Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BỈM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY - HỌC VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5

Người thực hiện: Tống Thị Hằng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ba Đình
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Tiếng Việt

THANH HĨA, NĂM 2021


MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

1

I. MỞ ĐẦU

1

2


3

1. Lí do chọn đề tài:
2. Mục đích nghiên cứu.

1
1

4

3. Đối tượng nghiên cứu.

1

5

4. Phương pháp nghiên cứu.

1

6

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

7

1. Cơ sở lí luận


2

8
9

2. Thực trạng của vấn đề
3. Các giải pháp thực hiện
3.1. Rèn cho học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản về văn
10 miêu tả.

3
5

11 3.2. Rèn luyện kĩ năng quan sát khi viết văn văn miêu tả
12 3.3. Rèn kĩ năng lập dàn ý

6
10

13 3.4. Rèn kĩ năng dựng đoạn trong bài văn miêu tả cho học sinh

12

14 3.5. Rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh
3.6. Rèn kĩ năng làm giàu vốn từ và sử dụng từ ngữ, hình ảnh
15
trong văn tả cảnh cho học sinh
3.7. Rèn cho học sinh biết viết câu văn giàu hình ảnh và sử
16
dụng các biện pháp nghệ thuật trong bài văn.

3.8. Tồ chức cho học sinh đi thăm quan các danh lam, thắng
17
cảnh; đi dã ngoại và trải nghiệm kĩ năng sống bằng

14

18 3.9. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học

18

19 3.10. Giáo viên chấm bài và trả bài viết

18

20 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

19

21 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

20

22 1. Kết luận.

20

23 2. Kiến nghị.

20


5

14
16
17


I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ở Tiểu học, Tập làm văn là một phân môn của bộ môn Tiếng Việt. Trong
chương trình Tập làm văn lớp 5, các em chủ yếu được học thể loại văn miêu tả,
một thể loại rất gần gũi với thực tiễn và có giá trị ứng dụng rất lớn trong thực
tiễn, trong đó, văn tả cảnh chiếm dung lượng lớn nhất.
Nhiệm vụ của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp học sinh biết cách
và có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới mẻ, thú vị về thế giới xung
quanh; biết truyền rung cảm của mình vào đối tượng miêu tả; bước đầu biết sử
dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những câu văn rõ về nội dung, chân thực
về tình cảm.
Như chúng ta đã biết “Văn miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi
bật của cảnh, của người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung
được về các đối tượng ấy”. Để vẽ được bằng lời các bức tranh về cảnh, về
người với những nét nổi bật thì ngồi việc nắm bắt được các kiến thức cơ bản
về lí thuyết, nó cịn địi hỏi học sinh phải có được khả năng phong phú về vốn
từ, về diễn đạt, về việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân
hóa... Ngoài ra để làm được một bài văn miêu tả, nhiều khi học sinh còn phải
biết huy động cả những kiến thức và kĩ năng của các môn học khác cộng với
vốn sống, vốn hiểu biết thực tế của mình thì mới làm được. Bởi vậy, đây là một
trong những thể loại văn khó đối với khơng ít học sinh Tiểu học nói chung và
học sinh lớp 5 nói riêng.
Mục tiêu của việc dạy văn miêu tả là tạo ra những ngơn bản “có cảm xúc”

trong mỗi bài văn, nói lên được cái hay, cái đẹp về cuộc sống xung quanh và thể
hiện cái đẹp đó bằng bằng ngơn ngữ giàu hình ảnh. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn
học sinh đều viết văn rất khô khan, bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt
được nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thơng báo chứ chưa có hình ảnh,
chưa có cảm xúc bởi ở lứa tuổi các em vốn sống và vốn kiến thức còn hạn hẹp.
Đứng trước thực tế đó tơi rất băn khoăn và trăn trở “Làm thế nào để các em viết
được bài văn hay?” Bởi vậy, trong phạm vi sáng kiến này tôi đã đưa ra”Một số
biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học văn miêu tả cho học sinh lớp 5”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Giúp học sinh lớp 5 nâng cao năng lực làm văn miêu tả, từ đó các em có
thể viết được những bài văn miêu tả có bố cục đầy đủ, rõ ràng, diễn đạt trơi
chảy, trình bày những câu văn, ý văn giàu hình ảnh có cảm xúc và sáng tạo.
- Giúp giáo viên nắm vững mục tiêu, nội dung liên quan đến văn miêu tả;
định hướng quan sát, phương pháp quan sát, rèn thói quen quan sát và ghi chép
kết quả quan sát cho học sinh bài văn miêu tả.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy - học văn miêu tả trong
chương trình Tập làm văn lớp 5.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết;
- Phương pháp thực nghiệm; kiểm tra, đánh giá;
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập dữ liệu và thống kê.


2

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Môn Tiếng Việt là một trong những bộ môn cơ bản, quan trọng nhất trong
chương trình Tiểu học, vì chỉ có học tốt Tiếng Việt các em mới có điều kiện để

học tập, tư duy và giao tiếp. Trong đó phân mơn Tập làm văn có vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc dạy và học Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học
là nền tảng, là chìa khoá khám phá xã hội của các em sau này. Mỗi bài tập làm
văn của học sinh lớp 5 nói riêng, của các em Tiểu học nói chung là một sản
phẩm của sự vận dụng tổng hợp các kiến thức, kỹ năng mà do chính các em tạo
ra trên cơ sở các em được tiếp nhận từ thực tế cuộc sống và từ vốn tích luỹ văn
học trong q trình học tập.
Miêu tả là kiểu văn nhằm giúp người tiếp nhận hình dung ra được những
đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh, …
Làm cho những sự vật, hiện tượng đó được thể hiện ra trước mắt người đọc,
người nghe. Nói một cách khác, khi tiếp nhận văn bản miêu tả, người tiếp nhận
có thể hình dung một cách đầy đủ về những đặc điểm nổi bật về đối tượng
được trình bày trong văn bản. Cũng nhờ có kiểu văn miêu tả, con người mơ tả
lại những hình ảnh, những đặc trưng cơ bản của một sự vật, một hiện tượng
nào đó cho người khác khi họ khơng được trực tiếp nhìn thấy và cảm nhận về
đối tượng đó.
Để viết và làm được bài văn miêu tả, người viết phải xác định rõ đối
tượng cần miêu tả, xác lập được những đặc trưng cơ bản của đối tượng để có thể
khắc họa nó một cách chi tiết và đầy đủ nhất. Bên cạnh đó, để có thể giúp cho
mọi đối tượng miêu tả được hiện ra trong văn bản một cách chân thực, sinh
động, người tạo lập văn bản miêu tả cần có một năng lực quan sát tốt. Nhà văn
Vũ Tú Nam - khi bàn về giá trị của văn bản miêu tả đã nhấn mạnh: “Muốn tạo ra
những bài văn miêu tả có giá trị, người viết cần phải biết quan sát. Bởi lẽ, nhờ
có quan sát, con người mới có thể phát hiện thêm những vẻ đẹp mới lạ về thế
giới tự nhiên”. Quan sát chính là hoạt động giúp con người hiểu biết rộng hơn,
sâu hơn và tinh hơn. Nói cách khác, quan sát chính là chìa khóa tạo nên sự chân
thực, sinh động cho bài văn. Năng lực quan sát thể hiện qua nhiều hoạt động
khác nhau như:
- Phải quan sát, liên tưởng, tưởng tượng.
- Phải biết sử dụng so sánh, ví von, nhân hóa,…

- Muốn miêu tả được, cần xác định được đối tượng miêu tả; lựa chọn
những hình ảnh tiêu biểu; trình bày những điều quan sát được theo một trình tự
hợp lí; đảm bảo bố cục của văn bản (ba phần). Ngoài ra, để miêu tả được, người
viết cịn phải có những kĩ năng thực tế như: quan sát, liên tưởng, tưởng tượng,
biết kết hợp với một số các phương thức biểu đạt như: lập luận, kể, biểu cảm,…
Dạy và học tốt văn miêu tả giúp học sinh biết quan sát, tìm tịi, phát hiện
những điều hay, điều mới mẻ, thú vị về thế giới xung quanh. Qua những quan
sát đó, các em truyền được những cảm xúc của mình vào đối tượng miêu tả, biết
sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, viết được những câu văn sáng rõ về
nội dung và chân thực về tình cảm.
Vậy nên, để giúp các em được trang bị thêm những kiến thức, kĩ năng cần


