Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

SKKN góp phần phát triển năng lực tự học của học sinh THPT qua các tiết học nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.53 KB, 46 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
1.1. Có người đã từng nói: Học tập là cuốn vở khơng có trang cuối. Điều đó

có nghĩa: học tập là cơng việc suốt đời, không ngừng nghỉ để tiến bộ mỗi ngày. Học
và tự học là kĩ năng xếp đầu bảng trong các kĩ năng cần thiết trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0. Không phải trước đây nó khơng quan trọng mà vì bây giờ mọi thứ
thay đổi quá nhanh đòi hỏi con người ta phải học hỏi với tốc độ cao hơn, bền bỉ
hơn, tự giác hơn.
Cơng nghệ 4.0 mang đến làn sóng mới với tốc độ phát triển nhanh chóng của
tri thức nhờ những thành tựu khoa học công nghệ, internet phát triển mạnh mẽ,
thông tin mới cập nhật từng phút, từng giây địi hỏi người học phải có thái độ học
tập, nghiên cứu một cách tự động, tự học trở thành một nhu cầu thiết yếu để tạo ra
nguồn lao động có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Đối với học sinh, thanh niên nói chung, học tập không ngừng được xác định
là nhiệm vụ quan trọng, là giai đoạn tích luỹ, nâng cao kiến thức để phục vụ công
tác. Trước những thách thức lớn, những biến đổi mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, công
nghệ và kinh tế tri thức thì việc học tập, nghiên cứu để đáp ứng với sự phát triển đó
trở thành yêu cầu cấp thiết đối với con người, đặc biệt với HS phổ thông.
Bên cạnh đó, sáng tạo là một phẩm chất đặc trưng của tuổi trẻ. Ở đâu có
thanh niên, ở đó có hoạt động sáng tạo. Khi có đam mê và sẵn sàng sáng tạo thì sẽ
vượt qua được chính mình, vượt qua được cái cũ và tạo ra những giá trị mới trong
từng hoạt động, hướng tới nâng cao chất lượng học tập, hoàn thành tốt nhiệm vụ
một cách tự giác.
Thêm vào đó, trước tình hình dịch bệnh do Covid -19 gây ra, học sinh nhiều
tỉnh thành có dịch phải nghỉ học dài ngày. Theo đánh giá của các chuyên gia giáo
dục, nhìn nhận ở góc độ tích cực, những kì nghỉ dài hạn lại là cơ hội để các em phát
1




huy tinh thần tự học, ứng phó với khó khăn. Các em có thể chủ động tự học tại nhà
như: ôn lại kiến thức đã học, nắm vững kiến thức cơ bản, giải các bài tập, truy cập
internet để tham khảo thêm các hình thức bổ trợ cho mơn học nhằm đảm bảo
chương trình khơng bị gián đoạn và duy trì thói quen học tập tích cực khi trở lại
trường học bình thường, đặc biệt với học sinh cuối cấp chuẩn bị bước vào các kì thi
quan trọng.
1.2. Một đất nước phát triển, cần chú trọng đến việc đổi mới giáo dục vì
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Với mục đích đổi mới căn bản và tồn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng hiện đại hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, Quyết
định 711/TT ngày 13/6/2012 của Thủ tướng chính phủ đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng tích cực
hóa hoạt động học tập, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng
lực tự học của người học…”
Cùng với đó, Hội nghị TW8 khóa XI cũng xác định “Đổi mới hình thức,
phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng
lực của người học”. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học.
Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự
học thì sẽ tạo cho họ lịng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người,
kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh đến
các hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập
thụ động sang tự học chủ động, định hướng cho học sinh tự học để chủ động lĩnh
hội kiến thức và phát huy năng lực, sở trường.
1.3. Ngữ Văn là môn học bắt buộc trong trường phổ thơng nhưng trong thực
tế học sinh lại ít hứng thú với bộ môn này. Trong giờ học, vẫn cịn tình trạng nhiều
học sinh ngại tham gia hoạt động, khơng có sự chuẩn bị bài ở nhà... Học sinh lười
tư duy, thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức. Khi giáo viên tổ chức các hoạt động,
các em chỉ tham gia lấy lệ, đối phó. Vì vậy, hiệu quả các tiết học chưa cao.
2



Khi thầy cô giáo định hướng, tổ chức tự học cho học sinh, một bộ phận không
nhỏ chỉ thực hiện sơ sài, hình thức, qua loa. Vì vậy, việc hướng dẫn học sinh tự
học một cách bài bản là rất quan trọng trong q trình đổi mới giảng dạy mơn
Ngữ Văn hiện nay.
Chương trình Ngữ Văn bậc THPT hiện nay gồm có 3 phân mơn : Tiếng Việt,
Đọc Văn và Làm Văn. Mỗi phân môn đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau. Trong
đó, Làm Văn là phân mơn mang tính thực hành cao. Mỗi bài làm văn của học sinh
thể hiện khá rõ những nhận thức, kĩ năng, tình cảm của học sinh, là cơ hội để học
sinh bộc lộ rõ nhất vốn hiểu biết cũng như năng lực của mình.
Trong Làm Văn, thể văn nghị luận giữ vị trí quan trọng, gồm: nghị luận văn
học (bàn bạc về những vấn đề thuộc lĩnh vực văn học) và nghị luận xã hội (bàn bạc
về những vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội). Tuy nhiên, trong hai kiểu bài này nghị luận
văn học được chú trọng nhiều, còn nghị luận xã hội ít được chú ý đến. Bản thân các
em học sinh cũng có tâm lí e ngại, khơng mấy hứng thú với kiểu bài này dẫn đến kĩ
năng làm bài còn yếu.
Làm Văn là một bộ phận thực hành quan trọng trong quá trình học tập Ngữ
Văn nhằm rèn luyện kĩ năng tư duy chính xác, nhạy bén, kĩ năng diễn đạt đúng và
hay bằng ngơn ngữ (ngơn ngữ nói và viết) những hiểu biết, suy nghĩ, tình cảm của
người học sinh trước một hiện tượng về văn học, về cuộc sống. Đây là phần thực
hành của Văn học và Tiếng Việt, song song và tương ứng với phần Văn học. Chính
vì vậy, Làm Văn là một hoạt động có tính chất thực hành tổng hợp về kiến thức và
kĩ năng.
Từ năm 2014, đề thi môn Ngữ Văn của Bộ Giáo Dục đã có sự thay đổi lớn
với hai phần Đọc hiểu và Làm Văn, trong đó phần Làm Văn là phần mới nhất của
đề thi, thay vì viết bài văn khoảng 600 từ, học sinh chỉ viết đoạn văn khoảng 200
từ. Khả năng sẽ ngày càng rút ngắn hơn dung lượng của đoạn văn. Sự thay đổi này
xuất phát từ xu hướng đổi mới kiểm tra đánh giá: đi từ sự ghi nhớ kiến thức của học
3



