Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

SKKN sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học một số bài lịch sử việt nam lớp 11 ở trường THPT hà văn mao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.31 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT HÀ VĂN MAO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRÒ CHƠI TRONG
DẠY – HỌC MỘT SỐ BÀI LỊCH SỬ VIỆT NAM
LỚP 11 Ở TRƯỜNG THPT HÀ VĂN MAO

Người thực hiện: Hà Thị Hoài
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Lịch sử

THANH HÓA NĂM 2021


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1.Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Một số khái niệm
2.2. Cơ sở lý luận
2.3. Thực trạng dạy- học Lịch sử ở trường THPT Hà Văn Mao
2.3.1. Thuận lợi
2.3.2. Khó khăn
2.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn
Lịch sử bằng việc lựa chọn một số trò chơi trong dạy học một số


bài Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT Hà Văn Mao
2.4.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung phần Lịch sử Việt Nam (1858
– 1918) lớp 11 THPT - Chương trình cơ bản
2.4.2. Nội dung phần Lịch sử Việt Nam (1858 – 1918)
2.4.3. Một số phương pháp trò chơi trong DHLS
2.4.3.1. Trị chơi “ơ chữ”
2.4.3.2. Trị chơi “đóng vai”
2.4.3.3. Trò chơi “hiểu ý đồng đội”
2.5. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục của bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập trong sáng
kiến
3.2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến nếu được áp dụng, triển
khai trong DHLS
3.3. Kiến nghị

Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 5
Trang 7
Trang 7

Trang 8
Trang 9
Trang 9
Trang 12
Trang 14
Trang 16
Trang 18
Trang 18
Trang 18
Trang 19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đang thay đổi, chuyển biến từng giờ, từng ngày. Đất nước ta
cũng khơng thể nằm ngồi xu hướng đó của thời đại, của nhân loại. Nói cách
khác đất nước ta đã và đang hội nhập rất sôi động và mạnh mẽ. Để có những con
người đủ bản lĩnh, tự tin đưa dân tộc hồ mình vào biển lớn rất cần bồi dưỡng
khát vọng, niềm tin và trách nhiệm với quốc gia - dân tộc. Khát vọng, niềm tin
và trách nhiệm đó chỉ có thể được hình thành từ lịng u nước, tinh thần tự hào
dân tộc.
Trong sứ mệnh lớn lao đó có vai trị, trách nhiệm khơng nhỏ của giáo dục
lịch sử và dạy học Lịch sử. Trong khi giáo dục lịch sử nói chung, chất lượng
dạy, học mơn Lịch sử nói riêng những năm gần đây đang tồn tại rất nhiều vấn đề
đáng lo ngại.Thống kê cho thấy, điểm bài thi mơn Lịch sử của thí sinh trong kỳ
thi THPT quốc gia trong những năm gần đây luôn ở tốp thấp nhất. Thực tế đáng
buồn đó có thể lý giải bằng nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng nguyên nhân
quan trọng nhất, cơ bản nhất là việc giảng dạy môn Lịch sử trong nhà trường
phổ thơng hiện nay đang cịn tồn tại nhiều hạn chế. Thực trạng dạy - học Lịch sử
ở trường THPT Hà Văn Mao cũng không ngoại lệ. Dù đã có nhiều nỗ lực nhưng

việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử vẫn cịn nhiều khó khăn, lúng túng
và chưa thật sự khởi sắc.
Nói như vậy để thấy rằng chúng ta đang hội nhập và không thể hội nhập
với hành trang là những con người không nhớ hoặc khơng hiểu rõ lịch sử của đất
nước mình, nguồn gốc của dân tộc mình. Chúng ta cũng khơng thể hội nhập với
tư thế của một đất nước, một dân tộc khơng có những nét đặc trưng đáng q
của riêng mình. Chúng ta hồ nhập và thích nghi nhưng những giá trị truyền
thống, những nét đặc trưng đáng quý riêng có đã làm nên tên tuổi, dáng vóc của
dân tộc ta không thể bị tan chảy một cách vô nghĩa.
Với tâm huyết, trách nhiệm của một giáo viên dạy Lịch sử đang trực tiếp
giảng dạy, tôi thật sự mong muốn việc dạy - học Lịch sử sẽ có chuyển biến tích
cực, tơi đã mạnh dạn đưa ra một ý kiến nhỏ nhằm cùng đồng nghiệp và nhà
trường cố gắng cải thiện chất lượng dạy - học môn Lịch sử hiện nay, trực tiếp là
ở trường THPT Hà Văn Mao: Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy - học
một số bài Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT Hà Văn Mao.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tập hợp, nghiên cứu các nguồn tư liệu khác nhau, đề tài của tơi
mong muốn góp một số đề xuất cụ thể về việc sử dụng phương pháp trò chơi
trong giảng dạy một số bài Lịch sử Việt Nam lớp 11 nhằm:
- Tạo hứng thú hơn cho học sinh trong học tập mơn Lịch sử, giúp học sinh
u thích bộ mơn hơn. Góp phần làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ của học sinh
về việc học tập môn Lịch sử.
- Tăng tính tương tác, phát huy tính tích cực và năng lực của học sinh
trong học tập Lịch sử nói riêng và các bộ mơn khác nói chung.
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng phản xạ nhanh,
1


kĩ năng phán đoán vấn đề; cải thiện năng lực ngôn ngữ, giao tiếp …
- Tạo môi trường học tập cởi mở, sáng tạo, thân thiện, hấp dẫn, “chơi mà

học, học mà chơi”.
- Nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử ở trường THPT, trước hết
là tại trường THPT Hà Văn Mao. Qua đó giúp học sinh biết tự hào hơn, trân
trọng hơn truyền thống lịch sử của quê hương, dân tộc.
- Trên cơ sở đó góp phần vào thực hiện nhiệm vụ giáo dục chung của nhà
trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ tập trung nghiên cứu về phương pháp sử
dụng lồng ghép một số trò chơi trong dạy - học một số bài Lịch sử Việt Nam lớp
11- chương trình cơ bản, cụ thể là cách thức thực hiện, hiệu quả và ý nghĩa của
phương pháp mà tôi đề cập.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau
như: phương pháp lịch sử để phân tích các vấn đề mà sáng kiến đề cập một cách
khách quan, khoa học, biện chứng; phương pháp phân tích - tổng hợp các số
liệu, thơng tin liên quan đến sáng kiến; phương pháp điều tra khách quan để
khảo sát, thu thập thông tin làm cơ sở cho việc tìm ra những giải pháp nhằm
khắc phục những hạn chế của vấn đề mà sáng kiến đề cập; phương pháp thực
nghiệm để kiểm chứng tính hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục
tại đơn vị.
2. NỘI DUNG
2.1. Một số khái niệm
2.1.1. Phương pháp
Phương pháp được hiểu là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới
mục đích, để giải quyết những nhiệm vụ nhất định [4].
2.1.2. Phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học được hiểu là cách thức, con đường hoạt động chung
giữa giáo viên và học sinh, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt
tới mục đích dạy học [9, tr53].
2.1.3. Đổi mới phương pháp dạy học

Đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới cách thức tiến hành phương
pháp, đổi mới phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai
thác triệt để ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và vận dụng linh
hoạt một số phương pháp dạy học mới nhằm hình thành và phát triển năng lực ở
người học [9, tr74].
2.1.4. Trò chơi
Trò chơi là một hình thức có cấu trúc của việc chơi đùa, thường được thực
hiện để nhằm mục đích giải trí hay vui vẻ, và đôi khi được sử dụng như một
công cụ giáo dục [5 ].
2


2.1.5. Trò chơi học tập
Trò chơi học tập là một trong những hình thức dạy học nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Thông qua trị chơi học tập, có
thể phát triển ở học sinh nhiều năng lực chung và năng lực đặc thù bộ mơn…
[12 ].
2.1.6. Phương pháp trị chơi học tập
Phương pháp trị chơi học tập là phương pháp giáo viên thông qua việc tổ
chức các trị chơi có liên quan đến nội dung bài học, có tác dụng phát huy tính
tích cực nhận thức, gây hứng thú học tập cho học sinh. Qua trò chơi học sinh
tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên [ 8].
2.2. Cơ sở lý luận
Đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói
riêng đã và đang diễn ra tương đối sâu rộng . Đổi mới phương pháp dạy học
Lịch sử là một bộ phận của công cuộc đổi mới tồn diện đất nước, vì vậy nó liên
quan và chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố khác nhau. Đổi mới phương pháp
dạy học Lịch sử dựa trên cơ sở của nội dung chương trình mơn học; sách giáo
khoa, tài liệu và điều kiện học tập; những thành tựu khoa học hiện đại; những
thông tin cập nhật của nhiều bộ môn khoa học liên ngành…

Luật Giáo dục Việt Nam năm 2019 nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục nước ta là
nhằm phát triển tồn diện con người Việt Nam, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ,
thẩm mĩ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức cơng dân; có lịng
u nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân…, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và hội nhập quốc tế” [7].
Mục tiêu này chi phối mục tiêu cấp học và môn học.
Hiện nay, bộ môn Lịch sử cũng như các bộ môn khác ở trường phổ thông
đã và đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy nội lực
của học sinh dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên.
Thực tế, bộ môn Lịch sử khác với các bộ môn khoa học khác. Đặc thù của
bộ môn Lịch sử là học sinh phải tiếp cận với nhiều sự kiện lịch sử khác nhau,với
những nhân vật, địa danh lịch sử…không chỉ của Việt Nam mà của cả thế giới.
Lượng kiến thức của bộ môn Lịch sử ngày càng nhiều thêm đòi hỏi học sinh
phải ghi nhớ nhiều sự kiện, kiến thức thì mới đạt kết quả cao trong học tập. Nếu
giáo viên không chủ động, sáng tạo đưa các phương pháp dạy học tích cực vào
DHLS thì học sinh cảm thấy nhàm chán, nặng nề, có tâm lý chán ghét mơn học.
Điều đó đặt ra những vấn đề đòi hỏi giáo viên giảng dạy Lịch sử ở trường phổ
thông cần làm thế nào để hấp dẫn học sinh, để mơn học khơng cịn khơ khan và
nhàm chán; lựa chọn và vận dụng phương pháp trò chơi nào sẽ giúp học sinh
phát triển được kĩ năng và ghi nhớ được kiến thức.
Khi giáo viên sử dụng phương pháp trị chơi trong DHLS, những khó
khăn sẽ phần nào đó được khắc phục. Trong quá trình chơi, học sinh phải sử
dụng các giác quan để thực hiện các thao tác chơi, nhiệm vụ chơi do đó mà các
giác quan của học sinh trở nên tinh nhạy hơn, ngôn ngữ mạch lạc hơn và tư duy
3


trừu tượng cũng được phát triển. Ngồi ra, trị chơi học tập cịn làm thay đổi
hình thức học tập làm cho khơng khí lớp học thoải mái và dễ chịu hơn. Đặc biệt,

qua trò chơi học tập học sinh tiếp thu bài tự giác, tích cực hơn, học sinh được
củng cố và hệ thống hóa kiến thức. Trị chơi sẽ giúp học sinh biết cách nhìn
nhận, phân tích, so sánh khái qt kiến thức đã lĩnh hội trước đó. Thơng qua trị
chơi sẽ giúp học sinh có ấn tượng mạnh mẽ về kiến thức đó, vì thế mà học sinh
nắm bắt bài nhanh hơn.
Trong dạy học, giáo viên sử dụng phương pháp trò chơi sẽ giúp học sinh
phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh, học sinh hào hứng
tham gia vào nhiệm vụ học tập đã được lồng sẵn vào các trò chơi cụ thể. Bằng
cách này, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo một cách vững chắc.
Đây là cơ sở để giúp học sinh dễ dàng phát hiện ra kiến thức và ghi nhớ kiến
thức của bài học. Qua việc học sinh được tham gia vào trò chơi học tập là các
em đã được làm quen, tiếp cận với phương pháp dạy học tích cực, qua phương
pháp trị chơi học sinh học tập một cách chủ động và có sự tự tin hơn vào bản
thân mình khi tìm ra được tri thức mới của bài học.
Từ những lí do nêu trên, việc đổi mới phương pháp, vận dụng phương
pháp trò chơi trong DHLS là một yêu cầu cấp bách cần được quan tâm giải
quyết. Nếu học sinh được tham gia vào các trò chơi lịch sử sẽ thấy giảm áp lực
học tập, có hứng thú hơn với bộ mơn, tự phát hiện được năng lực cá nhân, trau
dồi và phát triển kĩ năng, từ đó góp phần quan trọng nâng cao chất lượng DHLS
ở trường THPT.
2.3. Thực trạng dạy – học lịch sử ở trường THPT Hà Văn Mao
2.3.1. Thuận lợi
Trong những năm gần đây dù cịn nhiều khó khăn nhưng công tác giáo
dục của trường THPT Hà Văn Mao đã đạt được những thành tích đáng kể: Cơ sở
vật chất được cải thiện; đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy; nhận được
sự quan tâm của chính quyền địa phương…
Trong bối cảnh đó, việc dạy học mơn Lịch sử cũng có những dấu hiệu lạc
quan, tích cực: học sinh bước đầu đã nhìn nhận đúng tầm quan trọng của việc
giáo dục lịch sử. Đó là điều kiện thuận lợi cơ bản để tập thể giáo viên quyết tâm
đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học. Những năm gần đây đội ngũ giáo

viên giảng dạy Lịch sử của nhà trường đã có rất nhiều nỗ lực nâng cao chất
lượng của việc dạy học Lịch sử bằng nhiều hình thức, cách thức khác nhau.
Ngoài thực hiện đổi mới phương pháp theo hướng phát huy năng lực của học
sinh được thực hiện trong từng tiết giảng dạy, tập thể giáo viên giảng dạy bộ
mơn Lịch sử cịn tổ chức hoạt động ngoại khóa nhân dịp các ngày lễ lớn của dân
tộc, xây dựng mơ hình sân khấu hóa một số nội dung lịch sử Việt Nam. Những
cố gắng, nỗ lực trên đã từng bước cải thiện chất lượng học tập môn Lịch sử tại
đơn vị. Kết quả đạt được tại các kỳ thi có những thay đổi tích cực: trong kỳ thi
học sinh giỏi các mơn văn hóa cấp tỉnh năm 2020 đã có 02 học sinh đạt giải gồm
01 giải nhì và 01 giải ba; trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 nhà trường đã
có học sinh đạt điểm mơn Lịch sử cao nhất là 9,5 điểm. Đó là những tín hiệu
4


