Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn GDCD lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 17 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, từ những nước đang phát triển đến
những nước phát triển đều nhận thức được vai trị và vị trí hàng đầu của giáo dục,
đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả
hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước. Quan niệm về giáo
dục, về vai trị của trường học đã có những thay đổi sâu sắc. Nhà trường từ chỗ
khép kín chuyển sang mở cửa rộng rãi. Đối thoại với xã hội và gắn bó chặt chẽ với
nghiên cứu khoa học – cơng nghệ và ứng dụng; giáo viên thay vì chỉ truyền đạt tri
thức, chuyển sang cung cấp cho người học phương pháp tiếp cận thông tin một
cách hệ thống, có tư duy phân tích và tổng hợp.
Ở Việt Nam, Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
ngày 4.11.2013 đã thơng qua chủ trương “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”. Trong giáo dục, quy trình đào tạo
được xem như là một hệ thống bao gồm các yếu tố: mục tiêu, chương trình đào tạo,
nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học,…. Trong đó, việc đổi mới
phương pháp dạy học được coi là vấn đề then chốt của đổi mới giáo dục.
Vấn đề đổi mới PPDH nói chung cũng như đổi mới PPDH mơn Giáo dục
cơng dân (GDCD) nói riêng đã được pháp chế hóa trong điều 30, Luật Giáo dục:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối
tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác,
khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học;
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào q trình giáo dục”.
Việc dạy học khơng chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà quan trọng hơn là
dạy cho học sinh phương pháp tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức.
Mục tiêu của môn GDCD hướng tới hình thành năng lực chuyên biệt cho học
sinh là các em có thể tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình, tự chịu trách
nhiệm và thực hiện trách nhiệm của bản thân, đồng thời có kĩ năng giải quyết các
vấn đề cá nhân và hợp tác giải quyết các vấn đề xã hội trong thực tiễn cuộc sống.


Đặc biệt hiện nay mơn GDCD được đưa vào kì thi THPT Quốc gia cho thấy vai trị,
vị trí ngày càng cao của môn GDCD trong nhà trường THPT. Tuy nhiên, phần lớn
học sinh học GDCD chưa thật hứng thú vì một số nguyên nhân như: nhận thức của
học sinh, phụ huynh học sinh, một số giáo viên còn xem nhẹ, một phần do bài
giảng của giáo viên còn đơn điệu chưa gây hứng thú cho học sinh.

1


Để tạo sự hứng thú của học sinh đối với mơn học, nâng cao kĩ năng trí tuệ và
khả năng tư duy mạch lạc, nhất là khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc
sống, giáo viên có thể vận dụng nhiều kỹ thuật và phương pháp khác nhau. Trong
đó, xây dựng và sử dụng sơ đồ tư duy là một trong những phương pháp hữu hiệu
mang lại thành công cho giáo viên và học sinh qua mỗi bài học.
Trên thực tế, việc sử dụng SĐTD trong dạy học không phải là mới, nhưng sử
dụng phương pháp này như thế nào để phát huy năng lực của học sinh, phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học để học sinh thực sự là trung tâm của
hoạt động học là vấn đề mà tôi muốn nghiên cứu.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi chọn đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạyhọc môn GDCD lớp 12”.
1. 2. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn GDCD để phát triển các năng lực
cho học sinh như năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực xử
lý thơng tin, năng lực phán đốn... .
1. 3. Đối tượng nghiên cứu.
Trong giảng dạy môn GDCD lớp 12 dặc biệt trong ôn thi THPT Quốc gia
sử dụng sơ đồ tư duy trong việc hệ thống hóa kiến thức để khắc sâu kiến thức cho
học sinh.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu
1. 4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu nội dung chương trình mơn GDCD 12

- Nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK lớp 12
và các tài liệu về phương pháp dạy học tích cực
- Nghiên cứu phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong việc hệ thống
kiến thức
1. 4.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm ở trường THPT để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu
1. 4.3. Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm
Phân tích, so sánh kết quả thực nghiệm và đối chứng, tổng kết thành kinh
nghiệm cho đề tài nghiên cứu
1.4. 5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Sử dụng thành thạo và hiệu quả sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ mang lại nhiều
kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương pháp học tập của học sinh và giảng dạy
của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng
tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt
trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua
một “sơ đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
2


Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học GDCD bước đầu tạo một khơng khí sơi
nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong các hoạt động dạy học góp phần vào phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; đồng thời thực
hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực mà Bộ Giáo
dục và Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần, đem
những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật
chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử tích cực với nó.
Tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những tri thức đã nắm

được từ trước, phát triển những suy nghĩ tiếp theo, là giai đoạn cao của quá trình
nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những
hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí. Bản đồ (hay sơ đồ) là
bản vẽ đơn giản ghi lại những nét chính của sự vật, sự việc, hoạt động. Vậy sơ đồ
tư duy là bản vẽ ghi lại những nét chính về nhận thức của con người về một sự vật
(sự việc) nào đó.
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng và đơn giản, là phương
tiện ghi chép đầy sáng tạo và hiệu quả, sử dụng màu sắc, từ khóa và hình ảnh để
mở rộng và đào sâu ý tưởng. Sơ đồ tư duy thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não
bộ chúng ta hoạt động. Đó là liên kết, liên kết và liên kết. Sơ đồ tư duy có cấu trúc
cơ bản là các nội dung được phát triển rộng ra từ trung tâm, rồi nối các nhánh chính
tới hình ảnh trung tâm và nối các nhánh cấp hai với nhánh cấp một, nhánh cấp ba
với nhánh cấp hai.... Điều này giống cây xanh trong thiên nhiên với các nhánh tỏa
ra từ thân của nó.
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
* Thuận lợi
- Đối với giáo viên:
Giáo viên giảng dạy môn GDCD nói chung và bản thân tơi nói riêng ln tích
cực đổi mới phương pháp trong q trình dạy học. Tơi đã ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học như sử dụng giáo án điện tử, tuy nhiên hiệu quả dạy học chưa
thật sự cao; hơn nữa do điều kiện vật chất của nhà trường cịn thiếu nên khơng phải
lúc nào cũng sử dụng được. Nếu vẫn chỉ dùng các phương pháp dạy học cũ thì học
sinh khó tiếp thu bài học vì kiến thức mơn GDCD trừu tượng, khơ và khó. Vì vậy
tơi đã áp dụng phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy kết hợp cùng các phương
pháp dạy học tích cực khác. Tơi nhận thấy học sinh tiếp thu bài học dễ dàng hơn,
hứng thú học tập hơn, giờ học sôi nổi, kết quả học tập cao hơn và có thể áp dụng
3


trong mọi điều kiện vật chất của lớp học, vì thế bản thân tôi luôn sáng tạo, biết khai

thác sử dụng và khai thác SĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học.
- Đối với học sinh:
Đa số học sinh của trường đều năng động, chăm chỉ học tập và rất hứng thú khi
giáo viên giao nhiệm vụ học tập. Nên khi ứng dụng phương pháp dạy học bằng
SĐTD học sinh học rất sơi nổi, tích cực vì đã phát huy tư duy sáng tạo vốn có của
các em.
* Khó khăn
- Đối với giáo viên:
Tài liệu tham khảo của bộ môn GDCD chưa nhiều. Nhiều khi giáo viên ngại sử
dụng phương pháp này vì có thể mất nhiều thời gian chuẩn bị.
- Đối với học sinh:
Một số học sinh chưa chăm chỉ, chưa hiểu rõ cách thể hiện nội dung, kiến thức
như thế nào trong việc thiết kế và sử dụng SĐTD. Có thể có một số học sinh bỏ ra
quá nhiều thời gian vào việc vẽ các biểu tượng hay kí hiệu, trang trí cho những ghi
chú mà khơng dành nhiều thời gian cho việc học hoặc tìm hiểu kiến thức.
Nguyên nhân của thực trạng
* Nguyên nhân chủ quan:
- Thuận lợi:
Bản thân giáo viên được tham dự các đợt tập huấn do Sở GD-ĐT tổ chức về dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Giáo viên có sự nhiệt huyết với nghề, có ý thức tinh thần tự học, tự rèn luyện để
nâng cao sự hiểu biết, trau dồi nghiệp vụ chun mơn.
- Khó khăn:
Học sinh hiện tại đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới học sinh thấy lạ
lẫm và khó bắt kịp.
Hầu như học sinh chưa có thói quen tự tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo mà chỉ
quen nghe, ghi chép những gì giáo viên nói.
* Ngun nhân khách quan:
- Thuận lợi:
Sở GD-ĐT và Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo sát sao trong việc đổi mới

các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động , sáng tạo của học
sinh.
Nhà trường đã tạo điều kiện cũng như phương tiện dạy học có thể đáp ứng một
phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
- Khó khăn:
Điều kiện cơ sở vật chất ( thiết bị thông tin, truyền thông, máy chiếu ) phục vụ
cho việc dạy học trong nhà trường còn nhiều hạn chế.
4


2. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2. 3.1. Một số giải pháp chủ yếu
Trên cơ sở dạy học hướng học sinh làm trung tâm, phát triển năng lực tư duy
của học sinh và để làm cho tiết dạy trở nên sinh động tránh nhàm chán, đồng thời
khắc phục những khó khăn nêu trên tơi mạnh dạn đề ra phương pháp sử dụng sơ đồ
tư duy trong dạy- học môn GDCD lớp 12 như sau:
2.3.1.1. Tổ chức dạy học bằng SĐTD.
Giáo viên có thể sử dụng SĐTD trong dạy bài mới, ôn tập, cũng cố kiến
thức.
Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh cách lập sơ đồ tư duy theo 4 bước:
Bước 1: Xác định chủ đề chính: Chủ đề cần tìm hiểu.
Bước 2: Phát triển ý tưởng tự do. Từ một chủ đề lớn tìm ra các chủ đề nhỏ
liên quan. Từ mỗi chủ đề nhỏ lại tìm ra những yếu tố / nội dung liên quan ( chủ đề
nhỏ hơn )...
Bước 3: Xem xét và thảo luận để loại bỏ nội dung trùng lặp, thiếu chính xác.
Bước 4: Vẽ và hồn thiện sơ đồ tư duy. Tạo ra một bức tranh tổng thể mô tả
về chủ đề lớn một cách đầy đủ và rõ ràng.
Học sinh có thể hình dung việc xây dựng sơ đồ tư duy như một cái cây; từ
cây, đến cành, đến nhánh rồi đến lá.
Việc tổ chức dạy học bằng SĐTD có thể thực hiện bằng nhiều cách, tùy

thuộc vào đặc điểm của từng lớp học, từng nội dung bài học và điều kiện thực tế ở
trường. Tôi xin trình bày ví dụ 2 cách sau:
Cách 1: Thực hiện dạy học bằng cách HS lập SĐTD được tóm tắt qua 4
bước sau:
Bước 1: Học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn
của giáo viên.
Bước 2: Cá nhân học sinh hoặc dại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết
minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến
thức của bài học đó. Giáo viên là người cố vấn, nhận xét giúp học sinh hồn chỉnh
SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một bản đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị
sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hồn chỉnh, cho học sinh lên
trình bày về kiến thức đó. Khi củng cố kiến thức giáo viên hướng dẫn HS hệ thống
kiến thức bài học bằng SĐTD.
Ví dụ: Khi dạy bài 2: Thực hiện pháp luật ( tiết 1) – lớp 12.
Mục tiêu của tiết học này là học sinh nắm được khái niệm, các hình thức
thực hiện Pháp luật. Vì vậy khi dạy nên hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm thiết
5


lập SĐTD với “Chìa khóa” là : “Thực hiện pháp luật là gì? Các hình thức thực hiện
pháp luật?”. Từ đó xây dựng, triển khai mở rộng kiến thức từ lớn đến nhỏ.
Hoạt động 1: Lập SĐTD.
GV hướng dẫn, gợi ý học sinh tìm hiểu những nội dung chính của bài học. Chia lớp
thành 4 nhóm, mỗi nhóm được phân công vẽ 1 SĐTD cho nội dung của bài.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh
về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này giáo viên đánh giá được
việc tìm hiểu kiến thức, kĩ năng trình bày, hợp tác, tinh thần học tập của học sinh,
từ đó GV vừa bổ sung kiến thức vừa rèn cho các em khả năng thuyết trình trước

đơng người, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tự tin hơn, mạnh dạn hơn.
Hoạt động 3: Thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD
Tổ chức cho HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa chất vấn khắc sâu kiến thức và hoàn
thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng SĐTD
GV cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức của bài và GV củng
cố kiến thức thông qua một SĐTD đã chuẩn bị sẵn.