3

thiết để có thể học tốt về văn tả cảnh ở lớp 5 đòi hỏi người dạy phải nắm bắt
được học sinh của mình đang bị hạn chế những vấn đề gì và đang cần được bổ
sung giúp đỡ những kiến thức, kĩ năng nào để mà có biện pháp giúp đỡ các em
kịp thời. Đó chính là những kinh nghiệm tơi đã đúc rút qua q trình dạy - học
để nâng cao chất lượng học văn miêu tả cho học sinh lớp 5G Trường Tiểu học
Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Thực trạng việc dạy văn miêu tả cho học sinh
Là một giáo viên đã trực tiếp dạy lớp 5 nhiều năm tôi nhận ra rằng:
- Chất lượng học văn của học sinh Tiểu học nói chung và học văn miêu tả
của học sinh lớp 5 nói riêng vẫn đang cịn rất nhiều hạn chế. Nhiều học sinh vẫn
không biết làm một bài văn hồn chỉnh, bố cục bài văn khơng đầy đủ, rõ ràng,
diễn đạt còn lủng củng. Nhiều em viết câu văn sai, dùng từ khơng chính xác …
Nhiều học sinh cịn có tâm lí ngại học văn, viết văn.
- Nếu gặp đề bài Tập làm văn nào gần gũi với đời sống sinh hoạt, học tập

của học sinh, lại được giáo viên hướng dẫn quan sát, ghi chép tỉ mỉ đồng thời
hướng dẫn tiến hành kĩ khâu tìm ý, lập dàn bài thì chắc chắn bài viết đó sẽ đạt
kết quả khá hơn. Tuy nhiên không phải bài nào học sinh cũng dễ dàng lập được
dàn bài một cách phong phú, chi tiết, nhất là với những đề bài chưa sát với đời
sống thực tế của học sinh.
- Do tính chất đặc thù của phân mơn Tập làm văn, địi hỏi người học phải
có kiến thức tổng hợp và khả năng sáng tạo cao. Nên một lần nữa chúng ta phải
thừa nhận rằng đây là một phân mơn khó, cái khó khơng chỉ với học sinh mà nó
cịn khó cả với giáo viên.
* Về phía giáo viên:
Do trong một lớp học, trình độ tiếp thu của học sinh khơng đồng đều, số
lượng học sinh trong một lớp lại khá đông, thời gian một tiết học lại hạn chế nên
rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết
dạy … Đối với các học sinh có năng lực tiếp thu chậm, việc trang bị những kiến
thức tổng hợp cho các em để giúp các em học tốt về môn văn là một vấn đề hết
sức khó khăn.
Mặt khác, khi dạy Tập làm văn cho học sinh, giáo viên thường hay nơn
nóng, vội vàng dẫn đến tham lam, nhồi nhét áp đặt kiến thức, ngơn từ vào đầu
học sinh. Bên cạnh đó trong tiết học yêu cầu học sinh lập dàn ý, trình bày miệng
thì học sinh rất khó nói, khó diễn đạt, biểu đạt ngơn ngữ … khiến cho giáo viên
thiếu kiên trì, nói thay cho học sinh những lời hay ý đẹp có thể có trong bài văn
dẫn đến hành động nói năng của các em trở nên gượng gạo, thiếu tự nhiên.
Một số giáo viên khi dạy Tập làm văn thường đưa ra cho học sinh những
bài văn mẫu - có thể là đọc cho học sinh nghe làm thế khác nào bắt các em nghe
để rồi ghi nhớ, bắt chước làm theo, nên việc dạy Tập làm văn sẽ không có ý
nghĩa và tác dụng. Tất nhiên trong q trình dạy giáo viên có thể lựa chọn những
bài văn hay, có nhiều ưu điểm đưa ra cho học sinh tham khảo… Nhưng việc làm
đó phải được giáo viên tính tốn, cân nhắc kỹ về nhiều mặt: Dùng vào lúc nào?
Dùng cả bài hay một đoạn? Dùng để giúp học sinh học tập điều gì?... thì lại rất ít
người làm được.



4

* Về phía học sinh:
- Tư duy của học sinh Tiểu học là tư duy trực quan, cụ thể nên trong q
trình làm văn học sinh cịn gặp nhiều khó khăn. Chất lượng cảm thụ văn học của
học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn chưa cao. Đa số học sinh
khơng có thói quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với các
tác phẩm văn học. Nếu có đọc chỉ là những truyện tranh, thậm chí là những
truyện tranh khơng mang tính giáo dục.
- Khi đứng trước một đề tập làm văn cụ thể các em rất khó diễn đạt mặc
dù các em cảm nhận được. Lí do là vốn hiểu biết của các em về đời sống và về
các lĩnh vực khác còn rất nghèo nàn… Hơn nữa, các em chưa biết kết hợp các
kiến thức, kĩ năng của các phân môn, môn học khác như: Tiếng Việt, Tự nhiên &
xã hội, Đạo đức, Lịch sử & Địa lí,…. Hơn nữa rất nhiều học sinh còn rất xa lạ
với những cảnh mà các em chưa hề được quan sát, các em khơng hề nắm được
đặc điểm đối tượng mình đang tả nên khi làm bài văn chỉ dựa vào trí tưởng
tượng hoặc cảm nhận qua sự mơ tả của giáo viên,... dẫn đến các em viết câu văn
chưa chân thực, thiếu cảm xúc. Bài văn của các em thường khô cứng và nghèo
nàn. Bài văn là sản phẩm nghệ thuật, thể hiện rõ vốn hiểu biết về đời sống, trình
độ nhận thức, văn hố của học sinh,… song các em thường viết những câu văn
không đúng, không hay, diễn đạt ý còn lủng củng, chưa phù hợp, mắc nhiều lỗi
kể cả lỗi về chính tả và điều đáng lo ngại nhất là các em khơng biết bộc lộ tình
cảm của bản thân đối với mỗi đối tượng trong mỗi đề bài thì bài văn của các em
làm sao có thể sinh động và có hồn cho được. Và cịn rất nhiều những khó khăn
khác nữa mà học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng đang gặp
phải khi học về phân môn Tập làm văn. Bởi vậy việc tìm ra các biện pháp để hỗ
trợ, giúp đỡ các em lúc này là hết sức cần thiết.
2.2. Thực trạng làm văn miêu tả ở lớp 5G trường Tiểu học Ba Đình.

Ngay từ đầu năm học tơi đã tiến hành khảo sát chất lượng với đề bài sau:
Đề bài: Em hãy lập dàn ý miêu tả cảnh đẹp ở địa phương em.
Đối tượng: Học sinh lớp 5G và lớp 5E Trường Tiểu học Ba Đình - Thời
gian: GKI
* Kết quả khảo sát thu được:
Xếp loại chất lượng bài làm của học sinh
Lớp

Số bài

HTT

HT

CHT

SL

%

SL

%

SL

%

5E


40

5

12,5%

25

62,5%

10

25%

5G

42

3

7,1 %

30

71,5 %

9

21,5 %


* Thống kê những lỗi trong bài làm của học sinh lớp 5G:
- Sắp xếp các ý còn lộn xộn, chưa biết lựa chọn những chi tiết nổi bật để tả.
- Thiếu nét nổi bật, điển hình của cảnh;
- Quan sát sự vật cịn hời hợt, một số hình ảnh khơng chân thực;
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng;
- Nhiều em dùng từ khơng chính xác, vốn từ cịn nghèo, khả năng diễn đạt


5

còn vụng về, câu văn lủng củng, thiếu sự liên kết.
* Tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế trên, tôi được biết:
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Hơn một nửa số học sinh chưa biết cách quan sát và ghi chép lại kết quả
quan sát. Các em chưa biết diễn đạt chính xác những gì mình quan sát được.
- Một số em khi lập dàn ý chỉ là sự chắp ghép của những hình ảnh rời rạc,
mơ hồ về cảnh cần tả, thậm chí, có học sinh cịn lắp ghép những hình ảnh khơng
chân thực(tưởng tượng ra hoặc lấy từ nơi khác) vào cảnh cần tả. Mặt khác, các
em phụ thuộc nhiều vào nguồn ngữ liệu mà Sách giáo khoa cung cấp dẫn tới dàn
ý có nhiều ý bắt chước, thiếu tính chân thực, thiếu tính sáng tạo. Các em chưa
thấy được những vẻ đẹp vốn có, chưa phát hiện được những điều mới mẻ, thú vị
của cảnh vật xung quanh.
- Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn
Tập làm văn là một mơn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay
giáo viên chưa phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học
sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học
Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông
viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Rèn cho học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản về văn miêu tả.

Văn miêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung
những đặc điểm, tính chất nổi bật của sự vật, sự việc, con người, phong cảnh, …
làm cho những cái đó như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe. Trong văn
miêu tả, năng lực quan sát của người viết, người nói thường được bộc lộ rõ nhất.
* Đặc điểm và yêu cầu của văn miêu tả:
- Văn miêu tả là loại văn mang tính thơng báo thẩm mĩ. Đó là sự miêu tả
thể hiện được cái mới mẻ, cái riêng trong cách quan sát, cách cảm nhận của
người viết.
- Ngôn ngữ trong văn miêu tả giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu,
âm thanh.
- Muốn miêu tả được, trước hết người tả phải biết quan sát, rồi từ đó nhận
xét, liên tưởng, tưởng tượng, ví von, so sánh,… để làm nổi bật lên những đặc
điểm tiêu biểu của sự vật.
* Tìm hiểu các kiểu bài văn miêu tả ở lớp 5:
Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 5: Cả năm có 62 tiết trong đó
Tập làm văn miêu tả 33 tiết(chiếm hơn 50% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến
thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm
giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình
thành nhân cách cho học sinh.
+ Nội dung văn tả cảnh sẽ được học trong 18 tiết. Để làm được bài văn tả
cảnh, cần phải hường dẫn học sinh:
- Xác định đối tượng miêu tả.
- Quan sát lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu.
- Trình bày những điều quan sát được theo một thứ tự.
+ Nội dung văn tả người được học trong 15 tiết. Để làm được bài văn tả


6

người, cần phải hường dẫn học sinh:

- Xác định được đối tượng cần tả(tả chân dung hay tả người trong tư thế
làm việc).
- Quan sát, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu.
- Trình bày kết quả quan sát theo một thứ tự.
Qua thực tế giảng dạy chúng ta thấy, những kiến thức cơ bản này với
những đối tượng học sinh có năng lực tiếp thu tốt thì việc ghi nhớ và vận dụng
vào bài văn sẽ rất đơn giản. Nhiều em có thể nhớ bài ngay tại lớp và biết vận
dụng linh hoạt các kiến thức đó trong từng đề bài cụ thể. Nhưng đối với những
học sinh có năng lực tiếp thu chậm thì ngay việc ghi nhớ của các em đã gặp khó
khăn chứ chưa nói đến việc các em biết vận dụng nó trong lúc làm bài. Bởi vậy
mới dẫn đến tình trạng nhiều bài viết của các em bị sai về thể loại; bố cục bài
văn khơng đầy đủ hoặc trình bày bố cục khơng rõ ràng; các ý trong bài sắp xếp
cịn lộn xộn khơng theo một trình tự nhất định... Điều đó cho thấy học sinh của
chúng ta chưa nắm vững những kiến thức và kĩ năng cơ bản hoặc chưa biết gắn
lí thuyết với thực hành. Tình trạng này, các em học sinh trong lớp 5G của tơi
cũng có nhiều em mắc phải.
Để giúp học sinh nắm được các kiến thức cơ bản này, tôi hướng dẫn học
sinh nắm bắt kiến thức cơ bản bằng cách yêu cầu các em về học thuộc phần ghi
nhớ của mỗi bài học. Mặt khác, tôi cho các em luyện tập thực hành nhiều thông
qua các bài tập lập dàn ý nhằm giúp các em hiểu và ghi nhớ lâu hơn. Ngồi ra
tơi cịn tham khảo các tài liệu khác để hướng dẫn cụ thể hơn cho các em về mỗi
mạch kiến thức mà các em cần ghi nhớ.
Ví dụ: Để học sinh hiểu rõ hơn về bố cục và cách trình bày bố cục của bài
văn thì ngồi những kiến thức trong sách giáo khoa, tơi cịn lấy thêm một số ví
dụ tiêu biểu về bố cục của bài văn ở các tài liệu tham khảo rồi trình chiếu lên
trên bảng cho học sinh quan sát. Sau đó, tơi cho học sinh thảo luận để nhận ra
đâu là phần mở bài, đâu là phần thân bài, kết bài. Hoặc cũng có khi, tơi đưa ra
những bài văn mà học sinh trình bày thiếu, trình bày sai về bố cục, về thể loại,
về cách sắp xếp ý rồi yêu cầu học sinh đọc, thảo luận và chỉ ra cái sai, cái chưa
phù hợp trong bài văn đó. Mỗi khi chấm bài, gặp các trường hợp này, tôi đã ghi

chép lại rất tỉ mỉ về những thiếu sót của các em để hướng dẫn các em cách sửa
và khắc phục trong tiết trả bài. Khi trả bài, tôi sẽ yêu cầu các em làm lại bài văn
đó sửa lại những chỗ chưa phù hợp, chưa đúng rồi chấm lại để xem các em đã
biết cách khắc phục những thiếu sót của mình chưa.
Từ những cách làm như trên, tơi nhận thấy học sinh của mình đã khắc
phục được tương đối tốt những hạn chế mà các em mắc phải khi không nắm
được những kiến thức cơ bản của văn miêu tả. Bởi vậy, tình trạng học sinh viết
sai thể loại bài, kiểu bài và viết không đầy đủ bố cục hầu như khơng cịn nữa.
Các em đã mạnh dạn, tự tin hơn khi làm văn.
3.2. Rèn kĩ năng quan sát khi viết văn văn miêu tả
Nhà văn Tô Hoài, người nổi tiếng về tài quan sát và miêu tả đã nói:
“Quan sát giỏi phải tìm ra những nét chính, tìm thấy tính riêng, móc được
những ngóc ngách của sự vật, của vấn đề. Nhiều khi chẳng cần dàn đủ sự việc,
chỉ cần chép lại những đặc điểm mà mình cảm nhất như: một câu nói cũng có


7

thể lột tả tính nết, những dáng người và những hình bóng, tiếng động, ánh đèn,
nét mặt, một trong những trạng thái tư tưởng do mình đã khổ cơng ngắm, nghe,
nghĩ mới bật lên được thì thích nghi khơng chịu được.” Vì thế, khi hướng dẫn
học sinh cách tạo lập văn bản miêu tả, một trong những nhiệm vụ mà giáo viên
không thể thực hiện được là rèn kĩ năng quan sát cho học sinh. Với từng kiểu bài
miêu tả, giáo viên cần có những biện pháp hướng dẫn học sinh riêng và phù hợp
với đặc trưng của từng kiểu bài.
3.2.1. Hình thành ý thức quan sát khi học về văn miêu tả
Nhà văn Phạm Hổ, khi bàn về văn miêu tả đã khẳng định:”Miêu tả giỏi là
khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc như thấy những cái đó hiện ra trước
mắt mình.” [5, Tr9]. Vì thế, khi hướng dẫn học sinh làm văn miêu tả, tôi đặc biệt
quan tâm hình thành ý thức về quan sát cho học sinh. Với học sinh Tiểu học,

việc hình thành kĩ năng này thực sự quan trọng bởi nó là tiền đề hình thành một
số năng lực cho học sinh như năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực
tư duy … Đồng thời nó cũng giúp cho học sinh có điều kiện liên tưởng, tưởng
tượng và tìm ra những cách biểu đạt mới lạ, lí thú. Như vậy, quan sát cũng là
yếu tố giúp giáo viên có thể bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ cho học sinh.
Trong quá trình dạy văn miêu tả, tơi đặc biệt quan tâm đến việc hướng dẫn
các em cách quan sát. Mục đích của việc làm này là thông qua sự quan sát của
bản thân, học sinh vừa nhận biết, vừa khám phá và phát hiện ra nhiều điều trong
thế giới tự nhiên, đồng thời cũng là cách để các em biết vận dụng những phát
hiện của bản thân khi thực hiện bước tìm ý, lập dàn ý và biểu đạt nội dung miêu
tả. Tuy nhiên với học sinh lớp 5, muốn việc ghi chép đạt hiệu quả, tôi đã định
hướng rõ nội dung ghi chép cho các em. Có nhiều cách để hướng dẫn cho học
sinh thực hiện nhiệm vụ này tôi đã yêu cầu mỗi học sinh trong lớp phải chuẩn bị
một cuốn Sổ tay văn học, tôi hướng dẫn các em ghi chép mọi lúc, mọi nơi. Mỗi
nội dung được ghi chép nên tách riêng ra, có chủ đề nhất định. Các chủ đề
thường tương ứng với đối tượng được miêu tả. Chẳng hạn như, quang cảnh
trường học trong giờ ra chơi, quang cảnh trường em vào đầu giờ học, trên đường
đi học về hoặc những chuyến đi chơi thú vị với gia đình, những con vật mà em
nhìn thấy.
Sau khi quan sát, các em phải ghi những đặc điểm cơ bản: Hình dáng,
màu sắc, hoạt động của đối tượng,… Tuy nhiên cần tìm và viết được những cái
mới, cái riêng, cái độc đáo. Bởi lẽ, cùng một đối tượng (ví dụ cùng một con gà
trống) nhưng mỗi học sinh lại có một sự cảm nhận riêng (có em thích màu sắc
bộ lơng bên ngồi, có em thích dáng vẻ oai vệ, có em lại thích tiếng gáy,…). Khi
tiếp nhận kết quả ghi chép của học sinh, tôi luôn tôn trọng ý kiến của các em,
không phê phán vội vàng, chủ quan, phải giúp các em tự tin thể hiện những suy
nghĩ, phát hiện và cảm nhận của bản thân.
3.2.2. Hướng dẫn học sinh định hướng quan sát, phương pháp quan
sát, cách thức quan sát
Muốn học sinh ghi chép có hiệu quả nhằm miêu tả hấp dẫn một đối tượng

nào đó, giáo viên cần giúp học sinh biết quan sát đối tượng theo từng góc nhìn,
từng thời điểm, biết cảm nhận và chọn “điểm nhấn” của đối tượng để từ đó các
em có thể tạo ra nét riêng biệt của mình. Do vậy để đảm bảo tính chân thực của


8

đối tượng được miêu tả, nội dung ghi chép vừa phải gắn liền với hoạt động quan
sát trực tiếp, vừa phải kết hợp được những kinh nghiệm sống, vừa phải phát huy
khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh, thể hiện được tình cảm, cảm xúc
thực của các em. Tính chân thực địi hỏi phải có chi tiết thực, tả đúng bản chất
của đối tượng miêu tả, thể hiện được những nét đẹp đẽ, đúng đắn trong tư tưởng,
tình cảm của học sinh khi bộc lộ thái độ của các em với đối tượng miêu tả. Để
thực hiện những yêu cầu trên, có thể hướng dẫn học sinh quan sát theo một số
trình tự dưới đây:
3.2.2.1. Quan sát theo trình tự khơng gian
Quan sát giúp các em học sinh chuẩn bị được tư liệu để viết bài văn, có
thể thực hiện khi tạo lập được các loại miêu tả như: miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh
vật. Đối với học sinh lớp 5, việc quan sát gắn với những bài văn miêu tả mà các
em được học. Trước khi hướng dẫn học sinh tập quan sát để ghi chép, tôi hướng
dẫn các em nhận biết về không gian: (cao/ thấp; trên/dưới; trong/ ngoài; xa/gần,…)
và cho các em nhận biết được về cách quan sát theo không gian qua một ngữ liệu
cụ thể. Chẳng hạn, tơi có thể chọn ngữ liệu như: “Trước mắt chúng tôi, giữa hai
dãy núi, là nhà Bác với cánh đồng quê Bác. Nhìn xuống cánh đồng có đủ các màu:
xanh pha vàng của ruộng mía, xanh rất mượt của lúa chiêm đương thời con gái,
xanh đậm của những rặng tre, đây đó một vài cây phi lao xanh biếc và rất nhiều
màu xanh khác nữa. Cả cánh đồng thu gọn trong tầm mắt, làng nối làng, ruộng
tiếp ruộng. Cuộc sống ở đây có một cái gì đó mặn mà, ấm áp,…”
Sau khi giới thiệu ngữ liệu này, tôi cho học sinh đọc rồi xác định: Khung
cảnh được miêu tả là gì? Người viết đã miêu tả nó ở những góc độ nào? (trước