sinh (do thầy cô đọc hộ, hiểu hộ, cảm hộ) sang kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu
của học sinh (tự mình tìm hiểu, cảm thụ, khám phá). Đổi mới này đã phát triển
được năng lực của người học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu
cầu hội nhập quốc tế.
Vì những lí do trên, nhằm góp phần phát triển năng lực tự học (chủ động,
tích cực) của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn, tôi xin đề xuất sáng kiến Góp phần phát triển năng lực tự học của
học sinh THPT qua các tiết học Nghị luận xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm đề xuất các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả học tập từ việc hướng
dẫn học sinh ở trường THPT tự học, qua đó phát triển các phẩm chất, năng lực: tự
lập, tự chủ, tư duy sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tự tin… góp
phần nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, phát triển năng lực, đáp ứng yêu
cầu học tập hiện nay trong thời kì hội nhập
- Nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là cải tiến phương pháp dạy học, giúp
học sinh tích cực, chủ động tiếp nhận tri thức và hình thành kĩ năng, phát triển nhân
cách.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn theo phương
hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt
động cá thể phối hợp với học tập giao lưu, hình thành và rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn.
- Góp phần gây hứng thú học tập môn Ngữ Văn cho học sinh, không những
chỉ giúp HS lĩnh hội được tri thức, giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó,
ngồi ra cịn hướng tới mục tiêu, thói quen tự học suốt đời.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh trung học phổ thông

4



- Các hình thức hướng dẫn, kích thích hoạt động tự học từ các bài học Nghị luận
xã hội trong chương trình phổ thơng trung học, phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của HS theo hướng phát triển năng lực tự lập, phẩm chất chăm chỉ…
4. Phương pháp nghiên cứu
-Tham khảo tài liệu và SGK để tìm ra những kiến thức cơ bản phục vụ cho việc
viết đề tài và áp dụng đề tài vào trong quá trình giảng dạy.
- Điều tra khả năng và hứng thú học tập của HS, tìm hiểu kĩ về đối tượng HS.
- Dùng phương pháp quan sát thực nghiệm và phân tích nội dung; phương pháp trắc
nghiệm khách quan; phương pháp so sánh, phân tích sản phẩm hoạt động…

5


NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1.Tự học và năng lực tự học
1.1.1. Khái niệm tự học
Tự học là một khái niệm được rất nhiều người quan tâm. Sinh thời, Hồ Chủ
Tịch đã định hướng: “Trong cách học, phải lấy tự học làm cốt”, tức là học tập một
cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ
mà tự mình chủ động vạch ra kế hoạch học tập cho mình, rồi tự mình triển khai,
thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự
mình kiểm tra đánh giá việc học của mình. Theo Từ điển Giáo dục học - NXB từ
điển Bách khoa 2001: “Tự học là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức
khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành…”. Trong Phương pháp dạy học truyền
thống và đổi mới, tác giả Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm
lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực
trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất, động cơ,

tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh
nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân
người học”.
Tác giả Trần Bá Hoành cho rằng: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự
mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình, là tự
đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết
các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp… Tự học thuộc q trình cá nhân hóa việc
học”. Có thể hiểu “Tự học là một quá trình học tập độc lập, chủ động, tích cực của
6


người học trong việc chiếm lĩnh tri thức khoa học, cũng như những kiến thức trong
cuộc sống hằng ngày. Nó có thể được cá nhân người học tiến hành ở trên lớp hay
phạm vi ngoài lớp học”.
1.1.2. Năng lực tự học
Con người luôn ẩn chứa một tiềm lực, một “tài ngun vơ cùng q giá” đó là
năng lực tự tìm tòi, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề thực tiễn, tự đổi mới, tự
sáng tạo trong công việc hàng ngày gọi chung là năng lực tự học sáng tạo. “Năng
lực tự học là tổng thể các năng lực cá thể, năng lực chuyên môn, năng lực phương
pháp và năng lực xã hội của người học tác động đến nội dung học trong những
tình huống cụ thể nhằm đạt mục tiêu (bằng khả năng trí tuệ và vật chất, thái độ,
động cơ, ý chí v.v... của người học) chiếm lĩnh tri thức kĩ năng”.
1.2. Các hình thức tự học
Căn cứ vào 3 khía cạnh: mối quan hệ, mức độ và cách thức, phạm vi diễn ra
quá trình tự học để xác định các hình thức tự học, cụ thể như sau:
* Xét về mối quan hệ của người tự học trong tự học, có:
- Tự học khơng tương tác: là hình thức học tập mà người học làm việc độc lập, chủ
động có hoặc khơng có sự hướng dẫn của người thầy.
- Tự học trong tương tác: là hình thức tự học mà người học kết hợp với những
người khác (có thể với bạn, với thầy) trong học tập để nghiên cứu, lĩnh hội và vận

dụng kiến thức, kĩ năng; có hoặc khơng có sự hướng dẫn của người thầy.
* Xét về mức độ và cách thức tự học, có hai hình thức tự học sau:
- Tự học hồn tồn: là hình thức tự nghiên cứu của các nhà khoa học, được tiến
hành dựa trên nền tảng vốn tri thức sâu rộng cùng niềm khát khao, say mê khám
phá tri thức mới. Ở hình thức tự học này, người học tự lực tìm hiểu, cọ xát với thực
tiễn để tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.
- Tự học có hướng dẫn: là hình thức tự học phổ biến của HS được tiến hành linh
hoạt theo từng cấp học, từng loại hình trường học, từng đối tượng; trong đó, HS tự
7