đáng mừng về hướng đi trong dạy, học Lịch sử của nhà trường.
2.3.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì cơng tác giảng dạy tại nhà trường cịn phải
đối mặt với nhiều thách thức: chất lượng đầu vào của học sinh lớp 10 khơng cao
gây khơng ít khó khăn cho công tác giáo dục; các hoạt động chuyên môn chưa
đồng bộ và chưa có chiều sâu. Đặc biệt chất lượng giáo dục mũi nhọn ( Học sinh
đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi và thi tuyển sinh cao đẳng, đại học) vẫn
còn thấp so với tiềm năng của nhà trường... Đó là những bất cập, tồn tại địi hỏi
nhà trường phải tháo gỡ.
Việc dạy học Lịch sử cũng khơng nằm ngồi những khó khăn đó: trang
thiết bị phục vụ học tập thiếu thốn, những hoạt động ngoại khoá của bộ mơn
chưa thường xun và chú trọng do đó chất lượng dạy học bộ mơn chưa
cao.Trong q trình giảng dạy, tại các lớp ở tất cả các khối của trường THPT Hà
Văn Mao mà tôi trực tiếp giảng dạy, khoảng hơn 95% là học sinh người dân tộc
thiểu số, khả năng tiếp nhận thơng tin có nhiều hạn chế, sự tự giác trong học tập
chưa cao.Trong quá trình giảng nhiều năm tại những lớp được nhà trường phân

công, khi được hỏi: Để học đươc mơn Lịch sử có phải quá khó khăn? Hơn 90%
học sinh được hỏi cho hay: Học Lịch sử rất khó vì phải nhớ nhiều ngày, tháng,
sự kiện. Do đó các em khơng thích hoặc ngại, thậm chí “sợ” học mơn này. Chính
suy nghĩ đó của số đông học sinh đã cản trở việc các em đến gần hơn với môn
học quan trọng này. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này, theo tôi là do
phương pháp truyền đạt của giáo viên. Muốn cải thiện được suy nghĩ, thái độ
của học sinh với môn Lịch sử giáo viên cần phải tìm tịi những phương pháp phù
hợp với tâm lý, khả năng tiếp nhận của đối tượng học sinh. Một trong những
phương pháp sẽ góp phần vào sự thay đổi nhận thức trên là áp dụng các trò chơi
trong dạy học Lịch sử.
Để hiểu rõ thực trạng việc đổi mới phương pháp và vận dụng phương
pháp trò chơi trong DHLS ở trường THPT, tôi đã tiến hành khảo sát tại trường
THPT Hà Văn Mao và một số trường khác trên địa bàn miền núi cao lân cận
huyện Bá Thước. Thời gian khảo sát từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 12 năm
2021.
Nội dung khảo sát tập trung vào nhận thức của giáo viên về vai trò của
việc đổi mới phương pháp và vận dụng phương pháp trò chơi trong DHLS; nhận
thức của giáo viên về sự cần thiết của việc sử dụng phương pháp trò chơi trong
DHLS; mức độ sử dụng phương pháp trò chơi trong DHLS; các phương pháp
trò chơi trong DHLS được sử dụng; thái độ của học sinh đối với bộ môn Lịch
sử; quan niệm của học sinh về trò chơi trong học tập Lịch sử; mức độ hứng thú
với các phương pháp trò chơi được áp dụng.
Về phương pháp, hai mẫu phiếu điều tra đã được xây dựng (dành cho giáo
viên và học sinh). Kết quả thu về 12 phiếu giáo viên, 100 học sinh. Qua đó có
thể đánh giá chính xác hơn về thực trạng việc đổi mới phương pháp và vận dụng
phương pháp trò chơi trong DHLS ở trường THPT trên địa bàn cùng điều kiện
về kinh tế - xã hội. Trên cơ sở thu thập thơng tin, xử lí số liệu điều tra đối với
5



giáo viên và học sinh, kết quả thu được như sau:
* Về phía giáo viên
Khi được hỏi về tác dụng của phương pháp trò chơi:
- 94% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: Học sinh hứng thú học
tập, phát huy tính tích cực.
- 84% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: Rèn kĩ năng, tăng tính
tương tác với học sinh.
- 81% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: Tạo môi trường học tập
cởi mở, sáng tạo, thân thiện, hấp dẫn.
- 93% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng : Nâng cao hiệu quả bài
học.
Như vậy, hầu hết giáo viên đều cho rằng phương pháp trị chơi có tác
dụng tích cực trong DHLS.
Khi được hỏi về mục đích sử dụng phương pháp trị chơi:
- 30 % giáo viên tham gia cuộc điều tra dùng để chuẩn bị nghiên cứu kiến
thức mới.
- 19 % giáo viên tham gia cuộc điều tra dùng nghiên cứu kiến thức mới
- 93% giáo viên tham gia cuộc điều tra dùng để củng cố bài học, hệ thống
kiến thức.
- 85 % giáo viên tham gia cuộc điều tra dùng để kiểm tra, đánh giá học
sinh về sự cần thiết của phương pháp trò chơi trong DHLS:
- 96 % giáo viên tham gia cuộc điều tra đều khẳng định sự cần thiết của
việc sử dụng phương pháp trò chơi.
- Về mức độ sử dụng phương pháp trò chơi trong DHLS:
- 61 % giáo viên tham gia điều tra: Thỉnh thoảng sử dụng.
- 34%: Không sử dụng.
- 5 %: Thường xuyên.
Như vậy cịn ít giáo viên sử dụng thường xun phương pháp trị chơi.
* Về phía học sinh:
- 98 % học sinh tham gia điều tra: Thích giáo viên sử dụng phương pháp

trò chơi trong DHLS.
- 97% học sinh tham gia điều tra cho rằng phương pháp trò chơi giúp dễ
ghi nhớ kiến thức
- 95% học sinh tham gia điều tra cho rằng phương pháp trị chơi tạo
khơng khí thân thiện, hứng thú học, chơi mà học
- 91% học sinh tham gia điều tra cho rằng được bộc lộ khả năng của bản
thân.
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
Phần lớn giáo viên được điều tra đánh giá rất cao vai trò của việc tổ chức trò
chơi cho học sinh trong DHLS là góp phần phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo của học sinh trong giờ học, học sinh học cũng tập trung, hứng thú hơn,
sinh động hơn, từ đó hiệu quả dạy học được nâng cao. Tuy nhiên, từ việc nhận
thức đúng đến việc làm đúng là một vấn đề đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của mỗi
6


giáo viên. Một số giáo viên chưa tìm ra được những trị chơi hữu hiệu để tích
cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Các trò chơi mà giáo viên sử dụng
còn đơn điệu, cách thức tổ chức còn thiếu tính khoa học, giáo viên ít chịu khó
sưu tầm các loại trò chơi nên học sinh dễ nhàm chán.
Mặc dù học sinh không dành nhiều thời gian cho môn Lịch sử nhưng khi
giáo viên tổ chức trò chơi học tập thì học sinh sẽ tham gia bởi lợi ích của
phương pháp mang lại cho học sinh.
Theo tôi, những tồn tại trên đây chủ yếu do những nguyên nhân chủ yếu
sau:
- Về phía giáo viên: do ngại thay đổi phương pháp, sợ mất thời gian, chưa
đầu tư tìm tịi, sáng tạo trong dạy học.
- Về phía học sinh: mơn Lịch sử học có nhiều sự kiện, khó nhớ, khó học,
học sinh thì ln có suy nghĩ đây là mơn học phụ, không phục vụ cho xét tuyển
Đại học nên cũng không tập trung nhiều cho việc học tập môn này.