mặt, trên cao…)? Từ những góc độ đó, người viết đã miêu tả những cảnh vật
nào? Đồng thời, giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh xác định cách thể
hiện thái độ, cảm xúc của người viết khi miêu tả đối tượng. Từ đó, tơi hướng dẫn
cho học sinh cách thể hiện tình cảm/ cảm xúc của bản thân khi trình bày nội
dung miêu tả.
3.2.2.2. Quan sát theo trình tự thời gian
Trong văn miêu tả, để có thể khắc họa sự thay đổi của từng đối tượng cần
miêu tả, người viết cần phải quan sát đối tượng đó trong những thời điểm khác
nhau. Vì thế, việc quan sát có thể thực hiện theo trình tự thời gian. Hình thức
quan sát này giúp học sinh có thể miêu tả con vật, khung cảnh, hoạt động lao
động/ sinh hoạt của con người. Để học sinh có thể thực hiện được hình thức
quan sát này, tôi đã hướng dẫn học sinh về cách ghi chép: cần đúng theo trật tự
thời gian, làm nổi bật sự thay đổi của đối tượng và biết bày tỏ tình cảm/ cảm xúc
của bản thân đối với đối tượng miêu tả theo từng thời điểm nhất định. Ví dụ: “…
Cái cây ấy, mùa hè này hết tầng lá nọ đến tầng lá kia, che kín khơng cho một tia
nắng nhỏ rọi được xuống đất, để cho chúng nó chơi đùa… Sang cuối thu, lá của
nó ngả thành màu tía và bắt đầu rụng xuống,… Qua mùa đông, cây bàng trụi
không cịn một lá, cành như khơ lại in trên nên trời đục,… Cho tới mùa xuân,
chỉ một đêm thôi, chồi xanh li ti đã điểm kín tất cả các cành to, cành nhỏ,…”
3.2.2.3. Quan sát theo biểu hiện tâm lí
Khi viết văn tả người, con vật, học sinh cần khắc họa được tâm lí, tính
cách của đối tượng. Để thực hiện được yêu cầu đó, người viết phải quan sát đối


9

tượng để tìm ra được những đặc điểm tâm lí của đối tượng miêu tả, vì thế, khi
dạy học viết văn miêu tả, tôi hướng dẫn học sinh tập và rèn luyện hình thức quan
sát này, khơng giống như hai hình thức quan sát trên, tơi hướng dẫn học sinh
thực hiện theo quy trình: Hướng dẫn và giải thích sơ lược cho học sinh cách biểu

hiện tâm lí rồi sau đó mới hướng dẫn học sinh cách quan sát. Khi quan sát cần
thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh nhất đến
bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ
vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm
đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng. Tôi
chọn ngữ liệu rồi sau đó hướng dẫn các em vừa nhận biết về cách miêu tả, vừa
nhận xét về cách thể hiện tâm lí của đối tượng. Ví dụ: Chấm có một thân hình
nở nang rất cân đối. Hai cánh tay béo lẳn và chắc nịch, hai vai tròn và cái cổ
cao. Chấm ao ước có một mái tóc cho thật dài, thật xanh. Nhưng tóc Chấm từ
thuở bé cứ đỏ quạch và không sao dài được. Đôi lông mày Chấm không tỉa bao
giờ, nó mọc lịa xịa tự nhiên, chính vì thế lại làm cho đôi mắt sắc sảo của Chấm
dịu dàng đi…”. Với ngữ liệu này, tôi hướng dẫn học sinh xác định đối tượng
được miêu tả, xác định những đặc điểm cơ bản được chọn miêu tả và xác định
những yếu tố thể hiện tâm lí, tính cách của đối tượng. Tôi lưu ý học sinh về cách
quan sát: Khi quan sát cần chú ý tới những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút
và gây cảm xúc mạnh nhất thì quan sát trước, tả trước, các đặc điểm khác tả sau.
3.2.2.4. Kết hợp các giác quan khi quan sát
Các sự vật hiện tượng… khi được miêu tả không chỉ có những thay đổi về
hình dáng, đặc điểm bên ngồi mà cịn có những mùi vị, màu sắc, giác quan.
Cũng vì thế, khi hướng dẫn học sinh học văn miêu tả, tơi lưu ý học sinh ngồi
các hình thức miêu tả trên và hướng dẫn học sinh kĩ năng sử dụng các giác
quan(thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,…) để quan sát, cảm nhận được sự
vật, hiện tượng miêu tả. Việc làm này, tơi có thể thực hiện lồng ghép khi hướng
dẫn học sinh học luyện từ và câu hoặc đọc hiểu văn bản. Chẳng hạn, khi hướng
dẫn học sinh đọc bài Mưa rào(Tiếng Việt 5 - tập 1- Trang 31), tơi hướng dẫn học
sinh tìm hiểu cách tác giả đã quan sát và sử dụng các giác quan:
- Thị giác: hình ảnh bầu trời, mưa (giọt ngã, giọt bay, bụi nước trắng xóa),
mây, con vật, cây cối…;
- Thính giác: tiếng mưa, tiếng sấm, tiếng chim hót sau mưa…;
- Khứu giác: mùi nồng ngai ngái, cái mùi xa lạ, man mát của những trận

mưa mới đầu mùa.
Sau đó, tơi có thể mở rộng bằng cách hướng dẫn học sinh: khi viết câu
văn miêu tả, có thể miêu tả màu sắc, mùi vị hoặc âm thanh. Chính những đặc
điểm này sẽ giúp cho bài văn thêm sinh động, cụ thể, chân thực và hấp dẫn
người tiếp nhận.
3.2.2.5. Quan sát theo cách kết hợp nhiều hình thức khác nhau
Một bức tranh miêu tả sẽ trở nên cụ thể, thuyết phục người tiếp nhận khi
người viết biết khắc họa bức tranh đó một cách chi tiết, sinh động, giống với
thực tế khách quan. Để làm được điều đó, sự kết hợp nhiều hình thức khác
nhau(khơng gian, thời gian, màu sắc, tâm lí, tính cách…) là điều cần thiết. Bởi
vậy thơng qua những hình thức quan sát này, học sinh sẽ có một cái nhìn tổng


10

thể, tồn diện đối tượng, từ đó các em sẽ lựa chọn “điểm riêng biệt” để dẫn dắt
người đọc tiếp nhận và hình dung đối tượng. Nói cách khác, khi hướng dẫn học
sinh tập viết bài văn miêu tả, tôi định hướng cho học sinh cách kết hợp các hình
thức quan sát: thời gian, không gian, đặc điểm - giác quan - tâm lí và bày tỏ tình
cảm của mình với đối tượng được miêu tả.
3.3. Rèn kĩ năng lập dàn ý cho học sinh
Nhiều học sinh khơng có thói quen dựa vào dàn ý đã lập để viết thành
đoạn văn, bài văn. Chính vì vậy, bài viết của các em dễ thiếu ý hoặc miêu tả
khơng đúng trình tự. Để giúp học sinh thấy rõ được sự cần thiết phải dựa vào
dàn ý để viết đoạn văn, bài văn miêu tả hoặc lập dàn ý trước khi viết văn miêu
tả, tôi đã hướng dẫn học sinh so sánh giữa những đoạn văn, bài văn của những
bạn biết dựa vào dàn ý với những đoạn văn, bài văn của những bạn chưa biết
dựa vào dàn ý. Các em đã thấy được những nhược điểm, hạn chế của những
đoạn văn, bài văn viết khơng dựa vào dàn ý. Từ đó, học sinh sẽ nghiêm túc hơn,
có trách nhiệm hơn trong lập dàn ý, đồng thời có thói quen dựa vào dàn ý để viết

đoạn văn, bài văn miêu tả nói riêng, các bài văn nói chung.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó vẫn chưa đủ. Có những học sinh chưa
biết cách phát triển dàn ý thành đoạn, bài văn. Nếu lập ra một dàn ý rồi mà
không biết cách phát triển dàn ý đó thành bài viết hồn chỉnh thì dần dần, các
em sẽ nản lòng và tất nhiên sẽ khơng quan tâm đến lập dàn ý nữa.
Chính vì vậy, kĩ năng lập dàn ý có vai trị hết sức quan trọng đây là khâu
quyết định của việc xây dựng nội dung bài văn.
Muốn lập được dàn ý giáo viên phải hướng dẫn học sinh hai cơng việc
chính đó là chọn lọc ý và sắp xếp thành dàn ý.
Các em cần biết sắp xếp nội dung theo từng phần dàn ý có thể là theo
trình tự khơng gian hoặc trình tự thời gian.
Với học sinh yếu kém giáo viên có thể cho học sinh lập dàn ý theo mức
độ từ dễ đến khó.
Mức độ 1: Lập dàn ý dựa trên kết quả quan sát và câu hỏi định hướng.
Mức độ 2: Lập dàn ý dựa trên kết quả quan sát.
Ví dụ: Đề bài: Em hãy lập dàn ý chi tiết cho bài văn miêu tả một người
bạn thân của em."(TLV- TV 5 tập 1 Tr. 150).
* Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được.
+ Bạn Vân Anh học cùng lớp với em.
+ Bạn và em chơi thân với nhau từ năm học lớp Một.
+ Chúng em rất thân nhau.
+ Em sẽ cố gắng làm nhiều điều tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi
bền lâu.
+ Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy buồn và rất nhớ bạn.
+ Bạn có nước da trắng trẻo, hồng hào.
+ Bạn tiếp thu bài rất nhanh và tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài
nên luôn được thầy cô và các bạn trong lớp khen ngợi.
+ Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười để lộ hàm răng trăng bóng và đều
tăm tắp.
+ Mái tóc bạn khơng đen như tóc em nhưng dài hơn và suôn mượt.



