Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một số biện pháp trong việc giúp đỡ học sinh khối 8,9 THCS vượt qua hội chứng stress

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.8 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đều biết, xã hội ngày càng phát triển, lối sống, nhịp
sống ngày càng nhanh hơn, áp lực trong công việc, gia đình, học tập, thi cử,
các mối quan hệ ngày một cao hơn,…Điều đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức khỏe tinh thần của con người, và dẫn đến một chứng bệnh thời đại
mà chúng ta thường hay nghe thấy, đó là:“STRESS”.
Thật vậy, trên thực tế học sinh Trung học cơ sở hiện nay đứng trước nhiều
thách thức mới, nhiều áp lực từ học tập và quan hệ gia đình, xã hội, do đó việc
mắc phải “stress” trong học sinh khơng phải là ít. Trong học tập ở nhà trường,
giáo viên đặt ra những yêu cầu đối với các em cao hơn, giải quyết các nhiệm vụ
học tập độc lập, tự giác hơn so với Tiểu học. Cùng với sự năng động của lứa
tuổi, với yêu cầu ngày càng cao của các môn học, học sinh THCS không tránh
khỏi những áp lực nặng nề tác động từ nhiều phía đến quá trình học tập của các
em làm cho các em nhiều lúc cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi và có khi cịn chán
nản với việc học tập của mình. Do vậy, hiện tượng “stress” ln ln nảy sinh
trong q trình học tập nói chung và từng mơn học nói riêng của các em. Nó ảnh
hưởng mạnh mẽ đến q trình và kết quả học tập, đơi khi nó cịn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống tinh thần, sinh hoạt của các em ngay cả ở trong gia
đình và ngồi xã hội. Trong thời gian qua, việc tìm hiểu “stress” đã thu hút được
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cũng đã đạt được nhiều thành tựu cả
về mặt lí luận và thực tiễn. Nhưng trên thực tế vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về
“stress” trong học sinh THCS.
Cuộc sống luôn luôn biến động, “stress” luôn luôn tồn tại trong đời sống
hằng ngày, trong suốt quá trình phát triển nhân cách mỗi cá thể. Cuộc sống văn
minh, xã hội càng phát triển thì con người có thể càng gặp nhiều “stress” hơn.
Do đó, việc hiểu biết về “stress” và những ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe
con người cũng như các biện pháp phịng ngừa “stress” để có thể sống chung với
“stress” là việc làm cần thiết và hữu ích nhằm mang lại sức khỏe cho bản thân,
cho cộng đồng, giúp con người thích ứng với điều kiện sống tốt hơn.
Qua nhiều năm giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm tơi nhận thấy tình


trạng học sinh THCS, đặc biệt là đối với học sinh hai khối lớp 8,9 có những dấu
hiệu, biểu hiện mắc phải hội chứng stress. Nhưng tự bản thân các em lại không
thể nhận thấy hoặc khơng có kĩ năng, phương pháp nào để vượt qua được hội
chứng stress. Làm thế nào giúp các em có được trạng thái tâm lí bình thường, ổn
định để học tập tốt hơn.
Với những lý do trên tôi mạnh dạn đưa ra đề tài:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC GIÚP ĐỠ HỌC SINH LỚP
8,9 THCS VƯỢT QUA HỘI CHỨNG “STRESS”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm nâng cao hiệu qủa, chất lượng giáo dục bậc Trung học cơ sở,
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo con người phát triển toàn diện của
trường THCS .


- Giúp học sinh có thể sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ
gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất và tinh thần.
- Giúp học sinh có kĩ năng làm chủ bản thân, biết vận dụng linh hoạt các
phương pháp, kĩ năng vượt qua được hội chứng “stress”.
- Học sinh có nhu cầu rèn luyện kĩ năng sống trong cuộc sống hằng ngày; ưa
thích lối sống lành mạnh, có thái độ phê phán đối với những biểu hiện thiếu lành
mạnh; tích cực, tự tin tham gia các hoạt động, có quyết định đúng đắn trong
cuộc sống...
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu ở đây là học sinh lớp 8, 9 trường THCS nơi tôi đang
công tác.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận về “stress”.
- Phương pháp quan sát học sinh với biểu hiện của “stress”.
+ Quan sát hoạt động học tập
+ Quan sát hoạt động vui chơi

+ Quan sát hoạt động giao tiếp với mọi người xung quanh...
- Sử dụng phương pháp thực hành: Giáo dục phương pháp, kĩ năng ứng phó
với “stress” cho học sinh thơng qua các hoạt động để học sinh tự cảm nhận,
đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kĩ năng; thực hiện sự
phối hợp trong và ngoài nhà trường, làm tốt cơng tác xã hội hóa trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục
+ Phân tích các nguyên nhân dẫn đến học sinh bị “stress”.
+ Tổng hợp các biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm, của nhà
trường và gia đình...
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Khái niệm chung về “ stress”:
“Stress” trong tiếng Anh có nghĩa là “nhấn mạnh”. Thuật ngữ này cịn
dùng trong Vật lý học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu. Thuật ngữ “stress”
được W.Cannon sử dụng lần đầu tiên trong Sinh học, tuy nhiên, người có cơng
lớn trong việc nghiên cứu về “stress” là Hans Selye, người Canada. Ông là
người nghiên cứu khá hệ thống về “stress’. Năm 1936, thuật ngữ “stress” được
ông đề cập các công trình nghiên cứu của mình để miêu tả hội chứng của q
trình thích nghi với mọi loại bệnh tật. Trong một số cơng trình của ơng, ơng đã
nhấn mạnh:“ Stress có tính chất tổng hợp chứ khơng phải thể hiện trong một
trạng thái phản ứng không đặc hiệu của cơ thể với bất kì tín hiệu nào”. Sau đó
ơng lại quan niệm: “ Stress là nhịp sống ln ln có mặt ở bất kì thời điểm
nào của sự tồn tại của chúng ta. Một tác động bất kì tới một cơ quan nào đó
đều gây ra stress. Stress khơng phải lúc nào cũng là kết quả của sự tổn thương,
ngược lại có hai loại stress khác nhau, đối lập nhau: Stress bình thường khỏe
mạnh và stress độc hại …”. Tác giả Tơ Như Kh cho rằng: “ Stress tâm lí
chính là phản ứng không đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố



có hại về tâm lí xuất hiện trong các tình huống mà con người chủ quan thấy là
bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai trị quyết định khơng chủ yếu do tác nhân kích
thích mà do sự đánh giá chủ quan về các nhân tố đó.” Có nhiều quan điểm
khác nhau về “Stress”, với các gốc độ khác nhau “Stress” được hiểu theo những
cách khác nhau. Nhìn chung, các tác giả đều nhìn “stress“ trên góc độ tiêu cực,
chưa nhìn thấy mặt tích cực của nó đối với sự phát triển tâm lí con người.
Tóm lại có rất nhiều định nghĩa về Stress theo các khía cạnh khác nhau tuy
nhiên Hans Selye ( người Ca na da) đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ nhất:
“Stress là tình trạng căng thẳng thể hiện mối tương tác giữa tác nhân cơng kích
và phản ứng của cơ thể”
2.1.2. Ngun nhân dẫn đến “Stress”:
“Stress” là căn bệnh của thời đại mà xuất phát của nó chủ yếu là từ mơi
trường, từ điều kiện, cách thức sinh hoạt và tổ chức cuộc sống của con người.
Có nhiều căn nguyên dẫn đến “Stress”. Các nhà khoa học cho rằng,
“Stress” có tính chất tích tụ nên nó xuất hiện thì cần phải kiểm sốt và giải tỏa
chúng. Nếu không, những tác động nhỏ hằng ngày sẽ được dồn nén và khi bùng
phát nó sẽ gây ra những tác hại không nhỏ.
Với “Stress”, ở tuổi thanh thiếu niên, có thể nói “Stress” đồng nghĩa với
“tuổi thanh thiếu niên”. Tuổi trẻ này rất dễ bị “Stress” với nhiều nguyên nhân,
mà nguyên nhân chủ yếu là do chính bản chất của lứa tuổi thanh thiếu niên. Tuy
nhiên, xét về các yếu tố gây “Stress”, có thể khái quát những nguyên nhân như
sau:
Các yếu tố thể chất: Học sinh THCS là những lứa tuổi từ 11 đến 15 đang
học từ lớp 6 đến lớp 9. Đây là thời kì phức tạp và quan trọng trong quá trình
phát triển của mỗi cá nhân, là thời kì chuyển từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành.
Tuổi dậy thì thường kèm theo những thay đổi cả về thể chất lẫn tâm sinh lý của
học sinh; sự lo lắng về những thay đổi của cơ thể trong quá trình phát triển;
những thay đổi trong tâm tư, tình cảm như: để ý tới bản thân, để ý đến các bạn
khác giới… tâm lý thay đổi của quá trình chuyển từ tuổi nhi đồng sang tuổi
thiếu niên hoặc thiếu niên sang tuổi thanh niên với ý muốn thể hiện cái tôi mạnh