Từ đó có thể khẳng định, việc sử dụng phương pháp trò chơi trong DHLS
là rất cần thiết. Muốn vậy, giáo viên phải là người tâm huyết, dành thời gian cho
việc thiết kế các trò chơi phù hợp với từng bài để lơi cuốn học sinh tham gia.
Qua đó mục đích dạy học sẽ đạt kết quả như mục tiêu đặt ra.
2.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn Lịch sử bằng
việc lựa chọn một số trò chơi trong dạy học một số bài Lịch sử Việt Nam lớp
11 ở trường THPT Hà Văn Mao
2.4.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung phần Lịch sử Việt Nam (1858 – 1918) lớp 11
THPT - Chương trình cơ bản
2.4.1.1.Vị trí
Lịch sử Việt Nam (1858 – 1918) có một vị trí quan trọng trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc, gắn liền với quá trình thực dân Pháp xâm lược
nước ta và cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống lại thực dân Pháp.
Kiến thức phần này được cụ thể trong 1 chủ đề và 5 bài, giúp học sinh
hiểu rõ nguyên nhân, quá trình thực dân Pháp xâm lược nước ta, trách nhiệm của
nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp. Đồng thời qua
cuộc kháng chiến chống Pháp thấy được tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
2.4.1.2. Mục tiêu
* Về kiến thức
Qua tìm hiểu phần Lịch sử Việt Nam ở lớp 11 sẽ hướng học sinh đến việc
lĩnh hội những vấn đề quan trọng sau:
- Học sinh trình bày được các sự kiện chủ yếu trong giai đoạn 1858 đến
1918: Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam ( 1858-1884): Pháp tấn cơng
Đà Nẵng sau đó chiếm 3 tỉnh miền Đơng Nam Kì; Cuộc kháng chiến của nhân
dân ta, khởi nghĩa Trương Định; Pháp đánh 3 tỉnh miền Tây Nam Kì. Cuộc
kháng chiến của nhân dân ta ở 3 tỉnh miền Đông và 3 tỉnh miền Tây. Thực dân
Pháp mở rộng đánh chiếm toàn bộ Việt Nam, cuộc kháng chiến của nhân dân.
Hiệp ước 1862, 1874, 1883, 1884.
- Giải thích được tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn
7



công đầu tiên.
- Hiểu được nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của phong trào Cần Vương.
Trình bày được nét chính những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: Bãi Sậy, Hương Khê,
phong trào nông dân Yên Thế.
- Hiểu được nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử của phong trào Cần
Vương và phong trào nông dân chống Pháp. Xác định được cuộc khởi nghĩa tiêu
biểu nhất trong phong trào Cần Vương.
- So sánh được sự khác nhau giữa các cuộc khởi nghĩa trong phong trào
Cần Vương và khởi nghĩa Yên Thế.
- Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần
nhất của thực dân Pháp.
- Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết
chiến tranh thế giới thứ nhất.
- So sánh được sự giống và khác nhau giữa hai xu hướng bạo động và cải
cách đầu thế kỉ XX.
- Sự xuất hiện khuynh hướng cứu nước mới
* Về kĩ năng
Từ việc tìm hiểu những nội dung chính của Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ
1858 đến 1918 sẽ giúp học sinh:
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng xác định kiến thức, sự kiện cơ bản.
- Rèn luyện kĩ năng tư duy lơgic, phân tích, tổng hợp, nhận định các sự
kiện lịch sử, so sánh, đánh giá các sự kiện lịch sử.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ lịch sử, tranh ảnh tư liệu điển hình.
* Về thái độ, tư tưởng, tình cảm
Bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lòng biết ơn
những người có cơng với đất nước.
* Biểu tượng nhân vật
Qua những bài học của phần học này sẽ khắc họa những nét cơ bản về các

nhân vật: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu
Huân, Hàm Nghi, Tơn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc…
* Năng lực cần hình thành cho học sinh qua bài học
Qua những bài học này nhằm hình thành cho học sinh những năng lực
quan trọng:
- Năng lực chung: năng lực giải quyết đề, năng lực hợp tác, năng lực ngôn
ngữ…
- Năng lực chuyên biệt: năng lực tìm hiểu và tư duy lịch sử, năng lực vận
dụng kiến thức…
2.4.2. Nội dung phần Lịch sử Việt Nam (1858 – 1918)
Phần Lịch sử Việt Nam trong chương trình lớp 11 gồm những nội dung
quan trọng sau:
- Quá trình thực dân Pháp xâm lược nước ta ( 1858-1884)
- Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta ( 1858-1884)
8


- Phong trào Cần Vương: yêu nước theo con đường phong kiến
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với 2 đại biểu là
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh ( 2 phương pháp là bạo động và cải cách).
- Khuynh hướng cứu nước mới với sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc.
- Những biến đổi về kinh tế-xã hội ở Việt Nam đầu thế kỉ XX
2.4.3. Một số phương pháp trị chơi trong DHLS
Từ việc tìm hiểu, phân tích thực trạng của vấn đề tại đơn vị, tôi xin được
đề xuất một số ý tưởng, giải pháp khắc phục cụ thể như sau:
2.4.3.1. Trị chơi “ơ chữ”
* Giới thiệu chung về trị chơi “ơ chữ”
Hiện nay, phương tiện dạy học đã hiện đại và đầy đủ hơn rất nhiều. Ở các
nhà trường hầu như đã trang bị máy chiếu, bảng thơng minh, máy tính… để trợ