nghiên cứu, tự lĩnh hội và vận dụng kiến thức, kĩ năng thông qua các hoạt động tự
học do GV tổ chức, hướng dẫn, điều khiển.
* Xét về phạm vi diễn ra q trình tự học, có thể chia hình thức tự học làm hai loại:
- Tự học trong các cơ sở giáo dục: là hình thức tự học của người học diễn ra trong
các cơ sở giáo dục có sự hướng dẫn, tổ chức của thầy theo kế hoạch giáo dục đã
định sẵn.
- Tự học trong cuộc sống: là hình thức tự học được tiến hành ở bên ngồi các cơ sở
giáo dục, diễn ra bất cứ lúc nào, với bất cứ ai có nhu cầu học tập.
Trong các hình thức tự học trên, với học sinh, hoạt động tự học chủ yếu liên
quan đến các cơ sở giáo dục. Hoạt động này thường kết hợp giữa học cá nhân với
học hợp tác và là tự học có hướng dẫn của giáo viên. Tự học trên cơ sở có hướng
dẫn của giáo viên sẽ đem đến hiệu quả tốt hơn.
1.3. Khái niệm NLXH và vai trị của phân mơn Làm Văn
1.3.1. Khái niệm nghị luận xã hội
“Nghị luận” là dùng lí luận để phân tích ý nghĩa phải trái, bàn bạc, mở rộng
vấn đề. Cịn “xã hội”: có thể hiểu là những gì thuộc về quan hệ giữa người và người
về các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngơn ngữ... Từ đó, ta có
thể hiểu NLXH là thể văn hướng tới bàn bạc, phân tích, trao đổi về các vấn đề
liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội.

1.3.2.Vai trị của phân mơn Làm Văn
Ưu điểm của văn nghị luận, trước hết là học sinh không nhất thiết phải
thuộc làu một khối lượng lớn tri thức đọc hiểu. Người viết có thể tự do trình bày
suy nghĩ, quan điểm của mình một cách khách quan mà khơng bị một giới hạn, quy
định nào ràng buộc. Mặt khác, HS có thể biểu hiện sự hiểu biết phong phú của
mình cho bài viết sinh động hơn. Dạng văn nghị luận xã hội thực chất là một dạng
đề "mở" vì thế nó rất phù hợp cho mọi đối tượng học sinh, đặc biệt là các bạn học
khối khoa học tự nhiên vốn “sợ" học thuộc văn.
8


Tuy vậy, viết một bài nghị luận xã hội không phải là "thích viết gì thì viết"
hay áp đặt ý kiến chủ quan của cá nhân. Bài viết vẫn phải đảm bảo tính khách quan
khoa học và hướng về vấn đề cần bàn luận. Người viết phải là người có vốn sống
phong phú, tầm hiểu biết rộng và có óc tư duy sắc sảo. Đây là "thách thức" lớn cho
học sinh vốn xưa nay chỉ quen cách làm bài thụ động.
NLXH là một yêu cầu cần thiết trong đời sống. Viết văn nghị luận xã hội là
một yêu cầu cần thiết cho học sinh. Qua đó, có thể kiểm tra chính xác năng lực tư
duy, óc sáng tạo, sự hiểu biết của học sinh; bồi dưỡng kĩ năng sống đồng thời cịn
tránh tình trạng "đạo văn" hay lệ thuộc nhiều vào sách vở của học sinh hiện nay.
1.3.3. Yêu cầu của một bài NLXH
- Đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung: tập trung hướng tới luận đề để bài viết
khơng tản mạn, có ý thức triển khai thành những luận điểm chặt chẽ, nhất quán, tìm
được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết phục.
-

Đảm bảo về kiến thức mang màu sắc chính trị - xã hội: những hiểu biết về

chính trị- pháp luật, những kiến thức cơ bản về truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo
đức, tâm lí- xã hội...những tin tức thời sự cập nhật...

Đảm bảo mục đích, tư tưởng đúng đắn: phải xuất phát từ một lập trường tư
tưởng tiến bộ, cao đẹp, vì con người, vì sự tiến bộ chung của tồn xã hội...để bàn
bạc, phân tích, khen chê và đề xuất ý kiến.
1.3.4. Các dạng đề NLXH chính
-

Bàn về một vấn đề tư tưởng đạo lí
Bàn về một hiện tượng xã hội
Bàn về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học…

1.4. Những năng lực cần thiết của người tự học mơn Ngữ Văn
Có ba loại năng lực văn chương tương ứng với ba hình thức hoạt động khác
nhau về văn bản: năng lực sáng tác văn, năng lực nghiên cứu phê bình văn học và
năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học. Trong nhà trường phổ thông, năng lực cần

9


thiết nhất là năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học và năng lực sáng tạo văn học, cụ
thể là:
- Năng lực tiếp nhận
+ Năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn học
+ Năng lực tái hiện hình tượng
+ Năng lực liên tưởng trong tiếp nhận văn học
+ Năng lực cảm thụ cụ thể kết hợp với năng lực khái quát hóa các chi tiết
nghệ thuật của tác phẩm trong chỉnh thể của văn bản.
+ Năng lực nhận biết loại thể để định hướng hoạt động tiếp nhận
+ Năng lực cảm xúc thẩm mĩ + Năng lực tự nhận thức + Năng lực đánh giá
- Năng lực sáng tạo
+ Niềm say mê văn học