mẽ, dễ dẫn đến tâm lý chống đối, cự cãi với các mối quan hệ xung quanh…
Sự phát triển không cân đối giữa chiều cao và trọng lượng, giữa xương
ống tay, ống chân, xương ngón tay, ngón chân đã dẫn đến sự thiếu cân đối. Các
em rất lóng ngóng, vụng về, khơng khéo léo khi làm việc, thiếu thận trọng, hay
làm đổ vỡ…
Sự phát triển về mặt sinh lí cũng như sự biến đổi căn bản về mặt cơ thể, với
nét đặc trưng lớn nhất là sự phát dục đã dẫn đến nhiều biến đổi về mặt tâm lí.
Mơi trường bên ngồi: do thời tiết, tiếng ồn, giao thông, bụi và sự ô
nhiễm môi trường …(những nước có nền cơng nghiệp phát triển “stress”
thường chiếm tỷ lệ cao hơn).
Những căng thẳng từ xã hội và gia đinh: Thời hạn của cơng việc phải
hồn thành gấp, yêu cầu học tập, các mối quan hệ bạn bè, gia đình…thường
mâu thuẫn, yêu cầu về thời gian và sự tập trung sức lực vào công việc, yêu cầu
phải thông cảm và hiểu biết, tôn trong lẫn nhau, nếu không được đáp ứng…


Áp lực về học hành, thành tích: chương trình học hiện nay khá nặng so
với khả năng của các em, vì thế để có kết quả tốt dưới những áp lực về thành
tích, bên cạnh việc học chính khóa ở trường, ở nhà các em còn học thêm, học
kèm…Điều kiện sống của các em cũng có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Trong gia
đình, các em có sự tham gia tích cực vào các hoạt động và nhiệm vụ của gia
đình giao cho. Các em thể hiện sự tích cực, chủ động và độc lập trong khi hoàn
thành các nhiệm vụ như một người lớn.
Học sinh THCS có nhu cầu muốn mở rộng các mối quan hệ với người lớn
và mong muốn người lớn nhìn nhận mình một cách bình đẳng, không muốn bị
coi là trẻ con như trước đây. Bên cạnh đó, người lớn lại khơng coi các em đã trở
thành người lớn. Điều này có thể gây ra xung đột tạm thời giữa thiếu niên với
người lớn.
Sự căng thẳng trong suy nghĩ của bản thân: ở lứa tuổi này thường có
những suy nghĩ tiêu cực như: điểm kiểm tra khơng cao, mặc dù mình làm bài

tốt, sợ cha mẹ khơng hài lịng về bản thân…Cũng theo khảo sát trên thì phần
lớn các em bị “stress” vì khơng làm tốt bài kiểm tra ở chính những mơn mình
u thích, muốn có tên trong danh sách khen thưởng nhưng khơng được, không
hiểu bài giảng của giáo viên, hay không nhiều thời gian để học bài, để trả bài
cho thầy…Đời sống tình cảm của học sinh THCS sâu sắc và phức tạp hơn so
với học sinh tiểu học. Các em rất dễ bị xúc động, dễ bị kích động, vui buồn
chuyển hóa dễ dàng, tình cảm mang tính bồng bột…
Trên đây là những nguyên nhân gây “stress” ở lứa tuổi học sinh THCS,
tùy theo tính cách cũng như mức độ tình huống trẻ gặp phải mà mức độ “stress”
nặng, nhẹ khác nhau. Chính vì thế, là cha mẹ, thầy cơ cần hiểu rõ suy nghĩ, tính
cách của các em để có những chia sẻ, chỉ bảo hợp lý đồng thời hạn chế tối đa
những tình huống khiến trẻ có thể bị “stres”, đây cũng là một trong những yếu
tố quan trọng để trẻ có sự phát triển tốt tính cách, suy nghĩ ở lứa tuổi trưởng
thành.
2.1.3. Bản chất của stress trong quá trình học tập ở học sinh THCS
“Stress” là sự phản ứng của cơ thể trước các tác nhân bên ngoài. Trong học
tập, học sinh chịu nhiều tác động, áp lực không chỉ ở yêu cầu, nội dung tri thức
môn học mà còn ở phương pháp giảng dạy, thái độ của giáo viên…. Những điều
đó đã tạo nên “stres” cho các em.
Trong thực tế, có thể xác định những ảnh hưởng của “stress” đến học tập
của học sinh THCS.
* Ảnh hưởng của “stress” đến con người:
“Stress” hay “căng thẳng” là một hiện tượng thường gặp trong cuộc sống
hiện đại. “Stress” là căn bệnh của thời đại mà xuất phát của nó chủ yếu là từ môi
trường, từ điều kiện, cách thức sinh hoạt và tổ chức cuộc sống của con người.
Nó được hiểu như là những điều khó chịu và áp lực cho các cá nhân. Đối với
học sinh – sinh viên, “stress” thường xảy do những nguyên nhân về sự thay đổi
và phát triển, áp lực học tập, thành tích, sự thiếu tự tin, hay những suy nghĩ
nhiều về kinh tế, tình cảm; bên cạnh đó cịn có ngun nhân về chế độ dinh
dưỡng…



“Stress” có nhiều mức độ khác nhau, sự ảnh hưởng của nó cũng biểu hiện vơ
cùng phong phú. Mặc dù rất hiếm khi “stress” gây chết người một cách trực tiếp.
Nhưng hậu quả của nó gây ra vơ cùng to lớn, nó có thể phá vỡ sự cân bằng cơ
thể, dẫn đến những biến loạn về tâm lí, sinh lí, sinh hóa của cơ thể gây nên nhiều
căn bệnh dai dẳng và nguy hiểm như đường máu, bệnh tim mạch, rối loạn tiêu
hóa…. ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động và chất lượng cuộc sống con
người.
Cuộc sống luôn luôn biến động, “stress” luôn luôn tồn tại trong đời sống
hằng ngày, trong suốt quá trình phát triển nhân cách mỗi cá thể. Cuộc sống văn
minh, xã hội càng phát triển thì con người có thể càng gặp nhiều “stress” hơn.
Do đó, việc hiểu biết về “stress” và những ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe
con người cũng như các biện pháp phịng ngừa “stress” để có thể sống chung với
“stress” là việc làm cần thiết và hữu ích nhằm mang lại sức khỏe cho bản thân,
cho cộng đồng, giúp con người thích ứng với điều kiện sống tốt hơn.
*Các yếu tố ảnh hưởng đến “stress” trong học tập của học sinh:
- Các yếu tố khách quan – môi trường tâm lí - xã hội:
Trong thời đại thơng tin bùng nổ, kiến thức được cập nhật nhanh chóng,
hiện đại. Những phát minh khoa học tiên tiến không phải chờ đến khi đưa vào
sách học sinh mới biết mà nó đến với các em hằng ngày thông qua mạng xã hội,
sách báo điện tử… Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, môi trường xã hội cũng
có thể mang đến nhiều bất lợi. Những tệ nạn xã hội ở mọi biến động của thời đại
đang liên tục tác động mạnh mẽ tới mọi tầng lớp trong xã hội.
Hiện tượng HS nghiện Game trên máy tính

