Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN một số biện pháp chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp một ở trường tiểu học thị trấn bến sung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.8 KB, 16 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang trong thời kì mở cửa, hội nhập và phát triển; công cuộc đổi mới
kinh tế - xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ. Để đáp ứng thực tiễn của đất
nước hiện nay, địi hỏi phải có những lớp người lao động mới, có bản lĩnh, có
năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng được với thực tiễn
xã hội đang biến động không ngừng.
Học sinh tiểu học là giai đoạn tất yếu của quá trình học. Đó là giai đoạn mở
đầu cho một con người đến với văn hoá. Cũng từ giai đoạn này nhân cách của
học sinh được hình thành và dần dần phát triển, ví như trong xây dựng cơ bản:
khi xây một toà nhà cao tầng hiện đại, việc xử lý nền móng là hết sức quan
trọng mà nền móng của ngơi nhà lại nằm dưới đáy nhà và một phần sâu trong
lịng đất nên những người bình thường thì khơng nhìn thấy được mà chỉ có
những nhà chun mơn mới quan tâm và nhìn thấy bản chất, tầm quan trọng,
giá trị đích thực của nền móng đó. Giai đoạn học sinh ở bậc tiểu học nhất là giai
đoạn lớp Một với học sinh là hết sức quan trọng. Đây chính là giai đoạn nền
móng của q trình phát triển năng lực tư duy và đặc biệt là quá trình phát triển
nhân cách của học sinh sau này.
Ngay từ khi bước vào nghề Sư phạm, tơi đã coi đó là cái nghiệp mà mình
phải theo và gắn bó suốt đời. Xuất phát bởi một mục đích ấy nên tơi coi cơng
việc hằng ngày của mình như một phần lẽ sống. Tơi muốn cơng việc mình đã và
đang làm sẽ thực sự có ích cho cộng đồng, cho chính bản thân mình. Do vậy nên
tơi thường trăn trở tìm mọi cách để cơng việc của mình thu được kết quả. Kết
quả ấy nằm ngay trong chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh qua mỗi năm
tơi dạy. Tơi nghĩ rằng: Nếu mình u thích cơng việc của mình thì mình sẽ làm
được tốt. Trẻ cũng vậy, các em đạt được năng lực, phẩm chất tốt và học tập đạt
kết quả cao thì chính các em cũng phải u thích cơng việc của mình. Vậy làm
thế nào để các em u thích cơng việc học tập của mình? Để đạt được điều đó,
trước tiên các em phải thích học. Từ kinh nghiệm thực tế tơi nhận thấy học sinh
thích đi học là những học sinh tìm được niềm vui khi tới lớp, những cháu đó
được thầy yêu, bạn mến và việc học tập đối với các cháu không mấy vất vả. Học


sinh đến trường phải có niềm vui, có vui mới học được tốt.
Có được niềm vui cho trẻ khơng phải tạo ra được từ một giờ học, một ngày
học hay một tuần học mà phải lôi cuốn, gây hứng thú cho học sinh trên một bình
diện rộng ở mọi nơi, mọi lúc, qua giao tiếp, qua cách cư xử, bảo ban của giáo
viên cho học sinh. Do vậy đòi hỏi người giáo viên phải thật nhẫn nại, có tình
thương thực với học trò. . . . Học sinh lớp Một rất ngây thơ, tâm hồn các em như
một tờ giấy trắng, vẽ lên đó đẹp hay xấu phần lớn là tác động của thầy, cô chủ
nhiệm. Đặc biệt là những năm gần đây trường tôi đã tổ chức cho các em học hai
buổi/ ngày thì phần lớn thời gian trong ngày các em được học tập và giao tiếp
với thầy cô chủ nhiệm, với bạn bè. Nếu trong quãng thời gian đó các cháu không
may gặp phải người “thợ vẽ tồi”, người "cơng nhân xây dựng" thiếu trách nhiệm
thì suốt đời “trang nhân cách ” của các em sẽ giữ lại vết hằn khó xố. Nhận thức
được tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm đặc biệt là chủ nhiệm lớp
Một tơi ln tự nhủ, trước tiên mình phải là một tấm gương cho học sinh về cách


2

ăn nói mẫu mực, xử sự với học trị đúng mực “nghiêm túc” nhưng “thân thiện”,
thực sự có lịng u thương thông cảm với các em sao cho các em cảm nhận cơ
giáo như người mẹ thứ hai của mình, là chỗ để các em tin cậy về mặt tinh thần
nhưng khơng q thân thiết để học sinh có thể bỡn cợt quên khoảng cách giữa
giáo viên và học sinh.
Xuất phát từ những suy nghĩ như vậy, tôi đã chọn cho mình đề tài về “Một số
biện pháp chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp
Một ở trường Tiểu học Thị trấn Bến Sung''.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp giáo viên có một số kinh nghiệm về biện pháp nâng cao hiệu quả
công tác chủ nhiệm lớp Một ở trường Tiểu học. Từ đó nâng cao chất lượng giáo
dục trong nhà trường.

- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng "giáo dục trong
công tác chủ nhiệm".
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung và một số biện pháp chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục cho học sinh lớp Một ở trường Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này tôi sử dụng 6 phương
pháp chủ yếu sau: - Phương pháp quan sát.
- Phương pháp trị chuyện
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp kiểm tra.
- Phương pháp đánh giá.
- Phương pháp tổ chức các phong trào thi đua.
1.5 Những điểm mới của sáng kiến
Giải pháp thực hiện:
- 2.3.1. Khởi động ngày học tập mới.
- 2.3.2. Thư giãn giữa giờ học.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1.Vị trí, vai trị của giáo viên chủ nhiệm lớp và công tác chủ nhiệm lớp:
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc
hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng sống cơ bản để học sinh tiếp tục học tốt ở lớp trên. Ngoài việc
tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, giáoviên chủ nhiệm lớp còn phải
thường xuyên theo dõi các hoạt động trong giờ chơi, trong buổi sinh hoạt, giao
lưu tập thể, ....
Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp học, là người góp phần khơng
nhỏ hình thành và nuôi dưỡng nhân cách học sinh, những chủ nhân tương lai của
đất nước. Nói như PGS.TS Đặng Quốc Bảo: Học viện quản lý giáo dục thì giáo
viên chủ nhiệm lớp là "nhà quản lý khơng có dấu đỏ''. Ngày nay, với sự nhận

thức ngày càng đúng đắn và sâu sắc về giáo dục, có thể coi giáo viên chủ nhiệm
như một nhà quản lý với các vai trò: Người lãnh đạo lớp học; người điều khiển


3

lớp học; người làm công tác phát triển lớp học; người làm công tác tổ chức lớp
học; người giúp hiệu trưởng bao quát lớp học; người giúp hiệu trưởng thực hiện
việc kiểm tra sự tu dưỡng và rèn luyện của học sinh; người có trách nhiệm phản
hồi tình hình lớp. Một người giáo viên chủ nhiệm giỏi sẽ góp phần xây dựng nên
một tập thể lớp tiên tiến, nhiều tập thể lớp tiên tiến sẽ xây dựng nên một nhà
trường vững mạnh.
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa nhà trường - gia đình và xã hội. Nếu
thực hiện thành cơng cơng tác chủ nhiệm sẽ góp phần giáo dục học sinh sau này
trở thành thế hệ trẻ năng động, sáng tạo và có tài năng.
2.1.2. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm:
Giáo viên chủ nhiệm là người lãnh đạo, điều khiển lớp học, bao quát toàn
bộ các phương diện của lớp học, thực hiện việc kiểm tra, đánh giá sự tu dưỡng,
rèn luyện, phấn đấu của học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa Ban Giám hiệu nhà trường, các tổ
chức trong trường, các giáo viên với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Nói cách
khác, giáo viên chủ nhiệm phải là người đại diện cho cả hai phía là đại diện cho
các lực lượng trong nhà trường và đại diện cho tập thể học sinh lớp chủ nhiệm
về mọi mặt một cách hợp lí.
Giáo viên chủ nhiệm có nhiệm vụ giáo dục học sinh thơng qua hoạt thể
giúp các em hiểu và giải quyết mối liên hệ giữa cá nhân với tập thể qua việc
phân công nhiệm vụ một cách kịp thời cân đối, giúp học sinh tự giải quyết
những vấn đề gắn liền với hoạt động xã hội, hoạt động tập thể như cắm trại,
tham quan, sinh hoạt Đội, sinh hoạt chủ điểm hàng tháng qua các tiết hoạt động
ngoài giờ. Giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức các hoạt động tập thể như: Tham

quan, thăm hỏi, giúp đỡ cơng việc gia đình của những em học sinh có hồn cảnh
khó khăn, neo đơn thì giáo viên chủ nhiệm phải biết cách tổ chức, lôi cuốn học
sinh vào hoạt động tập thể để giáo dục dễ dàng, có hiệu quả hơn.
2.1.3. Đặc điểm tâm lí và nhận thức của học sinh lớp 1
Học sinh lớp Một còn rất non nớt, các em sống trong những gia đình có hồn
cảnh khác nhau, nếp sống khác nhau nên nhận thức và nếp sống cũng khác nhau.
Đặc biệt tư duy trẻ lớp Một cũng rất cụ thể cảm tính. Các em rất ham hiểu biết,
thích bắt chước, hiếu động chưa biết tập trung lâu sự chú ý vào một cái gì đó.
Năm đầu tiên của đời học sinh, trẻ rất bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động chủ đạo
từ chơi sang hoạt học tập, đặc biệt rất dễ xúc động với các yêu cầu và quy tắc
của trường học.
Vì vậy tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể. Tư duy và tri giác
thường gắn liền với hành đông, hoạt động thực tiễn của trẻ. Các em muốn tư
duy, tiếp thu bài tốt thì rất cần cái trực quan, cái sinh động để các em chú ý tốt,
dễ gây ấn tượng tích cực đến các em. Chính vì thế, giáo viên cần nắm bắt đặc
điểm này mà truyền thụ kiến thức, kĩ năng,... cho các em.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.


4

2.2. 1. Ưu điểm
Trường tiểu học Thị trấn Bến Sung đóng trên địa bàn trung tâm huyện. Trường
có khn viên rộng rãi, thoáng mát. Đội ngũ cán bộ giáo viên có năng lực, nhiệt
tình trong cơng tác, u nghề, mến trẻ. 100% có trình độ được đào tạo chuẩn và
trên chuẩn. Trong công tác giáo dục, nhà trường luôn quan tâm chú trọng tới
việc dạy và học thực chất, tạo cho thầy cơ giáo và học sinh có được một mơi
trường giáo dục tốt nhất nhằm hồn thành tốt nhiệm vụ, chỉ tiêu mà cấp trên
giao cho.
Năm học 2020 - 2021, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 1A. Với tổng