giúp giáo viên trong giảng dạy. Giáo viên cũng đã cập nhật và làm chủ được các
phương tiện công nghệ thông tin. Vì thế việc sử dụng phương pháp trị chơi “ô
chữ” đã trở nên thuận lợi, không cần phải chuẩn bị giấy hay kẻ bảng ô chữ, tiết
kiệm được thời gian và công sức. Đặc biệt học sinh thấy như được tham gia vào
chương trình giống như trên truyền hình “Đường lên đỉnh Ơlympia” hay trong
chương trình “Chiếc nón kỳ diệu”. Trị chơi này phát huy được tính tích cực
nhận thức của học sinh. Học sinh buộc phải huy động vốn tri thức, sự hiểu biết
và sự nhanh trí để tham gia vào trò chơi. Khi chơi, học sinh bị lơi cuốn vào trị
chơi bởi sự hấp dẫn, náo nhiệt, các em tưởng tượng mình như là những nhân vật
đang được chơi trực tiếp trên truyền hình. Chính sự hấp dẫn đó, đã cuốn hút
được đơng đảo học sinh tham gia. Đặc biệt với trò chơi này, các em vận dụng
được một khối lượng kiến thức đã học trong bài để giải quyết một cách nhanh
chóng. Do đó, lượng tri thức mà các em lĩnh hội được qua trò chơi là rất đáng
kể.Trị chơi “ơ chữ” là loại hình trị chơi mà trong đó sự thi đua giữa các học
sinh diễn ra một cách rõ ràng và quyết liệt. Số lượt người được tham gia vào trị
chơi nhiều, vì nếu hết một lần quay mà học sinh này chưa trả lời được thì học
sinh khác phải nhanh chóng thay thế. Đặc biệt trị chơi này, có thể tổ chức được
cho đồng loạt các tổ trong cùng một lúc. Tuỳ vào từng bài, tùy lượng thời gian
mà giáo viên thiết kế trị chơi gồm nhiều hay ít hàng ngang cho phù hợp.
* Cách thức tiến hành trị chơi “ơ chữ”
Nhìn chung, trị chơi “ơ chữ “có thể được tiến hành với trình tự như sau:
- Giáo viên chuẩn bị ơ chữ với các yêu cầu:
+ Các ô ở dãy cột ngang nêu tên nhân vật tiêu biểu hoặc sự kiện, vấn đề
lịch sử, đáp án sẽ là các cụm từ khóa kiến thức, thường là đáp án của các câu hỏi
trắc nghiệm hay kiến thức trọng tâm cần ghi nhớ.
+ Ô ở dãy cột dọc là từ khóa của bài sẽ là nội dung kiến thức trọng tâm
cần khắc sâu hoặc về nhân vật lịch sử cần tạo biểu tượng.
- Giáo viên chia lớp thành các đội chơi ( hoặc cũng có thể chơi độc lập)
- Các đội lần lượt chọn từ hàng ngang, giáo viên sẽ đọc gợi ý về từ hàng
ngang, đội chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời. Khi trả lời đúng thì từ khóa sẽ

được mở. Nếu sai, hoặc sau 10 giây khơng có câu trả lời thì đội khác được
9


quyền đoán.
- Mỗi từ hàng ngang được 10 điểm, từ hàng dọc được 30 điểm ( hoặc số
điểm do giáo viên quy định tùy vào ý tưởng bài học đưa ra).
- Trị chơi kết thúc khi có đội tìm ra từ hàng dọc.
- Đội nào có điểm cao hơn là đội thắng cuộc
* Ví dụ minh họa về trị chơi ô chữ sử dụng trong DHLS Việt Nam
lớp 11
Chẳng hạn, khi dạy bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, để khởi động bài học giáo viên có thể
tổ chức trò chơi với những gợi ý liên quan đến bài học trước. Giáo viên đưa ra
các ô chữ và gọi học sinh theo bàn trả lời. Khi học sinh tìm ra những gợi ý là
giải đúng các ô chữ hàng ngang thì cũng sẽ tìm ra từ hàng dọc, đồng thời là
thông tin liên quan trực tiếp đến bài học sắp tìm hiểu ngay sau đó. Các gợi ý là
các từ hàng ngang như sau:
1. Viên đại tá Rivie bị giết ở đâu?
2. Ông Vua trẻ kiên quyết chống Pháp là ai?
3. Tên Hiệp ước triều đình Huế kí với Pháp năm 1884?
4. Tên thành miền Tây sẽ được trả lại cho triều đình khi triều đình dập tắt
được các hoạt động chống Pháp là gì?
5. Vua Hàm Nghi cịn có tên thật là gì?
6. Viên tồn quyền về chính trị và quân sự Pháp tại Việt Nam là ai?
7. Người đứng đầu phe chủ chiến trong triều đình là ai?
8. Nơi Vua Hàm Nghi bị đi đày?
TỪ KHÓA HÀNG DỌC: CẦN VƯƠNG

Từ hàng dọc là “ Cần vương” cũng chính là tên của phong trào đấu tranh

mà các em sẽ tìm hiểu trong giờ học đó.
Với việc tổ chức trị chơi như vậy thay vì những cách thức khác học sinh
sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái, vui tươi, hứng khởi khi bước vào bài mới.
Quan trọng các em sẽ thấy Lịch sử gần gũi, dễ hiểu và cũng vì vậy mà việc nắm,
hiểu nội dung bài học sẽ hiệu quả hơn.
10


Hoặc với bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu
thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914). Sau khi tìm hiểu xong
những nội dung cơ bản của bài học, giáo viên sẽ dành thời gian hợp lý để củng
cố, hệ thống lại bài học qua trị chơi ơ chữ. Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi
với hình thức cá nhân. Có những gợi ý sau:
1.Tên phong trào đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học?
2. Ai là thủ lĩnh của phong trào Đông Du?
3. Hội do Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ơng thành lập năm 1904
có tên là gì?
4. Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước bằng phương pháp gì?
5. “Đất nước mặt trời mọc” là nói đến quốc gia nào?
6. Nơi Phan Bội Châu bị bắt giam năm 1913?
7.Ai là người bị Pháp bắt và chịu mức án tù 3 năm tại Côn Đảo?
8. Năm 1906, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,
Ngô Đức Kế mở cuộc vận động nào ở Trung Kì?
9. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh thuộc tầng lớp nào?
10. Phan Bội Châu chủ trương cứu nước bằng phương pháp nào?
11. Toàn quyền Pháp mà Việt Nam Quang phục hội định mưu sát là gì?
Từ khóa hàng dọc là “ Dân chủ tư sản”, chính là nội dung các em cần
phải nắm về xu hướng cách mạng mới xuất hiện ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hơn nữa, những ơ chữ hàng ngang cũng chính là những thơng tin quan trọng của
bài học các em vừa tìm hiểu. Như vậy, việc chơi trò chơi sẽ khiến học sinh ghi

nhớ bài học đơn giản và hiệu quả.
TỪ KHÓA HÀNG DỌC: DÂN CHỦ TƯ SẢN

Có thể nói, trị chơi ơ chữ là một trong những loại hình trị chơi phù hợp
với đặc điểm tâm lý, tư tưởng, tình cảm của học sinh miền núi vốn chưa tự tin
trong việc diễn giải vấn đề, tư duy của các em thường trực quan, cụ thể. Do đó
đây là trị chơi rất nên được các giáo viên đầu tư thực hiện thường xuyên để
11


nâng cao hiệu quả giảng dạy mơn Lịch sử.
2.4.3.2. Trị chơi “đóng vai”
* Giới thiệu chung về trị chơi đóng vai
Đóng vai, theo từ điển Tiếng Việt là “ thể hiện nhân vật trong kịch bản
lên sân khấu hay màn ảnh bằng hành động, nói năng như thật”[6]. Đóng vai mà
thơng dụng nhất, phổ biến nhất là đóng kịch đã được sử dụng trong lớp học và
cho thấy hiệu quả cao nếu có sự chuẩn bị chu đáo.
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ, “Phương pháp đóng kịch trong dạy học là
giáo viên cung cấp kịch bản và đạo diễn, học viên hành động theo các vai diễn .
Qua đó họ học được cách suy nghĩ, thể hiện thái độ và hành động cũng như các
kĩ năng ứng xử khác của nhân vật trong kịch bản”[1, tr283].
Theo PGS.TS Trần Thị Tuyết Oanh “ Đóng kịch là PPDH, trong đó giáo
viên tổ chức quá trình dạy học bằng cách xây dựng kịch bản và thực hiện kịch
bản dó nhằm giúp học sinh hiểu sâu sắc nội dung học tập”[3, tr227]. Theo tìm
hiểu, nghiên cứu và tổng hợp của tác giả Mai Thị Kim Chi thì: Cũng có thể hiểu,
“đóng vai” là một trị chơi- trị chơi “đóng vai”, trong đó giáo viên đảm nhiệm
phần kịch bản, là đạo diễn, còn học sinh sẽ thể hiện các vai diễn đã có trong kịch
bản. Bằng việc nhập vai vào nhân vật, người học sẽ chủ động tìm hiểu, chiếm
lĩnh kiến thức và được hoạt động trực tiếp trong suốt hoạt động đóng vai. Hoạt
động trực tiếp trong suốt q trình đóng vai khơng chỉ giúp người học khắc sâu

