Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ảnh hưởng của vốn con người đến thu nhập cá nhân của người lao động ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.2 KB, 10 trang )

Ảnh hưởng của vốn con người đến thu nhập cá nhân
của người lao động ở Việt Nam
Phạm Thị Lý

Nguyễn Thanh Trọng

Lê Thị Kim Huệ

Nguyễn Thị Đông

Đại học Kinh tế TP. HCM

Đại học Kinh tế - Luật TP. HCM

Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên

Đại học Kinh tế- Luật TP.HCM

Ngày nhận: 21/02/2021
Ngày nhận bản sửa: 16/03/2021
Ngày duyệt đăng: 23/03/2021

Tóm tắt: Các nghiên cứu về tăng trưởng trong những năm gần đây thường đề cập

đến mối quan hệ giữa vốn con người và tăng trưởng kinh tế. Điều này khẳng định
tầm quan trọng của vốn con người là không thể tranh cãi. Với mong muốn nghiên
cứu ảnh hưởng của vốn con người đến thu nhập cá nhân của người lao động, bài
viết đã sử dụng mơ hình hồi quy vốn con người theo thu nhập của Mincer. Kết quả
The impact of human capital on individual income in Vietnam

Abstract: In recent years, studies on the topic of growth often refer to the relationship between human


capital and economic growth. This asserts that the importance of human capital is undisputed. With
the desire to study the effect of human capital on individual income in Vietnam, the article has used
the Mincer earnings function. Research results show that employee’s income is affected by three
factors: education expenditure, working time, and education level. However, the study also shows that
the correlation between college graduation and higher and income growth is quite low. Through these
research results, Vietnam needs to continue to improve its human resource development strategy as
well as increase the efficiency of investment in education in the coming years.
Keywords: human capital, individual income, earnings function.
Ly Thi Pham
Email:
University of Economics Ho Chi Minh City

Trong Thanh Nguyen
Email:
University of Economics and Law, Vietnam National University Ho Chi Minh City
Hue Thi Kim Le
Email:
Banking Academy – Phu Yen Campus

Dong Thi Nguyen
Email:
University of Economic and Law, Vietnam National University Ho Chi Minh City

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 228- Tháng 5. 2021

56

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X



PHẠM THỊ LÝ - NGUYỄN THANH TRỌNG - LÊ THỊ KIM HUỆ - NGUYỄN THỊ ĐÔNG

nghiên cứu chỉ ra rằng thu nhập của người lao động chịu ảnh hưởng bởi mức chi
tiêu cho giáo dục, thời gian làm việc và trình độ học vấn của người lao động. Tuy
nhiên, nghiên cứu cũng tìm thấy mối tương quan giữa trình độ tốt nghiệp bậc cao
đẳng trở lên và tăng trưởng thu nhập vẫn còn khá thấp. Với kết quả nghiên cứu trên,
Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực cũng như
tăng cường hiệu quả đầu tư cho giáo dục trong những năm tới.
Từ khoá: vốn con người, thu nhập cá nhân, hàm thu nhập.

1. Giới thiệu
Vốn con người từ lâu được xác định là tài
sản của mỗi quốc gia và là một trong bốn
nguồn lực tạo ra tăng trưởng kinh tế bên
cạnh nguồn tài nguyên thiên nhiên, tư bản
hiện vật và tri thức công nghệ. Từ khi có sự
phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật
cùng với sự khan hiếm tài nguyên thiên
nhiên, đặc biệt là sự xuất hiện của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư với những đột
phá chưa từng có về sản xuất thơng minh,
thì vốn con người càng trở thành đối tượng
ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển
đất nước. Theo đó, vốn con người có thể
giúp người lao động nâng cao năng suất lao
động, tăng khả năng tìm kiếm việc làm và
tăng thu nhập cá nhân (Koch & McGrath,
1996; Vinokur, 2000; Dong & Hue, 2019).

Vốn con người có thể tác động tích cực đến
năng lực và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp (Lepak & Snell, 1999; Arthur J. B.,
1992; Arthur J. B., 1994). Vốn con người
là động lực, là nền tảng để thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu dựa
vào máy móc và cơng nghệ (Nelson &
Phelps, 1966; Mincer, 1981; Khan, 2005;
Affandi,  Anugrah, & Bary, 2019).
Việt Nam là đất nước dồi dào về nguồn lao
động nhưng tài nguyên vốn con người chưa
được phát huy. Mặc dù đất nước đã trải qua
30 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh
tế, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch
mạnh mẽ từ nông nghiệp sang công nghiệp

và dịch vụ, nhưng lao động chưa qua đào
tạo vẫn chiếm tỷ trọng cao. Tính riêng cho
khu vực nơng nghiệp đến năm 2019 vẫn
thu hút gần 41% lao động đang làm việc
trong nền kinh tế, và trong tổng lao động
nông nghiệp vẫn cịn có đến 86,1% là lao
động giản đơn, chưa qua đào tạo nên kết
quả sản xuất chỉ tạo ra được 16% GDP với
năng suất lao động đạt ở mức 36,6% so với
năng suất lao động chung, 33% so với năng
suất lao động của nhóm ngành dịch vụ và
26,4% so với năng suất lao động của nhóm
ngành cơng nghiệp (Tổng cục Thống kê,
2020). Do đó, để đạt được mục tiêu dân