11

+ Bằng tuổi với em nhưng bạn cao hơn em một cái đầu.
+ Vân Anh viết chữ rất đẹp, bạn luôn được cô giáo tuyên dương trước lớp.
+ Mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt
trông thật dễ thương.
+ Bạn rất thân thiện và luôn giúp đỡ các bạn trong lớp.
+ Thầy cô thường lấy bạn để làm gương.
* Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp xếp ý thành các đoạn Mở bài,
Thân bài, Kết bài phù hợp.
Dựa vào các ý vừa tìm được, tơi hướng dẫn học sinh lập dàn ý hoàn chỉnh
theo các bước sau:
Bước 1: Sắp xếp lại các ý theo trình tự của từng phần: Mở bài, thân bài,
kết bài. Tức là học sinh phải lựa chọn để đưa ý nào vào mở bài, ý nào vào thân
bài và ý nào vào kết bài. Phần này các em phải bám vào dàn ý đại cương mà tôi
đã cho các em ghi nhớ ở trên để sắp xếp cho đúng.
Bước 2: HS hoàn chỉnh dàn ý (Lập thành một dàn ý chi tiết). Ví dụ:
Mở bài:
+ Em và bạn Vân Anh chơi thân với nhau từ năm lớp Một.
+ Chúng em rất thân nhau. Đi học, em thường đi chung với bạn.
Thân bài:
+ Bằng tuổi với em, cao hơn em một cái đầu.
+ Bạn có nước da trắng trẻo, mịn màng như làn da em bé.
+ Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ
trên khuôn mặt trắng trẻo, dễ thương.
+ Vân Anh có đơi mắt to rất đẹp với hàng lông mi dài, cong. Đôi mắt bạn
luôn ánh lên ra vẻ hồn nhiên, chất phác.
+ Mái tóc bạn khơng đen như tóc em nhưng dài hơn.

+ Vân Anh viết chữ rất đẹp, bạn luôn được cô giáo tuyên dương trước lớp.
+ Cô giáo thường lấy bạn ra làm gương cho chúng em noi theo để rèn
chữ. Ở lớp, cô giáo thường khen bạn hiểu bài rất nhanh.
+ Bạn rất thân thiện và luôn giúp đỡ các bạn trong lớp.
Kết bài:
+ Mỗi khi vắng Vân Anh, nhất là những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy
buồn và rất nhớ bạn.
Ví dụ: Lập dàn ý miêu tả về một cảnh đẹp ở quê hương, nơi em đang sinh
sống (Tiếng Việt 5 - Tập 1 trang 81)
* Đầu tiên, tôi cho học sinh chuẩn bị ở nhà, quan sát cảnh đẹp ở địa
phương, ghi lại những điều quan sát được.
* Trong tiết học kết tiếp, dựa trên cơ sở những kết quả quan sát đã có,
các em sẽ lập dàn ý cho bài văn tả cảnh đẹp ở địa phương, sau đó tập chuyển
một phần trong dàn ý thành đoạn văn hoàn chỉnh.
* Sau đó, hướng dẫn cách lập dàn ý của một bài văn miêu tả cảnh đẹp ở
địa phương bao gồm 3 phần:
- Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả.
- Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoạt sự thay đổi theo thời gian.
- Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.


12

* Dựa theo dàn ý chung này, giáo viên nên giúp các em lập dàn ý chi tiết
cho từng cảnh đẹp mà các em lựa chọn.
Ví dụ: Lập dàn ý cho bài văn tả Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)
trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng,
nương rẫy.) (Tiếng Việt 5 Tập 1 trang 44)
Mở bài: Giới thiệu về cánh đồng vào buổi sáng: Em được sinh ra và lớn
lên ở nông thơn. Tuổi thơ của em ln gắn liền với hình ảnh của những cánh

đồng thơm mùa lúa chín hay cánh đồng thơm mùi rơm rạ…
Thân bài:
a) Tả khái quát
- Buổi sáng quê em rất bình yên và thanh bình.
- Tiếng gà gáy vang xa, báo hiệu một ngày làm việc mới đã đến.
- Mặt trời thức giấc sau một giấc ngủ dài.
- Cánh đồng tựa như một tấm lụa trải dài mang màu áo xanh tươi mát.
b) Tả chi tiết
- Khi bình minh xuất hiện, cánh đồng như được bao phủ bởi một lớp
sương mù dày đặc.
- Khi mặt trời lên cao, sương dần tan, cánh đồng hiện lên, màu xanh của
lúa đang thời con gái che kín cả mặt ruộng, đẹp như một tấm thảm xanh.
- Gió xuân từ phía trên đồi cao tn về thung lũng tạo nên những đợt sóng
lúa đuổi nhau vội vàng.
- Đây đó, thấp thống bóng người ra thăm ruộng, làm cho những chú chim
bắt sâu lúa giật mình bay vọt lên cao.
- Những chú trâu đang lim dim mắt, chuẩn bị một ngày làm việc mới.
- Những chú cị bay lượn, ngả mình xuống từng cọng lúa như đang tận
hưởng hương vị buổi sáng.
- Con đường làng trải dài, thẳng tắp.
- Nắng nhẹ khẽ luồn qua nhành cây, kẽ lá.
c) Tả hoạt động:
- Mọi người dần bắt đầu cơng việc của mình.
- Bà con nơng dân nói cười vui vẻ vác cuốc ra đồng.
- Thấp thống có vài bóng người tát nước dưới đồng ruộng.
- Cậu bé chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo.
- Cịn em thì đang tung tăng trên đường đi học.
Kết bài: Nắng đã lên cao mà em vẫn thẫn thờ ngắm mãi dải lụa xanh này
không biết chán. Màu xanh hôm nay, màu xanh của niềm tin hi vọng, chắc chắn
sẽ báo hiệu một mùa gặt bội thu.

Từ những việc làm như trên tơi thấy kĩ năng tìm ý và lập dàn ý của học
sinh lớp 5G đã tiến bộ rõ rệt. Khi giáo viên đưa ra bất cứ một đề văn nào các em
cũng tìm ý rất nhanh và ln có thói quen lập dàn ý trước khi viết bài và nhờ đó
mà các bài văn đã phong phú và sinh động hơn. Đặc biệt là tình trạng sắp xếp ý
lộn xộn đã được khắc phục hoàn toàn.
3.4. Rèn kĩ năng dựng đoạn trong bài văn miêu tả cho học sinh
Từ dàn ý đã lập được học sinh sẽ sử dụng ngôn ngữ phát triển ý để dựng
thành đoạn và bài văn. Tôi hướng dẫn học sinh viết bài văn miêu tả gồm nhiều


13

đoạn, mỗi đoạn tả một bộ phận của cảnh. Như vậy các đoạn đều có nội dung tập
trung miêu tả cảnh định tả.
Khi hướng dẫn học sinh viết đoạn, tôi ln nhắc nhở và hướng dẫn các em
đảm bảo có sự liên kết chặt chẽ về ý nghĩa giữa các câu trong đoạn để cùng tả
những đối tượng có quan hệ mật thiết với nhau trong cảnh. Sự liên hệ của các câu
về mặt ngôn ngữ là nhờ các biện pháp liên kết phép lặp, phép thế, phép nối, phép
liên tưởng…. Đoạn nào không đảm bảo các yêu cầu trên sẽ trở nên lộn xộn.
Các đoạn văn trong bài liên kết với nhau thành một bài văn hồn chỉnh.
Có nhiều cách liên kết đoạn văn như dùng từ ngữ thay thế, dùng câu nối…..
Trong đoạn văn ln có câu chủ đề hoặc câu kết đoạn. Câu chủ đề thường
đứng ở đầu đoạn diễn dịch tóm tắt tồn bộ nội dung đoạn. Câu kết đoạn thường
đứng ở cuối đoạn quy nạp.
Thường thì trong văn tả cảnh khi miêu tả theo trình tự thời gian người ta
hay dùng các từ chỉ thời gian để liên kết đoạn.
Ví dụ: “… Cái cây ấy, mùa hè này hết tầng lá nọ đến tầng lá kia, che kín
khơng cho một tia nắng nhỏ rọi được xuống đất, để cho chúng nó chơi đùa…
Sang cuối thu, lá của nó ngả thành màu tía và bắt đầu rụng xuống, … Qua mùa
đơng, cây bàng trụi khơng cịn một lá, cành như khô lại in trên nên trời đục, …

Cho tới mùa xuân, chỉ một đêm thôi, chồi xanh li ti đã điểm kín tất cả các cành
to, cành nhỏ, …”
Cịn miêu tả theo thứ tự khơng gian thì dùng các từ chỉ vị trí.
Ví dụ: “Trước mắt chúng tôi, giữa hai dãy núi, là nhà Bác với cánh đồng
q Bác. Nhìn xuống cánh đồng có đủ các màu: xanh pha vàng của ruộng mía,
xanh rất mượt của lúa chiêm đương thời con gái, xanh đậm của những rặng tre,
đây đó một vài cây phi lao xanh biếc và rất nhiều màu xanh khác nữa. Cả cánh
đồng thu gọn trong tầm mắt, làng nối làng, ruộng tiếp ruộng. Cuộc sống ở đây
có một cái gì đó mặn mà, ấm áp, …”
Khi xây dựng đoạn văn trong bài văn tả cảnh giáo viên cần hướng dẫn học
sinh dựa vào nội dung dàn ý phát triển đoạn thì nội dung các đoạn không bị lặp
dàn ý, đồng thời nội dung sẽ phong phú xúc tích hơn.
Đoạn mở bài: Mở bài cũng giống như lời chào, lời mời gọi người đọc
đến với bài viết của mình. Cũng như lời chào, lời mời gọi có thể viết rất giản dị,
chân thành, tự nhiên, ngắn gọn nhưng cũng có lúc cần dẫn dắt gợi mở khéo léo
gây ấn tượng, gây sự hấp dẫn cho người đọc.
Ví dụ: Tả con đường quen thuộc từ nhà tới trường (TV 5 - Tập 1 trang 83)
- Có thể mở bài trực tiếp như sau:
“Từ nhà em đến trường có thể đi theo nhiều ngả đường. Nhưng con
đường mà em thích đi hơn cả là con đường Nguyễn Trường Tộ”.
- Có thể mở bài gián tiếp như sau:
“Tuổi thơ em có biết bao kỉ niệm gắn bó với cảnh vật của q hương. Đây
là dịng sơng nhỏ đầy ắp tiếng cười của bọn trẻ chúng em mỗi buổi chiều hè.
Kia là triền đê rộn rã tiếng hát của thanh niên nam nữ những đêm trăng sáng.
Nhưng gần gũi, thân thiết nhất với em vẫn là con đường từ nhà đến trường - con
đường đẹp đẽ suốt những năm tháng học trị của em.”
Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được


