Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Định tội danh từ thực tiễn huyện cần đước, tỉnh long an”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.47 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THIỆN TÂM

ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN ĐƯỚC,
TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THIỆN TÂM

ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN ĐƯỚC,
TỈNH LONG AN
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn là kết quả q trình tìm tịi nghiên cứu!
Người cam đoan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH .............................. 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của định tội danh. .................. 5
1.2. Căn cứ của việc định tội danh .................................................................. 15
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc định tội danh ..................................... 19
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CẦN ĐƯỚC, TỈNH LONG AN .................................................... 24
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại địa phương .............. 24
2.2. Thực tiễn định tội danh tại Tòa an nhân dân huyện Cần Đước ............... 25
Chương 3 CÁC YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH............................................................. 46
3.1. Các yêu cầu nhằm đảm bảo chất lượng của việc định tội danh ............... 46
3.2. Một số giải pháp ....................................................................................... 47
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bợ luật hình sự
BLTTHS: Bợ luật tố tụng hình sự
CTTP: Cấu thành tợi phạm

ĐTD: Định tợi danh
TAND: Tịa án nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. sẽ cung cấp thông tin tình hình số thụ lý, xét xử tại TAND
huyện Cần Đước trong giai đoạn từ năm 2014 – 2018 ................................... 25
Bảng 2.2. Tổng hợp thụ lý xét xử án hình sự đối với các nhóm tợi năm
2014 ................................................................................................................. 26
Bảng 2.3. Tổng hợp thụ lý xét xử án hình sự đối với các nhóm tợi năm
2015 ................................................................................................................. 26
Bảng 2.4. Tổng hợp thụ lý xét xử án hình sự đối với các nhóm tợi năm
2016 ................................................................................................................. 27
Bảng 2.5. Tổng hợp thụ lý xét xử án hình sự đối với các nhóm tội năm
2017 ................................................................................................................. 27
Bảng 2.6. Tổng hợp thụ lý xét xử án hình sự đối với các nhóm tợi năm
2018 ................................................................................................................. 28
Bảng 2.7. Bảng thống kê kết quả giải quyết các vụ án từ năm 20142018 tại tòa án nhân dân huyện Cần Đước ..................................................... 29


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi có mợt hành vi gây nguy hại xảy ra trên thực tế, do cá nhân hay
pháp nhân thương mại gây ra, để xác định có phải là tợi phạm hay khơng phải
là tợi phạm được quy định trong Bợ luật Hình sự (Viết tắt BLHS), thì phải trải
qua hoạt đợng định tợi danh. Hoạt động định tội danh, diễn ra trong suốt quá
trình tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự gồm các
giai đoạn: Điều tra, truy tố và xét xử. Qua đó, có thể khẳng định rằng: Hoạt
đợng định tợi danh có vai trị rất quan trọng trong suốt quá trình tiến hành tố
tụng đối với mợt vụ án hình sự. Vì, định tợi danh đúng là cơ sở cho cơ quan

tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phân hóa trách nhiệm hình sự, cá
thể hóa trách nhiệm hình sự, áp dụng các tình tiết loại trừ tính chất tợi phạm
của hành vi, hình phạt, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội,
án treo, tái phạm, thẩm quyền tiến hành tố tụng và việc áp dụng các quy định
của Bộ luật Tố tụng Hình sự… mợt cách cơng bằng, khách quan và có căn cứ
pháp luật. Ngược lại, nếu định tợi danh sai, thì sẽ có hậu quả pháp lý xảy ra
như: làm oan người vô tội, bỏ lọt hành vi phạm tợi, quyết định hình phạt
khơng tương xứng với hành vi phạm tợi…Trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hợi chủ nghĩa Việt Nam, thì việc hồn thiện các chính
sách pháp luật là mợt u cầu tất yếu và khách quan. Trong lĩnh vực khoa học
tư pháp hình sự, hoạt động định tội danh là một trong nhiều hướng cơ bản và
cần thiết nhất.
Từ thực tiễn xét xử của TAND huyện Cần Đước, đối với các vụ án hình
sự trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, cịn có rất nhiều vụ án hình sự
khi xét xử thì định tợi danh giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát với Tòa án
chưa thống nhất hoặc giữa Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cũng có
khác nhau, phần nào làm ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng tại địa phương.
Từ thực tiễn đó, lý giải cho việc tôi chọn đề tài: “Định tội danh từ thực
1


tiễn huyện Cần Đước, tỉnh Long An” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học pháp lý hình sự nước ta, đã có rất nhiều cơng trình sách
chun khảo nghiên cứu về định tợi danh như: “Giáo trình lý luận định tội”,
Đại học Huế của tác giả Võ Khánh Vinh; “Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn
mẫu và 350 bài thực hành”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2004 của
PGS.TSKH Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản; “Định tội danh và quyết định hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam”, NXB Công an nhân dân, 2004 của TS. Lê
Văn Đệ; “Tội phạm và cấu thành tội phạm”, NXB Công an nhân dân, Hà Nợi