giàu nước mạnh, Việt Nam cần hướng đến
một mơ hình tăng trưởng mới: tăng trưởng
dựa vào năng suất lao động, gắn với tạo ra
nhiều việc làm có chất lượng cao trên quy
mơ tồn xã hội. Trên cơ sở nhận định vốn
con người là nguồn lực chủ yếu góp phần
nâng cao năng suất lao động, tạo nền tảng
vững chắc để đảm bảo mức sống ngày càng
được cải thiện của người dân, trong bài viết
này, nhóm tác giả hướng tới phân tích yếu
tố vốn con người trong tương quan với thu
nhập cá nhân của người lao động dựa trên
mơ hình thu nhập của Mincer và sử dụng số
liệu từ khảo sát mức sống hộ gia đình Việt
Nam (VHLSS) giai đoạn 2002- 2018.
2. Tổng quan nghiên cứu
Khái niệm vốn con người
Vốn con người đã từng được đề cập bởi

Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

57


Ảnh hưởng của vốn con người đến thu nhập cá nhân của người lao động ở Việt Nam

nhà kinh tế học Adam Smith (1776),“tuy
vậy khái niệm này vẫn còn quá xa lạ khi
các nhà kinh tế học thời bấy giờ thường
chỉ chú trọng đến hai yếu tố đầu vào trong

sản xuất là vốn tư bản và máy móc thiết
bị.”Đến những năm 60 của thế kỷ XX,
Mincer (1958), Becker (1964) và Schultz
(1961) được coi là những người đã khởi
đầu cho sự quan tâm đến khái niệm vốn con
người, họ cho rằng yếu tố hình thành nên
vốn con người là kỹ năng và tri thức”mà
người lao động thu nhận được. Sau đó,
vốn con người được Westphalen (1999),
Rastogi (2002) khái quát hóa thành kiến
thức, năng lực, thái độ và hành vi trong một
cá nhân. Mở rộng hơn về khái niệm này,
OECD (2001) đã nhấn mạnh đến phẩm
chất và kỹ năng trong quá trình phát triển
vốn con người. Các phẩm chất và kỹ năng
đó bao gồm: khả năng nghe, nói, đọc, viết
bằng tiếng mẹ đẻ và bằng ngoại ngữ (khả
năng giao tiếp);“khả năng đòi hỏi tính logic
của tốn học (khả năng số học); sự kiên trì,
sự tiên phong, khả năng tự học, tự điều tiết
bản thân, đánh giá sự việc dựa trên những
chuẩn mực đạo đức nhất định và mục tiêu
sống của chính người đó (khả năng tự thấu
hiểu).”Tiếp tục vịng ln chuyển, vốn con
người sẽ đại diện cho nhân tố con người
(human factor) trong một tổ chức, đại diện
cho kiến thức chuyên môn (expertise), kỹ
năng (skills), sự hiểu biết (intelligence)
để giúp tạo ra sự khác biệt cho tổ chức đó
(Bontis, 1998).

Xét về nguồn gốc vốn con người, Bong
(2009) nhận định giá trị của vốn con người
được tạo ra thơng qua gia đình, trường học,
công việc. Cụ thể hơn, Alan và cộng sự
(2008) phân tích vốn con người được hình
thành từ các loại hình đào tạo bắt buộc, đào
tạo sau trung học hay đào tạo nghề. Bên
cạnh giáo dục, Appleton & Teal(1998) còn
cho rằng y tế đóng vai trị quan trọng trong
q trình hình thành vốn con người, bởi nó

58

cung cấp sức khỏe và dinh dưỡng để tạo
nên một cơ thể khỏe mạnh, có sức sống, từ
đó giúp con người hấp thụ được lượng kiến
thức và kỹ năng từ trường học.
Tựu trung lại, vốn con người là những kiến
thức, kỹ năng và kinh nghiệm được tích lũy
chủ yếu thơng qua q trình đầu tư suốt đời
cho giáo dục đào tạo cũng như q trình
tích lũy kinh nghiệm. Định nghĩa trên cho
thấy vốn con người là vơ hình, lượng vốn
con người khơng thể xác định một cách
trực tiếp giống như vốn vật chất, do đó việc
đo lường vốn con người phải được xác định
một cách gián tiếp.”
Vai trò của vốn con người đối với thu
nhập và các nghiên cứu liên quan
Ở bất kỳ hình thái kinh tế- xã hội nào, trình

độ và tính chất của lực lượng sản xuất ra
sao thì các nguồn lực cho sự phát triển của
mỗi quốc gia vẫn là tài nguyên thiên nhiên,
nguồn vốn, máy móc thiết bị, khoa học
cơng nghệ và con người. Trong các nguồn
lực đó, nguồn lực con người là nguồn lực
quan trọng nhất vì nó là nguồn gốc của
mọi của cải vật chất và có sức sáng tạo ra
các nền văn minh (Dong & Hue, 2019).
Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại
cho thấy, một quốc gia giàu có chưa hẳn là
một quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên
và có địa thế thuận lợi cho sự phát triển.
Trong đó, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ
hay Singapore đều là những minh chứng cụ
thể. Vì tầm quan trọng của vốn con người
nên rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu
về vai trị của nó dưới cả 2 góc độ vi mô và
vĩ mô.
Ở cấp độ vĩ mô, vốn con người của một
quốc gia phụ thuộc vào hệ thống giáo dục
quốc gia, hệ thống việc làm, mức độ hội
nhập của nền kinh tế, sự đổi mới của khoa
học- công nghệ, sự ổn định của nền kinh tế.
Ở cấp độ vi mô, Mincer (1981) tiếp cận vốn
con người thông qua mơ hình hồi quy theo