số 37 học sinh; nữ: 16 em; nam: 21 em; dân tộc thiểu số: 10 em; học sinh có
hồn cảnh đặc biệt khó khăn: 1 em. Số học sinh người Kinh chiếm số đơng nên
việc quản lí, giáo dục các em tương đối thuận lợi.
Phần lớn các bậc phụ huynh chăm lo, quan tâm đến con cái của mình. Nhiều
em đã sẵn sàng tâm thế học tập.
Bản thân tôi làm cơng tác chủ nhiệm lớp lâu năm có nhiều kinh nghiệm cộng
với sự nhiệt tình, năng nổ với cơng việc nên nhiều năm đã hồn thành tốt cơng
tác chủ nhiệm.
2.2. 2. Tồn tại
Lớp tôi chủ nhiệm là một trong những lớp đông học sinh nhất trường. Lại là
lớp đầu cấp, các em đang quen với cách học "vừa chơi vừa học" ở cấp Mầm
non nên để đưa các em vào nề nếp ngay từ đầu là rất khó. Mặt khác mỗi em có
một hồn cảnh khác nhau, cách giáo dục của mỗi gia đình khác nhau điều này
gây khó khăn trong việc quản lý lớp học. Hơn nữa hầu hết các em được bố mẹ
cho tự do thể hiện cái tơi cá nhân nên tính khí nhiều em rất hiếu động. Các em
đến trường nhưng vẫn làm theo ý của mình mà khơng theo sự hướng dẫn của
thầy cơ. Đa số vốn giao tiếp của các em rất hạn chế, nói cịn nhỏ, chưa rõ ràng
hay cịn kiểu trả lời bằng cách gật đầu, lắc đầu, nói chưa đầy đủ câu,....
2.2. 3. Nguyên nhân
Giáo viên chưa tìm hiểu và khám phá kĩ được điểm mạnh và điểm yếu,
điểm còn hạn chế của từng học sinh. Đặc biệt là chưa tìm được giải pháp hiệu
quả để phát huy hết khả năng sáng tạo và phát triển tư duy cho trẻ, chưa tìm
được giải pháp khắc phục những nhược điểm về ý thức và nhận thức của trẻ.
Hơn nữa khi học sinh tiến bộ, giáo viên chưa tuyên dương kịp thời; khi học
sinh chưa hoàn thành bài, giáo viên chưa thật sự kiên nhẫn, động viên mà
thường quát, phạt các em.
Học sinh khả năng giao tiếp giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với
học sinh còn nhiều hạn chế, chỉ có một số học sinh mạnh dạn tham gia cịn học
sinh nhút nhát thì thu mình ngại tham gia. Học sinh chưa mạnh dạn tự tin trong
việc phân tích, xử lý tình huống.... Do khả năng đánh giá hành vi của bản thân

và xung quanh còn thiên về cảm tính.
Một số phụ huynh nhận thức về vai trị cũng như tầm quan trọng của công


5

tác chủ nhiệm lớp ở nhà trường còn hạn chế.
Đầu năm học này, khi chưa áp dụng các biện pháp của đề tài này, tôi đã khảo
sát thực tế của lớp tôi phụ trách kết quả thu được như sau:
Tổng HS tự tin, hoà đồng
HS thiếu tự tin, hoà HS chỉ tham gia hoạt
số
trong học tập,
đồng trong học tập,
động
HS
sinh hoạt
sinh hoạt
học tập
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
37
10
27 %
16
43,2 %

11
29,8 %
Từ kết quả khảo sát và khó khăn như đã nêu trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra
những giải pháp để tháo gỡ khó khăn đó làm cho cơng tác chủ nhiệm được dễ
dàng hơn.
2.3. Giải pháp thực hiện
Như chúng ta đã biết ngồi vệc xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách
cho trẻ thông qua các bài giảng ở trên lớp của tất cả các bộ môn được giảng dạy
trong nhà trường thì việc xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ
thông qua các giờ chơi, giờ hoạt động tập thể... là hết sức cần thiết và bổ ích. Vì
vậy với khn khổ của đề tài này tôi chỉ đề cập đến vấn đề là: Xây dựng, hình
thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua giờ chơi, giờ hoạt động tập thể.
2.3.1. Khởi động ngày học tập mới
Đầu năm, khi mới nhận lớp, tôi đã quy ước với cả lớp một số biểu tượng để
khởi động ngày mới: hai tay cơ trị chạm vào nhau là thể hiện sự quyết tâm; cơ
trị ơm nhau là thể hiện sự gần gũi, ưa tình cảm; lắc mông là thể hiện sự vui
nhộn. Phần khởi động được tôi tổ chức như sau: Trong các buổi dạy, tôi thường
sắp xếp công việc để là người đầu tiên đến lớp. Tôi làm công tác chuẩn bị, mở
cửa lớp, cửa sổ, bật điện tạo khơng khí tươi sáng, thống đãng đón các em. Bước
tiếp theo, học sinh đến lớp chào cô cùng với biểu tượng bạn nhỏ chọn để cô
cùng làm với bạn ấy. Tôi đã làm lần lượt từng học sinh của lớp. Các em rất thích
thú, vui vẻ. Điều này tạo cho các em cảm giác thoải mái, gần gũi, tâm thế hứng
khởi được thể hiện trên từng khn mặt. Đó là động lực chính trong cả một buổi
học của từng em. Có một tâm thế tốt, có động lực chính để phấn đấu thì chắc
chắn buổi học đó các em sẽ đạt được kết quả cao.
Ảnh: Khởi động ngày mới
2.3.2. Thư giãn giữa giờ học
Ở các tiết học, ngoài việc giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp,
hình thức dạy học ra. Tơi cịn tổ chức cho các em tham gia hoạt động thư giãn
giữa giờ. Hoạt động này thường được giáo viên tổ chức trước khi bước sang

hoạt động thực hành. Cụ thể: Giáo viên tổ chức cho các em tham gia các hoạt
động múa, hát với những động tác đơn giản, có tác dụng vận động nhẹ hoặc
nghe một câu chuyện cười phù hợp với lứa tuổi, trò chơi gian dân như bài hát
Anh Tí sún, Năm giác quan; trị chơi Ban nhạc hoà tấu, Alibaba, ... để học sinh
bớt cẳng thẳng, mệt mỏi tay chân hay đau lưng, ê mơng. Từ đó các em tham gia
các hoạt động tiếp theo nhanh nhẹn, tích cực hơn.


