai không nhớ bài Ngã Ba Hạc phú, vì nó là bài phú Nôm có vai trò rất lớn đối với sự phát triển thể loại văn biền ngẫu bằng chữ Nôm. Cảm hứng chủ đạo của bài phú là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước và yêu con người của tác giả. Tình yêu đó đã quyện vào ngọn bút của ông, bay vút lên thành hồn thơ lai láng. Tài thơ văn của ông không chỉ dừng ở bài Ngã Ba Hạc phú, điếm chói sáng nhất của sự nghiệp văn chương của ông, mà còn phải kể đến hàng chục bài phú chữ Hán trong các tuyển tập phú cố: Danh phú tập, Bát vận phú, Hoàng Lê Cát vận phú v.v... Điều đáng nói nữa về Nguyễn Bá Lân là hoạt động quan trường, là sự nghiệp trong suốt cuộc đời ông. Trong 50 năm ông có 17 lần thăng quan tiến chức với những trọng trách ngày càng nặng nề, phức tạp hõn trong thời Hậu Lê đầy biến động, đàng trong do nhà Nguyễn nắm quyền, đàng ngoài là vua Lê – chúa Trịnh. Năm 1732, ông giữ chức Tý Huấn, năm 1734: Hàn Lâm viện kiểm thảo, giám sát đạo Nam Sơn, Đề hình Giám sát (Ngự sử); năm 1737: Đốc đồng xứ Sơn Tây; năm 1740: Tòng Tham tụng, rồi Lưu thủ Hưng Hoá, Thống đốc Cao Bằng; năm 1756: Bồi tụng kiêm Tế Tửu Quốc Tử Giám; năm 1767 làm Thượng Thư Bộ Lễ rồi Thượng thư Bộ Hộ và cuối đồi là Thượng thư Bộ Công... Trong hoàn cảnh xã hội đầy nhiễu nhương, Nguyễn Bá Lân.vẫn giữ tư cách là một ông quan thanh liêm, cương trực, luôn giữ kỷ cương phép nước. Có một chuyện người đời nhớ mãi: Vào khoa thi năm Ất Mùi (1775), Trịnh Sâm đến giảng sách, bắt các quan trong triều phai mũ áo triều yết như vua Lê ra xem thi (Trịnh Sâm muốn bá quan phải coi mình như nhà vua). Là Thượng thư Bộ Lễ, ông phản đối kịch liệt, ông vẫn mặc thường phục và tâu rằng: ''Các đấng liệt thánh tiên vương xưa nay vẫn giữ.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> đạo tôn vua, truyền đời trải 200 năm, nay một sớm thay đổi sợ làm kinh hãi cho mọi người. Nguyễn Hoàn là Sư phó đại thần không biết uốn nắn cho chúa (chỉ Trịnh Sâm) đi vào đường chính, xin chém đầu để tạ thiên hạ''. Trước thái độ quyết liệt và đúng đắn của ông, Trịnh Sâm buộc phải hồi loan, trong lòng đầy ấm ức. Hai vị Thượng thư, hai học giả nổi tiếng làng Cổ Đô là tấm gương cho bao đời con cháu noi theo, biến cái làng nhỏ bé ven sông Hồng này trở nên đất học, đất khoa cử, đất làm quan, đất văn thơ - nghệ thuật. Ở thời nào, Cổ Đô cũng có người đỗ đạt, dòng họ nào cũng có người làm quan. Sau Nguyễn Bá Lân, chỉ tính từ 1807-1818 có nhiều người đỗ cử nhân, như Phan Văn Hưng, Nguyễn Văn Ký, Nguyễn Duy Hành, Nguyễn Văn Quy, Nguyễn Văn Nhuận.. . trong 16 đời họ Nguyễn Sư Mạnh đã có 89 vi cử nhân và tú tài. Dưới chế độ mới, Cổ Đô vẫn tiếp tục nêu truyền thống đất học, có 285 người có trình độ đại học, gần 20 người trên đại học (tính đến năm 2000). Phát huy truyền thống vãn chương – nghê thuật, dưới chế độ mới làng Cổ Đô có một nét văn hoá ít có làng quê Việt Nam nào sánh kịp, đó là làng hoạ sĩ. Sau hoạ sĩ Sĩ Tốt khá nổi tiếng với những bức tranh được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia như Bố con, Tiếng đàn bầu cùng nhiều tranh khác được lưu giữ ở các Bảo tàng lớn ở Mỹ, Pháp, Đức, Thuỵ Điển... là gần hai chục hoạ sĩ thế hệ kế tiếp được đào tạo ở hai trường Đại học Mỹ thuật lớn của đất nước là trường Đại học Mỹ thuật Yết Kiêu và trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội. Đó là các hoạ sĩ Sĩ Tuấn, Sĩ Thiết, Sao Mai, Ngô Bình Thiểm, Giang Khích, Trần Hoà, Nguyễn Thạch, Nguyễn La Vuông, Quang Trung.. . Chính nhờ nét đẹp văn hoá đó mà người dân trong vùng đã ghép làng Cổ Đô thành làng lụa – làng thơ - làng hoạ sĩ, thật chẳng ngoa. Những nét đẹp văn hoá đó đã hun đúc cho người Cổ Đô một phẩm chất cao quý. Đó là phẩm chất yêu nước, yêu quê hương và truyền thống anh hùng chống giặc ngoại xâm. Phải là một người yêu nước, tự tôn dân tộc, Nguyễn Sư Mạnh mới hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của một sứ thần nước Nam trước thói hách dịch, nước lớn của vua Minh. Nguyễn Bá Lân là một ông quan vặn võ song toàn, có công dẹp loạn ở trấn Sơn Tây, Cao Bằng. Khi giặc Pháp xâm lược Việt Nam, thành Hà Nội thất thủ lần thứ hai, Đề đốc Trần Vàng, người của dòng họ Trần làng Cổ Đô đã lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở vùng Sơn Tây, Phú Thọ. Khi triều đình Huế ký hoà ước đầu hàng, giặc Pháp rải truyền đơn kêu gọi nghĩa quân đầu hàng, Đề đốc Trần Vàng động viên quân sĩ chiến đấu đến cùng, bằng lời lẽ đanh thép: ''Triều đình hàng, chúng ta không chịu nỗi nhục đầu hàng!''. Sau 6 năm chống giặc, do lực lượng chênh lệch, nghĩa quân Trần Vàng thất bại, ông bị giặc bắt nhưng không chịu quy phục chúng và bị chúng sát hại dã man. Truyền thống chống Pháp của nghĩa quân Trần Vàng lại hun đúc nên sự nghiệp anh hùng của người dân Cổ Đô trong hai cuộc kháng chiến . d-Làng Đường Lâm - Hà Tây: Đất hai vua Nói đến Đường Lâm là nói đến vùng đất của một cộng đồng dân cư gồm năm, sáu làng họp lại Không nên quan niệm Đường Lâm là một xã với sự phân chia hành chính hiện thời do các làng: Mông Phụ, Đông Sàng, Phụ Khang, Cam Lâm, Cam Thịnh, Đoài Giáp, Văn Miếu... làm nên. Bởi như thế khó có thể đánh giá một cách tổng quát về lịch sử - Văn hoá đã diễn ra trên mảnh đất này. Đường Lâm tên nôm gọi là Kẻ Mía, có lẽ tục danh này được bắt đầu từ một cái tên rất chữ nghĩa: Cam Giá (Mía ngọt)! Cam Giá xưa kia được chia ra thành hai ''Tổng'': Cam Giá Thượng và Cam Giá Hạ. Cam Giá Thượng là các xã thuộc miền Cam Thượng, Thanh Lũng, Bình Lũng.. .(Nay thuộc về huyện Ba Vì). Cam Giá Hạ là xã Đường Lâm (Nay thuộc thị xã Sơn Tây). Phải chăng đai đất hữu ngạn sông Hồng từ thời thượng cổ, khi chưa có hai bờ đê sừng sững chạy dài định vị dòng sông (Đê sông Hồng trở thành hệ thống có lẽ vào thời Lý), để mỗi khi vào mùa nước lại ào ạt đổ vê.