Hiện tượng HS sử dụng mạng xã hội

- Các yếu tố chủ quan:
+ Về mặt tâm lí: Nhận thức của học sinh trước các tình huống học tập,

vốn hiểu biết có mâu thuẫn với nhiệm vụ học tập vừa mới, vừa khó trong khi
trình độ nhận thức cịn hạn chế. Thái độ của học sinh trước các nhiệm vụ của
mơn học đặt ra, thấy mình khơng có khả năng học, khơng hứng thú với mơn học,
khơng tìm thấy phương pháp học tập thích hợp…
+ Về mặt sinh lí: Bị mắc các chứng bệnh đau đầu, đau lưng khi ngồi vào
bàn học, sức khỏe kém…
Đó là các yếu tố quan trọng có thể làm tăng thêm mức độ hay giảm mức
độ “stress” trong học tập của học sinh.
Xã hội hiện đại luôn nảy sinh những vấn đề phức tạp và những vấn đề bất
ổn định đối với con người. Nếu con người khơng có năng lực để ứng phó vượt
qua những thách thức đó và hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp rủi ro…
2.1.4. Biểu hiện và những mức độ cụ thể của “stres” trong học tập của
học sinh THCS
“Stress” có nhiều mức độ khác nhau, sự ảnh hưởng của nó cũng biểu hiện vơ
cùng phong phú. Mặc dù rất hiếm khi “stress” gây chết người một cách trực
tiếp. Nhưng hậu quả của nó gây ra vơ cùng to lớn, nó có thể phá vỡ sự cân bằng
cơ thể, dẫn đến những biến loạn về tâm lí, sinh lí, sinh hóa của cơ thể, gây nên
nhiều căn bệnh dai dẳng và nguy hiểm như đường máu, bệnh tim mạch, rối loạn


tiêu hóa…. ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động và chất lượng cuộc sống con
người.
“Stress” của học sinh THCS được biểu hiện ở các trạng thái ứng phó tâm lí.
Do đó, nó vơ cùng đa dạng và phức tạp. Trước u cầu của nhiệm vụ học tập,
học sinh khơng hồn toàn bị động, sự tiếp nhận hay chống lại những nhiệm vụ
ấy tạo nên những biến đổi đồng loạt của các phẩm chất, nhân cách cụ thể:
- Biểu hiện về nhận thức trong học tập: Thể hiện ở sự biến đổi trong nhận
thức về môn học như: ghi nhớ kém, hay nhầm lẫn trong tính tốn,…
- Biểu hiện về mặt sinh lí: Đau đầu, chán ăn, mê sảng, ác mộng, chân tay
run, tốt mồ hơi, khó thở…

- Biểu hiện về mặt tâm lí: Thể hiện sự khơng tập trung, mặc cảm tự ti về
năng lực bản thân, cảm thấy buồn bã, chán nản hay cáu gắt với người khác…
Có thể nhận thấy mức độ “stress” trong học tập của học sinh THCS như
sau:
- “Stress” bình thường: Là chương trình thích nghi bình thường, đảm bảo
hoạt động sống bình thường, khơng có biểu hiện rối loạn.
- Mức độ “stress” cao: Là chương trình thích nghi xuất hiện những biến đổi
tâm, sinh lí nhất định khi có tác nhân gây “stress” từ mức nặng đến cực hạn.
Mức độ “stress” trong học tập của học sinh THCS được đánh giá trên cơ sở
của các q trình nhận thức và mức độ khó hay dễ của nhiệm vụ học tập đối với
mỗi HS.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Công tác chủ nhiệm lớp là một nhiệm vụ rất quan trọng trong hoạt động giáo
dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm lớp có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo
dục cũng như sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Mặc dù các giáo
viên đều được đào tạo qua công tác chủ nhiệm lớp, nhưng trên thực tế khi tiếp
nhận công tác, nhiều giáo viên vẫn còn bở ngỡ hoặc thiếu kinh nghiệm trong
việc xử lí một số vấn đề liên quan đến cơng tác chủ nhiệm. Không những thế, ở
cấp học THCS học sinh đang trong giai đoạn phát triển của tuổi mới lớn, nên
việc ứng xử, giáo dục của giáo viên đòi hỏi phải khéo léo, tránh ảnh hưởng đến
tâm lí các em .
Trên thực tế giảng dạy nhiều năm, bản thân tôi vừa là giáo viên giảng dạy bộ
môn Ngữ văn, vừa là giáo viên được phân công chủ nhiệm lớp, được tiếp xúc
với nhiều đối tượng học sinh, tôi nhận thấy rằng, không chỉ học sinh các lớp lớn
mới gặp các vấn đề về tâm lý. Hiện nay, số lượng trẻ em trong độ tuổi học sinh
mắc rối loạn, lo âu và trầm cảm có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.
Theo kết quả khảo sát cụ thể:
Khối líp
(sÜ sè)
Néi dung

Số
em bị Do hồn cảnh gia đình.
stress Do mơi trường xã hội

Khối lớp 9 (68 HS)
Số lượng
6
8

%
9%
12%

Khối lớp 8 (74 HS)
Số lượng
%
7
9%
9
12%


Do mơi trường học tập
Do tâm sinh lí
Do hồn cảnh gia đình.
Số
em bị Do mơi trường xã hội
stress Do mơi trường học tập
nặng Do tâm sinh lí


13
7
3
2
6
2

19%
10%
4%
3%
9%
3%

11
8
5
3
4
3

16%
11%
7%
4%
5%
4%

Chúng ta có thể nhận thấy được các biểu hiện tiêu cực của hội chứng
“stress” ở học sinh:

Như rối nhiễu tâm lí như: lo lắng, sợ hãi, dễ phát cáu, giảm hiệu quả trong
giao tiếp, cảm giác bị xa lánh, ghét bỏ, buồn chán không toại nguyện trong học
tập, mệt mỏi tinh thần và trí lực giảm sút, mất khả năng tập trung...
Các rối loạn sinh học như: sự mệt mỏi về thể xác và các chức năng như:
nhức đầu, rối loạn giấc ngủ, tăng nhịp tim và huyết áp...
Các triệu chứng ứng xử như: Né tránh học tập, thành tích học tập giảm,
quan hệ bạn bè xấu đi,...
Những phản ứng của các em học sinh trước các yêu cầu, áp lực hay một
yếu tố tác động nào đó đe dọa đến sự tồn tại lành mạnh, tự nhiên cả về thể chất
lẫn tinh thần. Khi tâm lý bị rối loạn vì khơng vượt qua được những áp lực thì trẻ
thường có những dấu hiệu bị “stress”. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến cảm nhận, suy
nghĩ, hành vi và ứng xử của học sinh đó nói riêng và của cả một thế hệ thanh
thiếu niên nói chung. Gia đình và nhà trường nên có những biện pháp quan tâm ,
hỗ trợ các em kịp thời để ngăn ngừa những hệ lụy nguy hiểm xảy ra.
Các bậc phụ huynh, những nhà giáo dục đã phải trăn trở về những câu
chuyện xuất hiện ngày càng nhiều các vụ ẩu đả, đâm chém, hay tình trạng yêu
đương sớm, rối loạn tâm sinh lý dẫn đến mất kiểm sốt ở lứa tổi học sinh và đâu
đó là những cái chết thương tâm về áp lực do học hành, đó là một phần hậu quả
của vấn đề “stress” ở học sinh THCS.
Một trong những vấn đề được các chuyên gia tâm lý học đường đặt ra bên
cạnh vấn đề trên chính là tình trạng thiếu nghiêm trọng về đội ngũ thực hành, về
hỗ trợ tâm lý trong các trường học hiện nay. Đây chính là lỗ hổng mà ngành giáo
dục cùng các bậc phụ huynh cần quan tâm, đầu tư để sớm phát hiện và hỗ trợ
học sinh có những biểu hiện tiêu cực xuất phát từ tình trạng rối nhiễu tâm lý học
đường hiện nay.
Trước thực trạng trên, với ý tưởng của bản thân sẽ tìm hiểu về bản chất,
nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến “stress” ở học sinh THCS, tìm ra các phương
pháp, kĩ năng giúp các em ứng phó, tránh được những ảnh hưởng xấu của
“stress”, nhằm nâng cao hứng thú học tập của mình.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề:

Xuất phát từ thực tế, qua khảo sát và tìm hiểu nguyên nhân, bản chất,
nguồn gốc, biểu hiện cuae stress, việc giúp đỡ học sinh lớp 8,9 THCS vượt qua
hội chứng “ Stress” thật sự là một vấn đề cực kì khó, khơng chỉ đối với giáo viên
mà cịn phải có sự hỗ trợ của gia đình, nhà trường và xã hội. Có nhiều nguyên
nhân ( như đã nêu ở trên ) khiến càng ngày càng có nhiều học sinh mắc phải hội
chứng stress. Nhưng nguyên nhân do đâu thì ta cũng phải cố gắng khắc phục để