14


viết theo từng phần, từng ý đã sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài. Trong đó,
thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngơn từ và các biện pháp nghệ
thuật mà người viết vận dụng để tả.
Đoạn kết bài: Tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài nhưng rất quan trọng
bởi đoạn kết bài thể hiện được rất nhiều tình cảm của người viết với đối tượng
miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm
phần kết luận khơ cứng, gị bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường
làm kết bài không mở rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa
hấp dẫn người đọc. Vì vậy giáo viên cần phải gợi ý để học sinh biết cách làm
phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc tự nhiên của mình.
3.5. Rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh
Trong quá trình rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, GV cần giúp HS thực
hiện tốt những yêu cầu sau:
- Phân tích đề bài, xác định nội dung viết; tìm dàn ý, sắp xếp ý để chuẩn
bị thực hiện yêu cầu;
- Tập viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý: Viết các đoạn phần
thân bài, viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết đoạn kết bài (mở rộng,
không mở rộng) sao cho có sự liền mạch về ý, các ý được diễn tả theo một trình
tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hố ý chính;
- Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung
và thể hiện cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một
văn bản hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần (Mở bài, thân bài, kết
bài). Lời văn trong bài cần phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại. Ví dụ:
+ Tả cảnh thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm; có thể so
sánh, nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động; cần bộc lộ cảm
xúc trước sự vật được miêu tả trong cảnh.
+ Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, âm
thanh; từ ngữ chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người; có thể sử dụng biện
pháp liên tưởng, so sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình

cảm với người được tả.
3.6. Rèn kĩ năng làm giàu vốn từ và sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong
văn tả cảnh cho học sinh
Khi dạy văn miêu tả cho học sinh, tôi rất chú trọng đến việc làm giàu vốn
từ cho các em và rèn cho các em kĩ năng dùng từ ngữ, hình ảnh.
3.6.1. Làm giàu vốn từ
Chúng ta đã biết, một trong các nguyên nhân dẫn đến những yếu kém của
học sinh Tiểu học khi viết văn đó là vốn từ ngữ của các em còn nhiều hạn chế.
Làm giàu vốn từ qua việc dạy từ ngữ theo các chủ đề trong chương trình
sách giáo khoa, tích hợp của các phân mơn Tiếng Việt hay khuyến khích học
sinh đọc nhiều loại sách, báo bởi mỗi cuốn sách có biết bao điều bổ ích và lí thú,
giúp các em mở rộng tầm nhìn cuộc sống, khơi sâu những suy nghĩ và cảm xúc;
dạy học sinh tra từ điển Tiếng Việt; Ngồi ra tơi cịn khai thác thêm cho học sinh
vốn từ ngữ trong đời sống hàng ngày dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau
như: đố vui, trị chơi dân gian, giải trí, văn nghệ…


15

3.6.2. Sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong văn tả cảnh
Bên cạnh việc chú trọng bổ sung làm giàu vốn từ cho học sinh, tơi cịn
quan tâm nhiều tới việc rèn cho các em cách dùng từ ngữ, hình ảnh trong văn
miêu tả bằng cách lưu ý học sinh phải ln có thói quen lựa chọn từ ngữ cho phù
hợp và tìm từ gợi hình, gợi tả để diễn đạt.
Sự hấp dẫn của bài văn phụ thuộc cách sử dụng hình ảnh. Khi sử dụng hợp lí
các biện pháp tu từ sẽ giúp cho hình ảnh trở nên sống động gợi cảm, gợi hình.
Ngơn ngữ góp phần làm cho bài văn tả cảnh trở nên sinh động và tạo hình.
Khi hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ tả cảnh tơi hướng dẫn các em
sử dụng tính từ chỉ màu sắc, hình khối, tính chất… các từ tượng thanh và tượng
hình, các phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ… Nếu học sinh biết sử dụng khéo

chúng sẽ phối hợp với nhau, đan cài vào nhau dệt nên bức tranh phong cảnh
bằng ngơn từ nhiều màu sắc, có góc cạnh.
Ví dụ: Tìm những từ ngữ gợi hình ảnh, gợi âm thanh khi tả sóng biển hay
tả cơn mưa rào,… tơi u cầu học sinh thảo luận nhóm và tìm các từ khác nhau.
Sau đó nêu vấn đề: Các từ ấy được dùng như thế nào? Sau quá trình trao đổi,
nêu ý kiến cùng vốn sống thực tế, học sinh sẽ tự nhận thấy: Tả cảnh sóng biển
có nhiều từ ngữ gợi hình, gợi thanh, như: cuồn cuộn, nhấp nhơ, lăn tăn, rì rầm,
rì rào, ì oạp… Nhưng khơng phải miêu tả sóng lúc nào cũng có thể dùng được
tất cả các từ ấy. Bởi vì, tả sóng biển lúc động thì phải dùng từ ì ầm, cuồn cuộn;
tả sóng biển vỗ vào bờ đá thì phải dùng từ ì oạp; tả tiếng sóng biển vọng lại
trong đêm mà nghe từ xa phải dùng từ rì rầm…
Ngay cả âm thanh của tiếng mưa rào cũng có sự phân biệt rõ: mưa giáo đầu
thì lẹt đẹt; mưa trên mái tơn thì rào rào; mưa đập vào phên nứa đồm độp; mưa
đập vào tàu lá chuối thì bùng bùng; mưa từ mái tranh đổ xuống sân thì ồ ồ…
Song song với việc làm trên, tơi cịn đưa ra nhiều các dạng bài tập để
giúp học sinh rèn kĩ năng dùng từ. Chẳng hạn:
* Dạng bài điền từ thích hợp vào chỗ trống.
Ví dụ: Điền vào chỗ trống những từ ngữ thích hợp để có đoạn văn có
sức gợi tả:
Mặt trăng trịn …, … nhơ lên sau lũy tre. Bầu trời điểm xuyết một vài
ngôi sao …….. như những con đom đóm nhỏ. Tiếng sương đêm rơi ……. lên lá
cây và tiếng côn trùng … trong đất ẩm. Chị gió chuyên cần …… bay làm … mấy
ngọn xà cừ trắng ven đường …….. đâu đây mùi hoa thiên lí … lan tỏa.
* Dạng bài sửa lỗi dùng từ chưa chính xác
Ví dụ: Chỉ ra quan hệ từ nào dùng sai trong các câu sau và chữa lại
cho đúng.
a. Cô ấy mới ba mươi tuổi nên trông già trước tuổi.
b. Tuy nhà xa nhưng bạn Lan hay đến lớp muộn.
c. Vì gặp nhiều khó khăn nên bạn Hùng vẫn đạt danh hiệu học sinh giỏi.
Thông qua việc gợi mở, dẫn dắt học sinh sử dụng ngôn từ và lựa chọn

hình ảnh phù hợp khi miêu tả, các em sẽ nêu ra những ý kiến của mình. Sau khi
nghe học sinh trình bày, giáo viên cần chốt lại một số từ ngữ, hình ảnh, câu văn
hay để cả lớp học tập và đưa vào bài văn hoặc vào Sổ tích lũy văn học của mình.
Các em đã bộc lộ cảm xúc của mình khi viết khiến bài văn chân thực và đặc


16

trưng riêng của cá nhân mỗi học sinh.
Bằng những việc làm như trên, tôi đã giúp học sinh trong lớp mình tháo
gỡ được những hạn chế về vốn từ. Cho nên khi làm văn miêu tả nói chung và
làm văn tả cảnh nói riêng, tình trạng học sinh bí từ, dùng từ thiếu chuẩn xác đã
được khắc phục đáng kể.
3.7. Rèn cho học sinh biết viết câu văn giàu hình ảnh và sử dụng các
biện pháp nghệ thuật trong bài văn.
3.7.1. Rèn cho học sinh biết viết câu văn giàu hình ảnh.
Bên cạnh việc lựa chọn từ ngữ, vấn đề rèn cho học sinh biết viết câu văn
sinh động, giàu hình ảnh khi làm văn tả cảnh cũng rất quan trọng. Nó sẽ làm cho
câu văn có sức gợi tả, gợi cảm cao hơn rất nhiều.
Để giúp HS thực hiện được yêu cầu này, tôi thường sử dụng hệ thống bài
tập điền các từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi tả, gợi cảm vào chỗ trống.
Ví dụ: Hãy sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn đạt lại những câu văn
sau cho sinh động, gợi cảm hơn:
a. Những bông hoa nở trong nắng sớm.
b. Mấy con chim đang hót ríu rít trên vịm cây.
c. Mùa xn, sân trường mướt xanh màu lá.
d. Mặt trời mọc từ phía đơng, chiếu những tia nắng xuống cánh đồng lúa
xanh rờn.
- Với câu a: Học sinh có thể thay từ “nở” bằng từ “tươi cười”
- Với câu b: Học sinh có thể thay từ “hót” bằng từ “trị chuyện”