2008 của GS.TS Nguyễn Ngọc Hịa; “Định tội danh và quyết định hình phạt”,
NXB Cơng an nhân dân, 2004 của TS. Dương Tuyết Miên; “Lý luận chung về
định tội danh”, NXB khoa học xã hội, 2013 của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ
biên; “Định tội danh – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tịa án
nhân dân các số 3, 4, 5, 8, 11 của PGS.TS Lê Cảm; “Định tội danh theo các
dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm”, Tạp chí Tòa án nhân dân số
21 năm 2018 của TS Mai Bộ; “Một số vấn đề vướng mắc trong việc định tội
và định khung hình phạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Tịa
án nhân dân số 21 năm 2018 của TS Phạm Minh Tuyên …Ngoài ra, cịn có
các sách bình luận về các tợi phạm cụ thể được quy định trong Bợ luật Hình
sự hiện hành, các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật. Những nghiên cứu của
những tác giả trên, đã làm rõ được một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt
động định tợi danh và thực tiễn định tợi; phân tích, đánh giá và nhận định liên
quan đến yếu tố định tội danh; phân biệt giữa một số tội phạm quy định trong
Bợ luật Hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu
về định tợi danh theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An
nói chung và huyện Cần Đước nói riêng để tìm ra những vướng mắc, bất cập
và những thành tựu đạt được để đảm bảo đúng cho hoạt động định tội danh.
2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về định tội danh nói chung và
thực tiễn định tợi danh từ hụn Cần Đước, tỉnh Long An, luận văn sẽ đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và đề ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả cho hoạt động định tội danh đúng từ thực tiễn
của địa phương.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về định tội danh.
+ Đánh giá thực tiễn định tội từ huyện Cần Đước, tỉnh Long An trong

hoạt đợng xét xử của Tịa án.
+ Đưa ra những giải pháp để hoàn thiện pháp luật hình sự về định tợi
danh và giải pháp đảm bảo định tội danh đúng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận về định tội danh, nghiên cứu trong phạm
vi các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
(Gọi tắt là BLHS năm 1999) đối chiếu với Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi,
bổ sung năm 2017 (Gọi tắt BLHS năm 2015) và việc áp dụng các quy định đó
trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự cụ thể. Trong đó, chú
trọng đến hoạt đợng xét xử của Tịa án đối với án hình sự. Trên cơ sở đó đưa
ra các giải pháp hồn thiện pháp luật hình sự và những giải pháp nâng cao
hiệu quả định tội danh.
- Thời gian nghiên cứu khảo sát: Từ năm 2014 đến năm 2018, những số
liệu chứng minh trong luận văn và những vụ án viện dẫn cụ thể đã được xét
xử theo trình tự sơ thẩm hoặc phúc thẩm hay giám đốc thẩm, đã có hiệu lực
pháp luật là chính xác và có thật.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã vận dụng: Cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
3


Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước về các chính
sách pháp luật; cơng tác đấu tranh phịng chống tợi phạm từ thực tiễn xét xử
của TAND huyện Cần Đước, tỉnh Long An trong giai đoạn từ năm 2014 đến
năm 2018.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Thống kê,
so sánh, phân tích, điển hình, tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết
định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết hàng năm của đơn vị. Các phương
pháp này được vận dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển suốt trong quá trình
nghiên cứu nhằm đạt được kết quả cao nhất.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu, để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn định tội danh là một trong nhiều hướng cơ bản và cần thiết của khoa
học về lĩnh vực tư pháp hình sự. Điều này có ý nghĩa: Nhằm làm rõ các khía
cạnh về định tợi danh trong hoạt đợng tố tụng hình sự trên địa bàn huyện Cần
Đước, tỉnh Long An nói riêng và góp phần xây dựng, hồn thiện lý thuyết
định tợi danh trong khoa học pháp lý hình sự.
Luận văn này, được dùng làm tài liệu nghiên cứu xây dựng và hoàn
thiện pháp luật; dùng làm tài liệu tham khảo trong hoạt đợng tố tụng nói
chung và hoạt đợng xét xử án hình sự của Tịa án nói riêng đạt được kết quả
đúng đắn hơn trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về định tội danh.
Chương 2: Thực tiễn định tợi danh tại Tịa án nhân dân huyện Cần
Đước, tỉnh Long An.
Chương 3: Các yêu cầu và một số giải pháp đảm bảo định tội danh
đúng.
4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của định tội danh
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Định tội danh, là một trong các giai đoạn cơ bản của quá trình áp dụng
pháp luật. Áp dụng pháp luật, là mợt quá trình phức tạp được tiến hành qua
nhiều giai đoạn khác nhau như: giải thích pháp luật, xác định hiệu lực pháp
luật (cả về mặt không gian và thời gian), định tợi danh, quyết định hình phạt,