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021



PHẠM THỊ LÝ - NGUYỄN THANH TRỌNG - LÊ THỊ KIM HUỆ - NGUYỄN THỊ ĐÔNG

hàm thu nhập, nghiên cứu này cho thấy
tích luỹ vốn con người của từng cá nhân
mang lại lợi ích kinh tế cho chính cá nhân
đó. Điều đó có nghĩa là muốn thu nhập của
cá nhân tăng lên thì phải gia tăng tích lũy
vốn con người. Đây cũng là giải pháp để
những người có thu nhập thấp cải thiện thu
nhập của mình, từ đó giảm bớt khoảng cách
giàu nghèo trong xã hội. Tương tự Mincer,
Moock và cộng sự (1998) đã nghiên cứu về
tác động của trình độ giáo dục đến sự gia
tăng của thu nhập. Kết quả nghiên cứu cho
thấy có sự tác động của trình độ giáo dục
đến thu nhập và sự tác động này là khác
biệt theo khu vực và giới tính. Theo đó,
đối với khu vực Nhà nước thì tác động của
trình độ giáo dục đối với thu nhập là mạnh
hơn so với khu vực tư nhân và đối với nữ
giới thì sự tác động này là mạnh hơn.
Ở một khía cạnh khác, Fernandez &
Rogerson (1992) đã nghiên cứu mối quan
hệ giữa tích lũy của vốn con người và phân
phối thu nhập. Nghiên cứu cho rằng các cá
nhân đều nhận thức được tầm quan trọng
của giáo dục đối với thu nhập trong tương
lai. Tuy nhiên, vì thu nhập ban đầu của mỗi
cá nhân là khác nhau, nên khả năng đầu tư
vào giáo dục của họ cũng khác nhau. Trong

trường hợp này, chất lượng của hệ thống
giáo dục cùng với trợ cấp của chính phủ sẽ
làm tăng tích lũy vốn con người. Cùng quan
điểm này, Jong-Wha & Hanol (2018) đã
sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia trong giai
đoạn 1980- 2015 để chạy hồi quy mối quan
hệ giữa vốn con người và bất bình đẳng thu
nhập với quy mô mẫu bao gồm 95 quốc gia
thuộc các nền kinh tế phát triển (24); khu
vực Đông Á, Thái Bình Dương (11); Đơng
Âu, Trung Á (7); Vùng Caribe và Mỹ Latin
(20); Nam Á (5); Trung Đông (9); Châu Phi
hạ Sahara (19) . Kết quả nghiên cứu cho
thấy phân phối giáo dục cơng bằng sẽ góp
phần đáng kể vào việc giảm bất bình đẳng
thu nhập. Mở rộng giáo dục là một yếu tố

chính trong việc giảm bất bình đẳng giáo
dục và do đó sẽ làm giảm bất bình đẳng
thu nhập. Trái với Jong-Wha & Hanol,
Climent & Domenech (2014) sử dụng bộ
dữ liệu cập nhật về bất bình đẳng vốn con
người và thu nhập cho 146 quốc gia trong
giai đoạn 1950- 2010, nghiên cứu phát hiện
ra rằng mặc dù có sự giảm bất bình đẳng
về vốn con người trên tồn thế giới, nhưng
sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
hầu như không thay đổi. Ở nhiều vùng, hệ
số Gini thu nhập năm 1960 rất giống với
năm 2005. Do đó, nghiên cứu đưa ra kết

luận rằng cải thiện giáo dục khơng phải
là điều kiện đủ để giảm bất bình đẳng thu
nhập, mặc dù chúng cải thiện đáng kể mức
sống của những người ở dưới mức thu nhập
trung bình.
Ở Việt Nam, các cơng trình tiêu biểu nghiên
cứu về sự tác động của vốn con người (được
đại diện bởi trình độ giáo dục) đến thu nhập
cá nhân phải kể đến là Nguyễn Nguyệt Nga
(2002) trong nghiên cứu “Trends in the
Education Sector from 1993- 98” đã kết
luận nếu trình độ giáo dục được nâng lên
cấp cơ sở trung học sẽ làm cho thu nhập
cá nhân được tăng thêm. Tuy nhiên, nghiên
cứu này cũng chỉ ra rằng các hệ dạy nghề
khơng có tác động đến sự gia tăng thu nhập
của cá nhân. Nguyễn Bá Ngọc (2008) đã
đặt ra câu hỏi “Tại sao mức thu nhập của
mọi người là khác nhau?”, đồng thời ơng
có đưa ra câu trả lời đó chính là: Mọi người
có thu nhập khác nhau cơ bản là do vốn con
người khác nhau. Vì vậy việc mọi người
đầu tư vào vốn con người bao gồm việc đưa
ra các quyết định về giáo dục, đào tạo, y tế
và những yếu tố khác nhằm bổ sung cho
kiến thức, kỹ năng và sức khỏe sẽ làm cải
thiện thu nhập và nghề nghiệp trong tương
lai. Ngoài ra, Bùi Quang Bình (2008) đã có
một nghiên cứu cụ thể hơn đối với các hộ
sản xuất cà phê ở Tây Nguyên. Theo đó, tác