6

Ảnh: Học sinh thư giãn giữa giờ
2.3.3. Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ
a) Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thơng qua giờ hoạt động
tập thể.
Ngoài các giờ hoạt động tập thể dạy theo các chủ điểm của từng tuần, từng
tháng thì hàng tuần giáo viên dành một khoảng thời gian nhất định để trò chuyện
với các con để dược nghe chính các con nói, chính các con kể cho giáo viên
nghe những tâm tư nguyện vọng của mình (có thể nói trực tiếp hoặc viết ra giấy
những tâm sự đó) để từ đó giáo viên hiểu và gần gũi các con hơn.
Trong lớp có các bạn trai và bạn gái, giáo viên muốn các con hiểu được rằng
cần phải có tình cảm và những mối quan hệ chung giữa các bạn trong lớp. Giáo
viên quyết định tiến hành cuộc nói chuyện bí mật để hướng các em theo con
đường đó. Vì sao lại nói chuyện bí mật? Cách tiến hành như sau: Thứ nhất, các
em gái không cần phải biết giáo viên đã khun các bạn trai những gì. Chính vì
các bạn nữ khơng biết nội dung của cuộc nói chuyện như thế nào nên bất kỳ một
sự quan tâm nào của các bạn trai cũng sẽ được tiếp nhận với tình cảm biết ơn.
Thứ hai, khi cánh cửa đóng kín giáo viên có thể nói với các em trai thẳng thắn
hơn, giải thích cho các em hiểu thế nào là phẩm cách một người đàn ơng. Tính
chất bí mật của buổi nói chuyện này bắt buộc các em trai phải nhìn vào mình
khác đi: người ta nói chuyện một cách nghiêm túc, tin tưởng ở các em, nghĩa là

các em đã khơn lớn! Thứ ba, trẻ thích những bí mật nào đó của mình. Việc tiếp
xúc như thế kích thích các em hoạt động: “Đây là bí mật của chúng mình” có
nghĩa là “Cái đó rất quan trọng”.
Ngồi ra, tính bí mật – một trong những nét đẹp nhất của trị chơi trẻ em. Trẻ
giữ bí mật về chuyện gì? Các em bí mật cái mà có lẽ cả thế giới đều rõ. Và vấn
đề khơng phải bí mật như thế nào, mà là ở chỗ có bí mật. Còn giáo viên lại
muốn các em thể hiện sự ân cần nam giới với bạn gái. Vậy là sự mong muốn của
mọi người trùng nhau: giáo viên cho các em nhiệm vụ bí mật cịn các em cố
gắng hồn thành.
Ảnh: Cuộc nói chuyện bí mật.
b) Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua giờ chơi.
Sau những giờ học căng thẳng và mệt mỏi thì giờ chơi là giờ các con được
vui chơi thoải mái, chơi những gì mà con thích. Chính vì vậy mà đã nẩy sinh bao
nhiêu vấn đề làm cho người làm công tác chủ nhiệm phải hết sức quan tâm, tìm
ra những giải pháp phù hợp để giờ chơi thực sự trở thành một giờ chơi lành
mạnh và bổ ích.
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, tôi đã xây dựng cho mình kế hoạch
để hướng dẫn các con có giờ chơi thật thoải mái, lành mạnh bổ ích cụ thể như
sau: Ngay từ đầu năm tôi đã kết hợp với nhà trường và ban phụ huynh của lớp
chuẩn bị cho các con một số vật dụng cần thiết phục vụ cho giờ chơi như: Cầu
lông, dây nhảy, quả cầu, giấy vẽ, bút màu, phấn màu, bộ xếp hình, que tính,
sách, báo, truyện, những viên sỏi trắng để chơi trị ơ ăn quan .... Đến giờ chơi tôi


7

cho các con tự chọn các vật dụng để phục vụ trị chơi mà con thích. Với trị chơi
mà các con chưa biết cách chơi tôi đã hướng dẫn và chơi cùng các con.
Ví dụ: Với những trị chơi đá bóng, đá cầu, cầu lơng hay nhảy dây hầu như
các con đã biết nên các con có thể tự chơi. Nhưng với các trị chơi như xếp hình,