miễn trách nhiệm hình sự... Cịn định tợi danh, là cách thức đưa các quy phạm
pháp luật hình sự vào c̣c sống và cịn là cơ sở cho việc áp dụng các quy
phạm pháp khác của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, cho đến nay khái niệm và đặc điểm định tội danh, cũng chưa được quy
định trong luật hình sự, mà hiện cịn có nhiều quan điểm dưới góc đợ nghiên
cứu của các chun gia pháp luật như:
Quan điểm thứ nhất: Trong “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” của
PGS.TSKH Lê Cảm cho rằng: “Định tội danh là q trình nhận thức lý luận
có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng
như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các
tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự
phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện
với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định
nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội
phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa
trách nhiệm hình sự một cách cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [9, tr
716]. Theo quan điểm trên, định tội danh trước tiên là q trình nhận thức lý
luận và phải mang tính logic. Điều đó có nghĩa là, khi tiến hành định tợi danh
phải tuân theo các quy luật nhận thức nhất định, là hoạt động thực tiễn áp
5


dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự. Hoạt đợng này là
do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo quy định; được tiến hành trên cơ
sở các chứng cứ, các tài liệu đã thu thập được; các tình tiết khách quan của vụ
án hình sự được thu thập theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Qua đó, để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tợi phạm tương ứng do luật
hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan.
Quan điểm thứ hai: Trong “Giáo trình lý luận chung về định tội danh”

của GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: “Định tội danh là việc xác định và ghi
nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi
phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự” [27, tr 4]. Theo quan
điểm này, thì định tợi danh là việc xác nhận và ghi nhận sự phù hợp giữa
những trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một cấu
thành tội phạm được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự (Phần các tợi
phạm trong BLHS), đó là việc đánh giá nhất định về mặt pháp lý đối với một
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Quan điểm này, chưa phản ánh được hoạt đợng
định tợi danh là mợt q trình nhận thức mang tính logic, định tợi danh phải
dựa trên những cơ sở nào và nhằm mục đích gì.
Quan điểm thứ ba: Trong “Giáo trình luật hình sự Việt Nam – quyển
2” của TS Phạm Văn Beo cho rằng: “Định tội danh là việc xác nhận về mặt
pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ
thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng
được quy định trong Bộ luật Hình sự” [1, tr 5]. Theo quan điểm này, thì định
tợi danh là việc xác định một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội cụ thể, đã
thực hiện và thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của mợt tợi phạm cụ thể nào đó
trong số các tội phạm được quy định trong BLHS. Quan điểm này, để định tội
6


danh cho mợt hành vi cụ thể, thì người áp dụng pháp luật hình sự phải căn cứ
vào các cấu thành tội phạm được rút ra từ những quy định của BLHS. Nếu
một hành vi phạm tội phù hợp với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
cụ thể được quy định trong BLHS, thì hành vi đó được xác định theo tợi danh
của cấu thành tợi phạm đó.
Như vậy, 03 quan điểm trên đã đưa ra các khái niệm định tợi danh là
khác nhau. Trong đó, quan điểm thứ hai và quan điểm thứ ba chưa thể hiện
được căn cứ của việc định tội danh được thực hiện trên cơ sở nào và cũng

chưa phản ánh định tội danh đó là mợt q trình nhận thức có tính logic. Theo
tôi, quan điểm thứ nhất là đầy đủ và có cơ sở hơn, bởi các lý do sau:
- Thứ nhất, định tợi danh là q trình nhận thức: Định tợi danh là mợt
hoạt đợng nhận thức, tư duy có tính logic và chặt chẽ; là mợt q trình nhận
thức từ những vấn đề đã biết để xác định những vấn đề chưa biết và q trình
đó dựa trên cơ sở sử dụng các phương pháp nhận thức như: quan sát, phân
tích tổng hợp, so sánh và cùng các quy luật của logic học như: quy luật đồng
nhất, quy luật mâu thuẫn… Quá trình nhận thức đó bao gồm: làm rõ sự thật
khách quan, lựa chọn quy phạm pháp luật, đánh giá vụ án trên cơ sở khoa học
pháp lý. Quá trình này được hiểu là quy trình tố tụng hình sự và phải thực
hiện các bước tiến hành tố tụng do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
- Thứ hai, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật, là một dạng
của hoạt động áp dụng pháp luật: Định tội danh được hiểu là việc xác định
bằng thủ tục hình sự, sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được
thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự
quy định (Cấu thành tợi phạm có ý nghĩa, vai trị như thế nào với định tợi
danh sẽ được phân tích trong phần sau). Hoạt đợng định tợi danh của người
tiến hành tố tụng có những nét riệng biệt, đặc thù. Nó tùy tḥc vào chức
năng tố tụng mà họ thực hiện như: Điều tra viên, trong giai đoạn điều tra vụ
7