6


Cách 2:
Giáo viên giới thiệu bài mới và vẽ chủ đề chính của bài học lên bảng hoặc kết
hợp với phần mềm PowerPoint để trình chiếu bằng một hình vẽ bất kì mà khơng
ghi bài theo kiểu cũ và giáo viên cho học sinh cả lớp cùng tham gia vào q trình
hồn thiện SĐTD và tìm hiểu nội dung bài học.
Giáo viên đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính hơm nay có mấy nhánh lớn cấp số
1 và gọi học sinh lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề chia thành các nhánh lớn trên bảng có
ghi chú thích tên từng nhánh lớn.
Sau khi học sinh vẽ xong các nhánh lớn cấp số 1, giáo viên đặt câu hỏi tiếp ở
nhánh thứ nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2... tương tự học sinh đã hoàn thành nội
dung sơ đồ tư duy của bài học mới ngay tại lớp. Học sinh vừa tham gia hoàn thiện
sơ đồ trên bảng hoặc máy chiếu vừa hoàn thiện sơ đồ trong vở ghi.
Để minh họa, phân tích, giải thích cho sơ đồ tư duy giúp học sinh hiểu rõ các
nội dung của bài giáo viên yêu cầu học sinh lấy ví dụ hoặc cho học sinh xem những
hình ảnh, tình huống hoặc đoạn phim ngắn minh họa cho rõ ý hơn của từng nhánh
cấp độ 1, cấp độ 2....
Ví dụ: Khi dạy bài 7: Công dân với các quyền dân chủ ( Tiết 2) - lớp 12.
GV giới thiệu nội dung kiến thức cần nắm trong bài học rồi tổ chức cho HS làm
việc dựa vào nội dung kiến thức trong sách giáo khoa.

Để làm rõ nội dung của quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội, ở
nhánh cấp số 3. Giáo viên yêu cầu học sinh lấy ví dụ về việc cơng dân tham gia
quản lí nhà nước và xã hội ở phạm vi cả nước. Ở phạm vi cơ sở, giáo viên đưa ra
bốn bài tập hoặc tình huống yêu cầu học sinh xác định các bài tập hoặc tình huống
đó thuộc cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm hay dân kiểm tra.

3.1.2. Sử dụng SĐTD trong kiểm tra bài cũ :

7


Thường học sinh hay học bài cũ và ghi nhớ một cách máy móc, vì vậy nhiều
HS khi lên bảng trả lời thì thường khơng nhớ, hoặc nhớ kiến thức rất mơ hồ; có
Nhiều em học thuộc làu bài cũ nhưng lại không liên hệ được các kiến thức.
Dường như việc học thuộc bài cũ và trả bài như là một gánh nặng với nhiều em học
sinh. Vì vậy việc học bài cũ bằng sơ đồ tư duy giúp các em dễ thuộc, nhớ lâu và
nhẹ nhàng hơn.
Bản thân tôi đã kiểm tra bài cũ và tạo cho các em kĩ năng học bài bằng sơ đồ
tư suy như sau:
Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời bài cũ bằng cách tự vẽ sơ đồ tư duy lên
bảng, sau đó thuyết trình về sơ đồ. Cách này khơng áp dụng đối với sơ đồ tư duy
phức tạp, khối lượng kiến thức lớn vì sẽ mất nhiều thời gian
Hoặc GV có thể sử dụng SĐTD ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh
điền các thơng tin cịn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thơng
tin với từ khóa trung tâm.
Với dạng sơ đồ thiếu thông tin, giáo viên không chỉ dùng trong kiểm tra bài
cũ mà cịn có thể sử dụng trong dạy bài mới hoặc ôn tập. Khi làm sơ đồ thiếu thông
tin, tơi thường dùng keo bóng trong dán ở các vị trí cần ghi thơng tin vì vậy có thể
xóa được và sử dụng được nhiều lần.
Ví dụ: Trước khi dạy tiết 2 bài 2: Thực hiện pháp luật - lớp 12. GV u cầu

HS điền các thơng tin cịn thiếu để hoàn thiện SĐTD về Thực hiện pháp luật .

3.1.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học.

Giáo viên có thể sử dụng máy chiếu, sơ đồ có sẵn hoặc sơ đồ mà HS đã
thực hiện để củng cố kiến thức từng nội dung hoặc từng bài. Giáo viên gọi học sinh

8


thuyết trình về SĐTD cho cả lớp theo dõi, củng cố kiến thức. Giáo viên có thể đặt
các câu hỏi hoặc bài tập tình huống vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Ví dụ: Khi dạy bài 7: Cơng dân với các quyền dân chủ ( tiết 3) - lớp 12.
Giáo viên sử dụng SĐTD để hệ thống kiến thức toàn bài một cách đầy đủ và trực
quan. Giúp học sinh có cái nhìn tổng thể về quyền dân chủ của công dân.