đào tạo ra những con người có đạo đức, có năng lực. Vai trị của các thầy cơ giáo
là rất quan trọng, song phải có sự giúp sức của cả cộng đồng, gia đình và xã hội
thì mới có kết quả. Sau đây là một số biện pháp giúp đỡ học sinh lớp 8,9 THCS
vượt qua hội chứng “ Stress”, vươn lên trong học tập mà bản thân đã thực hiện
có hiệu quả.
2.3.1. Biện pháp giáo dục đối với học sinh do hồn cảnh gia đình.
Giáo viên kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh. Thường xuyên thăm hỏi
gia đình học sinh để tìm hiểu, trao đổi, nắm được hoàn cảnh giáo dục cũng như
sự quan tâm của gia đình đối với trẻ. Từ những yếu tố đó chúng ta mới có thể
lựa chọn hình thức giáo dục cho phù hợp. Đặc biệt, biện pháp đạt kết quả tối ưu
nhất là tình thương của giáo viên đối với học sinh. Làm nghề giáo muốn thành
công chúng ta phải thật u nghề u trẻ bởi vì có u, có thương thì chúng ta
mới quan tâm, chăm sóc, mới tìm hiểu và khích lệ trẻ. Nhất là đối với các em
học sinh khơng được quan tâm do hồn cảnh gia đình khó khăn thì sự động viên
khích lệ của giáo viên sẽ giúp các em khơng có những mặc cảm bị bỏ rơi, bị xa
lánh. Bên cạnh đó sự giúp đỡ của tập thể lớp cũng rất quan trọng. Chẳng hạn:
Khi trẻ học kém ta có thể giao cho tổ trưởng kiểm tra, giảng bài cho em đó hiểu.
Qua đó trẻ nhận thấy mình được mọi người quan tâm và bản thân phải có trách
nhiệm với mọi người từ đó ta có thể khơi gợi tính làm chủ tập thể cho trẻ.
Chúng ta phải biết phối kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường cùng
giúp đỡ và giáo dục các em.
*Thực tế trong năm học 2019-2020: Có em Nguyễn Văn Hưng là học

sinh lớp 8B do bản thân chủ nhiệm. Hưng là một học sinh quậy phá, lười học và
có một hồn cảnh rất đặc biệt. Đầu năm, chỉ mới một tháng đến lớp, Hưng đã
gây biết bao chuyện phiền hà, hết chọc phá lại gây chuyện đánh nhau với bạn.
Em cũng thường xuyên bỏ học, đến lớp thì chẳng chịu nghe giảng, chẳng chịu
làm bài. Một hơm đến lớp, kiểm tra vở soạn văn của Hưng toàn là nét chữ
nguệch ngoạc, nghiêng ngả. Bản thân có hỏi Hưng chỉ trả lời “bố viết”. Trong
giờ học, Hưng chẳng chịu nghe giảng, mà chỉ lo tìm cách chọc ghẹo bạn. Tính
tình Hưng rất nóng nảy, chơi với bạn Hưng hay thường bắt nạt bạn. Khi Hưng
tức giận hay không vừa ý điều gì đó, thì tỏ ra rất ngỗ ngược, chửi lại bạn bằng
những lời lẽ thô tục, làm các bạn xa lánh, không muốn chơi với Hưng. Hưng cịn
rất bướng bỉnh, ăn nói thì cộc lốc có khi đến mức vơ lễ. Mỗi lần Hưng có lỗi, cơ
giáo có trách phạt thì Hưng cũng tỏ ra bình thường thản nhiên, đơi lúc cịn tỏ vẻ
thách thức chẳng có gì lộ vẻ sơ hãi cả. Làm việc gì Hưng cũng tỏ ra chậm chạp,
sách vở bẩn thỉu, nhàu nát và rách cả bìa, Hưng khơng chịu học và làm bài,
chính vì thế khi làm bài bao giờ cũng bị điểm kém.
Thấy vậy, bản thân băn khoăn lắm đã tìm hiểu hồn cảnh của Hưng để có
biện pháp giúp đỡ. Qua tìm hiểu bản thân biết gia đình Hưng rất khó khăn, mẹ
thì bỏ đi. Bố Hưng lấy vợ khác và hàng ngày phải làm thuê kiếm tiền lo từng
bữa cơm trong gia đình. Đã vậy, ngày nào về đến nhà cũng nồng nặc mùi rượu,
say xỉn lè nhè, quậy phá, chửi con bằng những lời lẽ thô tục. Hôm nào nhậu về
thấy vui thì ơng lấy vở của Hưng ra ngồi viết, hơm nào khơng thấy vui thì đánh
đập, chửi mắng bắt Hưng nghỉ học, không cho đi học nữa vì ơng quan niệm “học


nhiều cũng vơ ích” chính điều ấy vơ tình làm Hưng chán nản và cũng chính mơi
trường như thế đã tạo cho Hưng một tính cách ngỗ ngược, ít hồ đồng, lười học
và chẳng biết sợ ai.
Sau khi tìm hiểu về hoàn cảnh của em Hưng bản thân đã đưa ra biện pháp
nhằm giúp Hưng tiến bộ.
Cô giáo chủ nhiệm gặp riêng Hưng trong giờ ra chơi ở trường


Trước hết bản thân đến gặp gỡ và trao đổi với phụ huynh em Hưng,
khuyên bố Hưng cố gắng tạo điều kiện tốt để Hưng đến trường. Bản thân giải
thích cho ơng hiểu “Trong điều kiện xã hội hiện nay, việc học rất cần thiết, chỉ
có đi học sau này Hưng mới tương lai vững bền nếu anh khơng muốn con mình
nối nghiệp cha đi “cày thuê cuốc mướn”. Sự kiên trì nhẫn nại của bản thân đã
làm ông dần dần thay đổi. Thêm vào đó, biết gia đình em khó khăn, bản thân đã
tạo mọi điều kiện tốt cho em học tập, bản thân đã cố gắng hỗ trợ em về mặt vật
chất cũng như tinh thần. Bản thân phối hợp với huynh trưởng của lớp kêu gọi
các phụ huynh trong lớp khuyên góp, ủng hộ mua quần áo, sách vở, đồ dùng
học tập cho Hưng, hằng ngày bản thân còn giúp em khắc phục được những mặt
còn yếu như : Cách sắp sếp thời gian biểu hợp lí và hướng dẫn cụ thể cách học
từng môn cho từng ngày theo thời khóa biểu. Chính sự quan tâm ân cần của cô
đã tạo cho Hưng một chỗ dựa vững chắc về tinh thần, Hưng cảm thấy mình cịn
có người u thương, dìu dắt. Từ đó Hưng học chăm hơn. Để động viên em, bản
thân dùng các hình thức khen thưởng kịp thời. Những lúc em quậy phá đánh
bạn, bản thân không la mắng hay bắt phạt mà chỉ nhẹ nhàng khuyên bảo. Trong
ứng xử, bản thân còn dạy em cách ăn nói, cách ứng xử với bạn bè và em đã có
nhiều tiến bộ, nói năng lễ phép, biết vâng lời thầy cơ hồ đồng với bạn trong
lớp. Hàng ngày, hàng tuần vào các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, sinh hoạt lớp
cuối tuần cô luôn tuyên dương em và những bạn có sự tiến bộ trước tập thể lớp,
đồng thời động viên khích lệ em bằng những món q nhỏ như cuốn sách tham
khảo hay quyển vở. Việc làm này khơng những giúp Hưng mau tiến bộ mà cịn
tạo một phong trào thi đua học tập trong lớp cho nhiều em khác học tập. Ngồi
ra, bản thân cịn kết hợp với các ban ngành trong nhà trường để giúp đỡ Hưng
như trao những phần quà vào dịp lễ tết, miễn giảm tiền học phí cho em,…Từ
những việc làm đó giúp Hưng tự tin hơn, chăm học hơn và thành quả đạt được là
trong kì thi cuối năm các mơn thi em đều đạt trên trung bình. Hưng đã được lên
lớp 9 như các bạn. Hôm chia tay cuối năm, em hứa với cô và các bạn sẽ cố gắng
học tốt hơn trong năm học tới.

2.3.2. Biện pháp giáo dục đối với học sinh do môi trường xã hội.
Môi trường xã hội là yếu tố ảnh hưởng đến trẻ. Nếu trẻ sống trong mơi
trường xã hội tốt, có kỉ cương, trật tự thì trẻ sẽ trưởng thành tốt.
Ngày nay, tình trạng sách báo, Game, phim ảnh nhảm nhí tràn lan nó đã
thu hút khá đơng trẻ nhỏ, khiến các em bỏ bê việc học tập, sinh hoạt nề nếp.