án thì phạm vi định tợi danh rất rợng; Kiểm sát viên, trong phạm vi hoạt động
của Viện kiểm sát thì khá rợng, nhưng khi định tợi danh vẫn bị giới hạn bởi
những chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập trước đó có trong hồ sơ vụ án;
Thẩm phán, Hợi thẩm nhân dân có phạm vi hoạt đợng định tợi danh hẹp hơn
tất cả, vì chỉ được định tội danh đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã bị Viện kiểm sát truy tố và bởi giới hạn xét xử của pháp luật tố tụng hình
sự.
- Thứ ba, định tội danh là sự đánh giá pháp lý hình sự đối với mợt hành

vi nguy hiểm cho xã hợi và phải do người có thẩm quyền xem xét. Xác định
hành vi nguy hiểm đó được quy định tại điều khoản nào trong BLHS. Đây là
kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật, định tội danh là đánh giá pháp lý
hình sự của mợt chủ thể đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được
thực hiện trên thực tế có phải là tợi phạm hay khơng. Nghĩa là, kết luận hành
vi nguy hiểm đó là hành vi gì và được quy định tại điểm, khoản, điều nào
trong BLHS.
Như vậy, có thể hiểu: Định tợi danh, đó là mợt q trình nhận thức
mang tính logic, một dạng hoạt động của thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự được tiến hành bằng cách: trên cơ sở các chứng cứ, các tài
liệu thu thập được, xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật
hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan của vụ việc.
Định tội danh là một quá trình gồm các bước sau:
- Bước thứ nhất: Xác định các tình tiết thực tế của vụ án. Đó là quá
trình xem xét, đánh giá tất cả các chứng cứ của vụ án để tìm ra sự thật khách
quan và chỉ trên cơ sở những tình tiết khách quan đó, việc định tội danh mới
được tiến hành. Việc thu thập các tình tiết của vụ án phải đảm bảo tính đầy
đủ, tính tồn diện và tính liên quan đến vụ án. Đồng thời, việc thu thập các
8


tình tiết khách quan địi hỏi phải chính xác, trung thực, khách quan, khoa học
và người có thẩm quyền để định tợi danh phải giải thích được những mâu
thuẫn giữa các chứng cứ có trong vụ án hình sự để làm sáng tỏ vụ việc.
- Bước thứ hai: Phải có nhận thức đúng và đầy đủ các nội dung của các
điều luật đã được quy định trong BLHS. Bước này địi hỏi người định tợi
danh phải có sự hiểu biết và nhận thức đúng đắn, sâu sắc về các quy định của
BLHS (kể cả Phần chung và Phần các tội phạm cụ thể) cũng như những văn
bản dưới luật có liên quan như Thông tư, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao, án lệ, giải đáp và những hướng dẫn áp dụng
pháp luật. Yêu cầu đặt ra đối với việc nhận thức đúng nội dung của các quy
định trong BLHS là cần nắm vững quy định của pháp luật hình sự về các tợi
phạm cụ thể, các cặp cấu thành tội phạm (viết tắt CTTP) có mối quan hệ đặc
biệt. Đồng thời, phải dự kiến tất cả các CTTP có thể là căn cứ pháp lý đối với
hành vi phạm tội cụ thể.
- Bước thứ ba: Xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu thực tế và các
dấu hiệu được quy định trong luật. Theo trình tự từ bước thứ nhất, bước thứ
hai, người có thẩm quyền để định tợi danh sẽ xem xét, đối chiếu các tình tiết
của vụ án với các dấu hiệu của CTTP cụ thể được quy định trong luật. Nếu
hồn tồn phù hợp, thì phải kết luận hành vi đã thực hiện phạm tợi đó chứ
khơng phải phạm tợi nào khác được. Ngược lại, nếu khơng phù hợp, thì phải
xem xét hành vi này có thỏa mãn tợi khác khơng? Hay hành vi đó khơng phải
là tợi phạm. Khi đối chiếu sự phù hợp giữa hành vi thực tế với CTTP cần chú
ý: Phải kiểm tra với từng hành vi mà chủ thể đã thực hiện (nếu vụ án có đồng
phạm, thì phải bắt đầu kiểm tra hành vi của người thực hành); lần lượt kiểm
tra, đối chiếu với từng CTTP cụ thể, CTTP cơ bản tương ứng; kiểm tra các
quy định của pháp luật hình sự (kể cả Phần chung và Phần các tội phạm) liên
quan đến một CTTP, việc kiểm tra được tiến hành trên cơ sở lần lượt các yếu
9


tố CTTP: khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể.
- Bước thứ tư: Kết luận: Trong từng giai đoạn tố tụng của từng cơ quan
tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự thì sẽ kết luận về hành vi phạm tợi gì,
phải ban hành các văn bản tố tụng khác nhau và phải tương ứng với từng giai
đoạn tố tụng. Người định tội danh sẽ kết luận về tên tội danh (điều luật cần áp
dụng) và kết luận về loại CTTP cần áp dụng đó là: CTTP cơ bản, CTTP tăng
nặng, CTTP giảm nhẹ, khoản cần áp dụng.
1.1.2. Đặc điểm của định tội danh