sử dụng que tính, bút màu, phấn màu, giấy vẽ….giáo viên sẽ hướng dẫn và có
thể gợi mở ý tưởng cho các con. Với bộ xêp hình: có thể chơi cá nhân, hay một
nhóm từ 2 đến 3 em: xếp thành hình bơng hoa, các con vật, ngôi nhà …. Với bút
màu, phấn màu và giấy vẽ: các con có thể vẽ những tranh mình u thích trên
giấy hoặc trên bảng lớp….Giáo viên có thể định hướng cho các con vẽ theo chủ
điểm hàng tháng như tháng 9 về ngôi trường thân yêu, tháng 10 vẽ về chủ đề an
tồn giao thơng, tháng 11vẽ về ngày nhà giáo Việt Nam, tháng 12 vẽ về chú bộ
đội … Với que tính: Các con có thể thỏa thích xếp các hình đã học, xếp hình
ngơi nhà nhiều tầng…. Với những viên sỏi trắng, giáo viên đã hướng dẫn các
con chơi trị ơ ăn quan, xếp các hình do con tưởng tượng ….Thơng qua các trị
chơi như vậy các em được thả tâm hồn mình vào các trò chơi, các em say sưa
hứng thú, thỏa sức sáng tạo, thư giãn đầu óc sau các giờ học. Qua đó các con
được giao lưu, học hỏi và biết thêm bao điều mới lạ. Từ đó, nhận thức và nhân
cách của các con dần hình thành và phát triển theo một chiều hướng tốt.
Ảnh: Học sinh vui chơi.
c) Tạo điều kiện cho trẻ thể hiện mình.
Trong lớp tơi có một số học sinh thường thích mình là nhân vật trung tâm,
muốn được làm mẫu để các bạn chú ý tán thưởng và đề cao mình. Nắm được
đặc điểm tâm lý đó tơi thường tranh thủ cho các em có dịp thể hiện mình.
Ví dụ: Trong giờ học tốn, Đăng là một học sinh thơng minh, nhanh nhẹn
thường làm tốn xong trước các bạn. Mỗi khi làm bài xong, cháu thường ngoảnh
đi ngoảnh lại khoe với các bạn “ tớ xong nhất’’ nhưng bài em làm rất ẩu. Để
chấn chỉnh điều đó, tơi cho em lên bảng chữa bài kèm theo một điều kiện “Nếu
trình bày đúng và đẹp cơ sẽ thưởng cho một ngơi sao” Vì cháu rất thích được
bạn khen và thán phục mình, trước lời động viên và yêu cầu của cô nên cháu đã
làm bài trên bảng vừa nhanh vừa trình bày bài cẩn thận.Cháu trở về chỗ ngồi với
một ngôi sao và một tràng pháo tay giòn giã của các bạn. Cháu vui lắm nét mặt
hớn hở, hãnh diện vì được các bạn đề cao là "người giải toán nhanh nhất".
Hay em Quỳnh cũng vậy, em có giọng đọc lưu lốt, diễn cảm nên tơi cho em
đọc bài mẫu trong giờ Tập đọc, đọc truyện cho các bạn nghe đầu giờ. Em rất vui

khi được các bạn tặng cho danh hiệu “ Người có giọng đọc của phát thanh viên''.
Cũng từ đó tơi thấy các cháu trong lớp có sự thi đua ngầm, cháu nào cũng
muốn được lên đọc như bạn. Trong giờ kể chuyện, Đạo đức, Tập đọc, tôi thường
xuyên cho các cháu đọc phân vai hay đóng những đoạn tiểu phẩm (giờ Đạo đức)
đa số học sinh đều xung phong tham gia bởi các cháu muốn được dịp thể hiện
mình, nội dung tiết học với các em mang tính tự nhiên, mọi thành viên đều cảm
thấy vui vẻ thoải mái và rất tích cực hoà nhập với tập thể lớp, học sinh được thể
hiện nhiều qua các tiết học trở lên bạo dạn, tự tin hơn trước đám đông.


8

Ảnh: Học sinh thể hiện mình trước lớp.
d) Tổ chức các hoạt động thơng qua tính hiếu thắng của trẻ
Hầu như bất cứ đứa trẻ nào cũng có tính hiếu thắng. Tơi gắn sự hiếu thắng đó
theo hướng tích cực, xây dựng tính hiếu thắng đó trở thành hướng phấn đấu
vươn lên trong học tập của mỗi học sinh. Trong lớp tôi chọn một số cặp học sinh
ngang sức nhau khuyến khích các cháu thi đua với nhau trong khoảng thời gian
ngắn, với thời gian đó cháu nào vượt lên thì sẽ được khen và tìm một bạn có sức
học khá hơn để ghép đôi. Làm như vậy các cháu ln phải cố gắng vì sợ thua
bạn.
Ví dụ: Đầu năm, tôi xếp cháu Phan Anh cạnh cháu Châu Anh là hai học sinh
có học lực ngang nhau, tơi ghép các cháu thành đơi bạn cùng tiến và thi xem ai
có nhiều cố gắng hơn trong học tập. Sau hai tháng, lực học của cháu Châu Anh
vượt lên so với cháu Phan Anh, đến lúc đó tơi lại ghép cháu Châu Anh với cháu
Trúc có lực học tốt hơn. Lúc ấy Trúc lại là cái đích để cháu Châu Anh cố gắng vì
muốn chiến thắng bạn. Hay Minh Huy và Đức Huy là đôi bạn viết chữ chưa đẹp,
tôi gia hạn một tháng cháu nào có ý thức rèn chữ viết đẹp hơn bạn thì bạn đó sẽ
được tặng danh hiệu “người chiến thắng”. Suốt thời gian ấy, giữa hai cháu có sự
chạy đua ngầm vì cháu nào cũng muốn mình là người chiến thắng.