+ Năng lực phát triển về cảm xúc nhân văn và thẩm mĩ
+ Năng lực tưởng tượng sáng tạo
+ Năng lực sáng tạo ngơn từ
+ Năng lực khái qt hóa bằng hình tượng là một đặc trưng tư duy sáng tạo
văn học nghệ thuật
1.5. Một số đặc điểm tâm lí của học sinh THPT
Muốn tìm ra được phương pháp phù hợp để giáo dục học sinh phát triển theo
đúng hướng, đúng với mục tiêu, nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hiểu tâm lý
lứa tuổi học sinh. Tâm lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thơng có những đặc trưng
khác so với tâm lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở hoặc tiểu học.
1.5.1. Đặc điểm về sự hình thành thế giới quan
Trong tâm lý của học sinh THPT thì sự hình thành thế giới quan là nét chủ
yếu vì các em sắp bước vào cuộc sống xã hội với bao điều đang đón đợi các em ở
phía trước, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có quan điểm về tự nhiên, xã
hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử trong cuộc sống, những định hướng giá trị
10


về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu
cái đẹp, cái thiện cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với
hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên, vẫn có em chưa
được giáo dục đầy đủ về thế giới quan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng bảo thủ lạc
hậu như: có thái độ coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, ý thức tổ chức
kỉ luật kém, thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ hoặc sống thụ động…
Ở lứa tuổi học sinh THPT, người học đã có ý thức xây dựng lí tưởng sống
cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lí tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng
ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những khái niệm, biết xử sự một cách
đúng đắn trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng có khi các em lại
thiếu tin tưởng vào những hành vi đó. Vì vậy, giáo viên phải khéo léo, tế nhị khi
phê phán những hình ảnh lí tưởng cịn lệch lạc để giúp các em chọn cho mình một

hình ảnh lí tưởng đúng đắn để phấn đấu vươn lên.
1.5.2. Đặc điểm về sự phát triển trí tuệ
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ.
Do cơ thể các em đã được hồn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo
điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ.
Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ vai
trị chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các em đã biết sắp xếp lại tài liệu học tập theo
một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Có nghĩa là khi học bài
các em đã biết rút ra những ý chính, đánh dấu lại những đoạn quan trọng, những ý
trọng tâm, lập dàn ý tóm tắt, lập bảng đối chiếu, so sánh. Các em cũng hiểu được
rất rõ trường hợp nào phải học thuộc trong từng câu, từng chữ, trường hợp nào càn
diễn đạt bằng ngơn từ của mình và cái gì chỉ cần hiểu thơi, khơng cần ghi nhớ.
Nhưng ở một số em còn ghi nhớ đại khái chung chung, cũng có những em có thái
độ coi thường việc ghi nhớ máy móc và đánh giá thấp việc ôn lại bài.

11


Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh. Các em đã có khả
năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực
phân tích, tổng hợ, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em có thể
lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích khái qt, thích tìm
hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những
tri thức phải tiếp thu… Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng
tâm lý mới đó là tính hồi nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt
những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu
sắc hơn. Thanh niên cũng thích những vấn đề có tính triết lí, vì thế các em rất thích
nghe và thích ghi chép những câu triết lí.
Nhìn chung, tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ
linh hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán đốn và giải quyết vấn đề một

cách rất nhanh. Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn nhược điểm là chưa phát huy
hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì
vậy, giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ các em tư duy một cách tích cực độc lập để
phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Việc phát triển khả năng
nhận thức của học sinh trong dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
người giáo viên.
1.6. Tầm quan trọng của việc tự học
Như vậy, có thể khẳng định rằng: sự học giống như một cuốn sách khơng có
trang cuối, nếu chúng ta xây dựng được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác,
ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội
sinh to lớn cho người học. Tự học còn là con đường thử thách, rèn luyện và hình
thành ý chí cao đẹp của mỗi con người trên con đường lập nghiệp. Con người luôn
phải tự học để nâng cao học vấn, bởi lẽ “Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém
hiểu biết”.

12


2.Thực trạng việc dạy học nghị luận xã hội cho học sinh THPT (cơ sở thực
tiễn)
2.1. Điều tra về thực trạng tự học của học sinh THPT
Để nghiên cứu cụ thể thực trạng tự học của HS và thực trạng bồi dưỡng năng
lực tự học kiến thức nghị luận xã hội cho HS THPT, tôi đã tiến hành điều tra 132
HS khối 11 (B3, B4, B5), cộng thêm lấy ý kiến của 18 GV trong và ngoài trường.
Các vấn đề cơ bản được chúng tôi quan tâm điều tra là: Nhận thức của HS về tác
dụng của tự học; những năng lực tự học HS đã được rèn luyện; vai trị của GV
trong việc hình thành và phát triển năng lực tự học cho HS THPT; thực trạng việc
rèn năng lực tự học truyện ngắn cho HS THPT của GV hiện nay. Kết quả điều tra
thu được như sau:
* Nhận thức của học sinh THPT về tự học

Để điều tra về tình hình tự học của bản thân học sinh, chúng tôi đã phát phiếu
điều tra cho HS và thu được kết quả:
Bảng nhận thức của học sinh THPT về tác dụng của tự học
Mức độ đánh giá
STT

Tác dụng

1

Giúp hiểu sâu bài học

2

Giúp mở rộng và nâng cao kiến
thức

3

Phân vân

Không đồng ý

SL

%

SL

%


SL

%

90

68,1

30

22,5

22

9,2

92

69,7

27

20,4

13

9,9

98


80,0

22

15,0

22

5,0

75

59,1

45

34,0

12

6,8

Giúp củng cố, ghi nhớ lâu và
làm chủ kiến thức

4

Đồng ý


Giúp vận dụng tốt tri thức vào
việc giải quyết những nhiệm vụ
học tập mới
13


5

Giúp rèn luyện tính tích cực, tự
giác và độc lập trong học tập

6

96

72,7

28

21,2

8

6

76

60,0

42


32,5

14

7,5

72

54,5

44

33,3

16

12,2

Giúp hình thành năng lực tự học
suốt đời

7

Giúp đạt kết quả cao trong kiểm

8

tra, thi cử
Giúp người học có khả năng tự


68 51,6 51 38,3 13
10,1
đánh giá bản thân
Kết quả khảo sát cho thấy: Đa số HS có nhận thức đúng đắn, tích cực về tác