Thực trạng những mặt xấu của xã hội. Trong điều kiện xã hội hiện nay, từng giờ,
từng ngày những cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực của xã hội dội vào nhà trường và
tác động đến học sinh.
Bằng hình thức tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho mọi thành
viên và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục học sinh nói riêng và thế hệ trẻ
nói chung.
Hội cha mẹ học sinh, hội khuyến học, hội phụ nữ,... phải sẵn sàng hợp tác,
tham mưu và cùng nhà trường giáo dục học sinh (tổ chức hội thảo trao đổi kinh
nghiệm giáo dục học sinh để nghe các gia đình có con em học giỏi chăm ngoan
báo cáo cách giáo dục con cái, đề xuất các biện pháp giúp gia đình có con còn
yếu kém trong học tập và rèn luyện đạo đức có biện pháp giáo dục con tốt hơn,
cùng nhà trường xây dựng quỹ khuyến học, quỹ học sinh nghèo vượt khó...)
Phát hiện, ngăn chặn kịp thời những nhóm trẻ hay những người có lối sống thiếu
lành mạnh lơi kéo học sinh vào các hành động phản giáo dục.
Phối kết hợp tốt với các tổ chức, ban ngành đoàn thể trong nhà trường, gần
gũi chia sẻ, cảm thông, giúp đỡ các gia đình có con cái học yếu, kém, chưa
ngoan, bàn biện pháp giáo dục và cùng giáo dục con em mình.
*Cụ thể: Năm học 2020-2021 có em Phạm Thanh Ngọc là học sinh lớp 9B
do bản thân đang chủ nhiệm. Đến lớp, Ngọc luôn nghịch ngợm, phá phách
không ai bằng lại thêm cái tính ương ngạnh. Trong đám bạn học Ngọc luôn tỏ ra
là một bậc “đàn anh” bởi Ngọc có vóc dáng to cao hơn những đứa bạn cùng lớp.
Ngọc bướng bỉnh lắm, thường bắt những đứa bạn cùng lớp gọi mình bằng “anh”
nếu khơng Ngọc nghỉ chơi, khi có bạn nào lỡ gây lỗi với Ngọc thì Ngọc đánh

cho một trận đáng đời. Đặc biệt là vào khoảng giữa kì I vừa qua Ngọc có tham
gia hút thuốc lá điện tử cùng một nhóm bạn trong trường do một đối tượng xấu
bên ngồi đưa vào. Qua tìm hiểu bản thân được biết về mặt tâm sinh lý Ngọc
phát triển bình thường ngay từ bé. Ngọc rất thích được cô giao nhiệm vụ và rất
muốn các bạn trong lớp thấy mình có uy tín và rất thích được cơ giáo khen. Gia
đình Ngọc thuộc dạng khá giả, cha mẹ chỉ lo kiếm tiền ít quan tâm đến việc
quản lí và giáo dục con cái.Vì bố mẹ khơng quản lí nên Ngọc thường xuyên
dùng điện thoại, xem phim ảnh, chơi game rất nhiều, điều này cũng ảnh hưởng
đến tính cách thích là “người hùng”… Tất cả những điều đó cũng chính là
ngun nhân hình thành tính cách của em.
Bản thân đã phối hợp với BGH nhà trường, Các giáo viên chủ nhiệm lớp
có học sinh tham gia hút thuốc lá điện tử, mời gặp phụ huynh để trao đổi, tìm ra
ngun nhân và có biện pháp giáo dục kịp thời.
Cô giáo chủ nhiệm gặp riêng em Phạm Thanh Ngọc tại văn phòng nhà trường


Hằng ngày bản thân thông báo và liên hệ với phụ huynh qua điện thoại để
phụ huynh nắm tình hình học tập của Ngọc. Khuyên phụ huynh nên dành thời
gian quan tâm đến con em mình nhiều hơn, kiểm sốt việc học, việc chơi của
con chặt chẽ hơn.
Với tính nóng nảy của Ngọc bản thân khơng dùng hình thức roi vọt hay
phạt nặng vì nó sẽ làm phản tác dụng giáo dục. Bản thân tìm cách khuyên bảo
nhẹ nhàng, dùng lời lẽ ân cần dịu dàng để giải thích cho Ngọc hiểu tác hại của
sự nóng nảy.
Với cá tính thích làm “thủ lĩnh” và thích được giao nhiệm vụ, bản thân
giao cho Ngọc chức vụ “lớp phó lao động”. Có nhiệm vụ nhắc nhở đôn đốc các
bạn trong lớp. Muốn thế bản thân em phải thật nghiêm túc làm gương cho các
bạn noi theo. Song song, bản thân cũng giải thích để Ngọc hiểu đánh bạn là việc
làm khơng đúng, nếu có vấn đề gì thì phải thưa với cơ giáo để cô giáo giải quyết
chứ không nên đánh bạn, sẽ làm bạn xa lánh không nghe theo hướng dẫn của

mình và như thế em sẽ khó quản lý lớp tốt được.
Ngọc rất thích được khen, do đó bản thân ln dùng hình thức khen ngợi,
động viên khi Ngọc làm tốt cơng việc được giao. Bên cạnh đó, bản thân cũng
phải tỏ ra nghiêm khắc, phê bình ngay khi Ngọc chưa tốt.
Với tình thương chân thành của bản thân đã dần dần cảm hoá Ngọc, em
càng ngày càng tiến bộ hơn trong học tập và cơng tác của mình. Ngọc ln thực
hiện tốt và tỏ ra là một người có trách nhiệm nên được các bạn trong lớp yêu
thương và rất khâm phục. Đặc biệt, trong đợt thi học kì 1 vừa qua, các môn thi
em đều đạt điểm trung bình trở lên. Đây là nguồn động viên rất lớn của em vì từ
trước đến nay em học lực yếu. Em hứa với cô giáo và cả lớp sẽ cố gắng học tốt
hơn nữa để cuối năm đạt được học sinh tiên tiến như em hằng mong ước.
2.3.3. Biện pháp giáo dục đối với học sinh do môi trường học tập
Cần tạo mọi điều kiện tốt để các em được học tập trong môi trường lành
mạnh. Khi nhận lớp, Giáo viên chủ nhiệm cần phải tìm hiểu kĩ hồn cảnh gia
đình, học lực, cũng như tâm sinh lí của từng em để từ đó có cách tổ chức lớp học
sao cho phù hợp.
Cụ thể: Ngay việc sắp xếp chỗ ngồi cũng cần có sự khéo léo, khơng nên
để học sinh tự do lựa chọn, đối với các em có học lực yếu có thể cho ngồi bàn
đầu hay là ngồi gần những bạn học giỏi để nhận được sự quan tâm từ bạn bè và
thầy cô. Những em ghi bài chậm hoặc lười ghi bài cho ngồi gần những em có cá
tính mạnh mẽ để cơ giao nhiệm vụ giúp đỡ bạn, nhắc nhở đôn đốc bạn. Giáo
viên cũng phải nhiệt tình, tận tâm với cơng việc của mình. Phải đi sâu, đi sát,
quan tâm đến các em, để từ đó có cách giảng dạy sao cho phù hợp với nhận thức
của mỗi học sinh. Điều quan trọng chúng ta nên xoá bỏ những mặc cảm của học


sinh kể cả hai mặt: Những em mặc cảm tự tôn: Giáo viên cần phải làm cho các
em nhận thấy khả năng đích thực của mình là gì? Những em mặc cảm tự ti:
Chúng ta cần động viên khen thưởng ngay trước tập thể lớp, khích lệ khi các em
làm tốt một việc dù rất nhỏ, dần dần các em cảm thấy tự tin ở bản thân, qua