Từ khái niệm nêu trên cho thấy hoạt động định tội danh có các đặc
điểm sau:
Thứ nhất, định tợi danh là hoạt động tiến hành tố tụng được tiến hành
bởi các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tồ án)
và mợt số cơ quan khác có được giao nhiệm vụ theo quy định.
Thứ hai, việc định tội danh được tiến hành trên cơ sở áp dụng pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Chủ thể định tội danh lựa chọn các quy
phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hợi cụ
thể nào đó được thực hiện bởi cá nhân, pháp nhân trong thực tế khách quan.
Thứ ba, hoạt động định tội danh là hoạt động đối chiếu sự phù hợp
giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với dấu hiệu pháp lí của cấu
thành tợi phạm được mơ tả trong BLHS. Hoạt đợng này chính là việc xác định
xem dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thể hiện có phù hợp với
dấu hiệu cấu thành tợi phạm cụ thể do điều luật tương ứng trong Phần tội
phạm BLHS quy định khơng; trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về
mặt pháp lý hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xảy ra
trong thực tế khách quan.
Thứ tư, sau khi đối chiếu sự phù hợp giữa dấu hiệu thực tế của cấu
thành tợi phạm với dấu hiệu pháp lí của cấu thành tội phạm được mô tả trong
10


luật hình sự thì trong từng giai đoạn tố tụng cụ thể, cơ quan có thẩm quyền sẽ
đưa ra kết luận người đó phạm vào tợi gì theo điều luật nào của BLHS bằng
việc ra một quyết định, bản án như: Kết thúc giai đoạn điều tra Cơ quan cảnh
sát điều tra ra bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát ra bản cáo trạng hay Tòa án
ra bản án...
Như vậy, định tội danh phải dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản của tội
phạm cụ thể. Định tội danh phải được tiến hành trước, trên cơ sở đó mới có
thể tiến hành được việc quyết định hình phạt. Chủ thể của hoạt động định tội

danh do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án và mợt số cơ quan khác có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành.
1.1.3. Phân loại định tội danh
Như đã tìm hiểu ở phần trên, thì hoạt đợng định tợi danh phải do các
chủ thể là những người tiến hành tố tụng được Nhà nước giao quyền như:
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (Những người
tiến hành tố tụng này định tội danh nhằm phục vụ cho hoạt đợng tố tụng mà
họ phải có trách nhiệm thi hành). Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn có các chủ thể
khác cũng định tội danh như: Nhà luật học, Luật sư, Giảng viên luật, Sinh
viên luật, Nhà báo hay bất kỳ cơng dân nào có kiến thức hay kinh nghiệm về
pháp luật thì cũng có thể định tợi danh (họ định tội danh không nhằm phục vụ
cho hoạt động tố tụng).
Tất cả các chủ thể định tội danh trên đều có chung đặc điểm: Khi tiến
hành định tợi danh cũng thực hiện việc lựa chọn và so sánh các dấu hiệu của
quy phạm pháp luật với thực tế khách quan để làm cơ sở cho sự xác định sự
phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với cấu thành tội phạm cụ thể.
Tuy nhiên, những người tiến hành tố tụng khi tiến hành định tội danh sẽ có ưu
thế hơn so với các chủ thể khác đó là: họ có điều kiện tiếp cận để nắm chính
xác, cụ thể các tình tiết khách quan của vụ án, vì vậy việc định tợi danh của
11


họ sẽ chính xác và phản ánh được bản chất của vụ án hình sự. Kết quả pháp lý
của việc định tội danh, do mỗi chủ thể tiến hành khác nhau, thì sẽ có hậu quả
pháp lý khác nhau như: Nếu việc định tội danh, do người tiến hành tố tụng
thực hiện để làm cơ sở khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, bắt đầu quá trình
điều tra, truy tố và xét xử; cịn việc định tợi danh do Nhà luật học, Luật sư,
Nhà báo, Giảng viên luật, Sinh viên luật… tiến hành thì khơng làm phát sinh
hậu quả pháp lý như trên, mà chỉ dừng lại ở việc thể hiện quan điểm pháp lý,
ý kiến cá nhân nhưng cũng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu

pháp luật. Như vậy, căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh và hậu quả
pháp lý của việc định tợi danh, có hai loại định tợi danh như sau:
- Loại thứ nhất, định tợi danh chính thức: Là hoạt động xác định tội
danh trong một vụ án hình sự cụ thể, do người tiến hành tố tụng thực hiện
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Là sự đánh giá chính thức của
Nhà nước mang tính chất pháp lý hình sự đối với mợt hành vi phạm tội cụ thể
do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Hậu quả pháp lý của việc định tội
danh này, là người đã thực hiện hành vi phạm tợi sẽ bị áp dụng các biện pháp
hình sự đối với họ.
- Loại thứ hai, định tội danh khơng chính thức: Là sự đánh giá pháp lý
về hành vi phạm tội do nhà Luật học, Luật sư, Nhà báo, Giảng viên luật, sinh
viên luật hoặc của bất kỳ mợt người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể vụ án
này hay vụ án khác đưa ra. Hậu quả, là không gây ra hậu quả pháp lý đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tợi. Nó chỉ dừng lại ở sự đánh giá về mặt
khoa học của các chủ thể khác nhau, thể hiện quan điểm khoa học, nhận thức
của mình về mợt hành vi phạm tợi trên thực tế. Đây là loại định tợi có ý nghĩa
quan trọng trong q trình nghiên cứu pháp luật, mợt phương pháp nhận thức
luật pháp. Hiện nay, trong công cuộc đấu tranh, phịng chống tợi phạm của
Đảng và Nhà nước ta thì hoạt đợng định tợi danh khơng chính thức cũng đã
12