2.3.1.4. Sử dụng SĐTD cho tiết tổng kết ôn tập kiến thức và ôn thi THPT quốc gia.
Mục đích của tiết ơn tập là giúp học sinh hệ thống lại kiến thức một số bài đã
học để chuẩn bị kiểm tra và vận dụng được những kiến thức đã học vào gải quyết
vấn đề thực tiễn. Tuy nhiên, trong tiết ôn tập với thời lượng 1 tiết thì khó có thể hệ
thống hết kiến thức đã học, đặc biệt ôn tập kiến thức kiểm tra học kỳ; cịn đối với
ơn thi THPT quốc gia, số buổi ơn ít trong khi khối lượng kiến thức nhiều, học sinh
khi luyện đề thường nhầm lẫn kiến thức bài này với bài kia. Vì vậy, sử dụng
phương pháp sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức là phương pháp mang lại hiệu quả
cao giúp học sinh có cái nhìn tổng thể về những kiến thức đã học.
Có nhiều cách xây dựng SĐTD trong tiết ôn tập, ôn thi.
Thông thường trước tiết ôn tập GV cho một số câu hỏi và bài tập để học sinh
chuẩn bị ở nhà. Trong tiết ôn tập, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập SĐTD, sau
đó cho học sinh trao đổi với nhau và cùng đối chiếu với SĐTD do GV lập ra. Hoặc
trước tiết ôn tập, GV yêu cầu học sinh về nhà lập SĐTD của những bài cần ôn tập

vào giấy A4, trong tiết ôn tập sẽ đối chiếu với sơ đồ của GV.
Ngồi ra, trong giờ ơn tập, ơn thi GV chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí
khơng đủ nhánh, hoặc thừa thông tin trong SĐTD, GV yêu cầu HS bổ sung hoặc
thêm bớt thơng tin để cuối cùng tồn lớp lập được một SĐTD ơn tập. Cũng có thể
sử dụng sơ đồ khuyết thông tin GV chuẩn bị đã được sử dụng trong các tiết học
9


trước đó. Cách làm này sẽ lơi cuốn được học sinh tham gia. Chắc rằng tiết ôn tập sẽ
mang lại hiệu quả.
Ví dụ: Khi ơn tập kiến thức bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản – Lớp
12 GV có thể sử dụng sơ đồ trống, hoặc đưa các thơng tin chưa đầy đủ, thơng tin
chưa chính xác để học sinh hoàn thiện sơ đồ tư duy.

2.3.2 . Minh họa
Dưới đây là một số SĐTD thuộc một số bài của chương trình GDCD12

10


Bài 2: Thực hiện pháp luật

11


Bài 4 – Quyền bình đẳng cơng dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội

Bài 6 – Công dân với các quyền tự do cơ bản

12



Bài 7 – Công dân với các quyền dân chủ

Bài 8 – Pháp luật với sự phát triển của công dân

13


Bài 9 – Pháp luật với sự bền v ững của đất nước

14


2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Việc sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác làm
cho giờ học sơi nổi hơn, học sinh hứng thú với môn học đồng thời tiếp thu kiến
thức tốt hơn, nắm vững kiến thức cơ bản, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh.
Sau khi áp dụng phương pháp dạy học bằng SĐTD, qua khảo sát kết quả thu
được như sau:
+ Kết quả chất lượng HKI khi chưa thực hiện phương pháp dạy học bằng SĐTD:
( số liệu năm 2019 – 2020 )
Lớp
Sĩ số
Giỏi
%
Khá
%

TB
%
12D

35

7

20%

23

65,8%

5

14,2%

12V

44

16

36,3%

24

54,6%


4

9,1%

12H

36

0

0%

14

38,8%

22

61,2%

+ Kết quả chất lượng HỌC KÌ II khi thực hiện phương pháp dạy học bằng SĐTD:
( số liệu năm 2019 – 2020 )
Lớp
Sĩ số
Giỏi
%
Khá
%
TB
%

12D

35

13

37,1%

22

62,9%

0

0

12V

44

36

81,8%

8

18,2%

0


0

12H

36

4

11,1%

32

88,9%

0

0

+ Kết quả thi THPT quốc gia
Năm học
Điểm trung bình
Số điểm trên 9
2018 - 2019 ( 3 lớp)
6,69
8
2019 - 2020 ( 3 lớp)
7,29
13
Như vậy, việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học mơn GDCD lớp 12 đã mang
lại hiệu quả tích cực đối với học sinh; giúp các em có thể nắm vững kiến thức; phát

huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo; được tham gia vào quá trình học một cách
chủ động tạo hứng thú cho người học, vì vậy giờ học trở nên sôi động, hấp dẫn
hơn.

