Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN vận dụng phương pháp trò chơi nhằm phát huy tính năng động của học sinh, gây hứng thú trong giờ học văn ở trường THPT sầm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.02 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT SẦM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN
DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRÒ CHƠI NHẰM PHÁT HUY
MỤC
LỤC
TÍNH NĂNG ĐỘNG
CỦAKIẾN
HỌCKINH
SINH,NGHIỆM
GÂY HỨNG THÚ TRONG
SÁNG
GIỜ HỌC VĂN Ở TRƯỜNG THPT SẦM SƠN

1. MỞ ĐẦU...................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài...................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu............................................................................2
VẬN
DỤNG
PHƯƠNG
PHÁP TRỊ CHƠI NHẰM PHÁT HUY
1.3. Đối
tượng
nghiên cứu...........................................................................2
1.4. NĂNG
PhươngĐỘNG
pháp nghiên


TÍNH
CỦA HỌC SINH, GÂY HỨNG THÚ TRONG
cứu......................................................................2
GIỜ HỌC VĂN Ở TRƯỜNG THPT SẦM SƠN
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh
nghiệm......................................2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM.............................................3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh
nghiệm............................................3
thực
Hằngsáng kiến kinh
2.2. Thực trạngNgười
của vấn
đề hiện:
trước Đỗ
khi Thị
áp dụng
nghiệm.....3Chức vụ: Giáo viên
SKKN
thuộcvấn
lĩnh vực (môn): Ngữ Văn
2.3. Giải pháp để
giải quyết
đề.............................................................4
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh
nghiệm ................................................14
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng
3. KẾT LUẬN, KIẾN
Chức vụ: Giáo viên

NGHỊ.......................................................................16
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn
3.1. Kết luận...............................................................................................16
3.2. Kiến nghị.............................................................................................16
Tài liệu tham
khảo....................................................................................19

THANH HOÁ NĂM 2021


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU...................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài...................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu............................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên
cứu......................................................................2
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh
nghiệm......................................2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM.............................................3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh
nghiệm............................................3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.....3
2.3. Giải pháp để giải quyết vấn
đề.............................................................4
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh
nghiệm ................................................14
3. KẾT LUẬN, KIẾN

NGHỊ.......................................................................16
3.1. Kết luận...............................................................................................16
3.2. Kiến nghị.............................................................................................16
Tài liệu tham khảo....................................................................................


1.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đổi mới phương pháp dạy học luôn là nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo
dục nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Một
trong số những biện pháp để đạt được mục đích trên đó là sử dụng trò chơi.Trò chơi
vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo dục bằng trò
chơi - một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận
dụng. Lồng ghép trị chơi trong dạy và học mơn Ngữ văn, kết hợp với những
phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay.
Đối với học sinh trung học phổ thơng thì hoạt động vui chơi là nhu cầu
không thể thiếu và nói giữ vai trị quan trọng đối với các em. Nếu giáo viên biết tổ
chức cho học sinh chơi một cách hợp lí, khoa học trong giờ học sẽ mang lại hiệu
quả giáo dục cao. Chính vì vậy việc vận dụng trị chơi trong giờ học mơn văn ở
THPT sẽ làm thay đổi khơng khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú
cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn
trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo,… Hứng thú và chủ động
trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và
phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Văn.
Qua nhiều năm dạy học, được giảng dạy hầu hết các lớp bậc THPT tôi luôn
mong muốn làm thế nào để học sinh của mình năng động sáng tạo hơn, hứng thú
trong học tập, giờ học bớt căng thẳng, bớt áp lực, làm sao để các em có cảm giác
“mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, để rồi thông qua mỗi giờ học Văn các em
được sống trong khơng khí cổ xưa để cảm nhận tình yêu chân thành của Mỵ Châu
thời An Dương Vương dựng nước qua truyền thuyết “An Dương Vương và Mỵ

Châu - Trọng Thủy”; nghẹn ngào thổn thức cùng nỗi đau của Kiều trong bi kịch
"Trao duyên"; khắc khoải với giấc mơ hoàn lương và khao khát hạnh phúc của Chí
Phèo (Nam Cao); thả mình trong tiếng cười trào phúng sâu cay của Vũ Trọng
Phụng trong “Hạnh phúc của một tang gia”...
Thông qua thực tế giảng dạy, dự giờ học hỏi ở đồng nghiệp cộng với các đợt
tập huấn chuyên môn bản thân tôi mạnh dạn áp dụng tổ chức một số trị chơi trong
giờ dạy mơn Văn trong nhiều năm học và thấy khơng khí của mỗi tiết học sôi nổi
hẳn lên đến giờ học các em không còn cảm thấy căng thẳng mà rất háo hức mong
đợi, học sinh trong lớp hoạt động tích cực và đồng đều, các em mạnh dạn trình bày
ý kiến, nêu thắc mắc,…từ đó các em tự chiếm lĩnh kiến thức và ghi nhớ một cách
bền vững hơn do đó mà kết quả học tập cũng được nâng cao. Vì vậy, tơi chọn và
nghiên cứu đề tài: “Vận dụng phương pháp trò chơi nhằm phát huy tính năng động
của học sinh, gây hứng thú trong giờ học văn ở Trường THPT Sầm Sơn”, rất mong
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 2


nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, Ban giám hiệu, tổ chuyên môn để đề tài
phát huy hiệu quả cao hơn.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Giúp học sinh có hứng thú hơn trong các tiết dạy Ngữ văn ở nhà trường THPT.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: HS trường THPT Sầm Sơn.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng phương pháp điều tra khảo
sát bằng phiếu hỏi nhằm thu thập thông tin về thực trạng học sinh thụ động và ít
hứng thú với giờ học văn qua đó xác định nguyên nhân của thực trạng làm cơ sở
cho việc xác lập các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học bằng cách
vận dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn Văn ở trường THPT Sầm Sơn .
Bên cạnh đó tơi cịn sử dụng phương pháp quan sát nhằm thu thập các biểu

hiện sinh động, khách quan về thái độ, hứng thú cũng như mức độ tham gia hoạt
động trong giờ học của học sinh.
Phương pháp thử nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm nhằm mục đích
kiểm tra kết quả của việc sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học mơn văn
theo quy trình được xác định trong đề tài. Ngồi ra tơi cịn sử dụng một số phương
pháp chứng minh, minh họa, so sánh...
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trong Luật Giáo dục điều 24.2 đã ghi: “ Phương pháp giáo dục phổ thơng
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”. Có thể nói cốt lõi
của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói
quen học tập thụ động của học sinh.
Căn cứ vào mục tiêu trên cùng với việc dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của lứa
tuổi học sinh THPT: ham tìm hiểu, tiếp cận, thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán.
Do đó việc sử dụng các trò chơi học tập trong giờ học Ngữ văn là hết sức cần thiết
và có ích. Trị chơi có tác dụng giúp học sinh:
+ Tăng cường khả năng chú ý nắm bắt nội dung bài học phát huy tính năng
động của các em.
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 3