dụng của tự học; 80% HS được hỏi cho rằng tự học giúp củng cố, ghi nhớ lâu và
làm chủ kiến thức; 72,7% HS đồng ý tự học giúp rèn luyện tính tích cực, tự giác và
độc lập trong học tập. Ngoài ra, phần lớn các em cho rằng: tự học giúp người học
hiểu sâu bài học hơn (68,1%), giúp mở rộng và nâng cao kiến thức (69,7%). Có thể
nói đây là tín hiệu rất đáng mừng cho thấy học sinh đã có nhận thức đúng đắn, tích
cực và khá tồn diện về vai trò, tác dụng và tầm quan trọng của hoạt động tự học
đối với HS.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát này cũng cho thấy 34,0% học sinh phân vân về
việc tự học giúp mình vận dụng tốt tri thức vào việc giải quyết những nhiệm vụ học
tập mới, 33,3% HS cịn băn khoăn tự học liệu có giúp người học đạt kết quả cao
trong kiểm tra, thi cử hay không. Cịn 10,1% HS khơng đồng tình về việc tự học
giúp người học có khả năng tự đánh giá bản thân, học sinh chưa có niềm tin vững
chắc vào kết quả của tự học. Theo kết quả khảo sát, có 80,3% HS chọn hình thức
học một mình, 31,8% HS chọn nhóm bạn để cùng học tập và chỉ có 7,9% HS chọn
hình thức học với người thân.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy: Có khoảng 28,1% - 35% HS cịn lúng túng
khi sử dụng các kĩ năng tự học, mức độ sử dụng thành thạo các kĩ năng tự học của
HS còn quá thấp (chỉ từ 8,1% - 14%).
2.2. Thực trạng dạy tự học của giáo viên
14


Bên cạnh việc truyền thụ kiến thức thì việc định hướng, rèn cho học sinh kĩ
năng tự học cũng rất quan trọng. Quá trình rèn kĩ năng tự học cho HS THPT phụ

thuộc phần lớn vào việc tổ chức các hoạt động dạy cách học của giáo viên. Bằng
kiến thức, khả năng sư phạm, tâm huyết và kinh nghiệm của bản thân, giáo viên tổ
chức đa dạng, linh hoạt các hoạt động dạy học khác nhau nhằm hình thành và nâng
cao kĩ năng tự học cho học sinh. Đây là việc làm vô cùng cần thiết giúp HS phát
huy năng lực tự học của bản thân. Và đây là kết quả khảo sát:

Bảng khảo sát thực trạng hoạt động dạy – tự học của giáo viên
Mức độ thực hiện
STT

Các nội dung

1

Nêu vấn đề để HS nghiên cứu

2

Hướng dẫn HS cách thu nhận
thơng tin, xử lí thơng tin

3

xun

thoảng

%

SL


%

SL

%

15

75

3

25

0

/

12

66,6

3

16,8

10

55,5


3

16,8

12

66,6

3

16,8

7

38,9

3

16,7

3
5
3

Dành thời gian trên lớp cho học
sinh tự báo cáo sản phẩm ban
đầu

Chưa bao giờ


SL

Kiểm tra sản phẩm ban đầu của
học sinh

5

Thỉnh

Hướng dẫn HS cách giải quyết vấn
đề

4

Thường

8

16,
6
27,
7
16,
6
44,
4

15



6

Tổ chức trao đổi thơng tin giữa
trị – trị, trị – thầy

7

9

55,
5

6

33,3

2

11,2

/

/

/

/

7


38,8

2

11,2

8

44,4

3

16,7

Chốt lại vấn đề, đưa ra kết luận
về vấn đề

8

10

Giúp đỡ HS tự kiểm tra, tự đánh giá

18
9

100
50,
0


Kiểm tra, cho điểm phần điều
chỉnh và sản phẩm hoàn thiện
của học sinh

7

38,
9

Kết quả khảo sát trên cho thấy:
Có tới 75% GV thường xuyên nêu vấn đề để HS nghiên cứu và đưa ra kết
luận về vấn đề. Điều này cho thấy GV ý thức rất sâu sắc về vai trò hướng dẫn,
trọng tài của mình. Nhưng kết quả trên cũng cho thấy, phần lớn GV chưa hướng
dẫn cụ thể HS cách thu nhận thơng tin, xử lí thơng tin, cách giải quyết vấn đề. Số
GV thường xuyên thực hiện công việc này chiếm tỉ lệ rất nhỏ: 16,6% và 27,7%.
Việc tổ chức trao đổi thơng tin giữa trị – trị, trị – thầy được 55,5% thầy cô thường
xuyên sử dụng nhưng con số này cũng mới chỉ đạt ở mức trung bình. Việc giúp đỡ
HS tự kiểm tra, tự đánh giá để hồn thiện sản phẩm khoa học của mình cũng chưa
được GV quan tâm đúng mức.
Về ý kiến của GV đối với thời gian tự học của HS, có khoảng 35,7% - 39,9%
GVcho rằng HS chỉ tự học có hiệu quả một ngày từ 1 giờ đến 2 giờ và có 6,9%
-13,7% ý kiến GVcho rằng HS tự học 3 giờ và trên 3 giờ mỗi ngày. Có thể thấy
rằng hoạt động tự học của HS vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Theo kết quả khảo sát, tỉ
lệ HS tự học từ 1 đến 2 giờ chiếm khá cao. Nguyên nhân một phần là do các em
16


chưa có ý thức tự giác trong q trình học tập, một phần khác là do các em chưa
được định hướng một cách cụ thể trong hoạt động tự học của bản thân. Do vậy, vai

trò của người GV trong việc phát triển kĩ năng tự học của HS nhằm góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học ở trường phổ thông là hết sức quan trọng.
Qua điều tra thực trạng dạy và tự học của giáo viên và học sinh, tôi thấy rằng
* Về ưu điểm:
- Đối với HS: Nhìn chung, HS có nhận thức đúng đắn và tích cực về tác dụng của
tự học đối với hoạt động học tập của bản thân. Đa số HS đã được trang bị những kĩ
năng tự học cần thiết để học tập. Với mơn Ngữ Văn nói chung và học nghị luận xã
hội nói riêng, học sinh đã có ý thức tìm tịi, chuẩn bị ở nhà.
- Đối với GV: Hầu hết GV đã quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học
Văn, định hướng học sinh tự học. GV khơng chỉ chú trọng đến dạy kiến thức mà
cịn chú trọng đến dạy kĩ năng cho HS, tìm tịi, sưu tầm đề mới, hay để học sinh
tham khảo.
* Về hạn chế: - Đối với HS: HS tuy đã có nhận thức đúng về tác dụng của tự học
nhưng chưa có hiểu biết đầy đủ và toàn diện về hoạt động này. Đa phần các em
theo khối tự nhiên nên ngại học văn, ngại làm nghị luận xã hội. Kĩ năng tự học Ngữ
Văn của đa số HS còn yếu. Việc soạn bài chỉ mang tính chất “chống đối” “chiếu
lệ”, các em chép bài từ các nguồn tài liệu tham khảo như Để học tốt, văn mẫu mà
chưa có ý thức tự học, tự đi tìm đáp số.
- Đối với GV: Việc đổi mới phương pháp dạy học của GV đã chuyển biến song còn
chậm, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được mong mỏi của xã hội. Việc rèn kĩ
năng tự học cho HS chưa được thực hiện thường xuyên và chưa hiệu quả.
Khâu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS còn chậm đổi mới, chưa phát huy
được tính tích cực của người học và chưa thúc đẩy được hoạt động tự học của HS.
Tóm lại, tự học có vai trị quan trọng, tác động mạnh mẽ đến kết quả học
tập của người học. Trong quá trình học tập, người học phải tự mình tích cực chiếm
17