những lời đánh giá khen thưởng của giáo viên.
Phối kết hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường để cho các em
được tìm hiểu và tham gia vào tất cả các hoạt động ngoại khóa, hoạt động ngồi
giờ lên lớp, trong các buổi sinh hoạt lớp… để các em có cơ hội trải nghiệm và
thể hiện hết khả năng và năng lực của mình .
Cụ thể : Trong các buổi sinh hoạt lớp, bản thân từng bước sử dụng
phương pháp thuyết trình cho học sinh tìm hiểu bản chất, nguồn gốc, nguyên
nhân dẫn đến “stress” ở học sinh THCS và hướng dẫn học sinh làm quen với
một số phương pháp ứng phó với “stres” trong học tập.
Học cách xả stress hiệu quả để giảm bớt những áp lực học tập, áp lực bạn
bè, người thân và xã hội.
Hãy chú tâm đến vấn đề sức khỏe: Bởi khi có một cơ thể khỏe mạnh các
em sẽ có một tinh thần thoải mái thì học tập mới đem lại hiệu quả và tránh
những căng thẳng mệt mỏi, những triệu chứng thực thể. Giảm mức độ cao của
“stres” để có một sức khỏe tốt trong học tập. Muốn có sức khỏe tốt trước hết hãy
lưu ý đến phương pháp học tập, ôn tập, nghỉ ngơi, thư giãn hợp lí. Học cách sắp
xếp thời gian biểu hợp lý để đảm bảo cho các em có có đủ thời gian giải quyết
khối lượng bài tập về nhà. Cần tránh hiện tượng học dồn, thi mới học, học đêm
ngủ ngày. Trí não của con người chỉ có thể hoạt động hiệu quả trong vòng 45
phút đến 1 giờ sau đó cần được nghỉ ngơi, giải lao hoặc làm những công việc
chân tay từ 15 đến 20 phút sau đó hoạt động trí não lại…
Cần có chế độ ăn đầy đủ và cân bằng dưỡng chất. Chú ý dùng các thực
phẩm như: sữa, trứng, thịt, rau, củ, quả… Ngoài ra nên dùng thêm các loại dầu
thực phẩm như dầu đậu nành, dầu mè… Khi chúng ta bị căng thẳng, “stress” có
thể sẽ sản sinh ra vơ số gốc tự do gây hại cho não bộ, biểu hiện ra ngoài qua các
triệu chứng như: đau đầu, mất ngủ, hay quên, thiếu tập trung, khả năng tư duy
kém… Vì thế, khi bị “stress”, cơ thể nên được bổ sung các chất chống gốc tự do
để giúp não bộ luôn minh mẫn như: Vitamin C, vitamin D, vitamin E, betacarotene... có trong các thực phẩm hằng ngày như: Cam, trà xanh, việt quất, bơ,
sữa… được biết đến với khả năng giúp cơ thể tránh khỏi tác hại của các gốc tự
do. Nhưng thành phần Vitamin C, vitamin D, vitamin E, beta-carotene….có

trong các thực phẩm hằng ngày chiếm hàm lượng rất thấp, do đó nếu chỉ dựa
vào các thực phẩm này để chống gốc tự do sẽ cho hiệu quả kém, mất nhiều thời
gian…
Đừng ép buộc bản thân: Nhiều học sinh luôn có những suy nghĩ lo sợ bị
điểm kém, sợ làm bố mẹ thất vọng, sợ thua kém bạn bè. Trong trường hợp này
hãy nhắc nhở bản thân “Chỉ cần mình cố gắng hết sức và không bỏ cuộc, dù kết


quả có như thế nào thì mình cũng khơng có gì phải hối hận”. Hãy đơn giản hóa
mọi chuyện, mọi kỳ thi để có thể thực sự bình tĩnh, giảm những căng thẳng, tỉnh
táo để lựa chọn con đường đúng đắn nhất.Củng cố niềm tin và tự tin vào bản
thân mình.
Ngủ đủ giấc: Các em học sinh cũng như các bậc phụ huynh nên nhân
thức được tầm quan trọng của giấc ngủ. Hãy nhớ khơng có bất cứ bài tập nào
quan trọng đến nỗi các em phải hy sinh giấc ngủ Sau những giờ học căng thẳng,
hãy giành ra 30 phút giải trí và thư giãn tối đa. Điều này tuy đơn giản nhưng lại
mang lại hiệu quả để các em có thể tỉnh táo và lấy lại năng lượng cho trí não.
Tham gia những buổi học nhóm: Học nhóm mang tính chất hỗ trợ,
hợp tác nhưng đồng thời cũng mang tính cạnh tranh khi tranh luận về một vấn
đề gì đó. Nhờ đó các thành viên trong nhóm sẽ có thể tư duy nhanh hơn, có khả
năng phản biện và sáng tạo. Mơi trường học nhóm đảm bảo việc học hiểu sâu
hơn về các kiến thức mà nếu học có thể bạn sẽ bỏ qua.

HS lớp 9B thảo luận nhóm trong một tiết học

Các em đội tuyển Hóa đang tham gia học nhóm

Hát: Giúp giảm đau và giảm căng thẳng hiệu quả:
Trong công việc cũng như trong học tập, đôi lúc bạn sẽ cảm thấy áp lực
và stress kinh khủng. Những lúc như thế này bạn sẽ làm gì? Hãy thử tạm gác

mọi thứ sang một bên, mở nhạc lên và hát theo một ca khúc vui tươi, yêu thích.
Việc này sẽ giúp bạn cảm thấy thoải mái và nhanh chóng lấy lại tinh thần để tiếp
tục cơng việc. Khi hát, luồng khơng khí vào cơ thể nhiều hơn và mạch máu sẽ
hấp thụ nhiều ơ-xy hơn. Do đó, bạn sẽ có cảm giác tỉnh táo hơn, áp lực vì thế
cũng được xua tan và bạn sẽ mau chóng quay về với trạng thái cân bằng. Một số
nghiên cứu khác cũng chỉ ra nhiều lợi ích của hát như: làm giảm áp lực máu,
điều hoà nhịp tim và giảm căng thẳng. Nếu đang cảm thấy bị lún sâu vào cơn
giận dữ hoặc rơi vào một trạng thái mất cân bằng, ca hát cũng sẽ giúp được
nhiều cho bạn. Việc mải mê và hịa mình vào các giai điệu sẽ làm bạn quên đi
cơn tức giận và cảm thấy ổn hơn.
- Thưởng thức nghệ thuật: Ngắm nhìn một bức tranh, nghe một bản nhạc
mà mình u thích. Nghe nhạc có thể giúp bạn giảm nồng độ hormone gây
“stress” có tên cortisol trong cơ thể. Đây là một phát hiện quan trọng do “stress”
là nguyên nhân gây ra 60% các loại bệnh và ốm đau ở người.
Xem múa lân tại sân trường vào dịp tết trung thu


- Cười: Không chỉ mang lại sự vui vẻ, thoải mái mà cơ thể còn tiết ra
monphine tự nhiên, tạo khả năng chống “stress”.
Lượng hc - mơn cortisol và epinephrine tiết ra trong cơ thể có khuynh
hướng giảm đi khi chúng ta cười. Đây là những hc - mơn gây “stress”, ức chế
hệ miễn dịch, tạo kẽ hở cho các viêm nhiễm, bệnh tật… Các nghiên cứu đã
chứng minh, cười giúp giảm căng thẳng, cải thiện chức năng miễn dịch, hay nói
cách khác là tăng cường hoạt động của các tế bào “chiến binh” – đây là một loại
bạch cầu chuyên săn lùng và tiêu diệt các tế bào ung bướu và tế bào nhiễm virus.
Cụ thể : Trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, bản thân luôn tổ chức cho các
em sinh hoạt theo chủ điểm, hát các bài hát về thầy cô, mái trường, tiến bước
lên đồn…Trong các buổi hoạt động ngoại khóa, cho các em được tham gia các
trò chơi như kéo co, nhảy bao bố, diễn kịch…vừa rèn luyện sức khỏe,vừa tạo
khả năng chống “stress”,

Học sinh tham gia diễn kich trong buổi ngoại khóa

Thi kéo co trong buổi ngoại khóa

- Luyện tập thể dục, thể thao: Buổi sáng, đi bộ làm lưu thơng khí huyết,
hít thở khơng khí trong lành, phịng tránh được một số bệnh tật,...
Tham gia chơi các môn thể thao như bóng đá, cầu lơng, bóng chuyền…để
tăng cường sức đề kháng và rèn luyện sức khỏe.
Học sinh lớp 9 tham gia thi giải bóng đá cụm

- Viết nhật ký: Viết nhật ký cũng có thể làm giảm căng thẳng. Khi chúng ta
đang cảm thấy mệt mỏi, kiệt quệ, việc ghi lại cảm xúc của mình có thể giúp bản
thân kiểm sốt được mọi thứ và phân tích tình hình tốt hơn. Thậm chí, nó có thể
cung cấp cho chúng ta một hướng mới, sắc sảo hơn để giải quyết các vấn đề.
Việc đọc lại nhật ký, giúp ta nhận ra những điều bản thân cần phải thay đổi để
ngăn chặn kịp thời những điều không tốt, những căng thẳng gây ảnh hưởng đến
bản thân trong tương lai.
2.3.4. Biện pháp giáo dục đối với học sinh do tâm sinh lí
Cần chú trọng việc tư vấn học đường: Để giúp các bạn học sinh có thể dễ
dàng vượt qua áp lực thì nhà trường, gia đình phải là nơi các em có thể được tư
vấn để đưa ra những lựa chọn tốt nhất. Tránh những quyết định bốc đồng để lại
những điều ân hận khơng đáng có cho các em.
Giáo viên chủ nhiệm tham vấn tâm lý cho học sinh

-Tham vấn tâm lí học đường là một quá trình diễn ra với nhiều giai đoạn khác
nhau, từ việc xây dựng mối quan hệ, khai thác, tìm hiểu, xác định vấn đề đến
giải quyết vấn đề thuộc lĩnh vực tâm lí…
- Mục tiêu của tham vấn tâm lí học đường là giúp đỡ học sinh hiểu được cảm
xúc, suy nghĩ của chính các em, từ đó có thể giải quyết vấn đề một cách tốt nhất.