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> ngầu đỏ phủ sa, bồi đắp nên Tam giác châu thố đồng bằng Bắc Bộ mà sông Hồng là cái trục phân chia địa giới hành chính hai tỉnh rất rõ rệt: Vĩnh Phúc - Hà Tây. Dải đồng bằng hữu ngạn sông Hồng kéo dài từ những bậc thềm của núi Tản (Tản Viên Sơn - Núi Tổ) xoải mải về xuôi, tạo ra một miền phì nhiêu trù phú, một năm hai vụ bốn mùa rộn rã tiếng canh cửi tằm tang: Ngọt mãi đến tận bây giờ với một địa danh đã đi vào lịch sử bằng những kỳ tích như những huyền thoại. Đường Lâm là vùng bán Sơn địa, trên những quá đồi trung du thuộc làng Cam Lân, đến tận bây giờ vẫn còn lại những cái tên: Đồi Cấm, Nghẽn Sơn, Vũng Hùm... in đậm dấu tích một thời trai trẻ của ạnh em Phùng Hưng, Phùng Hãi.. . Truyền thuyết kể lại rằng: Thủa ấy trên đồi là rừng đại ngàn rậm rạp, dưới trằm giộc lau lách um tùm. Năm ấy cọp về, có một con cọp hung đữ đã bắt đi bao mạng người. Dân trong vùng sợ hãi không dám vào đồi kiếm củi hái chè. Đêm đêm cọp dữ còn mò cả vào làng rình bắt trâu bò lợn gà, khắp cả làng chưa nhọ mặt người đã vội vã về nhà, luồng lạch rấp kín, cổng ngõ văng chặt, xóm làng eo óc một nỗi sợ hãi rình rập bất cứ lúc nào. Có một trai làng cực kỳ khoẻ mạnh quyết tâm diệt hổ dữ trừ hoạ cho dân làng. Lựa một tháng cuối đông gió Bấc se sắt thối, khí lạnh trên đồi tràn về làm rờn rợn da người, chàng trai bện người nộm đem vào đồi đến bên mép nước cắm xuống, ba bốn đêm liền như thế... Đêm ấy như bao đêm khác, hổ dữ ra vũng nước duy nhất còn xót lại trong vùng, trước khi vục đầu uống hổ ta lấy tay tát đổ người nộm như mọi hôm thường vẫn thế. Nhưng nó đâu có ngờ hôm nay có một cánh tay rắn chắc đã túm chặt lây bờm nó và liên hồi giáng xuống những quả đấm nặng như búa tạ... Chàng trai thông minh dũng cảm, có sức khoẻ phi phàm đó chính là Phùng Hưng! Phùng Hưng sinh ra và lớn lên ở làng Cam Lân (xã Đường Lâm), nửa sau thế kỷ VIII, đất nước ta chịu ách đô hộ của nhà Tùy Đường cực kỳ hà khắc. Phùng Hưng đã cùng em là Phùng Hãi và Bồ Phá Cần chiêu tập binh sĩ cùng nhân dân phất cờ khởi nghĩa. Từ quê hương ông đánh thành Tống Bình (Hà Nội), đập tan tành đạo quân xâm lược của Cao Chính Bình, dành lại quyền độc lập tự chủ (791- 802). Nhân dân tôn vinh ông là: Bố Cái Đại Vương! Nói đến Phùng Hưng không thể không nói đến một người còn ưu tú nữa đó là Ngô Quyền. Ngô Quyền là con trai Châu Mục Đường Lâm Ngô Mân (Ông chính là người làng Cam Lâm). Ngô Quyền sinh ra tướng mạo tuấn kiệt hơn người, sáng mắt như sao, sức địch muôn người. Thuở tráng niên đã từng ghì sừng hai con trâu đực đánh nhau làm cho chúng hoảng sợ mà buông nhau bỏ chạy. Lớn lên ông làm nha tướng cho Dương Diên Nghệ, trấn thủ châu Hoan, Châu Ái. Sau loạn Kiều Công Tiễn ông đã trấn yên nước nhà và tiến hành cuộc kháng chiến chống thù ngoài, trận đánh trên sông Bạch Đằng thể hiện sự thông minh tài trí thiên tài trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Một nhân vật lỗi lạc nữa đã để lại mốc son chói lọi trong trang sử nước nhà là Thám Hoa Giang Văn Minh. Ông sinh năm Nhâm Ngọ (1582) ở làng Mông Phụ. Tháng 2 năm Mậu Thìn (1628), đời Lê Vĩnh Tộ ở nước ta ông dự khoa thi Hội, đỗ nhất giáp Tiến sĩ, cập đệ tam danh. (Có điều đáng lưu ý là khoa thi năm ấy không lấy Trạng Nguyên, Bảng nhãn). Năm Đinh Sửu (1637) ông được Triều đình cử làm chánh sứ, dẫn đầu một phái bộ sang Triều Minh. Sử cũ chép rằng: Trong khi hội kiến với vua nhà Minh, sứ thần Giang Văn Minh đã trổ tài thao lược, đối đáp với vua nhà Minh. Một lần vua Minh ra vế đối: ''Đồng trụ chí kim đài dĩ lục" (Cột đồng trụ đến ray rêu đã phủ xanh) Giạng Văn Minh khảng khái đối lại rằng: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng" (Sông Bạch Đằng từ xưa máu thù còn loang đỏ). Vua Minh nổi giận vì bị nhắc đến nỗi nhục thua trận, liền sai mổ bụng sứ thần Giang Văn Minh xem "gan to mật lớn" đến nhường nào! (Thật hèn quá) Giang Văn Minh chết, vua Minh tiếc một bậc tài.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> danh, sai người ướp thủy ngân vào xác đưa về nước. Đường Lâm không chỉ là mảnh đất “địa linh'' sinh ''nhật kiệt" tên tuổi họ đã gắn liền với trang sử hào hùng của dân tộc, mà Đường Lâm còn là một địa chỉ Văn hoá có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu tìm hiểu những "cộng đông cư dân nông nghiệp cổ". Theo một số nghiên cứu đánh giá gần đây của một số học giả thì làng Mông Phụ (thuộc xã Đường Lâm) là: Đại diện duy nhất về lúa nước châu Á còn xót lại! Đây là làng Việt cổ đá ong, đá ong ở đây được xây dựng với một quy mô rộng lớn và hoành tráng, nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, tiêu biểu là đình làng Mông Phụ. Căn cứ vào niên đại xây dựng còn xác định được, đình Mông Phụ đã có cách đây 364 năm. Ngồi đình mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt - Mường (Đình có sàn gỗ), có thể nói đây là một bông hoa về nghệ thuật kiến trúc những nét tài hoa có một không hai ấy còn được lưu giữ trên những bức trạm cốn và đầu dư.. Tinh vi trong từng nhát đục, song cũng cực kỳ tinh tế trong quy hoạch tổng thể mang tính vĩ mô. Giai thoại kể rằng: Đình Mông phụ đặt trên đầu một con rồng mà giếng làng là hai mắt, sân đình đào thấp hơn so với mặt bằng xung quanh, có vẻ như là một nghịch lý so với kiến trúc hiện đại, song thực ra đó lại là một dụng ý của người xưa. Khi mưa xuống, nước từ ba phía ào ạt đổ vào (Nước chảy chỗ trũng), phải chăng đó là một khát vọng về một đời sống ấm no! Sau đó nước từ từ thoát ra theo hai cống nhỏ chạy dọc theo nách đình (Chống thủy lôi tâm), từ xa nhìn lại, trong mưa hai rãnh nước vẽ nên hai râu rồng vừa thật lại vừa ảo, quả thật là một ý tưởng hết sức lãng mạn của các kiến trúc sư cổ... Trước cửa đình là một cái sân rộng, sân này là nơi biểu diễn các trò khi làng vào đám (Hội làng). Không chỉ là như thế, sân này còn là một cái "ngã sáu" khổng lồ, xoè ra như những cánh hoa, rồi quy tụ mọi con đường trong làng về trung tâm. Có điều rất đặc biệt, từđình có thể đi đến bất cứ xóm nào trong làng cũng không ai phải trực liếp quay lưng lại với hướng đình. Thật là độc đáo! Vốn là mảnh đất giàu truyền thống, đến những năm đầu thế kỷ XX làng Mông Phụ lại sinh những người con ưu tú khác, đó là cụ Phan Kế Toại. Phan Kế Toại (1898-1973) là con trai Tuần phủ Phan Kế Tiến. Lúc còn trẻ ông được cha cho đi du học tại Pháp ở Pháp ông được đưa vào đào tạo ở trường "Hành Chính" trong khi nguyện vọng ông muốn học luật. Học xong Phan Kế Toại về nước, ông được thăng nhậm từ "tri phủ" đến "Khâm sai đại thần"... Sau khi cách mạng Tháng Tám bùng nổ ông bỏ nhiệm sở về nhà, sống nhàn tản như một người làng Mông Phụ. Nếu có ai hỏi ông chỉ cười mà rằng: "Lão giả an tri!" (Già rồi về nhà dưỡng lão)...