kiến thức dễ dàng hơn mà thơng qua đó, người học có cơ hội hình thành kinh
nghiệm cá nhân và cũng có cơ hội để phản ánh dựa trên kinh nghiệm này [13 ].
Trên cơ sở tìm hiểu các quan niệm, định nghĩa về “đóng vai” và “phương
pháp đóng vai”, tác giả này cũng đưa ra kết luận: “Phương pháp đóng vai được
vận dụng chủ yếu ở việc giáo viên xây dựng kịch bản và học sinh là người thực
hiện kịch bản thông qua việc diễn các vai có sẵn trong kịch bản” [13 ]. Bên
cạnh đó cũng có cách hiểu khác về phương pháp đóng vai khi học sinh đảm
nhận vai trò sáng tạo kịch bản để giải quyết tình huống mở do giáo viên đưa ra.
Các tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 10
THPT viết: “ Đóng vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành, “làm
thử” một số cách ứng xử trong một tình huống giả định.”[10].
* Cách thức tiến hành trị chơi “đóng vai”
Để thực hiện trị chơi này trong q trình học tập, những công việc quan
trọng cần chuẩn bị là:
- Giáo viên chuẩn bị các lời thoại trong kịch bản và đưa cho học sinh
chuẩn bị trước.
- Phân vai cho mỗi học sinh với lời thoại, hướng dẫn học sinh cách thể
hiện điệu bộ, nét mặt của nhân vật.
- Sau khi học sinh nhận vai giáo viên cho tiến hành trò chơi.
- Học sinh theo các vai được phân thực hiện đóng vai cho phù hợp với lời
thoại.
- Nên phân cơng và chuẩn bị trước để học sinh chủ động và tập dượt.
Trong quá trình giao nhiệm vụ giáo viên sẽ trao đổi, thảo luận với học sinh về
12


nhân vật mỗi em sẽ đảm nhiệm.
Ví dụ: Khi dạy học bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, khi tìm hiểu về sự bùng nổ của phong
trào Cần Vương, giáo viên cho học sinh đóng vai Tơn Thất Thuyết, vua Hàm

Nghi, quần chúng nhân dân, tưởng tượng và diễn lại cảnh xuống chiếu Cần
Vương kêu gọi nhân dân đứng lên giúp vua đánh Pháp.
- Vai vua Hàm Nghi ( học sinh nam đóng): Ta là Hàm Nghi, hồng đế thứ
8 của triều Nguyễn, ta tuy còn trẻ tuổi nhưng một lòng chống Pháp. Nay ta phê
chuẩn chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân giúp ta đánh Pháp.
- Vai Tôn Thất Thuyết (học sinh nam đóng ): Ta là Tơn Thất Thuyết, sinh
năm 1839, quê ở Huế. Cuộc đời ta gắn liền với binh nghiệp. Ta là thượng thư
Bộ binh của triều đình. Là người đứng đầu phái chủ chiến, quyết tâm đánh
Pháp để giúp vua, khôi phục lại chế độ phong kiến. Thực dân Pháp đã chiếm
được kinh thành Huế, gây ra biết bao tội ác, chúng giết người, cướp của, lùng
bắt nhà vua. Ta đã đưa nhà vua về đây, Tân Sở (Quảng Trị ), hôm nay, ngày
13.7.1885, ta thay mặt nhà vua ban chiếu Cần Vương, kêu gọi sĩ phu, văn thân,
nhân dân cả nước cùng ta đứng lên giúp vua đánh Pháp đến cùng giành lại độc
lập, khôi phục lại chế độ phong kiến.
- Vai quần chúng nhân dân ( 4 học sinh cả nam và nữ): chúng thần xin
tn lệnh, vì vua mà dốc lịng kháng Pháp. Xin nhà vua yên tâm.
Khi nhập vai như vậy, bản thân những em trực tiếp thực hiện sẽ cảm thấy
hãnh diện và cố gắng thực hiện tốt để gây ấn tượng tốt với thầy, cô và các bạn
trong lớp. Còn những học sinh khác cũng sẽ tập trung, chú ý và lơi cuốn vào nội
dung bạn mình truyền tải. Vì thế các em sẽ ghi nhớ về khí phách anh hùng của
nhân vật, về hoàn cảnh và mục đích của việc ban chiếu Cần vương đưa đến sự
bùng nổ của phong trào vũ trang chống Pháp oanh liệt sau đó của nhân dân Việt
Nam.
Giáo viên cũng có thể đưa ra các tình huống giả định để học sinh nhập vai
và tự đưa ra cách xử lí theo sự lựa chọn riêng của mình, khơng ép buộc phải theo
kịch bản có sẵn. Như thế, học sinh sẽ hồn tồn chủ động, sáng tạo và đưa ra
quan điểm cá nhân của mình.
Ví dụ: Khi dạy chủ đề: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược từ 1858 đến 1884 ( trong phân phối chương trình cũ là bài 19,
20), khi tìm hiểu về tinh thần chống Pháp của triều đình Huế có đề cập đến việc

triều đình kí các bản hiệp ước, trong đó có hiệp ước Giáp Tuất 1874, giáo viên
khuyến khích sự tham gia nhập vai của học sinh và nêu tình huống giả định:
Nếu em là vua, là người có quyền quyết định, em có kí với Pháp bản hiệp ước
khơng? Vì sao?
Học sinh có thể trả lời “có” hoặc “khơng” và đưa ra lý giải của bản thân.
Qua đó giáo viên có thể định hướng học sinh nhìn nhận sự việc một cách khách
quan, biện chứng, đa chiều để nhận thức đúng vai trò lịch sử của nhà Nguyễn.
Với đặc trưng là sử dụng lời thoại hay thể hiện chính kiến bản thân, đóng
kịch sẽ giúp học sinh rèn luyện, phát triển năng lực ngôn ngữ, hợp tác với bạn
13