giả này dựa trên cách tiếp cận của Mincer

Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

59


Ảnh hưởng của vốn con người đến thu nhập cá nhân của người lao động ở Việt Nam

với các số liệu điều tra từ các hộ gia đình
trồng cà phê ở Tây Nguyên đã đưa ra kết
luận: trình độ học vấn của các chủ hộ trồng
cà phê tỷ lệ thuận với thu nhập của họ.
Như vậy, tổng quan các nghiên cứu quốc
tế và trong nước cho thấy mối quan hệ biện
chứng giữa vốn con người và thu nhập của
cá nhân. Các nghiên cứu đều chứng minh
rằng vốn con người có vai trị vơ cùng quan
trọng đối với thu nhập của các cá nhân
người lao động, và giáo dục là nhân tố thúc
đẩy tăng năng suất, tạo điều kiện nâng cao
đời sống vật chất của người lao động. Một
khi vốn con người, mà đại diện là các chỉ số
của giáo dục- đào tạo được tăng lên thì thu
nhập của người lao động cũng sẽ tăng lên.
Mở rộng ở cấp độ vĩ mô, vốn con người là
nhân tố quan trong giúp các quốc gia có
thể duy trì tốc độ và chất lượng tăng trưởng
kinh tế.
3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên lập luận rằng số tiền công được
trả cho một người trong hiện tại phụ thuộc
vào mức độ đầu tư vào vốn con người của
bản thân họ trước đó, Mincer (1974) đã xây
dựng phương trình về thu nhập có dạng
như sau:
Lnyt = α0+ α1S + α2Z + α3Z2 + u
Trong đó:
- S: số năm đi học
- Z: số năm kinh nghiệm tính đến thời điểm
t, với giả định kinh nghiệm là liên tục và
bắt đầu ngay khi kết thúc việc đi học thì
số năm kinh nghiệm sẽ được tính bằng số
tuổi hiện tại (t) trừ đi số năm đi học (s) và
trừ đi số tuổi bắt đầu đi học (là 6). Vậy: z
=t–s–6
- α0: thu nhập hàng năm của người khơng đi
học và khơng có kinh nghiệm
- α1, α2,α3 lần lượt là các hệ số hồi quy giải
thích phần trăm thay đổi của thu nhập khi

60

các biến độc lập tăng thêm một năm.
Hàm thu nhập của Mincer cho thấy sức
ảnh hưởng của vốn con người đối với thu
nhập cá nhân là vơ cùng quan trọng. Do
đó, muốn gia tăng thu nhập thì cần phải
gia tăng tích luỹ vốn con người thông qua

giáo dục và đào tạo. Đây cũng là phương
trình tiền lương dạng tĩnh được sử dụng
rất nhiều trong các cơng trình nghiên cứu
về tiền lương và phân tích sự chênh lệch
tiền lương. Kế thừa phương pháp này, Card
(1995) đã mở rộng hàm thu nhập với các
biến độc lập không chỉ cố định ở các biến S
hay Z như trong phương trình của Mincer
(1974), mà cịn có thêm các biến độc lập
khác có tác động đến thu nhập như giới
tính, chi tiêu cho giáo dục, cơng việc, ngành
nghề... Tham khảo mơ hình hàm thu nhập
Mincer được mở rộng bởi Card (1995),
cùng với tính khả thi của số liệu hiện có,
nghiên cứu đã thiết lập phương trình hồi
quy về thu nhập của người lao động Việt
Nam có dạng như sau:
Lnyt = α0+ α1LnEdu + α2Hour + α2H + u
Trong đó, Y là thu nhập bình qn trong
năm của người lao động; Edu là chi tiêu
cho giáo dục trong năm; Hour là số giờ làm
việc trung bình trong tuần; H là trình độ lao
động, được chia thành ba mức: H1, tỷ lệ lao
động tốt nghiệp trung học cơ sở; H2, tỷ lệ
lao động tốt nghiệp trung học phổ thông và
H3, tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung cấp, cao
đẳng trở lên.
Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng số liệu từ khảo sát mức
sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) giai

đoạn 2002 - 2018. Đây là các khảo sát được
tiến hành bởi Tổng cục Thống kê nhằm
theo dõi và giám sát một cách có hệ thống
mức sống các tầng lớp dân cư Việt Nam.
Từ năm 2002 đến nay, Tổng cục Thống

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021


PHẠM THỊ LÝ - NGUYỄN THANH TRỌNG - LÊ THỊ KIM HUỆ - NGUYỄN THỊ ĐÔNG

kê đã tiến hành điều tra khảo sát mức sống
hộ gia đình Việt Nam 2 năm một lần vào
những năm chẵn. Nội dung thu thập từ
cuộc điều tra VHLSS chủ yếu phản ánh
mức sống của người dân trong hộ gia đình
và những điều kiện kinh tế - xã hội cơ bản
của xã/phường có tác động đến mức sống
của người dân nơi hộ sinh sống. Đối tượng
điều tra của VHLSS gồm các hộ gia đình,
các thành viên trong hộ gia đình và các
xã phường” trên phạm vi tất cả các tỉnh/
thành phố trực thuộc trung ương. Phương
pháp chọn mẫu của VHLSS được thực hiện
thông qua sự tư vấn và giám sát của Viện
khoa học Thống kê, UNDP và WB nhằm
đảm bảo tính đại diện của mẫu được chọn
cho tổng thể nghiên cứu.
Quy mô mẫu nghiên cứu trong bài viết bao
gồm 45 quan sát, trải dài trong 9 năm chẵn