lĩnh tri thức, kĩ năng, phương pháp. Tuy nhiên, việc dạy và học theo hướng phát
triển năng lực tự học cịn nhiều hạn chế, do đó cần phải có những biện pháp cụ thể

để phát triển năng lực tự học nghị luận xã hội nói riêng, mơn Ngữ Văn nói chung.
3. Giải pháp phát huy năng lực tự học của học sinh
3.1. Hướng dẫn học sinh kĩ năng tìm hiểu đề
Trước tiên, giáo viên hướng dẫn học sinh tự học bằng việc rèn kỹ năng tìm
hiểu đề. Gồm các bước sau:
* Đọc kĩ đề bài: Đọc, chú ý từng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ
ngữ, câu, đoạn. Chia vế, ngăn đoạn, tìm hiểu mối tương quan giữa các vế, gạch
chân những từ ngữ quan trọng.
* Nhận diện cấu tạo của đề bài: Đề văn có nhiều dạng thức khác nhau tuy nhiên
căn cứ vào nội dung và hình thức cấu tạo ta nhận thấy có những dạng đề sau:
- Đề trực tiếp (đề nổi): Có kết cấu rạch ròi, đầy đủ, rõ ràng, tường minh. Dạng đề
này thường có cấu tạo như sau:
+ Phần nêu yêu cầu nội dung
+ Phần nêu yêu cầu cách thức nghị luận
+ Phần yêu cầu về tư liệu
- Đề gián tiếp (đề chìm): Là những đề bài khơng có quy định một cách cụ thể, chặt
chẽ các yêu cầu về nội dung và hình thức cũng như phương hướng cách thức, mức
độ phạm vi giải quyết. Đề gián tiếp không nêu trực tiếp yêu cầu nội dung và cách
thức nghị luận, mà chỉ nêu vấn đề cần nghị luận. Tất cả tùy thuộc vào vốn hiểu biết
và trình độ nhận thức của người làm bài.
* Xác định yêu cầu về nội dung và hình thức nghị luận: Phải trả lời được các câu
hỏi: Vấn đề cần nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý cần triển khai? Mối quan hệ giữa
các ý như thế nào? Sử dụng những thao tác lập luận gì? thao tác lập luận gì là
chính?

18


- Đề trực tiếp (đề nổi): Hãy viết một bài văn ngắn( khơng q 400 từ) trình bày suy
nghĩ của anh (chị) về bệnh vô cảm trong đời sống xã hội hiện nay ?

- Nhận diện đề: dạng trực tiếp (đề nổi)
- Cấu tạo của đề như sau:
+ Phần nêu yêu cầu nội dung: Bệnh vô cảm trong đời sống xã hội hiện nay.
+ Phần nêu yêu cầu cách thức nghị luận: Dùng thao tác giải thích để trình bày khái
niệm bệnh vơ cảm.; dùng thao tác phân tích, bình luận để trình bày ý kiến của
mình.
+ Phần yêu cầu về tư liệu : Vận dụng những hiểu biết xã hội của bản thân.
- Đề gián tiếp (đề chìm):
“Sứ mạng của người mẹ không phải là làm chỗ dựa cho con mà phải làm
cho chỗ dựa ấy trở nên không cần thiết”. Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu
nói trên.
+ Yêu cầu về nội dung nghị luận: Trách nhiệm lớn lao của cha mẹ là giáo
dục con cái biết sống tự lập.
+ Yêu cầu về cách thức bàn luận: lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để
làm sáng tỏ vấn đề; phân tích, chứng minh, bình luận.
+ Yêu cầu về phạm vi nghị luận: Vận dụng những hiểu biết về xã hội.
3.2. Hướng dẫn học sinh xác định phạm vi và mức độ nghị luận
- Về nội dung Thay vì nghị luận một vấn đề trọn vẹn, đề chỉ yêu cầu nghị luận về
một khía cạnh nội dung của vấn đề.
+ Phần mở đoạn (nêu vấn đề): Giới thiệu ngắn gọn vấn đề cần bàn luận. Phần này
yêu cầu viết ngắn gọn, chính xác, nhất thiết phải nêu được vấn đề theo yêu cầu của
đề bài (vốn được nêu ra ở câu lệnh của đề bài). Phần mở đoạn học sinh tránh diễn
giải dài dòng, chỉ nêu ý khái quát. Dung lượng nằm ở khoảng 2-3 dịng để mở
đoạn. Phần này phải có cái nhìn tổng quát, khái quát được nội dung mà đề thi yêu
cầu. Phải hiểu được đề thi bàn về vấn đề gì? Nên viết theo hướng: nêu nội dung
19


khái qt rồi dẫn câu nói vào (hoặc khơng dẫn ngun câu thì trích vào cụm từ
khóa).

+ Phần Thân đoạn (giải quyết vấn đề)
+ Giải thích khái niệm (nếu có), tức là trả lời câu hỏi “là gì?”. Phần này có thể giải
thích nghĩa đen, nghĩa bóng của từ ngữ (nếu là đề bàn về tư tưởng - đạo lí), hoặc
giải thích hiện tượng đời sống (nếu đề bàn về hiện tượng đời sống)… tùy theo từng
vấn đề mà phải giải thích các cụm từ khóa, cả câu… Phần này dung lượng chiếm
khoảng 3-4 dòng.
+ Bàn luận: bàn luận thẳng vào khía cạnh nội dung đề yêu cầu. Tránh phân tích
biểu hiện, lý giải dài dịng. Dung lượng nằm trong khoảng 12 dòng. Bàn luận về
vấn đề, đánh giá phẩm chất, hiện tượng…, đặt ra một số câu hỏi lật ngược lại vấn
đề, nhìn vấn đề sâu hơn ở nhiều góc độ… Ví dụ: Hiện tượng, phẩm chất, ý kiến ấy
có ln đúng, sai, tốt, xấu?