góp phần tạo thành dư luận xã hợi có ý nghĩa rất quan trọng.
Tóm lại, định tợi danh chính thức và định tợi danh khơng chính thức,
đều tiến hành sự lựa chọn, đối chiếu các dấu hiệu của quy phạm pháp luật
hình sự với trường hợp phạm tợi cụ thể đã xảy ra trong đời sống xã hội, là sự
xác định sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể
đã được thực hiện với các dấu hiệu CTTP được quy định trong pháp luật hình
sự.
1.1.4. Ý nghĩa của định tội danh

Trong hoạt đợng tiến hành tố tụng đối với mợt vụ án hình sự qua các
giai đoạn tố tụng như: điều tra, truy tố và xét xử thì định tợi danh có ý nghĩa
quan trọng đối với từng giai đoạn tố tụng, điều đó được thể hiện các mặt sau:
- Định tợi danh đúng nhằm bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của Nhà
nước và của công dân, thực hiện đúng các chủ trương của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước. Việc nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của luật
hình sự trong khi định tợi danh là điều kiện cần thiết và có tầm quan trọng
trong việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Qua đó, nhằm trấn áp
kịp thời và tiến đến đẩy lùi được tình hình tợi phạm đã và đang xảy ra ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu lý luận về định tợi danh, có ý nghĩa quan trọng cho việc
góp phần hồn thiện về lý luận pháp luật hình sự. Làm cơ sở trang bị cho
người tiến hành tố tụng những kiến thức cần thiết, giúp họ nắm được cơ sở lý
luận quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Hiểu và vận dụng
đúng lý luận định tội danh là một yêu cầu cần thiết đối với những người tiến
hành tố tụng trong lĩnh vực hình sự.
- Định tợi danh có ý nghĩa quyết định trong vụ án hình sự: Đó là cơ sở
để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tợi hoặc pháp nhân thương mại; xác định người phạm tội
13


hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi phạm tợi gì, quy định tại
điểm, khoản và điều nào trong BLHS; qua đó, người tiến hành tố tụng sẽ
quyết định mợt hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tợi. Định tợi danh
đúng, cịn là điều kiện đảm bảo cho việc áp dụng các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự như: thời hạn tố tụng, các biện pháp ngăn chặn, thẩm quyền
giải quyết… Trên cơ sở đó, định tợi danh đúng sẽ góp phần bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân nói riêng và quyền con người nói chung.
- Định tợi danh đúng cũng chính là đảm bảo pháp chế xã hợi chủ nghĩa,

thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với người phạm tội hoặc pháp
nhân thương mại được quy định trong BLHS. Do vậy, định tợi danh đúng
chính là sự thể hiện hoạt đợng có hiệu quả, ý thức tuân theo pháp luật triệt để
cũng như trách nhiệm trong hoạt đợng nghề nghiệp của các cơ quan có thẩm
quyền. Qua đó, góp phần nâng cao uy tín, chất lượng hoạt động của các cơ
quan này cũng như hỗ trợ cho việc củng cố và tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
- Định tội danh đúng sẽ đảm bảo tính cơng bằng xã hợi và tính dân chủ.
Tính cơng bằng trong định tội danh, là cần phải đúng, đủ và chính xác. Định
tợi danh đúng, có nghĩa là phản ánh đúng bản chất của tội phạm về mặt pháp
luật và chính trị - xã hợi, xác định sự phù hợp của hành vi phạm tội đã thực
hiện với các dấu hiệu của mợt CTTP cụ thể, tn thủ chính xác các quy định
của pháp luật hình sự, phản ánh sự đánh giá pháp lý của Nhà nước đối với tội
phạm đã thực hiện. Yêu cầu của nguyên tắc công bằng, là định tội danh phải
đầy đủ những hành vi phạm tợi đã thực hiện, có bao nhiêu hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã thực hiện được quy định trong BLHS là tợi phạm thì phải định
tợi danh đầy đủ.
- Định tợi danh đúng cịn là tiền đề cho việc xác định khung hình phạt
và quyết định hình phạt đúng. Đảm bảo cho hoạt động xét xử đúng người,
14