(Không trích dẫn)... Tuy vậy sau này ông tiếp tục sự nghiệp và giữ chức Phó Thủ Tướng. Sinh thời, cụ Phan Kế Toại rất quan tâm đến đời sống dân làng, chính cụ là người mang nghề làm nón, làm áo tơi lá về làng. Mông Phụ, mở lớp dạy ngay tại "từ đường" họ Phan. Rất tiếc trong làng có kẻ độc mồm bảo: "Cụ đi làm quạn với thíên hạ, lại đem cái nghề ăn mày về làng..." (Ãn mày nón lá áo tõi). Cùng thời điểm này, dân làng Phú Châu - Phủ Quảng Oai đã du nhập nghề chằm nón vào, hiện nay trở thành nghề truyền thống của làng Phú Châu huyện Ba Vì. Không thành, cụ đem Côta của nhà máy sợi Nam Định về cho làng dệt lấy công. Chiến tranh thế giới nổ ra, nhà máy sợi dưới "Nam" đóng cửa, hàng trăm khung sợi của làng gác trên sà nhà cho nhện xây tổ... Thế mới biết cụ là người luôn lo đên việc mở nghề cho dân. Trong thời kỳ hiện đại còn một người nữa phải kể đến là Bộ truởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống rất nổi tiếng về nghề thợ mộc, ông nội được cả vùng trân trọng gọi là "cụ Mục'' (Đầu Mục sứ- Người cai quản thợ của cả sứ Đoài). Lớn lên ông ra Hà Nội kiếm sống và được giác ngộ lý tưởng Cách mạng. Trong phong trào "dân chủ" (1936-1939) ông đã lập ra "ái hữu thợ mộc" ở Hà Nội, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ... Có thể nói Bộ trưởng Hà Kể Tấn là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho Công trình thuỷ điện Hoà Bình hôm.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> nay... Cũng giống như cụ Phan Kế Toại, cụ Hà Kế Tấn cũng hết sức chăm lo đến đời sống dân làng Đường Lâm, cụ là người quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy lợi của đồng đất Đường Lâm, vốn một vùng bán Sơn địa rất nhiều khó khăn trong canh tác đã bao đời nay... Suốt mấy chục năm qua (từ 1946), nhờ vào hệ thống tưới cấp I & II, đời sống người dân nơi đây cũng được cải thiện đáng kể, một phần không nhỏ phải kể đến cụ! Nói đến Đường Lâm còn rất nhiều tên tuổi phải kể đến, đó là cụ Phó Bảng Giá Sơn Kiều Oánh Mậu ở Đông Sàng, chính cụ là người hiệu đính Truyện Kiều, có thể nói nhờ vào bản "Kiều" này (cùng với hai bản Kiều Khác!à: Bản Kiều Kinh - Do Tự Đức biên soạn, và bản Kiều Phạm Quý Thích) là những tư liệu hết sức bổ ích cho việc hiệu đính và biên soạn Truyện Kiều sau này của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Vào thế kỷ XVII, ở Đông Sàng còn có bà Ngô Thị Ngọc Dung (tức gọi là Bà Chúa Mia), bà là phi tần của chúa Trịnh Tráng. Chính bà là người hưng công xây dựng chùa Mía (Sùng Nghiêm tự), một trong những ngôi chùa đẹp của Sứ Đoài và cả nước. Bên cạnh đó chính bà là người "mở chợ, lập bến đò", chấn hưng lại nghề nấu kẹo trộn đường, cung cấp đường mật cho phố Hàng Đường Hà Nội... Đến Đường Lâm vào thăm làng Việt cổ đá ong, một mình mình nghe tiếng bước châm mình rộn lên trong từng ngõ nhỏ, chắc bạn cũng cảm thấy hình như có một điều kỳ diệu còn tiềm ẩn dưới lớp đá dày trầm mặc đã tích tụ tự bao đời. Ra khỏi cổng làng Mông Phụ (Chiếc cổng duy nhất còn xót lại) mấy chữ đại tự còn in đậm trong lòng: "Thế hữu hưng ngơi đại" (thời nào cũng có người tài giỏi). Phải chăng đó là lời động viên, nhắn nhủ của tiền nhân với chúng ta hôm nay. g-Làng Quỳnh Đôi: Từ Thủ đô Hà Nội quốc lộ 1A xuôi về Nam khoảng 250 km đến gần một nơi gọi là Cầu Bèo (thuộc làng Bào Hậu, nay là xã Quỳnh Hậu) cách thị trấn Cầu Giát gần 3 km, khách sẽ thấy bên đường có một tấm biển có mũi tên chỉ ghi:- ''Nhà bia tưởng niệm nữ sĩ Hồ Xuân Hương 3 km". Nhà tưởng niệm đó được quỹ hợp tác phát triển văn hoá Thụy Điển - Việt Nam tài trợ xây dựng ngay địa đầu xã Quỳnh Đôi, phía dưới nhà thờ Quỳnh Quận công Hồ Phi Tích, phía trên khu mộ cụ Hồ Tùng Mậu và Anh hùng Cù Chính Lan. Quỳnh Đôi! Không biết từ bao giờ còn truyền mãi đến nay câu ca: ''Bắc Hà, Hành Thiện, Hoan Diễn, Quỳnh Đôi". Quỳnh Đôi là một làng ở phía bắc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, xưa là một vùng cây hoang, cỏ dại giáp sông Mai (gọi là sông Mõ), gần biển cửa Quèn là một trong ba cửa biển của huyện Quỳnh Lưu: Cửa Cờn (Càn), Cửa Quèn (Quyền), Cửa Thơi (Thai). Năm thứ II Xương Phù (1378) có 3 ông tổ họ Hồ, họ Nguyễn, họ Hoàng đến khai phá mà lập ra trang Thổ Đôi (xưa sử chép Quỳnh Đôi là Hoàn Hậu, thực ra Quỳnh Đôi là một thôn trong xã Hoàn Hậu). Tính đến nay Quỳnh Đôi đã có trên 600 năm tuổi. Theo thuyết phong thủy thì Quỳnh Đôi được đất ''địa linh nhân kìệt". Làng có một ngôi đình lớn trông về hướng Nam.Trước mặt là lèn Mục tức lèn Yên Ngựa (Mã Yên Sơn) sau lưng là lèn Tàn (Trụ Hải) trông như cái tàn che cho ngôi đình. Hai phía Đông, Tây là hai hòn lèn hình cái bảng chầu về (ở hai xã Quỳnh Hồng, Quỳnh Bảng). Xế đông nam là hai cột đá nhô lên như hai quản bút và một vũng đá giống cái nghiên mực gọi là Hòn Bút, Hòn Nghiên (ở làng Bút Luyện). Các nhà trí thức Tây học, Hán học như các ông: Nguyễn Thiệu Lâu, Vũ Tuấn Sán đã về nghiên cứu. Có phải vậy mà dân Quỳnh Đôi có truyền thống hiếu học, học giỏi, đỗ cao, làm quan to? Thời phong kiến thực dân nhiều gia đình nghèo phải đi mò cua, bắt ốc nhưng vẫn cố gắng cho.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> con theo đòi nghiên bút ''Ăn mày lấy dăm ba chữ thánh hiền''. Quỳnh Đôi xưa chỉ có 2 nghề: đi học và dệt lụa, làm nghề nông ít vì ít ruộng. Thời ấy Quỳnh Đôi có 531 sinh đồ (Tú tài), 203 hương cống (Cử nhân) với 958 lượt người đỗ 116 khoa thi hương trong đó có đến 13 giải nguyên như: Dương Cát Phủ, Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Dương Dực, Phan Đình Phát... đỗ đại khoa thì có 4 phó bảng: Hồ Bá Ôn, Phan Duy Phổ, Hoàng Mậu, Lê Xuân Mai. Có 6 tiến sĩ: Hồ Sĩ Tân, Phan Hữu Tính, Hồ Sĩ Tuần, Văn Đức Giai, Nguyễn Sĩ Phẩm, Dương Thúc Hạp; 2 hoàng giáp: Hồ Phi Tích, Hồ Sĩ Đống; một thám hoa: Dương Cát Phủ; một bảng nhãn: Hồ Sĩ Dương. Thời Pháp thuộc, người đỗ thủ khoa trường Đại học Luật khoa đầu tiên ở Đông Dương là Nguyễn Xuân Dương (sau này là chánh nhất toà thượng thẩm Bắc Bộ rồi chánh án Hà Nội). Người đỗ cử nhân Luật khoa cuối cùng thời đó là Phạm Đình Tân (sau này là chuyên viên cao cấp về pháp chế). Cả hai ông đều là người Quỳnh Đôi. Cũng trong thời kỳ này, người duy nhất trong cả nước được giải thưởng của Bảo Đại trong một kỳ thi đặc biệt (Concours général) là ông Nguyễn Đình Lương. Sau Cách mạng Tháng 8-1945 đến nay xã Quỳnh Đôi ước tính có 500 người tốt nghiệp đại học, 23 thạc sĩ, 33 tiến sĩ như: Nguyễn Xuân Dũng, Phan Tam Đồng, Phan Cự Tiến, Hồ Đức Việt.. . 