Đặt ra các câu hỏi – vì sao – tại sao – sau đó bình luận, chứng minh từng ý

lớn, ý nhỏ


Đưa ra dẫn chứng phù hợp, ngắn gọn, chính xác (tuyệt đối khơng kể chuyện

rông dài, tán gẫu, sáo rỗng)


Đưa ra phản đề – mở rộng vấn đề – đồng tình, khơng đồng tình

+ Kết đoạn: Rút ra bài học nhận thức và hành động (3,4 dòng)
Bài văn 200 từ (tương đương trên 20 dòng)
Để viết được đoạn văn nghị luận xã hội đạt điểm cao, ngoài những kĩ năng
cứng như trên, HS cần có những kỹ năng mềm như nắm bắt tình hình xã hội, những
vấn đề nóng của XH đang diễn ra mang tính thời sự... HS bắt buộc phải đưa dẫn

chứng vào bài làm nhưng tránh đưa vào bài quá nhiều dẫn chứng hoặc những dẫn
chứng đã quá quen nhàm, tránh hơ khẩu hiệu, lan man, dài dịng…
- Về hình thức

20


- Đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, học sinh cần trình bày trong một đoạn
văn (khơng được ngắt xuống dịng), dung lượng an tồn khoảng 2/3 tờ giấy thi
(khoảng trên dưới 20 dịng viết tay), có thể nhiều hơn vài dịng cũng khơng bị trừ
điểm (tối đa 1 trang giấy thi).
- Để làm bài HS cần hiểu được kiến thức về đoạn văn (đã học ở cấp 2). Đoạn văn
là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh trong hệ
thống ý hướng tới chủ đề chung của văn bản.
Đoạn văn được bắt đầu từ chữ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm
xuống dòng. Đoạn văn cần diễn dạt lưu lốt, khơng mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt
câu.
Đoạn văn phải đảm bảo bố cục ba phần: Đặt vấn đề - Giải quyết vấn đề - Kết
thúc vấn đề
Đoạn văn sử dụng các thao tác lập luận: Giải thích – Phân tích – Chứng minh
– Bình luận – Bác bỏ - Bình luận mở rộng.
Diễn đạt phải trong sáng, khơng mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp
* Tìm ý cho đoạn văn:
- Xác định sẽ viết những nội dung cụ thể gì (ý chính)?
- Ghi ra giấy nháp những ý chính của đoạn văn (theo hệ thống các thao tác lập luận)
- Việc tìm ý cho đoạn văn sẽ giúp ta hình dung được những ý chính cần viết, tránh
tình trạng viết lan man dài dịng, khơng trọng tâm.
* Các bước viết đoạn văn hồn chỉnh
- Sau khi tìm được những ý chính cho đoạn văn, chúng ta tiến hành viết câu mở đầu
+ Câu mở đầu có nhiệm vụ dẫn dắt vấn đề.

+ Đối với đoạn văn trong đề đọc hiểu, nên dẫn dắt từ nội dung/ câu nói của văn bản
được trích dẫn
- Đoạn văn có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cách đơn giản nhất
là trình bày theo kiểu diễn dịch:
21


+ Tức là câu chủ đề nằm ở đầu đoạn (thường là lời bày tỏ ý kiến đánh giá, nhận xét
câu nói/ vấn đề)
+ Các câu sau triển khai ý, làm rõ ý của câu mở đầu (ý kiến đánh giá, nhận xét câu
nói/ vấn đề)
- Viết các câu nối tiếp câu mở đầu :
+ Dựa vào các ý chính vừa ghi trên giấy nháp, chúng ta tiến hành viết đoạn văn
+ Các câu nối tiếp lần lượt sử dụng các thao tác lập luận: Giải thích – Phân tích –
Chứng minh – Bình luận – Bác bỏ - Bình luận mở rộng.
+ Lưu ý cách diễn đạt và lỗi chính tả
- Viết câu kết của đoạn văn :
+ Câu kết của đoạn có nhiệm vụ kết thúc vấn đề
+ Dù đoạn văn dài hay ngắn thì câu kết cũng giữ vai trò quan trọng, để lại ấn tượng
cho người đọc
+ Câu kết có thể nêu cảm xúc cá nhân, mở rộng vấn đề (nêu bài học chung), hoặc
tóm lược vấn đề vừa trình bày
Khi viết đoạn văn, có một điều quan trọng HS cần nắm vững đó là bố cục cơ
bản của một đoạn văn NLXH, cách triển khai ý, cách viết câu...Trong khi viết đoạn
văn, HS sử dụng các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, so sánh, bình luận...
Trong Hướng dẫn chấm thi của Bộ năm 2018, có lưu ý GV khi chấm: khơng cho
điểm tối đa đối với các bài làm có cách triển khai ý như 1 bài văn! Đây chính là kĩ
năng cứng mà HS cần thiết phải có.
3.3. Hình thành các kĩ năng diễn đạt cho học sinh
* Kĩ năng viết mở bài

Đối với học sinh, một trong những phần các em thường bối rối khi viết văn
nghị luận là phần mở bài. Tuy đây không phải là phần trọng tâm của bài văn nhưng
nó là

phần khơng thể thiếu, góp phần làm nổi bật vấn đề.