đúng tội, đúng pháp luật, không xử xử làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm. Ngược lại, định tội danh sai sẽ dẫn đến xét xử oan, sai, làm giảm uy
tính của các cơ quan tư pháp, làm giảm hiệu quả của cơng c̣c đấu tranh
phịng và chống tội phạm, vi phạm pháp chế. Hậu quả tất yếu của định tợi
danh sai, là quyết định hình phạt khơng nghiêm, không tương xứng với hành
vi phạm tội, làm cho hình phạt đã tun khơng phù hợp với tính chất, mức độ
của hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm cho người phạm tội hoặc pháp nhân
thương mại không nhận thấy được lỗi do hành vi của mình đã gây ra cho xã

hợi, từ đó khơng tự giác tn thủ pháp luật; định tội danh sai sẽ không thuyết
phục quần chúng nhân dân về tính đúng đắn và tính nghiêm minh của bản án,
quyết định sẽ làm giảm tính tuyên truyền và tính giáo dục pháp luật trong
nhân dân.
Tóm lại, định tợi danh có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hợi và pháp lý
đó là: đảm bảo quyền con người và tính cơng bằng xã hợi; là kênh hiện thực
hóa chính sách hình sự vào thực tiễn; là yếu tố bảo đảm chính xác tình hình
tợi phạm trong một không gian, thời gian nhất định.
1.2. Căn cứ của việc định tội danh
1.2.1. Căn cứ pháp lý
Căn cứ pháp lý của định tợi danh có thể được hiểu là tồn bợ các quy
định của pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề định tội danh đối với tội
phạm. Theo quan điểm của các nhà khoa học pháp lý hình sự Việt Nam hiện
nay, có thể có hai cách tiếp cận đối với vấn đề cơ sở pháp lý của định tội
danh: một cách tiếp cận theo nghĩa hẹp và cách tiếp cận kia theo nghĩa rộng.
Cụ thể, quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm như sau:“Ở khía cạnh rộng
thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh làhệ thống các quy phạm
pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở duy nhất (trực tiếp), cũng như hệ
thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý
15


bổ trợ (gián tiếp) cho tồn bộ q trình xác định các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm.
Khía cạnh hẹp thì căn cứ pháp lý của việc định tội danh là chỉ có hệ
thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất
(trực tiếp) cho tồn bộ q trình xác định dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội được thực hiện là tội phạm”[10, tr 120].
Trong hai cách tiếp cận nêu trên, theo quan điểm của tác giả thì hướng
tiếp cận theo nghĩa rợng là hợp lý hơn vì nó cho phép đánh giá mợt cách tồn

diện các quy định pháp luật làm nền tảng cho việc định tội danh trên cả hai
phương diện nợi dung và hình thức. Mặt khác, cũng cần thấy rằng: các quy
định của pháp luật hình sự không thể áp dụng được nếu thiếu quy định của
pháp luật tố tụng hình sự. Thực tiễn đã chứng minh: các quan hệ pháp luật
hình sự ln phải được tồn tại trong những hình thức tố tụng nhất định. Do
đó, định tợi danh, với nghĩa là sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội, phải được đánh trên cả hai phương diện: pháp luật hình
sự và pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Về phương diện pháp luật hình sự,
chủ thể định tội danh phải đưa ra kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hợi có
thỏa mãn quy định của Bợ luật hình sự hay khơng. Về phương diện pháp luật
tố tụng hình sự, cần chỉ rõ việc xác định tội danh được phản ánh trong quyết
định hay văn bản pháp luật tố tụng hình sự nào.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu căn cứ pháp lý của việc
định tội danh là những quy phạm pháp luật hình sự được quy định trong
BLHS với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho toàn bợ quá trình
xác định dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội
phạm. Các văn bản pháp luật hình sự khác chỉ là văn bản dưới luật làm nhiệm
vụ hướng dẫn, giải thích BLHS để đảm bảo cho việc áp dụng quy định pháp
luật được đúng đắn, chính xác và hiệu quả trong thực tiễn.
16


1.2.2. Căn cứ khoa học
Định tội danh là hoạt động nhận thức mang tính logic. Để hoạt đợng
nhận thức này được tiến hành một cách hiệu quả, chủ thể nhận thức không chỉ
đơn giản là căn cứ vào các điều luật của Bợ luật hình sự mà cịn cần phải dựa
trên cơ sở lý luận khoa học về mơ hình pháp lý của tội phạm cụ thể mà hoạt
động định tợi danh hướng tới. Mơ hình pháp lý về tợi phạm cụ thể mà chủ thể
định tội danh dựa vào được gọi là cơ sở lý luận của việc định tội danh.
Khái niệm về tội phạm đã được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 8 của

Bợ luật Hình sự. Để mơ tả và luật hóa hành vi này, khoa học luật hình sự sử
dụng phương pháp điển hình hóa thơng qua các dấu hiệu pháp lý đặc trưng.
Tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho tội phạm được quy định trong
Bợ luật Hình sự được gọi là cấu thành tợi phạm.
Cấu thành tợi phạm phải có đầy đủ 04 yếu tố: yếu tố khách thể, yếu tố
chủ thể, yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan:
- Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ,
bị tợi phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.
- Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của bên ngồi tợi
phạm.Mặt khách quan bao gồm các dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội,
hậu quả tác hại do tội phạm gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy
hiểm và hậu quả do hành vi đó gây ra; thời gian, địa điểm; cơng cụ phương
tiện thực hiện tội phạm. v.v
- Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của tội
phạm, là thái độ tâm lý của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm gồm
các dấu hiệu lỗi, động cơ, mục đích của tợi phạm.
- Chủ thể của tợi phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi phạm tợi
,mà theo quy định của Luật Hình sự họ phải chịu trách nhiệm về hành vi
đó.Chủ thể của tợi phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và
17