- Hoạt động tham vấn tâm lí học đường diễn ra trên cơ sở mối quan hệ tương
tác tích cực giữa nhà tham vấn và học sinh, được thực hiện chủ yếu trong tương
tác trực tiếp tại phịng tâm lí học đường hoặc tại lớp học…
- Nhà tham vấn tâm lí học đường có thể là người làm chun nghiệp hoặc bán
chuyên nghiệp. Song, họ đều cần có kiến thức về tâm lí, kĩ năng, thái độ nghề
nghiệp tham vấn tâm lí để thực hiện hoạt động tham vấn tâm lí một cách tốt
nhất.
- Đối tượng được tham vấn tâm lí học đường có thể là cá nhân học sinh có nhu
cầu cần được tham vấn tâm lí. Ngồi ra, cịn có thể là nhóm học sinh, hoặc tập
thể học sinh với các vấn đề nổi cộm của lớp như học tập, đánh nhau, quan hệ
bạn khác giới, sự phát triển của cơ thể, quan hệ của lớp với giáo viên…
* Cụ thể : Trong năm học 2019 – 2020 có em Nguyễn Minh Phúc là học
sinh lớp 8B do tôi chủ nhiệm. Đầu năm em vốn là một học sinh ngoan hiền, ít
nói, có học lực trung bình, rất tích cực trong tất cả các hoạt động của lớp. Hồn
cảnh gia đình rất đáng thương. Bố là trụ cột gia đình thì lại bị bệnh, khơng có
khả năng lao động, dẫn đến tiêu cực, say sỉn suốt ngày. Kinh tế gia đình chỉ dựa
vào mỗi người mẹ. Nhưng đến gần cuối học kì một thì bất ngờ một tai họa giáng
xuống gia đình em. Mẹ mất do bị trượt chân ngã xuống ao ngay sau nhà. Điều
đó là một cú sốc lớn đối với em. Cũng kể từ đó việc học tập của em xa sút nhiều.
Đi học buổi đực buổi cái, đến lớp chủ yếu là ngủ, giờ ra chơi thì cứ ở một mình
trên lớp, hết giờ thì lẳng lặng ra về. Có lần em đã có ý định thôi học, nghỉ học ở
nhà gần một tuần.
Bản thân đã phải vào nhà gặp gỡ,trao đổi, động viên gia đình và em.
Thuyết phục mãi, cuối cùng em cũng chịu ra lớp học trở lại.
Bằng trách nhiệm và tình thương bản thân luôn quan tâm, gần gũi và động
viên em. Hằng ngày trước giờ vào lớp hoặc những giờ ra chơi bản thân thường
gặp gỡ, hỏi han về việc học, việc làm bài tập ở nhà, công việc gia đình… để tạo
khơng khí thân mật gần gũi. Đến khi giữa cơ trị khơng cịn khoảng cách thì lúc
đó em đã sẵn sàng chia sẻ những khó khăn mà mình gặp phải trong cuộc sống.

Bản thân đã hỗ trợ em từng bước tháo gỡ những khó khăn đó.
Giáo viên chủ nhiệm gặp gỡ, hỗ trợ tư vấn tâm lí cho em Phúc

Sau một thời gian dài theo dõi, kèm cặp, giúp đỡ, Phúc đã tiến bộ rõ rệt.
Em đã sốc lại được tinh thần và có ý thức vươn lên trong học tập. Đi học chuyên
cần trở lại, ghi chép bài và làm bài đầy đủ, hòa nhập, gần gũi với bạn bè, tích
cực tham gia các hoạt động của lớp… Đặc biệt em đã mạnh dạn, tự tin hơn trong
cuộc sống hàng ngày. Em đã chủ động gặp Cô khi có điều vướng mắc mà khơng
thể tháo gỡ được. Nhờ đó mà kết quả học tập của em vào cuối năm được nâng
lên rõ rệt. Hôm chia tay tổng kết, em phát biểu và khóc trước lớp. Em hứa với cô
giáo và cả lớp sẽ cố gắng học tốt hơn nữa để đạt được ước mơ của mình.
Tóm lại:
Để giúp đỡ học sinh vượt qua “ hội chứng stress ” vươn lên trong học tập
cho dù bất cứ nguyên nhân nào? Bằng những phương pháp nào? Theo tôi biện


pháp chung nhất là phải tìm hiểu xem học sinh mắc phải stress do nguyên nhân
nào? Biểu hiện cụ thể ra sao? Thường xuyên trao đổi trò chuyện với học sinh
nhằm tạo ra tình cảm gắn bó giữa thầy và trị. Khi đã rõ mọi ngọn nguồn làm
học sinh đó chậm tiến thì gặp các tình huống dù tiêu cực, dù phức tạp đến đâu.
Nhưng với cách xử lý khéo léo, với tấm lịng thiện cảm, tơn trọng, tin u học
sinh thì cơng việc giáo dục của chúng ta dần dần sẽ mang lại hiệu quả.
Việc giáo dục cũng chỉ thành cơng khi giáo viên chúng ta biết tìm cách
tạo ra xung quanh học sinh đó một mơi trường sư phạm tốt đẹp, tạo điều kiện
cho học sinh đó được học tập rèn luyện trong một tập thể lớp tiến bộ, có tinh
thần tự quản cao, có ý thức giúp nhau cùng tiến bộ với sự cảm thông và tin yêu
chân thành. Song song đó giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình phải tạo ra được
mối quan hệ sư phạm thống nhất cùng giúp đỡ học sinh vượt qua “hội chứng
stress”.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

Việc tìm hiểu về bản chất, nguồn gốc, nguyên nhân, các phương pháp, kĩ
năng giúp học sinh vượt qua hội chứng “stress” ở lứa tuổi học sinh THCS hiện
nay là vô cùng cần thiết. Qua một thời gian giảng dạy lồng ghép trong một số bộ
môn, khối lớp mà bản thân tôi trực tiếp giảng dạy và đặc biệt hơn qua hoạt động
ngoại khóa, hoạt động ngồi giờ lên lớp, qua các tiết sinh hoạt lớp, tơi nhận thấy
các em ln có nhu cầu tìm hiểu về phương pháp, kĩ năng ứng phó với “stress”.
Được tiếp thu trực tiếp, học sinh rất hứng thú, xem đó là cẩm nang về kĩ năng
sống của mình.
Nhờ vận dụng các phương pháp, kĩ năng trên tơi đã giúp học sinh có trạng
thái tâm lí bình thường, ổn định để học tập tốt hơn.
- Cụ thể : Kết quả khảo sát hai khối lớp 8, 9 :
Khối líp
(sÜ sè)
Néi dung

Khối lớp 9 (68 HS)

Khối lớp 8 (74 HS)

Số lượng
%
Số lượng
%
2
3%
2
3%
Do hồn cảnh gia đình.
Số
1

1,5%
2
3%
em bị Do môi trường Xã hội
stress Do môi trường học tập
3
5%
4
5%
2
3%
2
3%
Do tâm sinh lí
0
0%
1
1,3%
Do hồn cảnh gia đình.
Số
0
0%
0
0%
em bị Do mơi trường Xã hội
stress Do môi trường học tập
2
3%
3
4%

nặng Do tâm sinh lí
0
0%
0
0%
So sánh bảng khảo sát trước khi chưa áp dụng sáng kiến với bảng khảo sát
sau khi áp dụng sáng kiến, có thể thấy rõ số học sinh mắc phải hội chứng stress
đã giảm đi đáng kể, có thể nói đây chính là dấu hiệu đáng mừng cho bản thân
nói riêng và cho tất cả các đồng nghiệp của tôi nói chung.