7 phó giáo sư: Văn Như Cương, Hồ Sĩ Giao, Hoàng Văn Lân, Dương Như Xuyên... 3 giáo sư: Phan Cự Nhân, Phan Cự Đệ, Phan Cự Tiến, 3 viện sĩ quốc tế: Nguyễn Xuân Dũng, Phan Cự Đệ, Phan Cự Tiến. Quỳnh Đôi vốn là một làng trọng nho cho nên ngày trước đường vào làng từ xã trên xuống được đắp như rắn lượn để sau các kỳ thi người đỗ đạt được rước xách đi quanh co cho đẹp. Như trên đã nói người Quỳnh Đôi nghèo nhưng hiếu học. Trường hợp ông Hồ Sĩ Dương là một thí dụ, nhà ông có bữa ăn rau dưa, có nhiều bữa nhịn nhưng ông bấm chí học hành. Ông đỗ đầu khoa thi Hương (1651), đỗ đầu khoa Đông Các (1659) ông là một trong 2 người Việt Nam một đỗ lưỡng quốc trạng nguyên (Mạc Đĩnh Chi) và một lưỡng quốc Đông Các là ông (tài liệu trong Long Cương Thư viện của thượng thư Cao Xuân Dục). Về văn học Quỳnh Đôi có nhiều người nổi tiếng như: Hồ Sĩ Đống, Hồ Sĩ Dương, Hồ Xuân Hương, Phạm Đình Toái, Dương Quế Phổ.. . Sau Cách mạng Tháng 8, Quỳnh Đôi là quê hương của các nhà thơ Hoàng Trung Thông, Lam Giang, Hồ Phi Phục, Dương Quân, Sĩ Giang, Hồ văn Khuê (trào phúng), các nhà văn Hồ Anh Thái, Hồ Anh Tuấn, nhà nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ, nhà sử học: Hoàng Thanh Đạm, hoạ sĩ: Hoàng Tuấn Nhã, Dương Viên, nhà hoạt động sân khấu Hồ Thi (Hồ Ngọc)... Với một truyền thống như vậy nên phong tục của Quỳnh Đôi cũng rất đáng nói. Dân Quỳnh Đôi thuần hậu nhưng không kém lịch lãm, biết nhẫn nhục nhưng cũng rất kiên cường, thẳng thắn tuy có lúc nóng nảy... Quỳnh Đôi là một xã có hương ước sớm và hương ước đó quy định cho Quỳnh Đôi xưa một nếp sống văn hoá đươc gìn giữ và phát huy cho đến ngày nay. Cho nên Quỳnh Đôi được Sở Văn hoá – Thông tin Nghệ An chứng nhận là "Làng văn hoá'', một trong những làng đầu tiên ở tỉnh Nghệ. h-Tiên Điền, Hà Tĩnh: Làng khoa bảng và văn chương Sách Nghi Xuân địa chí viết về thế đất, ''thế đứng" của làng Tiên Điền có câu: ''Hồng Lĩnh Sơn cao, Song Ngư hải khoát Nhược ngộ minh thời, nhân tài tú phát" (Núi Hồng Lĩnh cao cao, hòn song ngý ngoài biển lộng, gặp buổi có vua hiền, nhân tài đua nhau phát). Đứng ở bến đò, đã thấy cái thế của làng. Theo gia phả họ Nguyễn và sách Nghệ An ký của Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch (17571828) thì trước thế kỷ XVI, Tiên Điền là một bãi đất cát bồi của sông Cả (tên cũ của Sông Lam) đầy ao chuôm, mồ mả và um tùm cây cói lác, cư dân thưa thớt sống bên những con hói mùa triều cường nước mặn ngập bờ, đêm xanh lè ánh lân tinh. Giữa.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> thế kỷ XVI, ông tổ họ Nguyễn là Quận công Nguyễn Thuyên đến dựng cơ nghiệp, đất này mang cái tên thật nông nổi: U Điền (Ruộng hoang, rậm). Cháu ông là Nam dương Quận công đã đắp đê ngăn mặn, khơi kênh dẫn nước ngọt trên Ngàn Hống về cải tạo U Điền. Đầu thế kỷ XVII, U Điền đổi tên thành Tân Điền, Phú Điền, rồi Tên Điền. Theo sách Đại Minh quảng dư chí thời thuộc Minh (1414-1417), Tiên Điền gồm 4 thôn: Báu Kệ, Lương Năng, Văn Trường và Võ Phấn. Xa xưa, Tiên Điền được gọi là đất ''Giang Sơn tụ khí" không chỉ theo nghĩa phong thổ địa lý mà xét cả về trầm tích văn hoá. Một thời Tiên Điền là chốn đô hội. Quanh Bàu Phổ Quán, Bàu Tên, Cầu Tiên ''lâu đài tiếp nối, quán hàng cài rãng lược, người ngựa tấp nập, võng lọng rợp trời'' (Sách An Tĩnh cổ lục của Giáo sư Lơ- Brơtông). Không biết từ bao giờ Xứ Nghệ có câu phương ngữ Ló (lúa) Xuân Viên, quan Tiên Điền, tiền Hội Thống. Dù đất bạc, dân bần, nhưng quan Tiên Điền, khoa cũng như hoạn, văn cũng như võ, khanh hầu, tể phụ, danh thần dũng tướng nhiều không làng nào sánh nổi. Du khách tới đây nghe đọc tên đền miếu, lăng mộ không tin nổi với diện tích làng 380 héc ta có thể chứa hết: Chuồng voi Đoan Quận công họ Trần, con rể chúa Trịnh, Vườn Hội Quận công, Đền tế tý văn, Đền thờ Hội Quận công, Đền thờ Uy Quận công, Đền thờ Trinh Dũng hầu, Đàn tế Lĩnh Nam công, Đền thờ Tiên Lĩnh hầu, Đền thờ Xuân Nhạc công, Đền thờ Lam Khê hầu, Đền thờ Điền Nhạc hầu, Đền thờ Hà Chân đài, Mộ tổ họ Nguyễn, Mộ Xuân Nhạc quận công, mộ Tán Quận công, Mộ Tiên Lĩnh hầu, Mộ Nguyễn Du... Thuở nhỏ tôi nghe câu vè Tiên Điền thờ thánh, Tả Ao thờ thần mãi sau này mới hiểu hết nguồn cơn. Xưa ở các làng khác như Vọng Nhi, Đan Phổ có đình thì Tiên Điền mãi năm Minh Mạng mới dựng đình. Thánh đây là đạo Nho, là truyền thống học hành đỗ đạt. Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: ''Khoa giáp nổi trội hơn hẳn, danh thần, hiền phụ đứng hàng đầu trong phủ Đức Quang" là viết về Tiên Điền. Tiên Điền thời Lê - Nguyễn có 6 người đỗ đại khoa, 31 người đỗ Hương cống, Cử nhân, 11 người tú tài, sinh đồ, 3 người được bạt cống, 3 người được cảnh tiến, nói như giờ là được đề bạt thẳng không qua thi cử. Nhiều người là Võ tướng, Quận công, Phò mã, Công hầu thuộc những dòng họ lớn: Nguyễn, Trần, Hoàng, Lê, Hà... Ở đây, tôi xin lược chép vài nét chính về 6 vị đại khoa họ Nguyễn là thân phụ, chú, bác, anh em Đại thi hào Nguyễn Du. Nguyễn Nghiễm (thân phụ Nguyễn Duy) tự Hy Tư, tôn huý Thiều, hiệu Nghi Hiên, bút hiệu Hồng Ngư cư sĩ. Ông sinh giờ Canh Tuất, ngày Thìn 14 tháng giêng nhuần năm Mậu Tý niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ tý, 16 tuổi đỗ thi hương, 24 tuổi đỗ Hoàng Giáp, 54 tuổi giữ chức Nhập thị Tham tụng, rồi thăng Đại tư đồ Xuân Quận công. Ngày 17 tháng 11 năm Ất Mùi ông mất tại làng. Mất rồi vẫn được gia phong Thần Thượng đẳng với mỹ tự ''Kinh luân, khang tế, đức vọng tài trí, anh đặc, cảnh lãng". Nguyễn Khản, tự Hy Trực, biệt hiệu Lân Sơn cư sĩ, sinh giờ Tỵ ngày Mậu Thìn 13 tháng 3 năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ ba, 20 tuổi đỗ thi hương, 27 tuổi đỗ Thi đình. Giữ các chức Nhập thị bồi tụng, Tả Thị lang bộ lại, Kiều Nhạc hầu. Về sau đổi sang chức võ Hồng Lĩnh hầu, Thượng thư Bộ lại kiêm trấn thủ Sơn Tây. Chúa Trịnh từng viết tặng ông 4 chữ ''Nhị giáp phụ tử". Ông nổi tiếng thơ Quốc âm và mê say âm nhạc. Người Xứ Nghệ gọi ông là ''Phong lưu đại thần''. Nguyễn Huệ, tự Hy Hoà, hiệu Giới Hiên. Sinh năm Ất Dậu Vĩnh Thịnh. 