+ Nâng cao hứng thú cho người học, góp phần làm giảm mệt mỏi, căng thẳng
trong học tập của học sinh. Phát triển tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy
luận.
+ Tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học.

+ Tăng cường khả năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh, và giữa học sinh
với nhau, giúp học sinh rèn luyện các khả năng ứng xử, giao tiếp.
+ Thu hút cả lớp theo dõi tham gia các hoạt động.
Khi chơi, các em tưởng tượng, suy ngẫm, thử nghiệm, lập luận để đạt kết quả
mà khơng nghĩ là mình đang học. Kiến thức cung cấp trong giờ ngữ văn sẽ được
giảm nhẹ, quá trình học tập diễn ra một cách tự nhiên hơn, hấp dẫn hơn.
Trị chơi là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú
trong giờ học của học sinh. Ngồi ra thơng qua hoạt động trò chơi còn giúp các em
phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đồn kết, thân ái, lòng trung
thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động
vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với từng lứa tuổi, từng môn
học đặc biệt là đối với môn Văn.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM
Trong thời gian qua một sự kiện giáo dục được giáo viên tồn ngành nói
chung và giáo viên dạy Văn nói riêng rất quan tâm đó là ngày Hội thảo Khoa học
Quốc gia dạy và học môn Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam (trong 2 ngày 56/1/2013, tại Hội trường Trường đại học sư phạm Huế). Tại hội thảo khi bàn về
việc tìm phương pháp đổi mới cho mơn Văn trong giai đoạn tới có viết: “Dạy học
Ngữ văn cần tập trung hình thành cho học sinh phương pháp học và phương pháp
đọc. Phương pháp dạy học phải tạo cho học sinh tính hiếu kỳ, tị mị và sự đam mê
để họ tự đi tìm và lý giải. qua đó mà hình thành năng lực. Khơng nhồi nhét kiến
thức, khơng bắt nhớ máy móc, cần biết quên cái cụ thể, chi tiết; chỉ nhớ cách làm,
cách xử lý vấn đề… giúp học sinh tự học, tự khám phá, tự kích thích sáng tạo. Giờ
văn học trước hết hãy giúp học sinh niềm yêu thích, say mê văn chương, mong
muốn tìm tịi, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của thế giới nghệ thuật rồi sau đó mới là
những u cầu khác”
Trước u cầu đó địi hỏi người giáo viên dạy Văn không chỉ nỗ lực học tập
để nâng cao trình độ chun mơn mà cịn phải cần nỗ lực trau dồi củng cố thường
xuyên về kiến thức khoa học khác cũng như các phương pháp, hình thức dạy học

hiện đại vào trong quá trình dạy học. Nếu thầy cơ giáo giỏi chun mơn và có tâm
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 4


huyết với nghề, thì tất nhiên sẽ biết cách khơi gợi tạo ra sự hứng thú và cuốn hút
học sinh hăng say học tập và thích phát biểu ý kiến trong lớp để xây dựng bài học.
Năm học 2020- 2021 tôi được phân công giảng dạy 3 lớp 10A6, 12A7,
12A6, trong những giờ dạy của bản thân cũng như qua những lần dự giờ đồng
nghiệp tôi nhận thấy một điều rằng hiện nay đang xuất hiện một thực trạng học sinh
ngày càng thụ động không chịu phát biểu xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô giáo đặt
câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3
lượt nhưng các em vẫn ngồi im thin thít, và chính thầy cơ là người phải trả lời câu
hỏi do mình đặt ra, những tình huống như vậy thường gây tâm lí ức chế cho thầy
cơ rất nhiều, thậm chí chán nản, khơng tha thiết với cơng việc của mình.
Theo kết quả khảo sát (ngày 28/09/2020) học sinh 3 lớp (1 lớp 11, 2 lớp 12)
mà tơi trực tiếp giảng dạy về việc em có hay phát biểu trong giờ học Văn hay
không, kết quả thu được như sau:
Số học sinh khảo
sát

Phát biểu
nhiều

Có phát biểu
nhưng

Khơng
phát biểu


khơng nhiều
Lớp 12A6, 12A7

6/80

45/80

29/80

Lớp 11A3

8/43

20/43

15/43

Tổng số

14/123

65/123

44/143

Từ kết quả trên ta thấy tình trạng lớp học tương đối trầm, tỷ lệ phát biểu ít
chiếm quá 50%, rồi đến tỷ lệ những học sinh chưa bao giờ phát biểu khá cao trên
36%, còn lại lượng học sinh hăng hái phát biểu không đáng kể chỉ trên 8%.
Nguyên nhân gây nên hiện tượng học sinh thụ động trong giờ học Văn bắt

nguồn từ tâm lý chung của học sinh sợ bị chê cười khi phát biểu sai, chưa tự tin vào
năng lực của mình, ngại ngùng, rụt rè khi đứng lên trả lời trước đám đông nhất là
các bạn nữ; do các em lười học, khơng chịu, hoặc rất ít chuẩn bị bài trước ở nhà mà
có thói quen đợi đến lớp chờ thầy cô giảng rồi chép vào vở; chưa hiểu rõ tác dụng
của việc phát biểu xây dựng bài; do khơng khí các giờ văn trên lớp nhiều tiết còn tẻ
nhạt, thiếu hấp dẫn...
Nếu tình trạng lãnh đạm, thụ động, ít hoặc không phát biểu trong giờ học
của học sinh phổ thông nói chung và giờ học Văn nói riêng kéo dài thì khơng chỉ
ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học trong hiện tại mà cịn có tác động tiêu cực
sau này. Điều đó sẽ tạo ra những thế hệ người lao động, đội ngũ trí thức kém năng
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 5