- Với câu c: Học sinh có thể diễn đạt: Mùa xn, sân trường khốc chiếc
áo mướt xanh màu lá.
- Với câu d: Học sinh có thể diễn đạt: Mặt trời thức dậy từ phía đông,
vung tay ném những tia nắng xuống cánh đồng lúa xanh rờn.
Ngồi ra, tơi cịn hay cho học sinh tìm những cách diễn đạt có hình ảnh
hay hơn cho mỗi câu, mỗi đoạn trong bài văn.
Ví dụ: Hãy so sánh các cách diễn đạt sau và cho biết cách diễn đạt nào
hay hơn. Em hãy giải thích rõ lí do vì sao mình chọn cách diễn đạt đó?
1. Con sơng hiền hòa chảy qua cánh đồng xanh mướt lúa khoai.
2. Con sông nằm uốn khúc giữa cánh đồng xanh mướt lúa khoai.
3. Con sông mềm như một dải lụa vắt ngang qua cánh đồng xanh mướt
lúa khoai.
Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu cảm nhận của mình để nhận thấy, cả ba
câu đều miêu tả về dịng sơng nhưng hình ảnh dịng sơng trong mỗi câu văn đem
lại những ấn tượng khác nhau đối với người đọc.
Câu 1: Đây là một câu văn tả thực, chỉ miêu tả về hình ảnh một dịng sơng
mang vẻ đẹp hiền hịa. Cách viết rất bình thường nên ai cũng có thể làm được.
Câu 2: So với câu 1, cách viết này đã có hình ảnh hơn. Bởi với từ “uốn
khúc” câu văn đã góp phần gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh về một dịng
sơng mềm mại, dun dáng. Vẻ đẹp này góp phần tơ điểm thêm cho bức tranh
thiên nhiên.
Câu 3: Đây là câu văn hay hơn cả. Với cách dùng từ “vắt” câu văn giúp
người đọc khơng chỉ hình dung được vẻ đẹp mềm mại của dịng sơng mà cịn


17

cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của nó. Dịng sơng ấy như một nhịp cầu
thật dun dáng nối khoảng không gian giữa đôi bờ.
Rõ ràng chỉ khác nhau ở cách dùng từ nhưng cách gợi tả, gợi cảm của ba

câu đã khác nhau. Trên cơ sở các dạng bài tập như trên, tôi đã phần nào định
hướng cho học sinh cách dùng từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả để tạo nên những
độc đáo, sáng tạo riêng.
3.7.2. Sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong bài văn.
Nói đến sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong bài văn, ta có cảm giác
nó có gì đó hơi cao siêu và xa vời đối với học sinh Tiểu học. Nhưng không! Cái
nghệ thuật ở đây chỉ đơn giản là việc chọn lọc từ ngữ, hình ảnh và biết sử dụng
các biện so sánh, nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ...
Để giúp học sinh đưa các biện pháp nghệ thuật vào bài văn, một mặt tôi
cũng đưa ra các dạng bài tập điền từ ngữ để học sinh luyện tập. Chẳng hạn,
muốn cho học sinh biết sử dụng biện pháp nhân hóa, tơi u cầu học sinh làm
các dạng bài tập như sau:
Ví dụ: Tìm những từ ngữ chỉ đặc điểm, dấu hiệu của con người điền vào
chỗ chấm cho thích hợp nhằm diễn đạt sự vật bằng cách nhân hóa.
a. Vầng trăng …… (Ví dụ: Vầng trăng hiền dịu.)
b. Mặt trời …..
c. Bông hoa …..
Với các biện pháp so sánh hay các điệp từ, điệp ngữ cũng có thể đưa ra các
dạng bài tập điền từ như trên. Hoặc cũng có thể cho học sinh sửa từ, thay thế từ…
Ví dụ: Hãy thêm vế câu có hình ảnh so sánh thích hợp vào chỗ trống để
mỗi dịng dưới đây trở thành một câu văn có ý mới mẻ, sinh động:
a. Ánh mắt dịu hiền của mẹ là ……
b. Những con ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như …………..
c. Lá cọ trịn xịe ra nhiều phiến nhọn dài, trơng xa như …
d. Bé chập chững đi mấy bước rồi sà vào lịng mẹ như …..
Ngồi ra, tơi cịn thường gợi ý cho các em bằng các câu hỏi. Chẳng hạn:
- Cánh đồng lúa chín trơng giống như hình ảnh của sự vật nào? (như tấm
thảm khổng lồ màu vàng)
- Dòng sơng trong một ngày nhiều lần “thay áo” nó giống như một người
con gái có tính cách như thế nào? (điệu đà, thích làm dun,..)

- Vành trăng khuyết có thể được đem so sánh với những gì? (miếng cau
khơ, con thuyền, cánh diều, ….)
Bằng cách gợi mở, dẫn dắt như vậy, học sinh sẽ nêu ra những ý kiến của
mình. Sau khi nghe phần trình bày của các em, bao giờ tơi cũng chốt lại một số
từ ngữ, hình ảnh, câu văn hay để cả lớp học tập và đưa vào bài hoặc vào sổ tích
lũy của mình. Và cơng việc đó, đã góp phần khơng nhỏ cho các em học sinh lớp
tôi biết đưa các biện pháp nghệ thuật vào bài văn.
3.8. Tồ chức cho học sinh đi thăm quan các danh lam, thắng cảnh; đi
dã ngoại và trải nghiệm kĩ năng sống
Trong năm học 2020 - 2021, tôi đã phối hợp hội cha mẹ học sinh của lớp
lên kế hoạch đưa học sinh đi thăm quan các danh lam, thắng cảnh và trải nghiệm
cuộc sống ở một số địa điểm như: Điểm thứ nhất: Lăng Bác Hồ; Văn miếu Quốc


18

Tử Giám; Viện Bảo tàng Quân đội; Điểm thứ hai: Thành Nhà Hồ; Suối cá Cẩm
Lương; Khu di tích Lịch sử Lam Kinh ở ngay trong tỉnh Thanh Hóa hay ở ngay
thị xã Bỉm Sơn như đền Sịng Sơn; Đình Làng Gạo; Đèo Ba Dội, ….
Qua những chuyến đi, học sinh được thăm quan các di tích lịch sử, các
danh lam thắng cảnh của đất nước cũng như của tỉnh Thanh để các em tích lũy
thêm vốn hiểu biết, vốn sống và đồng thời tạo cho các em biết quan sát cảnh vật,
có cảm xúc thật khi đứng trước các cảnh đẹp đó và trải nghiệm cuộc sống để có
thêm kiến thức phục vụ cho nhiệm vụ học tập của mình. Tuy nhiên vì dịch bệnh
Covid-19 nên kế hoạch đó khơng thể thực hiện được. Vậy nên thay vì đưa học
sinh đi tham quan, dã ngoại như dự định từ đầu năm học trong các tiết dạy của
các môn học: Tập đọc, Lịch sử, Địa lí, … tơi đã tổ chức cho học sinh tham gia
trò chơi “Du lịch qua màn ảnh nhỏ” hoặc trò chơi “Em tập làm hướng dẫn
viên du lịch” để giới thiệu với các em các di tích lịch sử hay những danh lam
thắng cảnh nổi tiếng của mọi miền đất nước để các em tích luỹ thêm cho mình

vốn hiểu biết, vốn sống.
3.9. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Ngày nay khi công nghệ thơng tin càng phát triển thì việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong đó có lĩnh vực
Giáo dục và Đào tạo cũng được đề cập đến. Những năm gần đây công nghệ
thông tin được ứng dụng mạnh mẽ và các trường đã đưa CNTT vào giảng dạy,
học tập. Dạy Tập làm văn nếu được ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp học
sinh được quan sát thế giới xung quanh, những đối tượng miêu tả mà các em còn
cảm thấy rất xa lạ, chưa được tiếp xúc qua thực tế. Ví dụ như: Học sinh ở nơng
thơn chưa hề được ra thành phố, có em chưa từng được đến công viên, vườn
bách thú hay những danh lam thắng cảnh khác… Ngược lại, có nhiều học sinh
thành phố chưa hề được nhìn thấy con gà đang gáy, con trâu đang cày ruộng,
hoặc cánh đồng lúa rộng mênh mông khi thì xanh mướt, khi thì vàng óng, trĩu
bơng... Khi làm bài, các em chỉ mô tả qua tưởng tượng hay cảm nhận qua sự mơ
tả của giáo viên,... Chính vì thế, với việc ứng dụng công nghệ thông tin như
quay những đoạn Video, clip, tìm sưu tầm các hình ảnh, tư liệu trên mạng
Internet để giới thiệu, trình chiếu cho học sinh quan sát: Cánh đồng lúa chín,
cảnh biển,…., những danh lam thắng cảnh hay những di tích lịch sử của đất
nước cũng như của tỉnh Thanh, đồng thời tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi
“Du lịch qua màn ảnh nhỏ” hoặc trò chơi “Em tập làm hướng dẫn viên du
lịch” cũng giúp các em tích luỹ thêm cho mình vốn hiểu biết, vốn sống để các
em làm văn tốt hơn.
Trong thời gian vừa qua, diễn biến của dịch bệnh Covid rất phức tạp thì
việc ứng dụng cơng nghệ thông tin lại càng phát huy hiệu quả hơn bao giờ hết.
Nó khơng chỉ cung cấp cho các em rất nhiều kiến thức bổ ích mà nó cịn giúp
cho việc dạy và học không bị gián đoạn.
3.10. Giáo viên chấm bài và trả bài viết
Khi chấm bài, tôi nắm bắt được tình hình và khả năng viết văn của các
em, ghi chép tỉ mỉ những lỗi, những sai sót trong bài làm của học sinh. Khi trả
bài, tôi nhận xét đầy đủ, chi tiết những ưu điểm và nhược điểm về bài làm của

học sinh. Nêu gương những bài văn hay có sáng tạo để cả lớp học tập và động


19

viên nhắc nhở những bài viết chưa đạt yêu cầu để các em sửa sai và bổ sung
ngay. Tôi tập trung sửa từ, sửa câu, sửa ý cho HS. Sau khi các em sửa lại rồi, tôi
lại đánh giá lại các em lần nữa. Cách này khiến các em tăng thêm hứng thú khi
học tập làm văn. Không những thế, trong giờ học văn, việc đánh giá của cô cũng
phải góp phần giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong bài văn của
bạn. Khi chữa bài văn cho HS, có rất nhiều tình huống xảy ra. Mỗi GV có cách
xử lí riêng cho mỗi tình huống. Với tơi, thường thì tơi tập hợp tất cả những lỗi
cơ bản của HS trong dùng từ, diễn đạt câu văn,... sau đó cho các em đọc lại phát
hiện và tự sửa cho nhau. Tơi ln tìm cách đánh giá nhưng phải kích thích được
hứng thú học, thực sự mang lại cho HS sự thoả mãn niềm vui, niềm hạnh phúc.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Sau một năm học thực nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát khi làm văn
miêu tả tôi đã khảo sát kiểm chứng chất lượng viết bài tập làm văn của lớp tôi và
một lớp của đồng nghiệp làm đối chứng. (Thời điểm: Giữa học kỳ 2)
Với đề bài: Em hãy tả một một cảnh đẹp ở địa phương.
Lớp