Tôi thấy, việc cung cấp cho các em những phương pháp, kĩ năng giúp học
sinh vượt qua hội chứng “stress” ở lứa tuổi học sinh THCS, tôi khẳng định rằng
đây là việc làm thiết thực, tích cực trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh giúp các em hoàn thiện về nhân cách để phát triển toàn diện.
Những biện pháp, kĩ năng trên có thể áp dụng cho tất cả học sinh THCS,
đặc biệt là học sinh khối 8, 9 - lứa tuổi bước vào thời kì khủng hoảng về mặt tâm
sinh lí.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Rèn kĩ năng sống - Đặc biệt là kĩ năng giúp học sinh vượt qua hội chứng
“stress” là một nhiệm vụ vơ cùng gian khó, khó thành cơng trong một thời gian
ngắn. Nó địi hỏi một q trình dài lâu, có sự gắn kết, thật sự trách nhiệm của
giáo viên chủ nhiệm, từ cấp dưới đến cấp trên, cùng sự quan tâm chia sẻ thường
xun từ phía phụ huynh, gia đình.
Việc rèn kĩ năng giúp học sinh vượt qua hội chứng “stress” quả là một
vấn đề phức tạp, nó đã và đang là điều trăn trở không phải của riêng bản thân mà
của nhiều giáo viên chủ nhiệm hiện nay. Để giáo dục và rèn luyện tốt cho học
sinh những kĩ năng này rõ ràng đòi hỏi ở giáo viên phải có năng lực sư phạm.
Năng lực sư phạm khơng chỉ đơn thuần là giỏi về giảng dạy, tổ chức lớp học có

kỉ cương, nề nếp mà cịn phải giỏi làm sao xây dựng được tình nghĩa gắn bó
giữa thầy và trị. Ơng cha ta từ xưa cũng thường bảo “dạy dỗ” để nói đến việc
giáo dục một con người .“Dạy” là cung cấp nội dung, “dỗ” là cách đối xử với
con người, làm sao gây thiện cảm, tạo ra hứng thú, phát huy tiềm năng của học
sinh hơn là áp đặt ý muốn chủ quan của thầy. Chính vì thế muốn dạy trẻ trước
hết phải hiểu trẻ, yêu thương và tôn trọng trẻ. Giáo viên phải là người giỏi về
tâm lý trẻ thơ. Từ đó mới khám phá ra tâm hồn của trẻ để giáo dục trẻ cho tốt.
Khi đã tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp, với trách nhiệm lương tâm cao cả
thì mọi giáo viên chủ nhiệm chúng ta đều có thể tìm ra con đường đi tới niềm
vui trong giáo dục. Đúng như MAKARENCÔ nhà giáo dục Nga đã khẳng định
“Không sợ học sinh hỏng mà chỉ sợ phương pháp giảng hỏng”, khơng có học
sinh nào muốn mình hư, em nào cũng muốn mình là học sinh ngoan, học giỏi và
được bố mẹ thầy cô khen ngợi. Bác Hồ của chúng ta đã thường nói: “Bản chất
con người là tốt đẹp”. Là giáo viên chúng ta hãy đến với trẻ với tất cả tấm lòng,
trái tim người thầy chắc chắn chúng ta cũng gặt hái được kết quả trong giáo dục.
Với kinh nghiệm giáo dục các phương pháp, kĩ năng giúp học sinh vượt
qua hội chứng “stress” ở lứa tuổi học sinh THCS qua một số môn mà bản thân
tôi trực tiếp giảng dạy (Ngữ văn, GDCD); được lồng ghép triển khai, tổ chức
hướng dẫn cho học sinh ở một số buổi ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp,
tiết sinh hoạt lớp. Sau khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tế giảng
dạy tôi thấy khả năng áp dụng đạt hiệu quả cao, đặc biệt là học sinh đã biết vận


dụng các phương pháp, kĩ năng một cách hợp lý trong sinh hoạt và học tập hàng
ngày. Bản thân học sinh tránh được tình trạng uể oải, buồn ngủ trong học tập,
cảm thấy hứng thú, tự tin hơn trong cuộc sống. Giáo viên nhận thấy, học sinh có
tinh thần học tập tốt hơn, hăng say phát biểu xây dựng bài,... kết quả học tập
được nâng lên.
Giúp đỡ học sinh vượt qua “hội chứng stress” là nhiệm vụ rất quan trọng
của giáo viên chủ nhiệm. Đó khơng chỉ là nhiệm vụ trong một năm học, một

cấp học mà là thiên chức đối với một đời người – một thế hệ.
3.2. Kiến nghị :
Nhà trường phải xây dựng một kế hoạch giảng dạy, học tập khoa học,
ngồi các mơn học bắt buộc quy định của Bộ GD&ĐT, nhà trường cần có một lộ
trình riêng cho từng mơn học, và đối với từng em học sinh phải có cách tiếp cận,
dạy dỗ khác nhau, phải kết hợp với các phương pháp giảng dạy cùng đánh giá
hợp lý nhằm khuyến khích động viên và khơi dậy đam mê học tập của học sinh,
thay vì phải tạo áp lực và sự bắt buộc như hiện nay. Nhà trường cũng phải có
trách nhiệm trong việc tư vấn cho phụ huynh để dạy dỗ, định hướng con em họ.
Về phía gia đình, các bậc cha mẹ cần xem xét nghiêm túc việc giáo dục, rèn
kĩ năng sống cho trẻ cũng là trách nhiệm của chính mình. Phải tự tìm hiểu thêm
kiến thức giáo dục con trẻ, hợp tác chặt chẽ với nhà trường cùng nuôi dạy con
khôn lớn, trưởng thành. Trước hết, là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày
tỏ; luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các
em những kĩ năng sống cần thiết, theo dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo
dục cho phù hợp. Làm được như vậy, có thể chúng ta sẽ khơng đào tạo ra một
thiên tài xuất chúng nhưng chắc chắn chúng ta sẽ “trồng” nên nhưng con người
hữu dụng và hạnh phúc trong tương lai.
Học sinh: phải biết phân bổ thông minh thời gian học tập, nghỉ ngơi, thời
gian vui chơi, giải trí,... tránh sự căng thẳng – ”stress” trong học tập, giữ được sự
cân bằng cho cuộc sống để phát triển và hồn thiện nhân cách.
Gia đình, nhà trường và xã hội đều phải có trách nhiệm trong việc giảm
thiểu những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tinh thần của học sinh.
Sự can thiệp, giúp đỡ có thể bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng đều phải
hướng đến mục đích: Bảo đảm mơi trường an tồn, lành mạnh, thân thiện cho
các em - những chủ nhân tương lai đất nước, giúp các em phát triển đúng đắn về
thể chất, tinh thần và cả nhân cách.
Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi về Một số kinh nghiệm trong việc giúp
đỡ học sinh lớp 8,9 vượt qua hội chứng “stress”tại Trường THCS nơi tơi đang

cơng tác nói riêng và học sinh THCS nói chung .Với khả năng cịn hạn chế và
chắc chắn rằng đó vẫn chưa phải là cách làm mang lại kết quả tối ưu trong việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Phần nữa, trong quá trình viết và thực hiện
đề tài này chắc chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót.Vì vậy, kính mong
q đồng nghiệp đóng góp ý kiến để cùng nhau tìm ra một phương pháp tối ưu
hơn nữa để việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống trong trường học nói chung và
trong một số mơn học nói riêng mang lại nhiều ý nghĩa và hiệu quả thiết thực.


CAM KẾT
Tối xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, khơng sao
chép nội dung của người khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tài liệu tham khảo:
1. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên Module THCS 1 - Đỗ Thị Hạnh Phúc.
2. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên Module THCS 2 - Nguyễn Kế Hào.
3. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên Module THCS 12 - Nguyễn Quang Uẩn,
Phạm Thanh Bình.
4. Các văn bản Hướng dẫn hoạt động ngồi giờ lên lớp (Phòng GD&ĐT Thọ
Xuân, Trường THCS Xuân Thắng năm học 2019-2020).
5. Sách giáo khoa GDCD 8 - NXB giáo dục
6. Sách giáo khoa Ngữ văn 9 - NXB


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu

1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Khái niệm chung về stress
2.1.2. Nguyên nhân dẫn đến stress
2.1.3. Bản chất của stress trong quá trình học tập ở học sinh THCS
2.1.4. Biểu hiện và những mức độ cụ thể của stress trong học tập của
học sinh THCS
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Biện pháp giáo dục đối với học sinh do hồn cảnh gia đình
2.3.2. Biện pháp giáo dục đối với học sinh do môi trường xã hội
2.3.3. Biện pháp giáo dục đối với học sinh do môi trường học tập
2.3.4. Biện pháp giáo dục đối với học sinh do tâm sinh lý
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

TRANG
1
1
2
2
2
2
3
4
6
6

8
8
10
12
15
18
18
19






×