động luôn nhút nhát, e dè, sợ sệt khi phát biểu trước đám đông, thiếu bản lĩnh, tự
tin trong giao tiếp, khơng dám nói lên sự thật, chống lại cái sai trái..
Những ai đã từng cắp sách đến trường và yêu quý môn Văn đều nhận thấy
những chức năng đặc thù của văn học trong việc bồi đắp tâm hồn, hình thành nhân
cách học sinh.Văn học trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người hướng tới
Chân - Thiện - Mỹ. Nhờ có Văn học mà đời sống tinh thần của con người ngày
càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở nên bớt chai sạn, thờ ơ, bàng
quan trước những số phận, cảnh đời diễn ra xung quanh mình hàng ngày, trước
thiên nhiên và tạo vật. Điều này càng quan trọng khi chúng ta đang sống trong
guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại. Văn học bồi đắp cho học sinh lòng yêu
nước, thái độ trân trọng truyền thống, và ngôn ngữ mẹ đẻ. Môn Ngữ văn cịn có vai
trị quan trọng trong việc rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ, diễn đạt, cách thức
tạo lập các loại văn bản phục vụ cho quá trình giao tiếp trên mọi lĩnh vực của mỗi
người trong cuộc sống...Mặc dầu có vị trí, chức năng quan trọng đặc biệt như vậy
nhưng hiện nay đang xuất hiện tình trạng nhiều học sinh không mấy hứng thú khi

học môn học này .
Cũng với 3 lớp trên với câu hỏi “Em có hứng thú khi đến giờ học mơn Văn
hay không?”, kết quả thu được như sau: (khảo sát ngày 28/09/2020)
Số học sinh khảo sát

Hứng thú với giờ
học

Không hứng thú với
giờ học

Lớp 12A6, 12A7

34/80

46/80

Lớp 11A3

12/43

18/43

Tổng số

46/123

64/123

Kết quả trên cho thấy số học sinh yêu thích giờ học Văn rất ít chưa đến một

nửa còn lại hơn 50% là các em khơng thích giờ học Văn điều đó cũng có nghĩa là
các em khơng u thích mơn Văn điều này khơng chỉ gây bi quan đối với dư luận
xã hội mà còn tác động tiêu cực đến người dạy. Nhiều thầy cơ giáo dạy Văn đã xuất
hiện tâm lí chán nản, bng xi, khơng có động lực để trau dồi chun môn, tạo
sức ỳ lớn trong tư duy đổi mới, cải tiến phương pháp giảng dạy.
Nguyên nhân học sinh không hứng thú với giờ học Văn do cơ sở vật chất, tài
liệu minh hoạ, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy và bổ sung kiến thức cho học
tập môn văn còn nghèo nàn, đơn điệu; Do kiến thức quá nhiều, quá nặng dẫn đến
các em mệt mỏi, giảm hứng thú; do nhận thức không đầy đủ, lệch lạc, thực dụng
của một số không nhỏ học sinh và cha mẹ học sinh hiện nay đối với vị trí, tầm quan
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 6


trọng của môn văn đối với mỗi con người trong suốt cả cuộc đời; Do phương pháp
dạy của một số thầy cơ giáo chưa thu hút được học trị u thích đối với bộ mơn
của mình giảng dạy. Thực tế cho thấy phương pháp giảng dạy của một bộ phận
giáo viên Văn còn bộc lộ nhiều hạn chế, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
trong giảng dạy môn Văn chưa thực sự phổ biến, bên cạnh đó trong mỗi tiết học
vẫn cịn tình trạng “đọc-chép” và “chiếu-chép” dẫn đến sự nhàm chán ở học sinh,
nhiều giáo viên còn sa vào “độc thoại”, “độc diễn” trên bục giảng do bài dài nên
giáo viên cố gắng làm sao để truyền đạt đủ, kịp kiến thức cho các em mà ngại tìm
tịi đổi mới vận dụng phương pháp, hình thức dạy học mới như sử dụng các phương
tiện dạy học, các biện pháp hỗ trợ như: thảo luận nhóm, nêu tình huống có vấn đề,
sử dụng tư liệu, hình ảnh hay chiếu phim văn học, vận dụng trò chơi vào tiết học lại
càng hiếm hoi hơn. Hoặc có sử dụng trị chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn
cưỡng dẫn đến một số giờ học văn trở nên đơn điệu, căng thẳng dẫn đến việc nhận
thức của học sinh bị hạn chế.
Tình trạng học sinh không hứng thú với giờ học Văn nếu kéo dài không chỉ

ảnh hưởng đến kết quả dạy và học mà sâu xa hơn dẫn đến sự khuyết hãm về tri
thức khoa học nhân văn của thế hệ trẻ được đào tạo trong nhà trường. Đây sẽ là một
thiếu hụt không bù đắp nổi, làm yếu đi nguồn nhân lực của đất nước trong thực tế
đào tạo nguồn nhân lực hiện nay.
Trước tình hình đó thiết nghĩ để nâng cao chất lượng giảng dạy và học môn
Văn là do nhiều yếu tố quyết định, chi phối: chương trình, sách giáo khoa, giáo án,
phương pháp giảng dạy của giáo viên, ý thức, thái độ học tập của học trò. Trong đó,
đổi mới phương pháp dạy học đóng vai trị then chốt. Có thể khẳng định, đổi mới
phương pháp giảng dạy đang trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay. Người giáo viên
dạy Văn cần khôi phục động lực học tập, khơi dậy niềm say mê, tình yêu Văn học
của học sinh, phát huy tính năng động, gây hứng thú với học sinh bằng những giờ
dạy thực sự hấp dẫn, lôi cuốn bởi lẽ như William Arthur Ward, một nhà giáo dục lỗi
lạc của nước Mỹ đã từng nói “Chỉ nói thôi là thầy giáo xoàng. Giảng
giải là thầy giáo tốt. Minh hoạ biểu diễn là thầy giáo giỏi. Gây
hứng thú trong học tập là thầy giáo vĩ đại. iu đó cho thấy việc gây
hứng thú đối với học sinh trong giờ học vơ cùng quan trọng vì trên thực tế những
lớp tôi được phân công giảng dạy học sinh có học lực trung bình là chủ yếu (trong
đó khá đông học sinh phải thi lại mới lên được lớp, học sinh lưu ban cũng có). Vậy
nên nếu như giờ học khơng có sự thu hút đối với các em thì chắc chắn tiết học sẽ
trở nên nhàm chán, khơ khan. “ Học mà chơi, chơi mà học” thì ai giáo viên nào
cũng biết nhưng biết cách tổ chức các hoạt động giúp học sinh học- chơi, chơi - học
thì không nhiều giáo viên làm được.

Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 7


Qua tham khảo đồng nghiệp và thực tế giảng dạy tôi muốn được cùng các
đồng nghiệp chia sẻ, trao đổi một số biện pháp mà bản thân tôi đã làm trong thời

gian qua để khắc phục tình trạng trên như sau:
2.3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Phương pháp và hình thức dạy học mơn Văn rất phong phú, đa dạng bao gồm
các phương pháp hiện đại: hoạt động nhóm, đóng vai, đặt và giải quyết vấn đề,
nghiên cứu trường hợp điển hình, trị chơi, dự án, động não... và các phương pháp
truyền thống: thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện…Mỗi phương pháp dạy học đều
có mặt tích cực và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài và địi hỏi những điều
kiện thực hiện riêng.Vì vậy, giáo viên không nên phủ định hoặc lạm dụng phương
pháp nào. Điều quan trọng là căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ
vào trình độ nhận thức của học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên, căn cứ
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn và sử dụng phối
hợp các phương pháp dạy học một cách hợp lý. Trong dạy học mơn Ngữ văn, có
thể vận dụng phương pháp “Trị chơi” nhằm: Hình thành tri thức mới, hình thành
kỹ năng, củng cố tri thức.
2.3.1. Biện pháp áp dụng trò chơi.
2.3.1.1. Nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi trong giờ dạy Văn
Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý mối quan hệ giữa
trò chơi với hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng mức và đúng lúc để
khơng xáo trộn nhiều khơng gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò chơi
kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho
tất cả các tiết học, đôi khi gây phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ cũng kết
thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng cho vui (dí dỏm, tế
nhị).
2.3.1.2. Lồng ghép trị chơi vào các phân môn Ngữ văn: Do đặc thù của mỗi
phân mơn, việc vận dụng lồng ghép trị chơi có những điểm khác nhau:
2.3.1.2.1. Đọc- văn: Tuỳ thuộc dạng bài (bài khái quát, ôn tập; đọc - hiểu văn
bản…), lượng kiến thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trị
chơi: trị chơi nhỏ dành cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học.
Do đặc thù của phân môn với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn
chương, đòi hỏi những cảm xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò chơi chỉ vừa phải.

2.3.1.2.2. Tiếng Việt: Lồng ghép trị chơi đối với phân mơn này là khá phù
hợp, đặc biệt là đối với những tiết thực hành, luyện tập. Trò chơi cần gắn với các
bài tập, hoặc các hình thức thực hành, luyện tập khác mà giáo viên nghĩ ra. Vận
dụng tốt giải pháp này, giờ học Tiếng Việt sẽ khơng cịn khơ cứng, học sinh sẽ cảm
thấy thoải mái, hứng thú, kích thích hoạt động tư duy của các em, quan trọng hơn là
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 8


góp phần phát triển năng lực sử dụng ngơn ngữ ở học sinh. Qua trò chơi, tư duy và
khả năng ngôn ngữ của các em sẽ được bộc lộ tự nhiên, giáo viên có thể phát hiện
và uốn nắn kịp thời những mặt cịn hạn chế.
2.3.1.2.3. Làm văn: Chính là phần thực hành của Đọc văn và Tiếng Việt. Có
thể vận dụng trò chơi trong một số tiết học và khơng nên thực hiện hình thức này
trong cả tiết, với phân mơn này, việc lồng ghép hình thức trị chơi khơng thể thay
thế được các phương pháp cũng như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực
hành, luyện tập, hoạt động theo nhóm hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng…Do đó
khơng nên gượng ép, để cố tình đưa trị chơi vào tất cả các giờ học làm văn.
2.3.1.3. Lựa chọn thời gian vận dụng trò chơi.
Khi áp dụng phương pháp trò chơi vào trong giờ học, giáo viên phải biết lựa
chọn thời điểm nội dung bài cần áp dụng trị chơi cho thích hợp, cụ thể là:
2.3.1.3.1.Sử dụng trò chơi vào đầu giờ học để kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài
mới:
Cách vận dụng đó, vừa kiểm tra được kiến thức bài cũ để giải quyết trò chơi,
đồng thời bước đầu nhận ra nội dung kiến thức bài học mà các em sắp được học.
Bên cạnh đó, cịn tạo tâm lý thoải mái, phấn khởi, học sinh hào hứng học tập hơn,
giải tỏa tâm lý mệt mỏi, căng thẳng tinh thần do giờ học trước hoặc mệt mỏi do
hoàn cảnh xung quanh gây ra.
2.3.1.3.2.Sử dụng trị chơi nhằm hình thành tri thức mới:

Trị chơi thường được tổ chức sau khi đã tìm hiểu hoạt động 1 (tìm hiểu chung,
tìm hiểu ngữ liệu...), từ những kiến thức thực tế qua hoạt động 1, vận dụng những
kiến thức đó, giáo viên tổ chức trị chơi cho học sinh khám phá, phát hiện ra tri thức
mới, tri thức đó nằm ngay trong nội dung bài học.
2.3.1.3.3.Sử dụng trị chơi để hình thành kỹ năng:
Xác định mục đích của việc tổ chức trị chơi nhằm hình thành kỹ năng cho các
em, chúng ta tổ chức trò chơi trên cơ sở vận dụng những tri thức của bài vừa học.
Từ đó, giúp học sinh hình thành được những kỹ năng lựa chọn, cách giải quyết khi
gặp những tình huống trong cuộc sống cũng như một số kỹ năng quan trọng khi
làm bài...
2.3.1.3.4.Sử dụng trò chơi nhằm củng cố tri thức, hình thành thái độ:
Khác với việc tổ chức trị chơi vào các thời điểm và mục đích khác nhau như
trên, ở thời điểm tổ chức trò chơi để củng cố tri thức, hình thành thái độ có mục
đích khác đó là: để học sinh thâu tóm được nội dung bài học, giúp khắc sâu, nhớ rõ
hơn nội dung vừa học xong. Thời điểm tổ chức trị chơi với mục đích này thiết nghĩ
vào cuối giờ học là hợp lý nhất.
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 9


2.3.1.4. Lựa chọn nội dung tổ chức trò chơi.
Nội dung phải vừa sức học, phải đảm bảo đủ thông tin kiến thức mà học sinh
đã nắm được, không dễ quá và cũng khơng khó q.
Nội dung cần phù hợp với cuộc sống thực tế của học sinh, giúp các em dễ vận
dụng vào thực tiễn. Nội dung trò chơi phải có tính khả thi, trị chơi đưa ra phải phù
hợp với thực tế trường, lớp.
2.3.1.5. Sử dụng phương tiện khi tổ chức trò chơi.
Thực tế, qua các tiết dự giờ đồng nghiệp ở trường tôi, tôi thấy thường khi cho
học sinh chơi trị chơi, đa số chỉ tổ chức “sng” mà thiếu sự chuẩn bị như: khơng

hóa trang nhân vật, khơng đủ phiếu cá nhân, khơng có thẻ xanh, thẻ đỏ để phục vụ
đánh giá, khơng có phần thưởng…Chính vì điều đó, mà mỗi lần tổ chức trị chơi là
một lần thiếu hấp dẫn học sinh, dẫn đến sự đơn điệu và nhàm chán. Vì vậy để tổ
chức trị chơi trong giờ học văn đòi hỏi giáo viên và học sinh phải chuẩn bị đầy đủ
các phương tiện cần thiết.
2.3.1.6.Chọn cách tổ chức trị chơi có hiệu quả.
Trị chơi có thể tổ chức theo các bước sau:


Bước phổ biến trị chơi:

+ Giáo viên giúp học sinh nắm vững trò chơi như: Tên trò chơi, nội dung, cách
chơi, cách phân thắng bại…
+ Giáo viên chọn một số học sinh tham gia trò chơi, bảo đảm qua các giờ học,
lần lượt học sinh được tham gia tất cả, đặc biệt chú ý những học sinh nhút nhát, ít
phát biểu.
• Bước học sinh thực hiện trò chơi:
+ Các em thảo luận với nhau về việc thực hiện trị chơi.
+ Một nhóm học sinh thực hiện trò chơi trước lớp, cả lớp theo dõi.
+ Những em khác, nhóm khác có thể tiếp tục thực hiện trị chơi (đối với trị
chơi sắm vai thì có cách giải quyết khác).


Bước tổng kết, đánh giá:

- Giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá việc thực hiện trò chơi: trị chơi có
được thực hiện đúng quy tắc khơng, có phù hợp với nội dung bài học khơng, có thể
rút ra bài học gì qua trị chơi này? Giáo viên nhận xét, đánh giá chung và tuyên bố
nhóm (hay cá nhân) thắng cuộc (nếu có).
- Giáo viên khen thưởng nhóm có kết quả tốt bằng cách:

Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 10


+ Tặng một tràng pháo tay cùng với những lời động viên khen ngợi.
+ Ghi điểm các thành viên trong nhóm.
+ Trao thẻ đỏ cho nhóm thực hiện tốt, thẻ xanh cho nhóm chưa tốt.
+ Trao thưởng một hoặc hai gói quà cho đội thắng.
Như vậy, với những biện pháp đã vận dụng vào từng thời điểm, mục đích, nội
dung khác nhau thật sự phát huy tác dụng, giờ dạy học thực sự là giờ “vừa học, vừa
chơi”, kết hợp được giữa “học và hành”, hấp dẫn học sinh và gây sự chú ý học hơn
nhiều.
2.3.2. Sáng tạo một số trị chơi để vận dụng trong giảng dạy mơn Ngữ văn ở
trường THPT Sầm Sơn.
Việc sáng tạo và lựa chọn một số trò chơi để vận dụng vào giờ dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả giờ học môn Văn ở trường THPT Sầm Sơn nói riêng và trong
trường THPT nói chung là một vấn đề hết sức cần thiết. Trong q trình dạy học tơi
đã vận dụng thành cơng một số trò chơi sau:
2.3.2.1. Trò chơi sắm vai.
W. Shakespeare đă từng nói: “Tồn thế giới là nhà hát. Trong nhà hát có đàn
bà, đàn ơng. Tất cả đều là diễn viên. Ở họ, đều có lối ra sân khấu và lối rời sân
khấu của mình”. Quả vậy, trong xã hội mỗi cá nhân hay mỗi nhóm đều đảm nhận
những vai trò nhất định. Điều này giống như vai diễn trên sân khấu. Cùng một lúc,
mỗi cá nhân có thể đảm nhận nhiều vai khác nhau và các vai này thường xun
thay đổi. Do vậy, thuật ngữ đóng vai hay cịn gọi là sắm vai là một thuật ngữ được
sử dụng rất phổ biến. Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê: “Đóng vai là thể
hiện nhân vật trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh bằng cách hành động, nói
năng như thật”. [1; tr 337].
Hiểu như vậy thì “sắm vai” là phương pháp học sinh thực hành,“ làm thử”,

diễn thử một đoạn hội thoại nào đó hay đóng vai một nhân vật trong một đoạn trích,
tác phẩm nào đó.
Mục đích: Sắm vai nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, nhận ra vấn đề,
giúp buổi học sinh động, có kết quả hơn… Giúp chính học sinh đóng vai cảm
nghiệm được tâm lý, thái độ, hành vi của đối tượng mình đóng vai, khắc sâu và
hiểu tác phẩm hơn. Giúp học sinh tự nhận ra những thế mạnh, hạn chế của chính
mình khi rơi vào tình huống của vai đã đóng.
Cách tiến hành trị chơi:
+ Dựa vào nội dung từng bài học, giáo viên đưa ra tình huống là một đoạn
hội thoại hay sắm vai theo nhân vật trong một đoạn trích, tác phẩm nào đó. Người
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 11