Tôi thường xuyên vận động những cuộc chạy đua nho nhỏ như vậy và quả
nhiên lớp tôi có phong trào thi đua học tập sơi nổi hơn. Sự tranh đua như vậy, tôi
cho là rất lành mạnh, nó giúp các cháu ln có cái mốc mới cao hơn cần vươn
tới. Những cháu sẵn có tính hiếu thắng thường thu được kết quả rõ rệt sau mỗi
cuộc đua.
e) Khích lệ động viên học sinh:
Học sinh rất thích được khích lệ động viên.Vì vậy trong q trình giáo dục,
tơi thường nhìn nhận và quan sát học sinh qua các hoạt động để nhìn thấy những
tiến bộ của học sinh. Những tiến bộ của các em dù là rất nhỏ tôi cũng kịp thời
động viên khen ngợi trước lớp để các cháu phấn khởi và tiếp tục phấn đấu. Bên
cạnh đó, tơi cịn quan tâm đến từng học sinh nhất là những em có hồn cảnh đặc
biệt và những em chậm tiến bằng những việc làm cụ thể như: tặng huy hiệu theo
thành tích trong tuần, trong học kì hay trong dịp lễ, Tết hoặc phụ đạo thêm cho
học sinh, ...
2.3.4. Gần gũi và tạo mối quan hệ thân thiện với học sinh.
a) Thân thiết tình thầy trị:
Tạo được tâm thế cho học sinh trong buổi học là vô cùng cần thiết. Hiểu điều
đó nên tiết đầu tiên tơi khơng bao giờ quở trách, trách phạt bất cứ một học sinh
nào. Dù hơm đó học sinh đi muộn hay qn đồng phục hoặc quên sách, vở, đồ
dùng học tập,... Nếu nặng lời mắng mỏ sẽ đem lại cho học sinh đó nỗi buồn,
cảm giác có tội sẽ đè nặng, phá tan sự tiếp thu của học sinh trong cả buổi học
hơm ấy. Chính cơ giáo cũng bị ức chế, buồn bực, tức tối trong suốt giờ giảng của
mình.
Để tránh tình trạng trên, sáng sáng khi bước chân vào lớp, tôi hay sử dụng
một vài cử chỉ ân cần: Khi thì sửa lại tóc cho em này, lúc lại cài áo cho em kia....
Hay khi trong lớp có vấn đề gì xảy ra giữa các em, tôi luôn từ từ giải quyết hợp
tình, hợp lí để sao cho học sinh cảm nhận được một ngày học mới bắt đầu hết


9


sức nhẹ nhàng và ấm áp. Đến cuối ngày học hơm ấy, tơi cho các em bình chọn ai
học ngoan và ai tiến bộ nhất trong ngày. Lúc đó là lúc mà tôi nhắc nhở khuyết
điểm các cháu học sinh hồi sáng mắc phải. Nếu lỗi cháu đó mắc phải mà nặng,
cháu sẽ tự đứng trước lớp tìm xem mình sai ở chỗ nào rồi hứa với tập thể lớp,
với cơ giáo sẽ sửa những sai lầm đó.
Cả ngày học sinh ở trường, cơ giáo trong thời gian đó thay vai trò người mẹ ở
nhà của các cháu. Mỗi khi có cháu kêu sốt, mệt hay đau bụng giữa tiết học, tơi
khơng làm ngơ mà ân cần hỏi han, bình tĩnh xử lý lúc thì xoa cho cháu này chút
dầu khi thì lấy cho cháu khác cốc nước. Có cháu mệt q, tơi đưa cháu xuống
phịng y tế hoặc thơng báo cho gia đình cháu đến... Lớp tơi các cháu đều ăn ngủ
trưa tại trường nên cứ đầu giờ chiều tôi lại hỏi han tỷ mỷ các cháu: cháu nào ăn
nhanh, cháu nào ăn chậm, cháu nào bỏ cơm, cháu nào không ngủ trưa?... để kịp
thời nhắc nhở các cháu và trao đổi với giáo viên quản lý trưa và gia đình để có
sự điều chỉnh.
b) Học mà chơi – chơi mà học:
Học sinh đến trường thì phải vui chơi. Giờ ra chơi tơi hướng dẫn cho các cháu
trị chơi tập thể, mượn cho các cháu dây, cầu, bóng, .... để học sinh được chơi
hết mình, được cười đùa thật vui vẻ. Trong giờ học để các cháu tiếp thu bài được
dễ hơn, tơi cũng thường tổ chức các trị chơi, tạo điều kiện để đông đảo học sinh
được tham gia tham gia.
Ví dụ: Chơi "Hái hoa dân chủ" trong bài Ơn tập mơn Tự nhiên và xã hội; chơi
"Đóng kịch phân vai" trong giờ Đạo đức (Tiết 2: Luyện tập), chơi "Ai nhanh
hơn" trong giờ Toán và “Giọng đọc vàng’’ trong giờ Tập đọc, .... Những kiến
thức cơ bản học sinh được học dưới dạng trò chơi, các em thấy hứng thú và tiếp
thu kiến thức nhanh hơn đồng thời tơi nhận thấy thơng qua các trị chơi tính cách
của các cháu được bộc lộ rõ ràng hơn. Qua đó tơi nhận xét cụ thể về tính cách
của từng cháu để có biện pháp giáo dục phù hợp.
c) Khen thưởng động viên:
Thứ sáu cuối tuần có tiết sinh hoạt lớp, học trị lớp tơi rất thích và háo hức chờ

đón. Các cháu được tự do bình bầu nhau. Những cháu được cơ khen vì tiến bộ
từng mặt: học tập, kỷ luật hay chỉ là có chữ viết tiến bộ hơn tuần trước đều được
phát phần thưởng. Vào những ngày lễ hoặc sinh nhật của từng em, học sinh cũng
nhận được những món quà nhỏ nhưng nó đã thực sự mang đến cho các cháu
niềm vui khi đến trường.
Ví dụ: Tết Nguyên đán tôi mừng tuổi cho các cháu một quyển vở kèm theo
những lời chúc: Em gặp may mắn,.... Ngày 8 tháng 3 để các cháu gái có ý thức
về giới tính của mình, tơi hướng dẫn các cháu trai làm một món quà tặng cho
các bạn gái cùng bàn. Ngồi ra tơi cịn cho cả lớp vẽ, cắt một bơng hoa về tặng
bà tặng mẹ. Những món q tuy nhỏ nhưng đã thu được những giá trị tinh thần
lớn bởi tôi đọc thấy trên gương mặt của các em sáng lên niềm hân hoan với
những nụ cười hồn nhiên của con trẻ. Mang niềm vui đến cho con trẻ từ những
việc làm bình thường như vậy nhưng cũng khiến cho học sinh cảm thấy tình
thương yêu và sự quan tâm săn sóc của cơ với các cháu. Từ sự cảm nhận này
khiến cả phụ huynh lẫn học sinh đều cảm thấy tin tưởng. Các cháu thấy mỗi