của giai đoạn 2002 – 2018 với mỗi năm có
5 quan sát tương ứng với 5 nhóm thu nhập
khác nhau. Đây là tổng số nhân khẩu điều
tra được sắp xếp theo mức thu nhập bình
quân đầu người từ thấp đến cao, sau đó chia
thành 5 nhóm với số nhân khẩu bằng nhau,
mỗi nhóm có 20% số nhân khẩu theo thứ
tự: nhóm 1, nhóm có thu nhập thấp nhất;
nhóm 2, nhóm có thu nhập dưới trung bình;
nhóm 3, nhóm có thu nhập trung bình;
nhóm 4, nhóm có thu nhập khá; và nhóm 5,

nhóm có thu nhập cao nhất.
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Mô tả kết quả thống kê
Thực hiện hồi quy ảnh hưởng của vốn con
người đến thu nhập cá nhân của người lao
động Việt Nam giai đoạn 2002- 2018, các
biến số trong mơ hình hồi quy được mơ tả
bởi giá trị trung bình ở Bảng 1. Tại đó, giá
trị trung bình cho biết mức độ san bằng giá
trị của các biến qua thời gian, còn độ lệch
chuẩn cho biết mức độ dao động của biến
số đó xung quanh giá trị trung bình.
4.2. Kết quả hồi qui
Bên cạnh mô tả thống kê dữ liệu nghiên cứu,
kiểm định nghiệm đơn vị cũng được thực
hiện để tránh hồi quy giả mạo. Tính tốn
từ số liệu thu thập của Tổng cục Thống kê
cho thấy các biến số nghiên cứu đều dừng ở

chuỗi gốc, D(0), với mức ý nghĩa 1% và 5%.
Trên cơ sở chạy hồi quy theo dữ liệu bảng
với hiệu ứng ngẫu nhiên dựa trên phần
mềm Eview 10, với nhiều phương án các
nhân tố đầu vào khác nhau theo các mức
trình độ học vấn khác nhau, kết quả được
tóm tắt ở Bảng 3.

Bảng 1. Mô tả thống kê dữ liệu nghiên cứu
Tên biến Giải thích

Số quan Giá trị
Giá trị
Giá trị
Độ lệch
sát
trung bình lớn nhất nhỏ nhất chuẩn

LnY

45

LnEdu
Hour

Logarit của thu nhập trong năm

Logarit của chi tiêu cho giáo dục
45
trong năm

Số giờ làm việc trung bình trong
45
tuần

9,37

11,62

7,16

1,1

7,61

9,60

5,46

1,03

32,27

42,3

22,5

6,26

H1


Tỷ lệ lao động tốt nghiệp THCS

45

27,98

32,8

21,6

3,01

H2

Tỷ lệ lao động tốt nghiệp THPT

45

13,46

20,8

6,5

4,23

H3

Tỷ lệ lao động tốt nghiệp Cao
45

12,88
38,4
0,9
11,4
đẳng trở lên
Nguồn: Kết quả tính tốn của nhóm tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

61


Ảnh hưởng của vốn con người đến thu nhập cá nhân của người lao động ở Việt Nam

Bảng 2. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị
Biến

LnY

Lnedu

Hour

H1

H2

H3

Stat


-4,07

-4,06

-2,92

-8,32

-1,57

-3,35

Prob

0,00

0,00

0,00

0,00

0,05

0,00

Nguồn: Kết quả tính tốn của tác giả từ số liệu thống kê

Bảng 3. Kết quả hồi quy theo các trường hợp
Phương trình hồi quy

C
Lnedu
Hour
H1

[1]
LnY
1,68***
(7,05)
0,97***
(46,72)
0,02***
(6,33)
-0,014**
(-2,39)

H2

[2]
LnY
1,34***
(5,77)
0,96***
(27,43)
0,02***
(3,23)
0,01
(0,79)

H3


[3]
LnY
1,77***
(8,49)
0,92***
(37,6)
0,01***
(3,15)

0,01***
(3,4)

Số quan sát

45

45

45

Thống kê F

1367,5

1225,6

1548,9

Thống kê P


0,000

0,000

0,000

Hệ số R2 điều chỉnh

0,98

0,98

0,99

Ghi chú: Ký hiệu *, ** và *** thể hiện các mức ý nghĩa thống kê
10%, 5% và 1%
Giá trị trong dấu ngoặc đơn ( ) là giá trị thống kê t
Nguồn: Kết quả tính tốn của tác giả từ số liệu thống kê

4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Kết quả ước lượng hàm thu nhập theo vốn
con người ở Bảng 3 cho thấy trong cả ba
phương trình hồi quy [1], [2], [3] đều nhận
định chi tiêu cho giáo dục đã có ảnh hưởng
rất lớn đến thu nhập hàng năm. Hệ số ước
lượng đạt từ 0,92 - 0,97 hàm ý rằng nếu các
yếu tố khác khơng thay đổi, thì sự gia tăng
1% của chi tiêu cho giáo dục sẽ làm mức thu
nhập hàng năm tăng thêm 0,92% - 0,97%.