Phần mở bài trong văn nghị luận là phần đặt vấn đề, thơng thường có hai cách:
22


- Trực tiếp: Là cách đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận. Nghĩa là sau khi đã tìm
hiểu đề và tìm được vấn đề trọng tâm của bài nghị luận, ta nêu thẳng vấn đề đó ra
bằng một luận điểm rõ ràng. Tuy nhiên khi mở bài trực tiếp, ta cũng phải trình bày
cho đủ ý, khơng nói thiếu nhưng cũng khơng nên nói hết nội dung, phải đáp ứng đủ
các yêu cầu của một phần mở bài đúng mực trong nhà trường. Đặt vấn đề theo cách
trực tiếp dễ làm, nhanh gọn, tự nhiên, dễ tiếp nhận, tuy nhiên thường khô khan, cứng
nhắc, thiếu hấp dẫn cho bài viết.
- Gián tiếp: Với cách này người viết phải dẫn dắt vào đề bằng cách nêu lên
những ý có liên quan đến luận đề (vấn đề cần nghị luận) để gây sự chú ý cho người
đọc sau đó mới bắt sang luận đề. Mở bài theo cách này tạo được sự uyển chuyển,
linh hoạt cho bài viết, hấp dẫn người đọc, tuy nhiên kiểu mở bài này dễ dẫn đến sự
lan man, lạc đề cho bài viết.
* Ví dụ minh họa Đề bài : Bàn về quan niệm sống
- Mở bài trực tiếp: Trong cuộc sống mỗi người đều có quan niệm sống riêng.
Có người chỉ sống vì tiền tài danh vọng mà quên đi giá trị đích thực của cuộc sống.
Quan niệm sống tốt là sự hài hòa giữa danh vọng, tiền bạc với các mối quan hệ và
giá trị của con người với thiên nhiên,không bị chi phối bởi vật chất, sống hết mình,
làm việc hết mình.
(Bài làm của học sinh)
-Mở bài gián tiếp:

Nhà văn Pháp Đ.Đi-đơ-rô từng quan niệm: “Nếu khơng có mục đích, anh
khơng làm được gì cả. Anh cũng khơng làm được gì vĩ đại nếu như mục đích bình
thường”. Đây là quan niệm đúng và rất phù hợp với chúng ta. Trong cuộc sống,
mỗi người đều có một lí tưởng sống riêng để tự vươn tới, tự hoàn thiện và phát
triển bản thân. Bất kì ai cũng cần tự tạo cho mình một lí tưởng và có lịng quyết
tâm theo lí tưởng ấy.
*Kĩ năng viết thân bài
23


Thân bài là phần trọng tâm của bài văn. Nhiệm vụ của phần thân bài là triển
khai đầy đủ, chi tiết hệ thống luận điểm, luận cứ để làm sáng tỏ luận đề. Khi viết
phần này cần chia thành các đoạn, mỗi đoạn văn là sự triển khai hoàn chỉnh một
luận điểm đã được xác định khi lập dàn ý, ngồi ra người viết cịn cần phải biết
cách viết câu, cách chuyển ý, chuyển đoạn, cách dùng từ, hành văn. Phần thân bài
là phần phải dành nhiều thời gian thực hiện nhất trong ba phần. HS nên chú ý phân
phối thời gian cho hợp lí khi bố cục phần thân bài.
- Có thể chia ý cho thân bài theo cách đặt từ trọng tâm
Với nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lí, học sinh có thể đi theo sườn bài
với những từ ngữ trọng tâm: Giải - phân - bác - đánh - thân. Chính là: Giải thích tư
tưởng đạo lí trong đề bài; phân tích tư tưởng đạo lí trong đề bài; bác bỏ những mặt
chưa đúng của tư tưởng đạo lí trong đề; đánh giá tính phù hợp của tư tưởng đạo lí
đó trong xã hội ngày nay; liên hệ bản thân xem đã làm được gì với tư tưởng đạo lí
đó.
Với bài nghị luận xã hội về hiện tượng đời sống: Giải-thực-nguyên-hậubiện-thân. Chính là: Giải thích hiện tượng đời sống được đề cập trong đề bài; nêu
lên thực trạng của hiện tượng đời sống; tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đời
sống (nguyên nhân chủ quan, khách quan); hậu quả mà hiện tượng đời sống đó
đang để lại là gì; tìm biện phải giải quyết thực trạng đời sống; liên hệ với bản thân
xem đã làm gì để góp phần với xã hội trong q trình giải quyết thực trạng của hiện
tượng đời sống…

- Có thể chia ý cho thân bài theo cách đặt câu hỏi
Như vậy, mỗi câu hỏi sẽ là một ý của thân bài. Có thể sử dụng các câu hỏi
để giải quyết yêu cầu của đề. Những câu hỏi như: là gì? biểu hiện như thế nào?
những mặt đối lập của nó? bản thân đã làm gì?... là những câu hỏi phổ biến và học
sinh nên sử dụng để tạo lập ý khi làm bài.
Với câu hỏi Là gì? Học sinh sẽ giải quyết được vấn đề giải thích tư tưởng
24


đạo lí hoặc hiện tượng đời sống trong đề bài. Ví dụ: u thương là gì? Mơi trường
là gì?
Với câu hỏi Biểu hiện như thế nào? Học sinh sẽ giải quyết được các biểu
hiện tích cực, tiêu cực của tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng đời sống trong đề bài. Ví
dụ: Biểu hiện của yêu thương là như thế nào? Biểu hiện của môi trường là như thế
nào?
Với câu hỏi Mặt đối lập của nó là gì? Học sinh sẽ thể hiện được tư duy
phản biện của mình. Ví dụ: đối ngược với yêu thương? những biểu hiện tưởng
chừng không phải là yêu thương nhưng vẫn là biểu hiện của yêu thương…
Với câu hỏi Bản thân đã làm gì? Học sinh sẽ giải quyết được vấn đề đặt
bản thân trong chủ đề được đề cập đến ở đề bài. Từ đó, nhìn nhận lại những suy
nghĩ, hành động của thân từ trước đến nay để phát huy hoặc thay đổi ý thức, hành
động…
*Ví dụ minh họa. Đề bài Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
“Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước mn đời” (Mặt đường khát vọng)
Ở đó, tác giả muốn đưa ra một thơng điệp gì cho tuổi trẻ? Hãy viết một bài
văn nghị luận để trình bày suy nghĩ của mình về vấn trách nhiệm của thế hệ trẻ với
đất nước hiện nay.

Thân bài: -Thông điệp mà Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa ra với tuổi trẻ qua 4 câu
thơ:
+ Cần có một nhận thức đúng đắn về đất nước: “đất nước là máu
xương của mình”
+ Cần có trách nhiệm với đất nước: “gắn bó và san sẻ” , “hóa thân cho
dáng hình xứ sở” … biết hi sinh, cống hiến cho đất nước.
25


×