25 tuổi đỗ Thi hương, làm Tri huyện Nga Sơn, 29 tuổi trúng Đệ Tam giáp. Năm Vĩnh Hữu thứ 4, truy tặng Trung Trinh đại phu, Hàn lâm viện thừa chỉ, Tiên Lĩnh hầu. Năm Cảnh Hưng thứ 11, Trịnh Ân Vương bao phong Võ Đại vương Thượng đẳng Phúc thần. Nguyễn Tán, tự Soán Phủ, hiệu Cẩm Đình, 21 tuổi đỗ Thi hương, 29 tuổi trúng Đệ.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> tam giáp, Đệ thất danh, được bổ làm tri phủ Khánh Hoà, làm Phân khảo trường Nam Định, rồi làm Đông tri phủ Vĩnh Tường. Nguyễn Mai, tên hiệu Hữu Tuyết tử, sinh năm Mậu Dần đời Tự Đức. 23 tuổi đỗ thứ 3 thi hương, 27 tuổi trúng Đệ tam giáp đồng tiến sĩ. ... Làng người đông, ít đất nhưng vẫn dành một khoản ruộng cho sự học, gọi là học điền chia cho những người đỗ đạt. Tiến sĩ, Cử nhân, Tú tài mỗi người được 1 mẫu 8 sào. Ngoài ra còn ''ruộng đầu xã'' dành cho người đỗ đạt cao nhất của làng. Cái vị trí trang trọng giữa đình làng ở Tiên Điền không phải dành cho bậc cao tuổi nhất mà dành cho người đỗ đạt có công dạy học cho thế hệ trẻ. Lại có ruộng lễ hội: ruộng khai hạ, ruộng tế đinh, tế điền, ruộng xuân thu kỳ hạp... Tiên Điền là làng có nhiều lễ hội nổi tiếng khắp vùng: Lễ lên lão, lễ khai hạ, lễ xuân tế, lễ cầu khoa, lễ cúng cơm mới, lễ gieo mạ. Tiên Điền cũng là làng mà các loại hình văn học dân gian rất đa dạng và phong phú: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện kể, ca dao, tục ngữ, hát ví phường nón, hát dặm, tuồng chèo, hát ả đào, hò, vè. Có lẽ truyền thống văn hoá dân gian này đã nuôi dưỡng tâm hồn các tác gia Tiên Điền, là mạch nguồn giúp cho sự phát triển văn học Tiên Điền. Thời nào đó đã có câu: ''Xính thay một xứ đôi tiên; Tiên Lý phát võ, Tiên Điền phát văn". Ở Hà Tĩnh, có nhiều dòng văn nổi tiếng góp một phần to lớn cho văn học dân tộc. Dòng văn họ Phan Huy với Phan Huy Ích, Phan Huy Vịnh; dòng họ Nguyễn Huy với Nguyễn Huy Hổ, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, đặc biệt là dòng họ Nguyễn Tiên Điền là trụ cột của ''Văn phái Hồng Sơn'' hình thành ở Xứ Nghệ vào thế kỷ XVII-XVIII. Thư tịch cổ còn lại quá ít, những trước tác của những tác giả Tiên Điền tôi thống kê dưới đây chắc hẳn còn thiếu sót nhiều, nhưng cũng đủ cho chúng ta khâm phục kính trọng. Đó là, Nam dương tập yếu kinh nguyên của Nguyễn Nhiệm; Đại hiệu chân kinh, Từ âu chân thuyền, Dịch kinh quyết nghị của Nguyễn Quỳnh; Xuân trung liên vịnh, Xuân Đình tạp vinh, Việt sử bị lãm, Lạng Sơn đoàn thành đồ chí, Cổ lễ nhạc chương thi văn tập, Khổng Tử mộng Chu Công của Nguyễn Nghiễm; Quế Hiên thi tập, Hoa trình tiền hậu tập của Nguyễn Nễ; Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn chiêu hồn, Văn tế Trường Lưu nhị nữ, Thác lời trai phường nón Tiên Điền của Nguyễn Du; Châu trần di cảo của Nguyễn Nghi; Đông phủ thi tập, Huyền cơ đạo thuật bí thư, Nhuận bút Hoa Tiên của Nguyễn Thiện; Quan Đông hải thi tập, Minh Quyên thi tập, Thiên hạ nhân vật thư của Nguyễn Hành; Tiểu học toàn thư của Trần Lục Nam; Thái hiền dư tập, Tập phú, Tập tứ học của Trần Kim Thành... Thời hiện đại, Tiên Điền là ngọn cờ đầu của công tác giáo dục. 3000 dân mà có tới hơn 1000 học sinh từ lớp 1 đến lớp 12. Người Tiên Điền là Tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ công tác trong và ngoài nước khá nhiều, cho đến nay chưa có con số thống kê nào cụ thể. Trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Tiên Điền là làng có đóng góp to lớn. Từ xa xưa, Tiên Điền từng được Nhà Lê ban tên ''Xã Trung Nghĩa'' vì đã có công bảo vệ kinh thành Thãng Long. Nãm 1419, dân Tiên Điền tham gia cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh của Đặng Dung, Nguyễn Biểu dưới triều Trần Trùng Quang. Khi Tây Sơn ra Bắc, dân Tiên Điền không ít người làm việc với Tân triều đóng góp vào cuộc kháng chiến chống quân Thanh. Sử còn ghi tên Nguyễn Nề, Nguyễn Thiện, Nguyễn Công, Hoàng Kim Thành, Hoàng Kim Hoa... Cuối thế kỷ XIX khi vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương dân Tiên Điền đã theo nhà nho yêu nước Hà Văn Mỹ, võ tướng của Phan Đình Phùng, đánh Pháp ở vùng ven sông Lam. Trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh... (Không trích dẫn) Trưa ấy chúng tôi đến nhà ông Nguyễn Mậu, tộc trưởng họ Nguyễn Tiên Điền. Ông Mậu cho con gọi thầy giáo Nguyễn Minh, cháu trực hệ dòng họ đến tiếp chúng tôi..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Câu chuyện bắt đầu từ khu lưu niệm và mộ cụ Nguyễn Du. Anh Minh nói: - Cụm di tích và khu lưu niệm Nguyễn Du bao gồm khu lưu niệm Nguyễn Du, đền thờ Nguyễn Huệ (Anh cả của Nguyễn Nghiễm, bác ruột Nguyễn Du), mộ và đền thờ Nguyễn Nghiễm (thân phụ Nguyễn Du), nhà thờ Nguyễn Trọng (chú ruột Nguyễn Du) và khu mộ Nguyễn Du. Vừa rồi, Nhà nước đầu tý hơn 5 tỷ đồng để đúc tượng nâng cấp khu lưu niệm, làm lại khu mộ Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới, họ Nguyễn chúng tôi mừng lắm. Nay nhìn thấy đẹp hơn, sang hơn trước nhiều lắm. Cần thế và cần hơn thế. Các anh ở bảo tàng thống kê, một năm có gần 400 đoàn khách trong nước với gần 15000 lượt người, 18 đoàn khách nước ngoài với 180 lượt người và hàng vạn khách thăm tự do. Tiếc là, không ai hỏi người họ Nguyễn chúng tôi một lời. Đúc tượng cụ Nguyễn Du khó lắm. Cụ không có ảnh để lại phải từ cốt cách dòng họ, cốt cách làng Tiên Điền, từ Truyện Kiều, thơ chữ Hán của cụ mà tưởng tượng ra. ''Máu thoảng hơn nước lạnh đặc'', các cụ cao tuổi dòng họ Nguyễn mà góp ý thì chắc ''giống'' hơn. Đấy là tôi chưa nói cái ta thường gọi là ''Tâm thức''. Rồi mộ cụ nữa. Lý luận về trước miếu, sau bia đâu chúng tôi không biết nhưng 600 nãm từ khi có làng đến nay, Tiên Điền có vài chục lăng mộ rồi. Không ai dựng cái nhà bia che hết mộ đi như thế... 4- Một dòng họ nhiều đời chịu oan nhưng vẫn lấy chữ "Tâm" làm đầu mà dựng được cơ nghiệp đế vương, nhưng sau cũng vì chữ "Tâm" bị mất rồi đi xuống với sự ân oán kéo dài của hai dòng họ Nguyễn và Hồ Là con dân đất Việt chắc không ai là không biết dòng họ Nguyễn "thuần chủng" xuất phát từ Gia Miêu Nội huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hoá từ đời thuỷ tổ Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc (924-979). Câu truyện này ra sao và quan điểm về việc này như thế nào? ta hãy tạm gác sang một bên sau khi ta xem xét địa thế của vùng này. Huyện Hà Trung ở phía Bắc tỉnh Thanh Hoá, nằm trên đường quốc lộ 1A, có đường sắt xuyên Việt đi qua, cách tỉnh lỵ 22 km. Huyện Hà Trung, Bắc giáp với thị xã Bỉm Sơn và tỉnh Ninh Bình; Nam giáp huyện Hậu Lộc; Tây giáp huyện Thạch Thành và Vĩnh Lộc; Ðông giáp huyện Nga Sơn. Thời thuộc Hán là miền đất thuộc huyện Dư Phát. Thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc Triều là miền đất thuộc huyện Kiến Sơ. Thời Tuỳ Ðường là miền đất thuộc huyện Nhật Nam và một phần Sùng Bình. Thời Ðinh, Lê, Lý như thời Ðường. Thời Trần - Hồ có tên huyện Hà Trung thuộc châu ái trấn Thanh Ðô; lại có huyện Tống Giang cũng thuộc châu ái gồm đất Bắc huyện Nga Sơn và Bắc huyện Hà Trung ngày nay. Thời thuộc Minh là phần đất chủ yếu của huyện Tống Giang. Thời Lê đặt phủ Hà Trung gồm 4 huyện: Tống Giang, Hoằng Hoá, Thuần Hựu, Nga Giang. Huyện Hà Trung ngày nay tương đương huyện Tống Giang thời Lê. Thời Nguyễn, huyện Tống Giang đổi tên là huyện Tống Sơn do phủ Hà Trung kiêm lý (vào năm Minh Mệnh 19- 1838). Về sau, tên Tống Sơn mất mà gọi là phủ Hà Trung. Sau cách mạng Tháng Tám 1945 đổi phủ Hà Trung thành huyện Hà Trung . Năm 1977, sáp nhập hai huyện Hà Trung và Nga Sơn thành huyện Trung Sơn. Năm 1982, tách hai huyện như trước và lấy lại tên huyện Hà Trung. Lại tách một phần đất của huyện để thành lập đơn vị hành chính là Thị xã Bỉm Sơn trực thuộc tỉnh. Huyện Hà Trung nay có một thị trấn huyện lỵ và 24 xã. Huyện lỵ: lỵ sở phủ Hà Trung ở xã Bình Lâm, trước ở Duy Tinh huyện Hậu Lộc; năm Minh Mệnh thứ 19 dời chỗ hiện nay (Ðại Nam nhất thống chí)..

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Như vậy: - Lỵ sở phủ Hà Trung (gồm 4 huyện: Tống Giang,Thuần Hựu, Hoằng Hoá, Nga Giang) đóng ở Duy Tinh (nay thuộc xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc ). Lúc này huyện lỵ Tống Sơn đóng ở Bình Lâm (Ðò Lèn ngày nay). - Năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) dời phủ lỵ Hà Trung về đóng ở huyện lỵ Tống Sơn (tức Bình Lâm . - Từ Cách mạng Tháng Tám 1945, huyện lỵ Hà Trung vẫn đóng ở Bình Lâm xã Hà Lâm nay tách thành thị trấn Hà Trung. NÚI SÔNG 1.Núi Triệu Tường: thuộc làng Gia Miêu xã Hà Long. "Núi Triệu Tường ở cách huyện Tống Sơn 25 dặm về phía Tây - Bắc, trong núi có lăng Triệu Tường. Mạch núi từ huyện Thạch Thành như chuỗi ngọc kéo xuống, nổi lên 12 ngọn liền nhau, cỏ cây xanh tốt như gấm vóc, phía Ðông Bắc có núi Tam Ðiệp đến núi Thần Phù chạy dài ở phía tả; ở phía Tây có núi Ðiều Doanh, núi Trạch Lâm lượn vòng ở đằng trước xưa gọi tên là núi Am, lại gọi là núi Thiên Tôn, năm Minh Mệnh thứ 2 phong tên hiện nay, được theo vào đàn Nam Giao, năm thứ 17 khắc hình tượng vào Cao Ðỉnh, biệt làm danh sơn, chép trong điện thờ. " (Ðại Nam nhất thống chí). Ðây là nơi phát tích trên đất tổ của triều Nguyễn. 2. Núi Chiến Bạch : còn gọi là núi Hoa Lâm thuộc làng Bình Lâm xã Hà Lâm, còn gọi núi Yên Sơn. Trên núi có đền thờ Lê Phụng Hiểu. 3. Núi Dốc Xây: xưa gọi là Tam Ðiệp tức đèo Ba Dội, ba ngọn nổi lên, ngọn giữa cao h1/4n, cửa ngõ Thanh Hoá - Ninh Bình "là cổ họng giữa Bắc Nam" (Ðại Nam nhất thống chí). 4. Núi Kim Âu: ở xã Hà Ðông. Tên xưa là núi Ông Lâu, Hồ Hán Thương đổi là Kim Âu, lại có tên là núi Ðại Lại " sông núi quanh co, cao ngất tầng mây, dưới núi có nước trong, bốn mùa không cạn" (Ðại Nam nhất thống chí). 5. Núi Ngưỡng Sơn: ở thôn Ngọ Xá xã Hà Ngọc. Trong núi có chùa Linh Xứng nổi tiếng, do Lý Thường Kiệt xây dựng và cho văn bia. 6. Tống Giang: sông bắt nguồn từ khe Thạch Bàn thuộc địa giới Ninh Bình - Thanh Hoá chảy xuống, tức là nhánh Long Khê (Khe Rồng), một nhánh từ Thạch Thành chảy xuống qua các xã Hà Tiến, Hà Giang, Hà Dương, gọi là sông Man Bảo; một nhánh từ khe Sùng chảy xuống qua thị xã Bỉm Sơn đến xã Hà Lan. Ba nhánh sông hợp lại ở xã Hà Thanh để chia làm hai nhánh, hoà nước với sống Hoạt chảy ra cửa biển Bạch Câu và cửa biển Nga Thái (giáp Ninh Nình). Tống Giang một thời dùng làm tên huyện Hà Trung (thời Lê). 7. Sông Hoạt: đoạn sông nối với sông Man Bảo từ xã Hà Dương trở xuống đến biển Nga Thái. Ðây là sông lớn, nhận nước của sông Tống Giang ở hai nhánh thuộc địa phận các xã Hà Vân, Hà Thanh. 8. Sông Lèn : một nhánh sông Mã phía Bắc chảy từ Hậu Lộc, qua Ðò Lèn, đối diện bên hữu ngạn là huyện Hậu Lộc, huyện Nga Sơn. Sông Lèn chảy ra cửa biển Nga Bạch. 9. Sông Báo Văn : nối sông Hoạt ở xã Hà Thanh với sông Lèn ở xã Hà Toại. 10. Sông Chiếu Bạch: một đoạn của sông Lèn từ Bình Lâm ra cửa biển Nga Bạch. Sông chảy qua chân núi Chiếu Bạch. Gia Phả Nguyễn Tộc 1-Nguyễn Bặc.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> 2-Nguyễn Đệ Nguyễ n Phúc Đại 3-Nguyễn Quang Lợi Nguyễn Viễn Nguyễn Phúc Lịch 4-Nguyễn Nghĩa Thương Nguyễn Phụng Nguyễn Dương 5-Nguyễn Quốc Nguyễn Nộn Nguyễn Công 6-Nguyễn Công Nguyễn Thế Tứ NguyễnLong Nguyễn Hiền Nguyễn Thuyên 7-Nguyễn giỏi Nguyễn Nạp Hoa Nguyễn Cảnh Nguyễn Hội 8-Nguyễn Công Luật Nguyễn Thành Nguyễn Biên Nguyễn Xí 9-Nguyễn Công Sách Nguyễn Minh Du Nguyễn Lang Nguyễn Hoành Tú 10-Nguyễn Sung Nguyễn Thụ Nguyễn Ứng Long Nguyễn Suý 11-Nguyễn Lý Nguyễn Trãi Nguyễn Phi Hùng Nguyễn Nhữ Soạn 12-Nguyễn Bá Nhung Nguyễn Cương Nguyễn Giã Nguyễn Công Duẩn Nguyễn Bản Nguyễn Anh Võ L 879; Chi can vụ 13-Nguyễn Công Nguyễn Đức Trung Nguyễn Như Trác Nguyễn Công Lộ Nguyễn Hữu Lệ Nguyễn Bá Cao 14-NG.Bá Lân NG.Văn Lang NG.Thị Hằng Ng. Hữu Vinh Nguyễn Công Hộ Nguyễn Văn Lựu 15-Nguyễn Lữ NG.Hoằng Dụ NG.Hữu Kỳ NG.Hữu Đạo Nguyễn Kim Nguyễn Tông Thái 16-NG.Hoằng Thái NG.Hữu Thế NG.Hữu Dần Nguyễn Uông Nguyễn Hoàng Từ Lâm & Công Dũng 17-NG.Gia Ô NG.H.