Như vậy, khi vốn con người được đo bằng
mức chi tiêu cho giáo dục, thì việc đầu tư
vốn con người có vai trị làm gia tăng thu

62

nhập rất lớn cho các nhóm cá nhân. Ví dụ,
đối với nhóm thu nhập thấp, tổng thu nhập
trong năm của họ là 10 triệu đồng và mức
chi của giáo dục là 2 triệu đồng, nếu họ bỏ
thêm 2 triệu đồng để chi tiêu cho giáo dục
thì thu nhập kỳ vọng của họ sẽ tăng từ 9,2 9,7 triệu đồng. Tuy nhiên, phải khẳng định
vốn con người là sự tích luỹ của đầu tư cho
giáo dục đào tạo trong nhiều năm nên tác
động của nó đến thu nhập thường có độ trễ
nhất định. Do vậy, cho dù các hộ gia đình
có thu nhập thấp hiểu được giá trị và hiệu
quả của việc đầu tư cho giáo dục đối với
tương lai của gia đình mình, thì họ vẫn rất

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021


PHẠM THỊ LÝ - NGUYỄN THANH TRỌNG - LÊ THỊ KIM HUỆ - NGUYỄN THỊ ĐƠNG

khó để ra quyết định chi tiêu, bởi họ khơng
có đủ điều kiện để chi tiêu cho giáo dục quá
nhiều so với thu nhập trong thời điểm hiện
tại của họ. Mặc dầu vậy, kết quả này một
lần nữa cho thấy đầu tư vào giáo dục là sự

đầu tư đáng tin cậy để có một tương lai tươi
sáng hơn cho các hộ gia đình.
Biến số thời gian làm việc trung bình trong
tuần có hệ số 0,01 - 0,02 cho biết nếu thời
gian làm việc trung bình tăng lên 1 tiếng/
tuần thì thu nhập của các nhóm sẽ tăng từ
1% - 2%/năm. Kết quả trên cho thấy tình
trạng thu nhập của các nhóm cá nhân khơng
phụ thuộc nhiều vào khối lượng thời gian
làm việc trung bình. Điều này hoàn toàn
dễ chấp nhận, bởi thời gian làm việc chưa
phản ánh hết được chất lượng công việc mà
người lao động hưởng lương. Đồng thời,
số liệu thống kê về số giờ làm việc trung
bình trong tuần của các nhóm thu nhập
không chênh lệch quá nhiều nên mức ảnh
hưởng của thời gian làm việc lên thu nhập
là không đáng kể.
Thước đo tỷ lệ lao động tại mỗi trình độ
tuy khơng phản ánh toàn diện mức vốn con
người nhưng vẫn rất ý nghĩa khi xem xét vai
trò của từng bậc giáo dục tới tăng trưởng thu
nhập của người lao động. Trong mô hình hồi
quy này, nghiên cứu chia trình độ giáo dục
theo 3 nhóm: (1) nhóm đã tốt nghiệp trung
học cơ sở nhưng chưa hồn thành bậc trung
học phổ thơng; (2) nhóm đã tốt nghiệp trung
học phổ thông nhưng chỉ dừng lại ở đó; và
(3) là nhóm có trình độ tốt nghiệp trung cấp
chuyên nghiệp trở lên.

Ngay ở trường hợp đầu tiên của hồi quy đối
với tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học cơ sở
(H1), tại mức ý nghĩa thống kê 5%, kết quả
thể hiện H1 có mối quan hệ ngược chiều
với thu nhập. Từ kết quả trên có thể thấy
ngay rằng khi tỷ lệ lao động trình độ thấp
càng giảm thì thu nhập đạt được sẽ càng
cao và ngược lại. Hệ số của H1 là -0,014
hàm ý rằng trong điều kiện các yếu tố khác

khơng thay đổi, thì 1% suy giảm của H1
sẽ giúp thu nhập của các nhóm nghiên cứu
tăng thêm 0,014%. Điều này dường như là
dễ hiểu vì bậc trung học cơ sở là cấp học
chỉ cung cấp được lượng kiến thức và các
kỹ năng cơ bản nhất cho người lao động,
trong khi xã hội hiện đại ngày nay buộc
người lao động muốn tìm kiếm được thu
nhập tốt thì cần phải trau dồi và củng cố
kiến thức nhiều hơn so với bậc học này.
Khác với H1, hệ số ước lượng của tỷ lệ
lao động tốt nghiệp trung học phổ thơng
H2 trong phương trình hồi quy khơng có ý
nghĩa thống kê. Lý do có thể là kết quả của
hệ thống đào tạo nghề và giáo dục trung
học chuyên nghiệp, là những bậc nối tiếp
sau trung học phổ thơng, có tiềm ẩn tác
động tới các nhóm thu nhập. Tuy nhiên,
số liệu về tỷ lệ đào tạo nghề và trung học
chuyên nghiệp lại chưa được sử dụng làm