sắm vai là những học sinh xung phong, tình nguyện. Giáo viên đến từng nơi để góp
ý cho từng nhóm: như ngôn ngữ của nhân vật, cách thể hiện tâm trạng, cách hố
trang...sau đó cho các nhóm lên diễn.
+ Cả lớp và giáo viên nhận xét.
+ Tổng kết khen thưởng.
Với tiết dạy 88-89-90, văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Trích- Lưu
Quang Vũ) trong Ngữ văn 12-tập 2; ở phần Đọc văn bản tôi đã tổ chức cho HS sắm
vai nhân vật: Hồn Trương Ba, xác hàng thịt, Đế Thích… Qua đó tạo được hứng thú
học tập cho HS, giúp cho giờ học thêm sinh động, hấp dẫn; đồng thời giúp các em
chủ động nắm được những vấn đề chính thơng qua lời thoại của các nhân vật.
2.3.2.2. Trị chơi tiếp sức.
Mục đích: Áp dụng trị chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả học
sinh trong lớp, em nào cũng phải động não và hoạt động kể cả học sinh yếu kém.
Trò chơi này áp dụng khi giáo viên yêu cầu học sinh tìm những biểu hiện của một
nội dung, khái niệm của một bài học nào đó các em có thể thảo luận, phát hiện và

nêu ra những biểu hiện đó.
Cách tiến hành trị chơi:
+ Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân.
+ Trên lớp giáo viên treo bảng phụ, chia nhóm và công bố luật chơi.
+ Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng.
Ví dụ: Khi dạy bài “Thực hành các phép tu từ: phép điệp và phép đối” Tiết
88-89 - Ngữ văn 10- tập 2. Sau khi cho học sinh làm thực hành BT SGK, để củng
cố kiến thức về phép điệp và phép đối giáo viên áp dụng trị chơi này bằng cách
chia lớp theo 4 nhóm, mỗi nhóm được phát một tập phiếu trắng, các em làm việc và
ghi ra những phép điệp, phép đối mà các em tìm được vào phiếu (một phiếu ghi
phép điệp, một phiếu ghi phép đối) rồi lần lượt từng em lên dán phiếu vào bảng phụ
cho phù hợp 2 cột (giáo viên chia bảng phụ ra làm 2 cột một bên là phép điệp, một
bên là phép đối) của nhóm mình. Trò chơi diễn ra trong 5 phút, giáo viên tuyên bố
kết thúc cuộc chơi, hướng dẫn học sinh nhận xét, góp ý, nhóm nào tìm được nhiều
ví dụ hơn thì nhóm đó thắng cuộc.
2.3.2.3. Trị chơi “Trị chuyện cuối tuần”.
Mục đích: Trị chơi này tập cho các em ln tự tin, mạnh dạn khi trình bày
một vấn đề trước đám đơng. Qua trị chơi, các em tự rút bài học kinh nghiệm cho
bản thân: như kĩ năng giao tiếp, ứng xử khi gặp những tình huống cụ thể trong cuộc
sống. Nắm bắt bài học một cách cụ thể dễ dàng.
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 12


Cách tiến hành trò chơi:
+ Chọn 1 học sinh dẫn chương trình.
+ Chọn 2-3 học sinh là khách mời để thực hiện trò chơi. Cả lớp và giáo viên
là khán giả.
+ Kết thúc giáo viên tuyên dương các nhân vật thực hiện trò chơi và rút ra

bài học kinh nghiệm.
Trò chơi này được tôi áp dụng khi cho học sinh tham gia phát biểu tự do
trong tiết 104 Ngữ văn 12-tập 2 bài “Phát biểu tự do” hoặc tiết 59 Ngữ văn 11 tập
1 bài “ Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn”.Từ đó khơng chỉ giúp các em nắm được bài
học mà còn rèn luyện sự tự tin của học sinh khi trình bày một vấn đề, giúp cho
những giờ học Ngữ văn khơng cịn “nhàm chán”.
2.3.2.4. Trị chơi nhìn hình đốn chữ.
Mục đích giúp học sinh phát huy khả năng tư duy nhanh nhạy của minh, tạo
khơng khí sôi nổi trong giờ học, tạo sự hứng thú và bớt căng thẳng ở học sinh. Trị
chơi này có thể áp dụng khi tìm hiểu kiến thức mới của bài học hoặc áp dụng ở
phần củng cố của bài học.
Cách tiến hành trị chơi: Giáo viên chuẩn bị hình ảnh minh họa liên quan đến
nội dung bài học có sử dụng trị chơi. Giáo viên chiếu hình lên máy chiếu hoặc treo
hình lên bảng phụ và cho cả lớp đốn những hình ảnh ấy thể hiện nội dung gì? Cả
lớp cùng chơi và học sinh nào trả lời được đúng và nhiều hình nhất sẽ được thưởng
tràng pháo tay hoặc cộng thêm điểm. Giáo viên nhận xét rút ra nội dung bài học,
tuyên dương những em trả lời tốt và nhắc nhở những em chưa thật sự tập trung.
Với trò chơi này tơi thường áp dụng vào phần Tìm hiểu chung khi hướng dẫn
học sinh tìm hiểu về một tác giả văn học, bằng một số thơng tin và hình ảnh được
trình chiếu trên máy chiếu, tơi sẽ hỏi học sinh: Đây là tác giả nào? Qua đây học
sinh cũng nắm được những thông tin cơ bản về tác giả mình sẽ học.
Cụ thể khi dạy văn 88-89-90, văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (TríchLưu Quang Vũ) trong Ngữ văn 12-tập 2 phần tác giả bản thân tôi sẽ chiếu lên màn
hình những miếng ghép kèm những thơng tin liên quan đến nhà biên kịch Lưu
Quang Vũ, sau đó cho học sinh đốn: Ơng là ai?
2.3.2.5. Trị chơi ơ chữ bí mật.
Hình thức: Trị chơi ơ chữ trong dạy học có nhiều dạng khác nhau, có thể là
giải những ơ chữ hàng ngang rồi tìm từ khóa trong ô chữ hàng dọc, có thể là ô chữ
dưới dạng sơ đồ …Mỗi ơ chữ có lời gợi ý và nội dung ơ chữ có liên quan trực tiếp
đến bài học.
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng


Trang 13


Mục đích: Giới thiệu vào bài mới hoặc củng cố khắc sâu kiến thức của bài
học. Phát huy tư duy nhanh nhạy, sáng tạo của học sinh.
2.3.2.6. Trò chơi ghép hình đúng.
Trị chơi xếp hình đúng có thể là xếp các mảnh ghép khác nhau thành một
hình hồn chỉnh, có thể là xếp các hình với những mảnh ghép ghi nội dung có
chung đặc điểm vào một nhóm, một thể loại. Để tổ chức trị chơi này, giáo viên cần
có sự chuẩn bị sẵn các mảnh ghép. Những mảnh ghép đó có thể là hình ảnh, có thể
là chữ viết thể hiện nội dung.
Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo giúp học sinh nhớ lại nội dung
bài học một cách lơgic.
Cách chơi: Giáo viên treo một số hình ảnh và một số mảnh ghép ghi nội
dung liên quan đến bài học lên bảng. Tuỳ vào mục đích bài học mà giáo viên cho
học sinh xung phong lên xếp những mảnh ghép thành một hình hồn chỉnh hoặc
xếp những mảnh ghép có ghi nội dung tương ứng với một hình ảnh nào đó theo u
cầu của giáo viên, đội nào xếp các mảnh ghép đúng hoàn thành trong thời gian
ngắn hơn sẽ là đội chiến thắng.
Dưới đây là một ví dụ minh họa khi tổ chức trị chơi để ôn tập kiến thức cũ
và hình thành kiến thức mới của bài học: Khi dạy bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc
Tử- Tiết 85-86-87- Ngữ Văn 11- tập 2. Khi đi tìm phần tìm hiểu chung, mục 1- tác
giả thì giáo viên có thể cho học sinh chơi trị chơi này bằng cách cho các mảnh
ghép gồm hình của 3 tác giả Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và các mảnh ghép
có đánh dấu theo số thứ tự 1, 2,3... (làm bằng giáy rô ki) ghi các thông tin liên quan
về ba tác giả trên. Sau đây là hình ảnh minh họa cho trị chơi: Giáo viên treo lên
bảng những mảnh ghép như sau:
a/ Hình ảnh của 3 tác giả Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử.


b/ Các mảnh ghép ghi thông tin liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của 3 tác giả trên
và được đánh dấu theo thứ tự từ 1-13.
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 14


1/ (1916 – 1985) bút danh Trảo Nha. Quê quán: Hà Tĩnh
2/ Tác phẩm chính: Tập “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời…
3/ Gia đình: viên chức nghèo, cha mất sớm, sống với mẹ ở Quy Nhơn
4 / Năm 1936, mắc bệnh phong. Mất tại trại phong Quy Hồ.
5/ Tên khai sinh: Nguyễn Trọng Trí (1912 – 1940). Quê: Đồng Hới - Quảng Bình.
6/ Là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say,
yêu đời thắm thiết.
7/Tác phẩm: Thơ thơ (1938), “Gửi hương cho gió” (1945), Riêng chung (1960)...
8/ Thơ ông hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
9/ Ơng là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình thơ, nhà dịch thơ, nhà bình
thơ, nhà văn hoá lớn của VN thế kỷ XX.
10/ (1919 - 2005). Xuất thân: gia đình nhà nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh
11/ Ông là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới
với hồn thơ ảo não.
12/ Ông là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất phong trào Thơ
Mới.
13/ Các tác phẩm chính:Gái quê, Thơ điên, Xuân như ý....
3/ Đáp án chúng ta sẽ có 3 hình sau ( Học sinh có thể ghép theo hàng dọc như ở
dưới hoặc ghép theo hàng ngang)
*/ Hình 1: Tác giả Xuân Diệu

1/ (1916 – 1985) bút danh Trảo Nha. Quê quán: Hà Tĩnh
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng


Trang 15


6/ Là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say,
yêu đời thắm thiết.
7/Tác phẩm: Thơ thơ (1938), “Gửi hương cho gió” (1945), Riêng chung (1960)...
9/ Ơng là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình thơ, nhà dịch thơ, nhà bình
thơ, nhà văn hố lớn của VN thế kỷ XX.
*/ Hình 2: Tác giả Huy Cận

10/ (1919 - 2005). Xuất thân: gia đình nhà nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh
2/ Tác phẩm chính: Tập “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời…
11/ Ông là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới
với hồn thơ ảo não.
8/ Thơ ông hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
2.3.2.7.Trị chơi trả lời nhanh
Trị chơi này có thể tổ chức dưới dạng các gói câu hỏi. Mỗi gói câu hỏi đều
liên
quan đến kiến thức của các bài học trước.
Mục đích: Giúp học sinh tích cực huy động trí nhớ, tư duy và khả năng phản
ứng nhanh về các nội dung đã được học.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các gói câu hỏi và đáp án cho các đội chơi, thẻ
điểm …
Cách chơi: Chia nhóm. Mỗi đội chọn cho mình một gói câu hỏi. Cử đại diện
người để lên trả lời câu hỏi. Cuối cùng giáo viên tổng kết đội nào có nhiều câu trả
lời đúng và số điểm cao nhất thì đó là đội chiến thắng.
Như vậy, bằng cách vận dụng những trị chơi đó, tơi thấy bài giảng hấp dẫn
và lơi cuốn học sinh, học sinh bị cuốn hút bởi những phương pháp mới được vận
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng


Trang 16


dụng linh hoạt, phù hợp với những bài giảng ở trường THPT. Bên cạnh các trị chơi
đó, mỗi giáo viên có thể sáng tạo thêm nhiều trị chơi khác như:Tập làm phóng
viên, trị chơi ghép đơi, trị chơi đố vui…chủ yếu phải phù hợp bài học, phù hợp với
thực tế học sinh, thực tế ở địa phương.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Qua việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh trong một số giờ học Văn tôi
thấy đã đạt được một số kết quả sau:
* Đối với giáo viên:
Không mất quá nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian của tiết dạy mà giáo viên và
học sinh vẫn đảm bảo được nội dung kiến thức của bài học.
Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để giáo viên khắc sâu
kiến thức. Từ đó làm cho khơng khí lớp học sơi nổi, giảm sự đơn điệu, tăng hứng
thú học tập cho học sinh nhờ đó đã nâng cao hiệu quả việc dạy và học đặc biệt với
những em sức học yếu, chậm, nhút nhát.
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục một cách sáng tạo và hiệu quả.
* Đối với học sinh: Giúp các em
Rèn luyện tư duy, tác phong nhanh nhạy biết xử lý tình huống linh hoạt.
Học sinh thích thú với trị chơi trong giờ học do đó năng động hăng say phát
biểu xây dựng bài vì vậy mà các em tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn.Các em có điều
kiện cùng chuẩn bị bài học, chủ động trong học tập...
Để thấy rõ hiệu quả và tính khả thi của đề tài ta sẽ so sánh 2 bảng số liệu ghi kết
quả khảo sát ý kiến và chất lượng học tập của học sinh 3 lớp thực nghiệm trong
năm học 2020-2021 ( 12A6, 12A7, 11A3) trước và sau khi áp dụng phương pháp
lồng ghép trò chơi trong dạy học Ngữ văn :
* Khi chưa áp dụng đề tài:
Số học sinh khảo

sát
Lớp 12A6,12A7

Hay phát
biểu
6/80

Hứng thú với
giờ học

Điểm thi đầu
vào đạt TB
trở lên

34/80

16/80

Lớp 11A3

3/43

15/43

Tổng số

9/ 12

46/123


Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Điểm kiểm tra
đầu năm từ TB
trở lên

25/43
16/80

25/43
Trang 17


* Sau khi áp dụng đề tài
Hay phát
biểu

Hứng thú
với giờ
học

Lớp 12A6
12A7

37/80

50/80

Lớp 11A3


12/43

19/43

Tổng số

49/123

69/123

Số học sinh
khảo sát

Điểm thi học Điểm thi học
kì 1 từ TB trở kì 1 từ TB
lên
trở lên
54/80
21/43
54/80

21/ 43

Kết quả khảo sát ngày 25//2021 cho thấy so với kết quả khảo sát đầu năm như
phần thực trạng đã nêu thì rõ ràng hình thức dạy học này đã khắc phục phần nào
nhược điểm học tập thụ động ở học sinh, giúp học sinh hứng thú, chủ động, giáo
viên cũng có thể phát huy tốt tính sáng tạo trong giảng dạy và đích cuối cùng là kết
quả học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt (Khối 11 đầu vào môn Văn rất thấp
chỉ: 20%, qua hơn một học kì áp dụng phương pháp trị chơi kết quả điểm thi học kì
1 (sở ra đề, chấm tập trung) đã nâng lên: 67.5%. Khối 12 kết quả điểm khảo sát đầu

năm từ 36.66% giờ đã nâng lên: 70% ). Cũng nhờ vào việc áp dụng trò chơi trong
giờ dạy học mà trong những năm qua chất lượng bộ môn của bản thân tôi được
nâng lên rõ rệt, cụ thể là:
Năm học 2018-2019 tỉ lệ học sinh đạt trung bình trở lên: 72%
Năm học 2019- 2020 tỉ lệ học sinh khối 11 đạt trung bình trở lên là 78%, tỉ lệ
học sinh khối 12 thi tốt nghiệp đạt trung bình trở lên là 98,63%.
Điều này giúp tôi tin tưởng vào thành công của đề tài. Chắc chắn kết quả học
tập của năm học 2020-2021 và năm sau sẽ đạt cao hơn.
Tuy nhiên, thành cơng của đề tài cịn nhờ vào sự nhiệt tình hưởng ứng của đội
ngũ giáo viên văn trường THPT Sầm Sơn và đã được học sinh tích cực đón nhận,
học tập và rèn luyện. Để hồn thiện hơn nữa đề tài, xin được tiếp nhận những ý
kiến góp ý của q đồng nghiệp.
pháp trị chơi vào dạy học và các phương pháp dạy học khác.
3.KẾT LUẬN,KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 18


Vấn đề tích cực hóa học tập của học sinh trong dạy học nói chung mơn Ngữ
Văn nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt, việc làm này có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển trí tuệ cho học sinh, kích thích tư duy của các em, phát huy tính năng
động, nâng cao hứng thú học tập cho bộ môn. Trong số những biện pháp dạy học
tích cực hóa, sử dụng trò chơi được xem là một trong những phương pháp dạy học
hiệu quả, nhằm tạo ra quá trình tương tác, thu hút, động viên học sinh tham gia
hợp tác để nâng cao tính tự giác tạo cơ hội cho các em thực hành vận dụng những
kinh nghiệm, những tri thức đã học để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học
môn Văn.
3.2. KIẾN NGHỊ

Nhà trường cần trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy học, có
chính sách động viên cho giáo viên thiết kế các phương tiện dạy học mới để phục
vụ tốt cho giảng dạy.
XÁC NHẬN CỦA

Thanh Hóa, ngày...14. tháng 05 năm...2021

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.

Đỗ Thị Hằng

Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 19


Tài liệu tham khảo
[1]. Từ điển tiếng Việt- Hoàng Phê chủ biên- Trung tâm từ điển học 2006.
[2]. Áp dụng dạy và học tích cực trong mơn văn học- GS Trần Bá Hoành-TS
Nguyễn Trọng Hoàn Đại học Sư Phạm Hà Nội. 2005.
[3]. Phương pháp dạy học - GS Phan Trọng Luân- NXB Giáo dục. 2000
[4]. Tạp chí dạy học ngày nay- Nhiều tác giả- NXBGiáo dục. 2006
[5]. Bộ sách giáo khoa chương trình Ngữ văn 10, 11- NXB Giáo dục 2007.

Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 20



PHỤ LỤC

Hình 1: Mức độ phát biểu của học sinh 3 lớp 11A3, 12A6, 12A7 trong giờ học

Hình 2: Mức độ học sinh 3lớp 11A3, 12A6, 12A7 hứng thú với giờ học Văn

Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 21


Hình 3: Học sinh đang chơi trị chơi “ơ chữ bí mật”

Hình 4: Một giờ học Văn sơi nổi khi giáo viên tổ chức trò chơi.

Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng

Trang 22



×