Định &nb sp; NG.Huyền Đức NG.Triệu Văn NG.Phúc Hảo NG.Phúc Hải NG.Phúc Nguyên 18-NG.Gia Thiều Nguyễn Thả Nguyễn Hữu Dật Nguyễn Phúc Lan 19-Nguyễn Hữu Hào Nguyễn Hữu Cảnh Nguyễn Phúc Tần 20-Nguyễn Văn Tạo Nguyễn Hữu Tú Nguyễn Phúc Thái.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> 21-Nguyễn Phúc Chu 22-Nguyễn Phúc Thụ 23-Nguyễn Phúc Khoát 24-Nguyễn Phúc Hiệu Nguyễn Phúc Luân Nguyễn Phúc Thuần 25-Nguyễn Phúc Dương Vua Gia Long 26-Vua Minh Mạng 27-Vua Thiệu Trị 28-Hường Y Hường Cai Vua Hiệp Hoà Vua Tự Đức 29-Vua Dục Đức Vua Hàm Nghi Vua Kiến Phước Vua Đồng Khánh 30-Vua Thành Thái Vua Khải Định 31-Vua Duy Tân Vua Bảo Đại ... Theo Thế Phả của dòng họ Nguyễn tộc, Định Quốc Công tên huý là Nguyễn Bặc, thân phụ và thân mẫu của ông không được rõ, ông được xem là thuỷ tổ của dòng họ "Nguyễn Phúc".Nguyễn Bặc (924-979) là bạn chí thân từ thủa hàn vi của Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng. Sau khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, Nguyễn Bặc được phong làm Định Quốc Công, đứng đầu các công thần. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị ám sát , Nguyễn Bặc bắt giết thích khách và tôn phò con của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Tuệ . Sau này Lê Hoàn có ý định phản lại nhà Đinh, Nguyễn Bặc cùng với Đinh Điền đem quân chống lại nhưng thất bại ông bị giết chết đó là lần thiệt thòi thứ nhất của dòng họ Nguyễn Phúc Tiếp tục lần theo lịch sử và gia phả của dòng họ Nguyễn tại Gia Miêu đời nào cũng sinh ra người tài giúp nước trong đó phải kể đến vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Về nguồn gốc của các chi họ, gia phả đều thống nhất ghi: * Nguyên quán cụ tổ tiên đời trước của họ ta ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Chi Ngãi, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Sau dời về làng Hạ, xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc; phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam. Tôi xin trích một bài viết hay về dòng họ ông : "Về gốc tích cội nguồn họ Nguyễn ở thôn Chi Ngại, truyền thuyết của dòng họ kể rằng: Tổ tiên dòng họ Thái Tể triều Đinh - Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc ( 924 - 979), có công giúp Đinh Bộ Lĩnh thống nhất 12 sứ quân để lập ra triều Đinh. Khi Nguyễn Bặc kéo quân về Côn Sơn dẹp sứ quân của Phạm Phòng Át ( Phạm Bạch Hổ), ông để lại con cháu của mình cùng năm vị tướng quân họ Phí ở lại Chi Ngại cai quản vùng đất này. Khi năm anh em họ Phí mất, người dân Chi Ngại tôn họ làm Thành Hoàng, lập đền thờ cúng. Đình làng Chi Ngại bị phá hủy trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng bài vị, ngai thờ và thần tích của năm vị tướng họ Phí vẫn được lưu giữ thờ phụng đến ngày nay (nay bài vị của năm vị Thành Hoàng thờ ở chùa Ngái của thôn Chi Ngại). Qua những tư liệu trên, chúng ta thấy nguồn gốc dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại có.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> xuất xứ từ Nguyễn Bặc - Thái tể Định Quốc Công triều Đinh, quê ở huyện Hoàng Hóa, Thanh Hóa, di cư ra khoảng cuối thế kỷ X. Từ đó dòng họ Nguyễn phát triển đến đời cụ Tiên Nghiêm, sinh ra hai con trai. Vì nhà nghèo, hai anh em họ Nguyễn từ Chi Ngại đến Trại Ổi (tức làng Nhị Khê - Thường Tín, Hà Đông) làm thuê cho một nhà bán tương để sinh nhai. Nhờ một sự may mắn, hai anh em biết được ngôi đất quý ở cánh đồng Trung, bèn mang mộ tổ từ Chi Ngại sang táng ở bãi đất này. Ngôi mộ phát tích đó nay vẫn còn, người Nhị Khê gọi là “Dàn Cấm Địa” ( Người viết đã đến tận nơi xem ngôi mộ này). Một thời gian sau người em sang định cư ở thôn Cổ Hoạch: (huyện Thanh Oai, Hà Đông), người anh ở lại Nhị Khê. Từ đó lập nên ba chi họ Nguyễn. Chi họ gốc ở Chi Ngại, Chi họ Nhị Khê và chi họ Canh Hoạch. - Chi họ Nguyễn ở Canh Hoạch, đến thời Lê Mạc (thế kỷ XVI) sinh ra Nguyễn Thiến đỗ Trạng Nguyên, phù giúp vua Lê Trang Tôn trừ nhà Mạc, dẹp loạn Ai Lao, đánh Chiêm Thành. Sau con cháu vào Hà Tĩnh lập nên Chi họ Nguyễn Tiên Điền, cháu ngoại là Đại thi hào Nguyễn Du. Đến thế kỷ XX, cụ Nguyễn Du được Hiệp hội UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. - Theo gia phả chi họ Nguyễn Nhị Khê ( khoảng năm 1455) thì cụ tổ sinh ra Nguyễn Ứng Long - đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh. 19 tuổi ông đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ, đệ nhị danh bảng nhãn thời Trần Duệ Tông (1374). Năm 1401, Nguyễn Phi Khanh ra làm quan dưới triều Hồ. Năm 1407, giặc Minh sang xâm lược nước ta, ông bị bắt đưa về Vạn Sơn Điếm- tỉnh Hồ Nam- Trung Quốc và mất ở đó. Hài cốt của ông được người con thứ ba là Nguyễn Phi Hùng đưa về táng ở núi Báo Đức (còn gọi là núi Bái Vọng). Nay thuộc xã Hoàng Hoa Thám, huyện Chí Linh, Hải Dương (cách làng Chi Ngại khoảng năm km về phía đông). - Nguyễn Phi Khanh lấy bà Trần Thị Thái hiệu là Ngọc Điền, con quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Bà sinh được 4 người con trong đó có Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Hùng, Nguyễn Phi Ly. Cụ bà Trần Thị Thái mất sớm (năm 1490). Cụ Nguyễn Phi Khanh lấy bà vợ kế người họ Nhữ ở xã Mộc Nhuận, nay là xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Bà sinh được hai người con trai tên là Nguyễn Nhữ Soạn. Ông là một trong số ít người tham gia tiền khởi nghĩa Lam Sơn. Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Như Soạn là vị tướng tài ba lập nhiều công được vua Lê phong là Binh Ngô Khai quốc công thần. Sau khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi và Nguyễn Như Soạn cùng làm quan đông triều, anh là quan văn, em là quan võ làm rạng tổ tông. Từ đó dòng họ Nguyễn phát triển. Các chi đều lấy đệ Nhất Thái Thượng Cao Tổ của dòng họ là Nguyễn Phi Khanh (đời thứ nhất). Đệ nhị tổ (đời thứ 2) là Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, ông sinh năm 1380. Do có công lao lớn Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ ban họ vua là Lê Trai và phong chức tước: "Khai quốc công thần, Nhập nội hành khiển, Trung thư hàn lâm ngự sử, Lục Bộ Thượng Thư, Tứ Kim Ngư Đại Thượng Hộ Quan Phục Hầu”. Năm 1442, vụ án Lệ Chi Viên oan khuất đã kết thúc đời ông cùng ba họ. Nguyễn Trãi có năm người vợ. + Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù. + Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích. + Bà Thị Lộ: Không có con. + Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Ánh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên) + Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất- huyện Kim Môn, Hải Dương. Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít thoát nạn là: Nguyễn Phi Hùng con Nguyễn Phi Khanh là em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh; Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương. Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ năm của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trò.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh Hóa); Sau lại về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Nay là thôn Dự Quần, xã Xuân Lâm, huyện Tĩnh Gia. Tại đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Thanh Vũ. Mặc dù trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn Nguyễn Anh Vũ vẫn nối chí cha ông, dùi mài kinh sử, thi đỗ hương cống. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông ra chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, vụ án Lệ Chi Viên mới đến hồi kết thúc sự truy sát của triều đình. Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ Tĩnh Gia – Thanh Hóa, cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nhớ ơn ông cha tổ tiên, Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần. Lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt. Ông xây dựng từ đường tổ tiên và người cha quá cố của mình. Lấy ngày mất của Nguyễn Trãi, 16 tháng 8 là ngày giỗ họ. Đời sau do khó khăn về kinh tế, tháng tám lại gió bão nhiều, không thuận tiện cho việc tế tổ, họ chuyển ngày giỗ sang ngày 21 tháng Giêng (ngày mất của tổ Nguyễn Anh Vũ). Nguyễn Anh Vũ có hai bà vợ, tám người con: Bà cả sinh hạ sáu con trai một con gái. - Con cả là Nguyễn Tạc năm 23 tuổi đỗ tiến sĩ đệ tam danh "Thám Hoa" được bổ nhiệm chức trấn thủ xứ An Bang (khu vực tỉnh Quảng Ninh hiện nay). Sau đi xứ Trung Quốc bị đắm thuyền mất ở hồ Động Đình, tỉnh Hà Nam - Trung Quốc. Sau vụ Lệ Chi Viên ở quê tổ Chi Ngại và Nhị Khê, dòng họ thất tán không còn ai. Nguyễn Anh Vũ cử người con thứ hai là Nguyễn Đám trở về Nhị Khê để khởi dựng lại dòng họ, tu sửa từ đường phần mộ tổ để thờ cúng. Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, dòng họ Nguyễn ở Nhị Khê lại cử cụ Nguyễn Thung hiệu là Phúc Khánh trở về chốn tổ là thôn Chi Ngại để chấn hưng dòng họ và trông coi phần mộ tổ ở núi Bái Vọng. Vì vậy chi họ Nguyễn ở Chi Ngại lấy đệm là Nguyễn Quy (Quy là quay trở lại gốc tổ tiên). - Người con thứ ba của Anh Vũ là Nguyễn Quân, thi trúng Sùng Văn Quán, được bổ nhiệm làm Thừa tuyên phủ Tĩnh Gia. Hậu duệ là con cháu làng Dự Quần ngày nay. - Con thứ tư là Nguyễn Thiêm. - Con thứ năm là Nguyễn Giáp, về Xuân Dục, lập gia chi họ Xuân Dục, ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. - Con thứ sáu là Nguyễn Thung, về xã Hải Phương huyện Hải Hậu - Nam Định. + Bà vợ thứ hai của Anh Vũ sinh được một con trai là Nguyễn Chân Phượng sau đổi sang họ Phạm về thôn Nỗ Vệ, xã Thụy Phú, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, để trông coi phần mộ và từ đường bà Phạm Thị Mẫn - thân mẫu của Anh Vũ. Nay thành chi họ Phạm Nguyễn. Như vậy kể từ sau vụ án Lệ Chi Viên năm 1442, đến năm 1464 khi vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, con cháu Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi mới phục hưng trở lại. Đến nay thành dòng họ lớn, các lớp con cháu không ngừng kế tiếp truyền thống tổ tiên, cống hiến nhiều công lao cho đất nước. Theo phả các chi họ, từ cụ Nguyễn Phi Khanh đến các đời sau, đời nào cũng có người đỗ đạt làm quan giúp nước. Qua thống kê ở năm chi họ là: Dự Quần, Canh Hoạch, Thuỵ Phú, Phù Khê, Xuân Dục, từ nửa thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX đã có 11 tiến sĩ nho học, một quận công, cùng hàng chục người đỗ cử nhân, tam trường, tứ trường... Họ được bổ nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình làm tri phủ, tri huyện, võ quan... ở các địa phương. Họ Nguyễn ở Phủ Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có tới 10 tiến sĩ (sáu tiến sĩ nho học), hai tiến sĩ, ba giáo sư, 42 cử nhân, 9 bác sĩ, một nhạc sĩ... Trong phong trào cách mạng vô sản đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương (1938 1940) là hậu duệ đời thứ 17 của dòng họ này. Chi họ Nguyễn Xuân Dục - Mỹ Hào - Hưng Yên, có bốn tiến sĩ (hai tiến sĩ nho học), một giáo sư, bốn phó giáo sư, 30 cử nhân. Trong phong trào yêu nước cuối thế kỷ.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> XIX, một người con ưu tú của dòng họ là Nguyễn Thiện Thuật tự là Mạnh Hiếu, (cử nhân khoa Bính Tý 1866) cùng các em là Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Thiện Dương đã thu nạp thân hào nghĩa sĩ, tế cờ khởi nghĩa Bãi Sậy, chống thực dân Pháp. Khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã (1892), Nguyễn Mạnh Hiếu; Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Thiện Dương, Nguyễn Tuyễn Chi... còn tiếp tục phò vua Hàm Nghi, vua Duy Tân trong phong trào Cần Vương. Các ông còn tham gia khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám, phong trào Quang Phục Hội của Phan Bội Châu chống thực dân Pháp. Hơn năm thế kỷ hồi sinh phát triển dòng họ Nguyễn Trãi qua biết bao thăng trầm, có lúc tưởng như đã tuyệt diệt. Nhưng bởi phúc ấm tổ tiên với lòng nhân nghĩa thấu đất trời, dòng họ Nguyễn từ một mầm non đơn độc giữa phong ba bão tố, vẫn tồn tại phát triển đến ngày nay. Các thế hệ con cháu nối tiếp nhau kế thừa xứng đáng truyền thống: Yêu nước, hiếu học, "Bình dị, Cận dân"; "Lo trước vui sau giữ nếp nhà" của Ức Trai, để không ngừng học hành cống hiến xây dựng Tổ quốc Việt Nam." Đó là lần thiệt thòi thứ hai của dòng họ trung nghĩa có nhiều đóng góp cho dân tộc.

<span class='text_page_counter'>(50)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×