đủ đợ tuổi theo quy định của pháp luật Hình sự.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay,
để có cơ sở đầy đủ và đảm bảo sức thuyết phục trong việc khẳng định rằng,
CTTP là cơ sở pháp lý của việc định tợi danh,thì dưới đây chúng ta cần
nghiên cứu để đảm bảo sự nhận thức thống nhất về bản chất và chỉ ra được
nội hàm của lý luận về CTTP như: các đặc điểm và chức năng của CTTP.
CTTP có 03 đặc điểm bao gồm: do luật định, có tính đặc trưng và mang tính
bắt ḅc, cụ thể như sau:

- Các dấu hiệu trong CTTP đều do luật định: Tợi phạm theo luật hình
sự Việt Nam phải được quy định trong luật hình sự (Điều 8 của BLHS). Nhà
nước quy định tội phạm trong luật hình sự bằng cách mơ tả những dấu hiệu
của CTTP và quy định những dấu hiệu đó trong luật. Do vậy, tất cả những
dấu hiệu của CTTP đều phải là những dấu hiệu đã được quy định trong luật
hình sự. Vì vậy, khi giải thích pháp luật, cơ quan có thẩm quyền khơng được
thêm hoặc bớt các dấu hiệu của CTTP. Việc giải thích và áp dụng luật được
thực hiện trong giới hạn của các dấu hiệu do luật định.
- Các dấu hiệu trong CTTP có tính đặc trưng: Do mỗi tợi phạm đều có
tính chất và mức đợ nguy hiểm cho xã hợi là khác nhau, nó thể hiện bằng
những dấu hiệu đặc trưng riêng. Qua đó, giúp ta nhận diện được nó và phân
biệt được với các tợi phạm khác. Do đó, các dấu hiệu của CTTP phản ánh bản
chất nguy hiểm cho xã hội của một loại tợi phạm, phải mang tính chất đặc
trưng đủ và cần để xác định tội phạm và phân biệt tội phạm này với tội phạm
khác. Mỗi dấu hiệu trong CTTP nếu đứng đợc lập, thì khơng phản ánh đầy đủ
tính đặc trưng của mợt loại tợi phạm. Tính đặc trưng điển hình của mợt loại
tợi phạm chỉ có thể được phản ánh đầy đủ trong nội dung và sự kết hợp với
nhau của các dấu hiệu CTTP.
- Các dấu hiệu trong CTTP có tính bắt ḅc: Để đủ căn cứ đi đến kết
18


luận hành vi của người hoặc pháp nhân thương mại đã phạm tợi cụ thể, địi
hỏi chúng ta phải xác định được hành vi đó thỏa mãn những dấu hiệu của
CTTP không. Nếu một trong những dấu hiệu của CTTP khơng thỏa mãn, thì
hành vi đó khơng CTTP của CTTP đó phản ánh. Vì vậy, tất cả những dấu
hiệu của CTTP đều là điều kiện cần và đủ để xác định mợt hành vi có CTTP
hay khơng. Do vậy, khi áp dụng luật hình sự để định tợi danh thì không thể bỏ
qua bất cứ dấu hiệu nào của CTTP, để xác định mợt hành vi đã thực hiện có
phạm tợi cụ thể nào đó hay khơng. Tất cả các dấu hiệu của CTTP đều có tính

bắt ḅc khi xác định tợi phạm.
Về chức năng của CTTP: có 03 chức năng, bao gồm: Chức năng nền
tảng, chức năng phân biệt và chức năng đảm bảo.
- Chức năng nền tảng: là sự hiện diện trong hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà người đó hoặc pháp nhân thương mại thực hiện có chứa tất cả các dấu
hiệu của mợt CTTP cụ thể do pháp luật hình sự quy định.
- Chức năng phân biệt: là việc mơ tả mợt cách chính xác trong phần
quy định của các quy phạm Phần riêng trong BLHS các dấu hiệu của CTTP sẽ
đảm bảo sự phân biệt đúng tội phạm này với tội phạm khác, cũng như khung
hình phạt này với khung hình phạt khác. Từ đó, nó giúp cho các cơ quan tiến
hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án lựa chọn các biện pháp hình sự sao cho phù
hợp với người phạm tợi hoặc pháp nhân thương mại.
- Chức năng đảm bảo, nếu trong hành vi của một người hoặc pháp
nhân thương mại không có đủ tất cả các dấu hiệu của mợt CTTP tương ứng
do luật hình sự quy định, thì người đó hoặc pháp nhân thương mại đó khơng
phải chịu trách nhiệm hình sự và cũng khơng phải chịu hình phạt.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc định tội danh
1.3.1. Năng lực chuyên môn của người định tội danh
Những người tiến hành tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm
19


×