diễn cũng như khả năng biểu đạt cảm xúc và suy nghĩ của bản thân. Điều này
đặc biệt cần thiết và quan trọng với học sinh tại trường THPT Hà Văn Mao
chúng tơi vì phần lớn các em đều là người dân tộc ít người, hạn chế trong việc
giao tiếp và sử dụng ngơn ngữ. Đóng kịch sẽ giúp các em rèn luyện sự tự tin,
mạnh dạn trước đám đông và những tình huống giao tiếp khác nhau.
2.4.3.3. Trị chơi “hiểu ý đồng đội”
* Giới thiệu chung về trò chơi hiểu ý đồng đội
Đây là trò chơi đề cao sự ăn ý, yểu nhau của người chơi, cj thể là người gợi ý và
người đưa ra câu trả lời, nó đòi hỏi người chơi phải nhanh, hiểu ý nhau, diễn đạt
chính xác từ cần đốn bằng vốn từ và vốn kiến thức của mình để đồng đội đốn
được từ cần đoán.
* Cách thức tiến hành
GV lựa chọn đội chơi theo nhóm, phổ biến thể lệ và làm trọng tài cho trò
chơi. Cụ thể như sau:
- Mỗi đội gồm 2 người.
- Giới hạn thời gian chơi (tùy hoàn cảnh).
- Một người diễn tả bằng lời nói, hành động. Một người đốn cụm từ khóa
- Khơng được nói đến cụm từ khóa, khơng nói tiếng nước ngồi. Nếu khó

có thể bỏ qua.
- Đội nào nói đúng nhiều cụm từ khóa hơn sẽ chiến thắng.
Tùy theo từng bài, giáo viên sẽ lựa chọn các từ khóa cần đốn để học sinh
chơi trị chơi, các từ này là những kiến thức cần nhớ, là đáp án câu trả lời trắc
nghiệm, giúp các em khi chơi trị chơi sẽ có phản xạ tốt, rèn được khả năng diễn
đạt, tư duy ngôn ngữ sẽ phát triển, ghi nhớ kiến thức dễ dàng.
Trò chơi này khá dễ tiến hành, không cần chuẩn bị nhiều thời gian, với bài
nào cũng có thể áp dụng. Học sinh trải nghiệm trị chơi rất hứng thú và hiệu quả.
Ví dụ khi dạy tiết thứ nhất của chủ đề: Nhân dân Việt Nam kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược ( 1858 – 1884), tìm hiểu về quá trình xâm lược
Việt Nam của thực dân Pháp, cuối giờ giáo viên tổ chức trò chơi xoay quanh
những nội dung quan trọng cần nắm như sau:

14


Khi mời mỗi đội chơi tham gia chơi, giáo viên sẽ lần lượt trình chiếu
những cụm từ khóa trên powerpoint, người gợi ý sẽ nhìn trên đó, đứng trước mặt
bạn cùng đội và đưa ra các thông tin gợi ý, người lựa chọn cụm từ khóa sẽ dựa
vào đó đưa ra câu trả lời. Trong quá trình 2 đội tiến hành chơi học sinh trong lớp
phải chú ý theo dõi phần chơi của bạn. Giáo viên có thể trực tiếp hoặc mời một
học sinh khác làm thư ký, thống kê kết quả của mỗi đội và chốt đội chiến thắng.
Trò chơi này vừa rèn luyện khả năng phản xạ nhanh vừa rèn luyện khả
năng ngôn ngữ, giúp các em hoạt bát, nhanh nhẹn trong thao tác, đồng thời qua
việc tham gia trị chơi giúp các em có ấn tượng thú vị về bài học từ đó học tập
Lịch sử hiệu quả hơn, đơn giản hơn. Trò chơi cũng gắn kết các em với bạn bè
trong học tập và các hoạt động khác nhau ở trong lớp và nhà trường. Đây là
15



những kỹ năng rất cần thiết với học sinh nói chung và các em học sinh ở trường
THPT Hà Văn Mao nói riêng vì hầu hết các em thường ít có cơ hội được trải
nghiệm những hoạt động có thể rèn luyện những kỹ năng như vậy.
Trên đây, tôi đã giới thiệu và xây dựng phương pháp trò chơi trong q
trình DHLS dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn. Từ đó nêu lên vị trí, đặc điểm và
những loại trò chơi thường được sử dụng để dạy học. Qua đó, tơi đã thiết kế
minh họa các trị chơi trong DHLS và cách thức sử dụng chúng trong một số chủ
đề, bài học cụ thể để chứng minh tính khả thi cho sáng kiến.
Cũng từ đó có thể khẳng định: Không phải phương pháp nào cũng là
phương pháp vạn năng, tối ưu mà mỗi một phương pháp có những ưu, nhược
điểm riêng. Vì vậy, mà giáo viên phải sử dụng linh hoạt các trò chơi sao cho phù
hợp với nội dung từng bài học, từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh và mục
đích đặt ra. Để làm được điều đó, giáo viên phải nắm vững nội dung chương
trình, cách thức tổ chức trò chơi, phạm vi sử dụng cũng như một số lưu ý khi sử
dụng phương pháp trị chơi học tập để giúp giáo viên có định hướng trong quá
trình DHLS một cách hiệu quả nhất. Những loại trị chơi mà tơi giới thiệu, đề
xuất trên đây là những trị chơi có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện dạy
học của đơn vị chúng tôi, khả năng tham gia của học sinh tại nhà trường. Lưu ý
khơng q lạm dụng trị chơi, mất q nhiều thời gian mà không đạt được mục
tiêu dạy học.
2.5. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục của bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường.
Để kiểm chứng tính hiệu quả, khả thi của sáng kiến đối với hoạt động
giáo dục tại trường THPT Hà Văn Mao, tôi đã tiến hành đối chứng cụ thể đối
với 2 lớp 11A4 và 11A7. Theo quan sát của tơi qua q trình giảng dạy, với mơn
Lịch sử thì đây là 2 lớp có những điểm tương đồng về khả năng tiếp thu bài học.
Sự tự giác, chủ động của các em trong học tập chưa tốt, khả năng tiếp thu có
nhiều hạn chế. Tôi dạy thực nghiệm giáo án dựa trên cơ sở áp dụng lồng ghép
một số trò chơi trong một số bài đối với học sinh ở lớp 11A7 song song với dạy
lớp đối chứng 11A4 bằng giáo án thường khơng sử dụng phương pháp trị chơi.

Sau khi áp dụng sẽ tiến hành kiểm tra để so sánh.
Cụ thể, sau khi học xong tiết thứ nhất của chủ đề: Nhân dân Việt Nam
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ( 1858 – 1884), nội dung: Quá
trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp ở cả 2 lớp đã nêu, tôi sẽ tiến hành
kiểm tra thông qua những câu hỏi trắc nghiệm. Sau khi thực hiện bài kiểm tra
tôi thu được kết quả sau:
* Về mặt định tính
Khi tiến hành thực nghiệm, qua quan sát khơng khí lớp học, tinh thần, thái
độ hứng thú của học sinh trong tiết học, tơi nhận thấy:
- Ở lớp đối chứng: khơng khí lớp học bình thường, khơng sơi nổi, học
sinh ít giơ tay phát biểu xây dựng bài, có phần thụ động quan sát, tiếp nhận kiến
thức.
- Ở lớp thực nghiệm: Qua quan sát, chúng tôi thấy học sinh rất hứng thú
16


với phương pháp trị chơi tơi đề xuất và thực nghiệm. Các em rất tích cực tham
gia vào các trị chơi, tích cực học tập, chủ động thể hiện khả năng, kĩ năng,
khơng khí lớp học gần gũi, cởi mở, nhẹ nhàng.
* Về mặt định lượng
Để đánh giá kết quả nhận thức của học sinh và có cơ sở để so sánh, đánh
giá tính hiệu quả của phương pháp đã áp dụng, tôi đã tiến hành kiểm tra hoạt
động nhận thức của học sinh qua bài kiểm tra 15 phút. Sau khi chấm bài theo
thang điểm đã quy định, tiến hành phân loại học sinh theo các mức sau: Điểm
giỏi: 8–10; Điểm khá: 7; Điểm trung bình: 5–6; Điểm yếu kém: dưới 5. Qua
kiểm tra tôi thu được kết quả như sau:
Bảng tổng hợp kết quả thực nghiệm
Lớp thực nghiệm (11A7)
Lớp đối chứng ( 11A4)
Điểm số