Số bài

5E
5G

40
42


Xếp loại chất lượng bài làm của học sinh
HTT
HT
CHT
SL
%
SL
%
SL
%
6
15%
31
77,5%
3
7,5%
25
60 %
17
40 %
0
0

Qua việc áp dụng những biện pháp trên vào việc dạy - học văn miêu tả
cho học sinh, tôi nhận thấy: Hầu hết học sinh lớp tôi đều nắm được kỹ năng để
làm một bài văn miêu tả. Bên cạnh miêu tả những cái chung của đối tượng, các
em còn phát hiện ra những nét riêng, độc đáo. Bài văn của học sinh trở nên sinh
động có hình ảnh, bộc lộ cảm xúc chân thực giàu chất văn, tránh được điểm khô
khan, liệt kê sự việc mà thấm đượm cảm xúc của người viết, thể hiện một cách
tự nhiên tình cảm gắn bó, u thương đối với đối tượng được tả. Các em còn

biết nhận ra lỗi của bạn rất nhanh và cũng ít dần lỗi sai về sử dụng từ và diễn đạt
câu. Đặc biệt là kỹ năng diễn đạt, sắp xếp ý, sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong các
bài viết của các em có tiến bộ vượt bậc. Học sinh có kỹ năng nghe rồi phát hiện
ra những cái hay, cái chưa hay của bạn rồi suy nghĩ tìm cách sửa cho bạn, cho
mình. Trước đây, để viết một bài văn với học sinh lớp tơi thật là khó khăn, ý
nghèo, sắp xếp ý lộn xộn, từ ngữ không phong phú, câu văn viết lủng củng, …
giờ đây các em đã khắc phục được những lỗi đó và làm bài tốt. Điều này chứng
tỏ các biện pháp mà tơi đã áp dụng có hiệu quả rất tốt trong việc nâng cao chất
lượng lập dạy - học văn miêu tả cho học sinh lớp 5.
Qua thực tế tôi thấy rằng, để các em HS có khả năng làm văn tốt giáo viên
cần có tấm lịng say mê với cơng việc. Hãy tự tìm hiểu tích luỹ cho mình vốn
kiến thức phong phú. Trong giảng dạy, ngay từ những bài kiểm tra đầu tiên, kết
quả có chưa theo ý muốn thì cần kiên trì giúp các em tháo gỡ những khó khăn,
những bài sau tơi tin rằng kết quả sẽ cao hơn. Một điều quan trọng là khi lên lớp,
mỗi giáo viên cần chuẩn bị chu đáo vốn từ ngữ, diễn đạt, các phương án có thể
xảy ra để sẵn sàng giải đáp, sửa chữa những vướng mắc mà HS đưa ra.


20

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong quá trình dạy học, dựa vào mục đích, nội dung, dựa vào đặc điểm
nhận thức của học sinh mà giáo viên có thể áp dụng những biện pháp giáo dục
khác nhau. Những biện pháp tôi đã áp dụng vào thực tế dạy học cho học sinh lớp
5G khi hướng dẫn các em học viết văn miêu tả đã tạo khơng khí học tập sôi nổi,
sáng tạo, làm cho việc tiếp nhận kiến thức của môn Tiếng Việt trở nên nhẹ nhàng
hơn. Tuy nhiên, để phát huy tối đa vai trò, tác dụng của các biện pháp, giáo viên
cần phải đổi mới phương pháp dạy học, thay đổi hình thức tổ chức giờ dạy sao
cho linh hoạt, mềm dẻo, sinh động, hấp dẫn học sinh phù hợp với đặc điểm tâm

lí của học sinh. Đồng thời, giáo viên cần phải nắm vững chương trình, mục tiêu
dạy học, các yêu cầu cơ bản khi tổ chức nội dung học tập để việc tiếp nhận và
vận dụng tri thức này của học sinh thực sự đạt hiệu quả mong muốn, từ đó góp
phần thực hiện định hướng học tập gắn liền với thực tế cuộc sống.
Dạy cho học sinh nắm vững các kiến thức cơ bản của thể loại văn miêu tả.
Có kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý và vận dụng linh hoạt các dàn ý đó.
Khơng ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm để nâng cao kiến thức, kĩ
năng, nghiệp vụ sư phạm nói chung, dạy học văn miêu tả nói riêng.
Trong năm học 2020-2021, tôi đã tthực những biện pháp hữu ích nhất, kết
hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học để giúp học sinh lớp 5G học
tốt tập làm văn miêu tả và đúc rút thành sáng kiến kinh nghiệm. Với vốn kiến
thức và kinh nghiệm khiêm tốn của bản thân, mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy
nhiên SKKN của tôi không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong Hội
đồng khoa học các cấp và các đồng nghiệp đóng góp, bổ sung.
2. Kiến nghị, đề xuất
2.1. Đối với nhà trường
- Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học
và học tập những sáng kiến kinh nghiệm có giá trị ứng dụng hiệu quả.
- Đầu tư mua sắm thêm những phương tiện hiện đại phục vụ, hỗ trợ hiệu
quả cho quá trình dạy học như máy chiếu đa năng,…
- Tăng cường tổ chức cho học sinh đi tham quan thực tế, đi trải nghiệm,
khám phá cuộc sống,…
2.2. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo
- Tạo điều kiện để đội ngũ giáo viên của các nhà trường được học hỏi
kinh nghiệm của những giáo viên có kiến thức và trình độ tay nghề cao ở trong
và ngoài phạm vi thị xã.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Bỉm Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2021
ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Người viết
Tống Thị Hằng


21

TÀI LIÊU THAM KHẢO
1. Sách, báo, các tập san về Tiểu học.
2. Phương pháp dạy Tiếng Việt Tiểu học Tác giả Lê Phương Nga,
Nguyễn Thị Lương, Bùi Minh Toán v.v…
3. Dẫn luận ngơn ngữ (Tác giả: Nguyễn Thiện Giáp, Đồn Thiện Thuật)
4. SGK Tiếng Việt 5 (NXB Giáo Dục)
5. SGV Tiếng Việt 5 (NXB Giáo Dục)
6. Bài tập nâng cao TV lớp 5.
7. Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt lớp 5
8. Luyện tâp về cảm thụ văn học ở Tiểu học


22

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Tống Thị Hằng.
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Trường Tiểu học Ba Đình - Thị xã Bỉm Sơn


TT Tên đề tài SKKN
Kinh nghiệm bồi dưỡng cho HS lớp 5
1 tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc khi
làm văn tả cảnh sinh hoạt
Kinh nghiệm tổ chức trò chơi trong
2 Dạy học Đạo đức 4 ở trường Tiểu
học
Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp
3 5 sử dụng bản đồ VN trong tiết học
Địa lí
Kinh nghiệm tổ chức trò chơi trong
4 Dạy học Đạo đức 4 ở trường Tiểu
học
Kinh nghiệm Dạy Tập làm văn tả
5
cảnh cho học sinh lớp 5
Kinh nghiệm tổ chức trò chơi trong
6
Dạy học Khoa học 4 ở trường Tiểu học.
Phát huy tính tích cực, chủ động của
7
học sinh trong Dạy học Địa lí lớp 5
Một số kinh nghiệm tổ chức trò chơi
8 trong Dạy học Toán 4 ở trường Tiểu
học
Một số kinh nghiệm hướng dẫn giải
9 toán về tỉ số phần trăm cho học sinh
lớp 5C - Trường Tiểu học Ba Đình”
Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2
10 Trường Tiểu học Ba Đình “Giữ vở

sạch - Viết chữ đẹp”
Một số biện pháp rèn kĩ năng thực
11 hành các phép tính với phân số cho
học sinh lớp 4.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

SGD&ĐT
Thanh Hóa

B

2003-2004

SGD&ĐT
Thanh Hóa

B


2007-2008

SGD&ĐT
Thanh Hóa

C

2010-2011

PGD&ĐT
Bỉm Sơn

C

2012-2013

C

2013-2014

B

2014-2015

B

2015-2016

PGD&ĐT

Bỉm Sơn

C

2016-2017

PGD&ĐT
Bỉm Sơn

C

2017-2018

PGD&ĐT
Bỉm Sơn

B

2018-2019

SGD&ĐT
Thanh Hóa

C

2019-2020

SGD&ĐT
Thanh Hóa
PGD&ĐT

Bỉm Sơn
PGD&ĐT
Bỉm Sơn



×