15


Đối với giáo viên, đây là một lựa chọn để đổi mới phương pháp học tập theo
hướng phát huy năng lực của người học; đem lại hiệu quả cao trong công tác giảng
dạy.
* Bài học kinh nghiệm cho bản thân
Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy
trong dạy học GDCD lớp 12, bản thân tôi đúc kết rút kinh nghiệm để ngày càng
hoàn thiện và nâng cao chất lượng dạy học.
- Giáo viên, dù dạy môn nào cũng phải yêu nghề, chịu khó, khơng ngừng nâng cao
tay nghề chun mơn nghiệp vụ, ln tìm tịi sáng tạo.
- Phải thường xun tổ chức dạy học theo phương pháp tích cực trong đó sử dụng
SĐTD là một phương pháp để phát triển hết khả năng sáng tạo, thẩm mỹ, khả năng
tư duy của học sinh.
- Cần phải hướng dẫn kĩ cho học sinh chuẩn bị nội dung bài học ở nhà thông qua
SĐTD, sau đó kiểm tra sự chuẩn bị của các em và quan tâm các nhóm, các học sinh
yếu kém, tuyên dương, động viên những nhóm học sinh làm tốt nhiệm vụ mà giáo
viên giao để khuyến khích các em phát huy tạo niềm say mê cho các em u thích
mơn học.
- Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng
SĐTD và cũng khơng phải sử dụng cho mọi giờ học. Giáo viên cần có sự linh hoạt
trong sử dụng SĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học sinh và quan
trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học.
- Đối với học sinh, ln có niềm đam mê, sự hứng thú học tập bộ môn GDCD.
Thường xuyên chuẩn bị bài ở nhà theo yêu cầu của giáo viên. Lúc nào cũng chuẩn

bị đầy đủ dụng cụ học tập như: giấy A4, bút chì, bút màu, tẩy,….Phải rèn luyện sự
sáng tạo, óc tư duy của mình trong cách học SĐTD.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Với vai trò là giáo viên giảng dạy môn GDCD, tôi thường sử dụng SĐTD
trong dạy học, nhưng bắt đầu từ năm học 2018-2019 tôi thực hiện q trình nghiên
cứu sử dụng SĐTD khơng chỉ trong hoạt động dạy mà còn trong hoạt động học của
học sinh, với mục tiêu phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học,
lấy học sinh làm trung tâm, các em được chủ động tham gia vào q trình hình
thành SĐTD, từ đó chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng.
Khi bắt đầu quá trình nghiên cứu tôi thực hiện dạy – học bằng SĐTD ở
những nội dung cụ thể, khối lượng kiến thức ít và dễ hơn để học sinh làm quen, dần
dần mở rộng thực hiện ở các mục, các bài. Vì vậy học sinh không bỡ ngỡ khi thực

16


hiện nhiệm vụ của mình. Đồng thời tơi cũng chia sẻ kinh nghiệm của mình trong
nhóm bộ mơn cùng thực hiện.
3.2. kiến nghị
Đối với Sở GD& ĐT
- Mở các lớp bồi dưỡng ứng dụng CNTT, phương pháp dạy học mới, hiện đại áp
dụng trong giảng dạy.
Đối với trường THPT Nguyễn Thị Lợi:
- Thường xuyên động viên giúp đỡ, khuyến khích, tạo điều kiện để giáo viên áp
dụng, sử dụng phương pháp dạy học tích cực, phương pháp dạy học mới vào dạy
học nói chung và dạy GDCD nói riêng.
Trên đây là một số kinh nghiệm về việc sử dụng SĐTD vào dạy GDCD lớp 12
và đã mang lại hiệu quả nhất định. Trong quá trình nghiên cứu và viết, chắc chắn đề
tài này cịn có những hạn chế, tơi mong nhận được sự góp ý chân thành của quý

lãnh đạo, đồng nghiệp, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 16 tháng 5 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết SKKN

Lê Thị Thủy

17



×