thước đo vốn con người trong nghiên cứu
này (do thiếu dữ liệu ở một số năm), do đó
có thể gây ra sai số phép đo và tạo nên độ
chệch trong mơ hình ước lượng.
Phương trình hồi quy cuối cùng (phương
trình [3] ở Bảng 3) đại diện cho trường hợp
tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng trở lên, kết quả
phản ánh mối tương quan dương giữa H3
và thu nhập. Giá trị hệ số này là 0,01 giải
thích rằng thu nhập của các nhóm sẽ tăng
0,01% khi tỷ lệ lao động tốt nghiệp từ mức
cao đẳng trở lên tăng thêm 1%, nếu các
điều kiện khác không đổi. Kết quả này cho
thấy thu nhập của 5 nhóm dân cư chưa dựa
nhiều vào lao động đã tốt nghiệp bậc cao
đẳng, đại học. Một lần nữa, mối quan hệ
giữa thu nhập và trình độ lao động tiếp tục
phản ánh thực tế đang tồn tại ở Việt Nam
hiện nay là có sự bất cập giữa đào tạo và
sử dụng vốn con người, nhóm lao động có
trình độ cao thường có tỷ lệ thất nghiệp cao
hơn so với nhóm lao động có trình độ thấp
hơn. Nếu như năm 2016, tỷ lệ thất nghiệp
của nhóm lao động có trình độ đại học cao

Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

63



Ảnh hưởng của vốn con người đến thu nhập cá nhân của người lao động ở Việt Nam

gấp 1,6 lần so với nhóm lao động có trình
độ cao đẳng, gấp 2,6 lần so với nhóm lao
động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp
và gấp 6 lần so với lao động giản đơn, thì
sang năm 2017, nhóm lao động trình độ
cao vẫn có mức thất nghiệp cao hơn gấp
từ 3,2 đến 3,9 lần so với ba nhóm lao động
ở trình độ thấp hơn (Trường Giang, 2019).
Mặt khác, so với năm 2012, nhóm lao động
có trình độ đại học trở lên làm việc tương
đương với những ngành nghề chỉ cần trình
độ bậc trung trở xuống chiếm 15,43%, thì
tỷ lệ này ở năm 2017 là 23% (Huỳnh Anh,
2019). Xu thế này vừa phản ánh sự lãng
phí trong đầu tư cho đào tạo và sử dụng lao
động trình độ cao, vừa cho thấy sự không
tương xứng giữa bằng cấp và chất lượng
thực sự của lao động được đào tạo.
5. Kết luận và gợi ý chính sách
Dựa trên cơ sở lý thuyết và lượng hóa ảnh
hưởng của vốn con người đến thu nhập ở
Việt Nam giai đoạn 2002 – 2018, kết quả
nghiên cứu cho thấy chi tiêu cho giáo dục
có tác động rất lớn đến thu nhập của người
lao động theo hướng tích cực. Tương tự,
thời gian làm việc trong tuần cũng ảnh
hưởng đến thu nhập của người lao động, tuy
nhiên, những nhóm người lao động có trình

độ chun mơn thấp thì thời gian lao động
có ảnh hưởng đến thu nhập nhiều hơn so
với nhóm lao động có trình độ chun mơn
từ cao đẳng trở lên. Ngoài ra, thu nhập của
người lao động cũng phụ thuộc vào trình độ
học vấn, nhưng mức phụ thuộc này là rất
nhỏ, đặc biệt là đối với nhóm lao động có
trình độ tốt nghiệp bậc cao đẳng trở lên thì
nghiên cứu này cho thấy mối tương quan
giữa trình độ học vấn và tăng trưởng thu
nhập là rất thấp.
Với kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, các nhà
hoạch định chính sách cần có những giải
pháp hướng người lao động nhận thức

64

được tầm quan trọng của việc đầu tư nâng
cao năng suất lao động cho chính bản thân
mình. Việc rèn luyện tư duy lẫn kỹ năng
lao động không những được phát triển ở
mơi trường học tập, mà cịn nên được thúc
đẩy, khuyến khích bởi các cơng ty- nơi tiếp
nhận lao động để người lao động nhận thức
được rằng tư duy làm giàu bằng vốn con
người sẽ luôn là giải pháp bền vững.
Bên cạnh đó, giáo dục và đào tạo là bệ
phóng tốt nhất cho việc hoàn thiện vốn con
người ở mỗi cá nhân. Hệ thống đào tạo cả
nước nên hướng tới xây dựng chương trình

đào tạo theo hướng tiếp cận tri thức tiên
tiến từ các nước phát triển trên thế giới,
đồng thời phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa
ba nhà bao gồm “nhà trường, nhà khoa học
và nhà doanh nghiệp” nhằm giúp người học
chuyển mạnh từ việc học tập và giải quyết
vấn đề sang việc tích cực khám phá và áp
dụng tri thức hiện đại. Hiệu quả của giáo
dục và đào tạo khơng chỉ tính bằng lượng
kiến thức đã truyền đạt mà chủ yếu phải
tính bằng sự phát triển của năng lực sáng
tạo, phương pháp tư duy khoa học, khả
năng thích nghi và khả năng biến tri thức
thành kỹ năng lao động.
Bài viết dừng lại ở việc đo lường vốn con
người dựa trên hàm thu nhập Mincer với ba
biến số độc lập (chi tiêu cho giáo dục, số
giờ làm việc trung bình và trình độ học vấn
của người lao động) mà chưa xem xét đến
các yếu tố khác như số năm kinh nghiệm,
ngành nghề. Do đó, trong các nghiên cứu
tiếp theo về vốn con người và thu nhập,
nhóm tác giả sẽ xem xét bổ sung thêm các
biến của vốn con người cũng như sử dụng
thêm mơ hình khác, hoặc thêm các biến
kiểm soát để thấy rõ hơn tác động của vốn
con người đến thu nhập cá nhân ■