Số học sinh
Tỷ lệ (%)
Số học sinh
Tỷ lệ (%)
(40 HS)
(100%)
(39HS)
(100%)
Điểm giỏi
8
20
5
12,8
Điểm khá
22
55
16
41
Điểm TB
9
22,5
14
35,9
Điểm yếu
1
2,5
4
10,3
Biểu đồ thể hiện kết quả thực nghiệm và đối chứng ở trường
THPT Hà Văn Mao

60
50
40
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

30
20
10
0

Lớp thực nghiệm

Lớp đối chứng

Như vậy, qua kết quả kiểm tra trong thực nghiệm nhận thấy ở lớp thực
nghiệm, số điểm giỏi và khá nhiều hơn, điểm trung bình ít hơn và đặc biệt điểm
yếu rất ít. Kết quả này là chuyển biến tích cực so với cả chính bản thân lớp đó ở
những bài kiểm tra thông thường và là sự khác biệt rất rõ rệt với lớp đối chứng
khi kiểm tra cùng một nội dung. Điều này đã chứng tỏ hiệu quả bước đầu của
việc sử dụng lồng ghép phương pháp trò chơi trong dạy học.
17


Kết quả thực nghiệm cũng đã cho thấy trong các giờ học thực nghiệm,
học sinh học tập hứng thú hơn, ghi nhớ kiến thức nhanh và chính xác hơn,
những cảm xúc, suy nghĩ tích cực hơn tích cực hơn.
Kết quả thực nghiệm cũng đã chứng tỏ việc sử dụng phương pháp trị chơi

được tiến hành trong q trình thực nghiệm sư phạm có khả năng giúp học sinh
tăng cường mức độ hoạt động trong giờ học, tích cực tham gia vào tiến trình bài
học một cách tự giác, sáng tạo.
Ngồi kết quả thể hiện bằng số liệu cụ thể thì điều thu về lớn hơn, theo tơi
đó chính là nhận thức và suy nghĩ của học sinh về môn Lịch sử và việc học môn
Lịch sử. Việc học Lịch sử qua các trò chơi giúp học sinh giảm bớt áp lực ghi nhớ
thông tin như lâu nay các em vẫn ngại, cảm thấy Lịch sử thú vị hơn, gần gũi
hơn. Đã nhen nhóm lên những đốm lửa hồng tin yêu, bước đầu có những em đợi
chờ đến giờ học Lịch sử để được tham gia trò chơi. Dù mới chỉ dừng lại ở việc
đợi chờ giờ học để được chơi nhưng điều đó đã cho thấy khơng phải học sinh và
giới trẻ khơng thích hay “quay lưng” với mơn Lịch sử, thờ ơ với lịch sử dân tộc
mà chỉ do chưa có một cách thức tiếp cận phù hợp.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập trong sáng kiến
Từ việc giới thiệu, nghiên cứu về phương pháp sử dụng một số trò chơi
trong giảng dạy một số bài Lịch sử Việt Nam lớp 11, sáng kiến của tôi đã làm
nổi bật được những vấn đề quan trọng sau:
- Khẳng định được mục đích, vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc sử
dụng phương pháp trò chơi cho học sinh trong DHLS ở trường THPT.
- Đánh giá đúng thực trạng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong
đó đưa phương pháp trị chơi vào dạy học Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay
nói chung và ở trường THPT Hà Văn Mao nói riêng.
- Giới thiệu được một số phương pháp trị chơi phù hợp trong dạy học
Lịch sử tại nhà trường.
- Thiết kế các trò chơi Lịch sử vận dụng vào giảng dạy phần Lịch sử Việt
Nam lớp 11 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh góp phần nâng cao chất
lượng DHLS ở trường THPT mà trước hết là tại trường THPT Hà Văn Mao.
- Thực nghiệm sáng kiến, đưa ra kết quả đối chứng thuyết phục về tính
khả thi của sáng kiến.
- Có phụ lục để minh chứng cho sáng kiến.

3.2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến nếu được triển khai, áp dụng trong
DHLS
Với những vấn đề đã tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, sáng kiến đã bước
đầu đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
nội lực, tính tích cực của học sinh dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên
nhằm bồi dưỡng cho các em các kĩ năng quan trọng trong học tập nói chung và
học tập mơn Lịch sử nói riêng.
Từ những lí do nêu trên có thể khẳng định: nếu học sinh được trải nghiệm
18


phương pháp học tập thú vị này sẽ thêm yêu thích mơn Lịch sử, bớt định kiến
đây là mơn học khơ khan hay nhàm chán. Từ đó chất lượng dạy học bộ môn sẽ
được nâng cao.
3.3. Kiến nghị
Để tạo điều kiện cho đổi mới PPDH nói chung và PPDH mơn Lịch sử nói
riêng đạt được hiệu quả cao. Bản thân tơi có những kiến nghị như sau:
* Đối với các cấp quản lí
Tổ chức biên soạn tài liệu về sử dụng có hiệu quả phương pháp và kỹ
thuật dạy học. Cung cấp tài liệu về những phương pháp và kĩ thuật dạy học mới.
Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên về kĩ thuật, phương pháp dạy
học cho đội ngũ giáo viên cốt cán.
* Đối với nhà trường phổ thông
Hỗ trợ cho giáo viên các trang thiết bị phục vụ cho dạy học để tạo điều
kiện cho công tác giảng dạy cũng như tổ chức hoạt động ngoại khóa, kiểm tra,
đánh giá được thuận lợi.
Mỗi nhà trường phổ thông nên có hội đồng tư vấn bộ mơn để thường
xun tổ chức các lớp huấn luyện, bồi dưỡng về đổi mới PPDH cho giáo viên.
Tổ chức hoạt động ngoại khóa cho học sinh tìm hiểu lịch sử từ thực tế như tham
quan di tích lịch sử. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử theo chủ đề, sinh

hoạt ngoại khóa các dịp kỉ niệm ngày lễ lớn của dân tộc.
Tổ chức sân chơi, giao lưu học sinh giỏi giữa các trường có phần tham gia
của mơn Lịch sử.
* Đối với giáo viên
Trước hết cần nắm vững chương trình, nội dung sách giáo khoa, lựa chọn
phương pháp, áp dụng phương pháp trò chơi trong DHLS phù họp với nội dung
kiến thức, phù hợp với kiểu bài và đối tượng học sinh.
Giáo viên cần nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của việc đổi mới và
vận dụng phương pháp trò chơi trong DHLS.
Giáo viên cần tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ,
đầu tư xứng đáng về thời gian, trí tuệ cho hoạt động chuyên môn để mang lại
những giờ học thú vị đối với học sinh .
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG

Bá Thước, ngày 18 tháng 05năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tôi
viết, khơng sao chép của người khác
NGƯỜI VIẾT SKKN
Hà Thị Hồi

19



×