10

ngày đến trường là một ngày vui. Chính vì vậy phụ huynh thấy gửi gắm các
cháu cho nhà trường, cho cơ là hồn tồn n tâm vững dạ.
Ảnh: Phát thưởng cho học sinh tiến bộ.
2.3.5. Kĩ năng giao tiếp hằng ngày của học sinh
Những ngày đầu đi học của học sinh lớp Một, giao tiếp là một vấn đề quan
trọng. Do còn nhút nhát, rụt rè nên giáo viên cần tạo cho học sinh một tâm thế
hào hứng, khơng khí học tập nhẹ nhàng, thoải mái để bước đầu các em hồ nhập
vào hoạt động học tập là chính, hoạt động xuyên suốt cả một ngày học, một quá
trình học. Chính vì thế giáo viên ln phải hướng học sinh tự tin khi giao tiếp
hằng ngày trước rồi trong các hoạt động học tập của các môn học. Chẳng hạn
khi học sinh thưa với giáo viên hay giáo viên hỏi học sinh, giáo viên phải nhẹ

nhàng, gần gũi để tạo cho các em tự tin, mạnh dạn hơn trong khi giao tiếp với
giáo viên, tránh tình trạng học sinh sợ giáo viên khơng giám thưa hỏi gì.
Ví dụ: Giáo viên hướng dẫn học sinh quen với cách nói: "Em chào cô./ Cô ơi,
em làm xong bài rồi ạ!"/.... Tuyệt nhiên khơng để xảy ra các trường hợp nói như
sau: Giáo viên hỏi: "Em làm bài tập xong chưa?". Học sinh trả lời: Xong rồi....
Nếu có trường hợp đó xảy ra, giáo viên sửa cho học sinh ngay: "Em phải nói:
Thưa cơ, em làm xong rồi ạ!".
Như vậy luyện nói cho học sinh phải được uốn nắn hằng ngày trong quá trình
dạy học. Bên cạnh đó, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh được tiếp xúc, làm quen
với các anh chị đội viên lớp trên qua buổi sinh hoạt Sao, tham dự và chứng kiến
các cuộc thi do nhà trường tổ chức để các em có cơ hội làm quen và bắt chước.
Mặt khác, giáo viên còn tổ chức đọc, nghe đọc và thi đọc truyện hay giúp học
sinh mạnh dạn trong khi đọc cũng như trong khi nói.
2.3.5. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh
Học sinh rất thích được cơ khen và tun dương cịn phụ huynh ln mong
muốn sau mỗi buổi đón con ở trường về lại nghe con mình khoe đã được cơ
tun dương, và kể những chuyện vui ở lớp. Chỉ cần có thế thơi cũng đủ để bố
mẹ thêm vui và vơi đi bao sự nhọc nhằn của cả một ngày lao động vất vả. Cũng
chỉ cần có thế mà bữa cơm gia đình học sinh hôm ấy cảm thấy ngon miệng hơn
và hạnh phúc hơn. Nhưng thực tế không phải bao giờ các cháu cũng học bài và
làm bài chuyên cần để cô giáo sẵn lòng khen ngợi. Nhiều khi kiểm tra bài, học
sinh vì một lý do nào đấy khơng đủ bài, tơi vẫn nghiêm khắc phê bình kèm theo
lời khiển trách nhưng vẫn ôn tồn mở lối cho học sinh. Nhắc cho học sinh nợ bài
đến lần kiểm tra sau đồng thời thơng báo cho phụ huynh biết điều đó.
Cách làm này đã làm mất đi sự thất vọng trong lòng các em và mở ra cho các
em hy vọng để cố gắng ở lần sau. Những em này ln có tư tưởng cịn nợ bài cơ
nên đã cố gắng "lập công chuộc tội". Vào tiết học sau, các em rất hào hứng xung
phong được kiểm tra để có cơ hội trả nợ bài cho cô. Phụ huynh học sinh biết
được điều đó đều đã cố gắng động viên con học và họ khơng cịn băn khoăn, lo
lắng về kết quả học tập của con mình.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau khi áp dụng một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp như trên, tôi
nhận thấy học sinh lớp mình chủ nhiệm có những chuyển biến tích cực như sau:


11

Kết quả đạt được ở giữa học kì 2:
Tổng
số
HS
37

HS tự tin, hoà đồng
trong học tập,
sinh hoạt
Số lượng
Tỉ lệ
28
75,7 %

HS thiếu tự tin, hoà
đồng trong học tập,
sinh hoạt
Số lượng
Tỉ lệ
6
16,2 %

HS chỉ tham gia hoạt

động
học tập
Số lượng
Tỉ lệ
3
8,1 %

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Tóm lại để hồn thành tốt cơng tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục của trường nói riêng và của ngành giáo dục nói chung, người
giáo viên phải ln trau đồi kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp; có tấm lịng vị tha,
có tấm lịng u trẻ, tâm huyết với nghề nghiệp. Qua đó mới có những biện pháp
sư phạm, cách làm hợp lí nhất tác động tới các em mới có hiệu quả cao. Những
việc đó tiến hành khơng dễ dàng, càng khơng thể diễn ra trong khoảng thời gian
nhất định. Tôi thực hiện nó một cách tối đa để "mỗi ngày học sinh đến trường là
mỗi ngày vui", là một khái niệm rộng do tác động của nhiều yếu tố: Con người,
môi trường, hồn cảnh,....
Theo chủ quan tơi nghĩ mình đã góp phần nhỏ trong niềm vui ấy của các
cháu. Học sinh của lớp tôi đi học với tâm trạng rất thoải mái và hứng thú. Các
cháu háo hức đến trường để gặp cơ, gặp bạn. Tuyệt nhiên khơng có những cháu
phụng phịu níu tay cha mẹ trước buổi đi làm. Thầy cơ bước vào lớp các cháu
khơng có vẻ nhút nhát, rụt rè nữa. Trái lại nhiều cháu đón cơ với nụ cười tươi tắn
trên mơi chào buổi sáng vì biết thể nào cơ cũng gây tiếng cười nho nhỏ cho
mình. Giao tiếp giữa cơ và trị gần gũi thân thiện hơn nhưng không bao giờ chớt
nhả, bỡn cợt.
Tôi quan sát các cháu trong giờ chơi thấy các cháu cư xử với nhau hồ nhã,
hiện tượng nói tục, chửi bậy hạn chế rất nhiều và dường như khơng có. Các cháu
bớt đi những lời nói thơ lỗ, cục cằn gay gắt. Có cháu khơng may gây lỗi với bạn,
các cháu thường xuyên nhận ra và tự giải quyết một cách nhanh chóng khơng

làm phiền lịng cơ như những ngày đầu nhận lớp. Bằng sự cảm nhận của mình,
tơi đã đọc được tình cảm của học sinh dành cho cơ giáo và qua sự đánh giá,
nhận xét tâm lý của phụ huynh về con mình. Tơi nghĩ những việc làm nhỏ của
mình đã góp phần tích cực trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển nhân
cách của học sinh lớp mình chủ nhiệm trong năm đầu cấp Tiểu học này. Điều
quan trọng tơi đã làm được một việc đó là: Làm cho các cháu cảm thấy yêu
trường, yêu lớp, yêu thầy cô, yêu bạn bè. Những dấu ấn của những ngày đầu,
năm đầu cắp sách tới trường sẽ cùng các em đi suốt cuộc đời. Đây là nền móng
quan trọng để các cháu tiếp tục theo học ở các lớp học, cấp học trên.
3.2. Kiến nghị
3.2. 1. Đối với Giáo viên:


12

- Có tâm huyết với nghề, yêu con trẻ, có năng lực, nhiệt tình, sẵn sàng tất
cả vì học sinh.
- Tích cực phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội.
- Nghiên cứu kĩ đặc điểm tâm sinh lý, hồn cảnh gia đình, mong muốn của
học sinh để đưa ra những biện pháp chủ nhiệm lớp phù hợp nhất với đối tượng
học sinh của lớp mình chủ nhiệm.
- Vận dụng linh hoạt, khéo léo các phương pháp và hình thức tổ chức thực
hiện. Lồng ghép, đan xen các biện pháp với nhau.
3.2. 2. Đối với nhà trường:
- Tổ chức quán triệt một cách sâu rộng về vai trò, ý nghĩa của người giáo
viên chủ nhiệm.
- Xây dựng tiêu chí đánh giá một giáo viên chủ nhiệm giỏi.
Trên đây là “Một số biện pháp chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục cho học sinh lớp Một'' ở trường tiểu học Thị trấn Bến Sung mà bằng
kinh nghiệm của bản thân tôi đã rút ra. Với khoảng thời gian ngắn nghiên cứu

nên khơng tránh khỏi những thiếu sót. Mong các đồng chí đồng nghiệp góp ý,
nhận xét để đề tài của tơi hồn thiện hơn và có thể ứng dụng rộng rãi ở các lớp
bậc học Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn ./.

Xác nhận của thủ trưởng
đơn vị

Bến Sung, ngày 29 tháng 3 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết khơng sao chép
nội dung của người khác.
Người viết

Lê Thị Lan


13

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục 2005 - 38/2005/ QH11.
2. Kĩ năng công tác giáo viên chủ nhiệm của nhà xuất bản Lao động.
3. Giáo viên chủ nhiệm lớp - Những kí ức khó phai của nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam.
4. Tạp chí Giáo dục Tiếu học.
5. Những đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh lớp 1 của Viện Tâm Lý.


14


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Lan
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu Học Thị Trấn Bến Sung
Cấp đánh
giá xếp
loại
TT
Tên đề tài SKKN
(Phòng,
Sở,
Tỉnh...)
1.
Một số kinh nghiệm tăng
Huyện
cường hiệu quả trong dạy so
sánh các số có hai chữ số cho
HS lớp 1.
2.

3.

Một số kinh nghiệm về “ Xây
dựng lớp học thân thiện, học
sinh trích cực” ở lớp 1 trường
TH Thị trấn Bến Sung.
Một số biện pháp chủ nhiệm

nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục cho HS lớp 1 ở trường TH
Thị trấn Bến Sung.

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

C

2014 - 2015

Huyện

B

2017 - 2018

Huyện

B

2018 - 2019



15

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GD&ĐT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ NHIỆM NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC CHO HỌC SINH LỚP MỘT Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC THỊ TRẤN BẾN SUNG

Người thực hiện: Lê Thị Lan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn
Bến Sung - Như Thanh - Thanh Hoá.

SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Chủ nhiệm lớp

THANH HỐ NĂM 2021


16

Mục lục
Các phần của đề tài
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu

1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
2.1.Cơ sở lí luận
2.2.Thực trạng vấn đề
2.2.1. Ưu điểm
2.2.2. Tồn tại
2.2.3. Nguyên nhân
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
2
2
2
2
2
2
3
4
4
4
5
12
12
12

13



×