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021



PHẠM THỊ LÝ - NGUYỄN THANH TRỌNG - LÊ THỊ KIM HUỆ - NGUYỄN THỊ ĐÔNG

Tài liệu tham khảo
Affandi, Y.,  Anugrah, D. F., & Bary, P. (2019). Human capital and economic growth across regions: a case study
in Indonesia. Eurasian Economic Review, 331-347.
Alan, K. M., Altman, Y., & Roussel, J. (2008). Employee training needs and perceived value of training in the Pearl River
Delta of China: A human capital development approach. Journal of European Industrial Training, 32(1): 19–31.
Appleton, S., & Teal, F. (1998). Human capital and economic development. A background paper prepared for the
African Development Report.
Arthur, J. B. (1992). The link between business strategy and industrial relations systems in American steel minimills.
Industrial and Labor Relations Review, 488-506.
Arthur, J. B. (1994). Effects of human resource systems on manufacturing performance and turnover. Academy of
Management Journal, 670-687.
Becker, G. S. (1964). Human Capital: A Theoretical and Empirical Analysis, with Special Reference to education.
Chicago: University of Chicago Press.
Bontis, N. (1998). Intellectual capital: An exploratory study that develops measures and models. Management Decision, 36(2): 63–76. .
Bùi Quang Bình. (2008). Vốn con người và thu nhập của hộ sản xuất cà phê ở Tây Ngun. Tạp chí Khoa học và Cơng
nghệ, Đại học Đà Nẵng, tr. 96 - 101.
Card, D. (1995). The wage curve: a review. In: JSTOR.
Climent, C. A., & Doménech, R. (2014). Human Capital and Income Inequality: Some Facts and Some Puzzles. BBVA
Research, Working Paper No.12/28.
Dong, N. T., & Hue, L. T. (2019). The impact of human capital on labor productivity growth in Vietnam. Science and
Technology Development Journal, 104-110.
Fernandez, R., & Rogerson, R. (1992). Human capital accumulation and income distribution. NBER Working Papers
Series, No.3994. National Bureau of Economic Research.
Jong-Wha, L., & Hanol, L. (2018). Human capital and income inequality. Journal of The Asia Pacific Economy, Vol.23,
No.4: 554-583.
Khan, S. (2005). Human Capital and Economic Growth in Pakistan . The Pakistan Development Review, 455– 478. .
Koch, M. J., & McGrath, R. G. (1996). Improving labor productivity: Human resource management policies do matter.

Strategic management Journal, 335-354.
Kwon, D. (2009). Human capital and its measurement. Busan, Korea: The 3rd OECD World Forum on “Statistics,
Knowledge and Policy”.
Lepak, D. P., & Snell, S. A. (1999). The human resource architecture: Toward a theory of human capital allocation and
development. Academy of Management Review, 31-48.
Mincer, J. (1958). Investment in human capital and personal income distribution. The Journal of Political Economy,
66(4): 281–302.
Mincer, J. (1981). Human capital and economic growth. NBER Working paper Series. National Bureau of Economic Research.
Mincer, J. (1981). Human Capital and Economic Growth. National Bureau of Economic Research.
Moock, P. R., Patrinos, H. A., & Venkatarama, M. (1998). Education and Earnings in a Transition Economy: the case
of Vietnam. Vietnam Education Financing Sector Study.
Nelson, R., & Phelps, S. (1966). Investment in Human, Technological Diffusion and Economic Growth. The American
Economic Review, 56 (No.1): 69-175.
Nga, N. N. (2002). Trends in the Education Sector from 1993 - 1998. World Bank Policy Research.
Nguyễn Bá Ngọc. (2008). Đầu tư vào vốn con người - vấn đề thu nhập và việc làm. Tạp chí nghiên cứu Kinh tế, tr.35 - 42.
OECD. (2001). Measuring productivity: Measurement of aggregate and industry level productivity growth. OECD manual.
Rastogi, P. N. (2002). Knowledge management and intellectual capital as a paradigm of value creation . Human Systems Management, 21(4): 229–240.
Schultz, T. W. (1961). Investment in human capital. American Economic Review, Vol.31, pp.101 - 124.
Smith, A. (1776). An inquiry into the nature and causes of the wealth of nations. Oxford University Press.
Vinokur, A. D. (2000). Two years after a job loss: Long-term impact of the JOBS program on reemployment and mental
health. Journal of Occupational Health Psychology, 32-47.
Westphalen, S.-Å. (1999). Reporting on human capital; objectives and trends. Measuring and Reporting Intellectual
Capital:. Amsterdam.
Huỳnh Anh. (2019). Tỷ lệ thất nghiệp bậc đại học cao hơn dạy nghề. Retrieved from />Tổng cục Thống kê (2018). Điều tra mức sống hộ dân cư (VHLSS) từ năm 2002-2018. Tổng cục Thống kê (2020). bổ sung.
Trường Giang. (2019). Tỉ lệ thất nghiệp bậc đại học trở lên cao hơn bậc cao đẳng, trung cấp. Retrieved from https://
vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/ti-le-that-nghiep-bac-dai-hoc-tro-len-cao-hon-bac-cao-dang-trungcap-595526.html

Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

65




×