Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Tín ngưỡng thờ cúng phùng lộc hộ ở huyện ba vì, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 119 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CHU VĂN KHÁNH

TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG PHÙNG LỘC HỘ Ở HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CHU VĂN KHÁNH

TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG PHÙNG LỘC HỘ Ở HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Tơn giáo học
Mã số: 8220309
LUẬN VĂN THẠC SĨ TƠN GIÁO HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Ngọc Mai

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến nhận định khoa học của các
tác giả đã được trích dẫn xuất xứ đầy đủ.
Tác giả luận văn

Chu Văn Khánh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu, tác giả đã hồn thành khóa học, chun
ngành Tơn giáo học tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam với đề tài luận văn:
“Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội”. Để có
được kết quả này tác giả đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ rất lớn của nhiều tổ
chức đơn vị và cá nhân.
Xin được trân trọng cảm ơn Học viện Khoa học xã hội, Phịng Đào tạo, khoa
Tơn giáo, Phịng Cơng tác học viên, chính quyền Ủy ban nhân dân xã Đồng Thái, xã
Phú Sơn; đồng nghiệp, gia đình cùng các bạn học viên lớp Cao học Tơn giáo học
khóa 2016 – 2018.
Tác giả xin được chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Mai - Người
hướng dẫn khoa học, đã quan tâm, nhiệt tình giúp đỡ cho tơi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Tác giả trân trọng cám ơn các quý thầy, cô trong khoa Tôn giáo học đã tận
tình truyền đạt kiến thức trong suốt thời gian tác giả học tập tại Học viện.
Xin được cảm ơn Ban quản lý di tích đền Trúc Lâm, thơn Đồng Bảng xã Đồng
Thái; Di tích đình, đền, thơn Cao lĩnh xã Phú Sơn, anh Phùng Đình Nam Trưởng
thơn Cao Lĩnh, Chú Phùng Văn Tặng cán bộ văn hóa xã Phú Sơn, chú Nguyễn Văn
Tươi thôn Hùng Vỹ xã Đồng Văn, ông Nguyễn Sơn Thủy, ông Nguyễn Văn Cẩm
khu dân cư số 5 xã Sơn Dương; ông Nguyễn Văn Thiện thủ từ đình Thổ Tang; ơng
Chu Duy Hạ, ơng Trần Văn Đạm, ông Nguyễn Văn Hạ xã Đồng Thái và đông đảo

các cụ ông, cụ bà, bác, cô, anh, chị và các em thôn Đồng Bảng, xã Đồng Thái đã
nhiệt tình cung cấp thơng tin, tài liệu và dành thời gian trao đổi với tác giả trong
suốt thời gian tác giả đi điền dã.
Tác giả luận văn

Chu Văn Khánh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ XÃ PHÚ SƠN, XÃ ĐỒNG THÁI, HUYỆN BA VÌ.... 9
1.1. Một vài nét về đặc điểm tự nhiên; kinh tế - xã hội của xã Phú Sơn, xã Đồng Thái .... 9
1.2. Phong tục tập quán ........................................................................................................... 13
1.3. Thờ cúng Phùng Lộc Hộ và mối liên hệ giữa hai xã Phú Sơn và Đồng Bảng........... 16
Chương 2: THỰC HÀNH THỜ CÚNG PHÙNG LỘC HỘ Ở BA VÌ VÀ MỘT SỐ
ĐỊA PHƯƠNG KHÁC ........................................................................................................ 24
2.1. Lễ hội và thực hành nghi lễ tế Thần tại đền Trúc Lâm (Đồng Thái) .......................... 24
2.2. Đình, Đền Cao Lĩnh và Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở xã Phú Sơn – Ba Vì
Hà Nội....................................................................................................................................... 43
2.3. Một số cơ sở thờ cúng Phùng Lộc Hộ khác và mối liên hệ với đền Trúc Lâm ......... 47
2.4. Một số nhận định về hiện tượng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ........................................... 56
Chương 3: TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG PHÙNG LỘC HỘ Ở ĐỒNG THÁI HIỆN
NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÔN GIÁO TÍN
NGƯỠNG TRÊN ĐỊA BÀN ................................................................................................. 60
3.1. Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở Đồng Thái hiện nay một số một số vấn
đề đặt ra .....................................................................................................................60
3.2. Vai trị tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ trong cuộc sống hiện nay ...................... 68
3.3. Về quy ước chung và biến cố của các di tích thờ Ngài Phùng Lộc Hộ ...................... 73
3.4. Tổ chức thực hành tín ngưỡng, lễ hội đền Trúc Lâm và công tác quản lý hiện nay . 75
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 78

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phùng Lộc Hộ là được biết đến là một nhân vật lịch sử có cơng giúp vua Nhà
Trần chống qn Ngun - Mơng xâm lược nước ta lần thứ I năm 1258 thông qua
điển tích, thần phả, sắc phong được nhân dân làng Đồng Bảng xã Đồng Thái cũng
như 17 xã có di tích tơn thờ Ngài. Nhưng vì lý do nào đó mà các tài liệu chính sử
nước nhà khơng có sự ghi chép lại cụ thể về nhân vật này. Qua nghiên cứu tín
ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở huyện Ba Vì, tác giả sẽ góp phần bổ sung thêm
gốc tích lai lịch thân thế và những dấu tích về Ngài tại địa phương Đồng Bảng ( Ba
Vì) qua đó góp phần bổ sung thêm các tư liệu về Phùng Lộc Hộ và công lao của
Ngài trong kháng chiến chống Nguyên - Mông cuối 1257, đầu 1258.
Trên thực tế cũng có những ý kiến khác nhau về Phùng Lộc Hộ nhân thần
hay nhiên thần. Trong đó đặc biệt là quan điểm cho rằng việc thờ cúng Phùng Lộc
Hộ hay còn được gọi là (Lân Hổ) liên quan tới điển tích thờ Thần Hổ (ông cọp, ông
Ba Mươi) của người Việt xưa ở các vùng, trung du miền núi. Nghiên cứu này sẽ
góp phần cung cấp thêm thơng tin để làm sáng tỏ cho quan điểm đó.
Tín ngưỡng, thờ cúng là niềm tin vào thế giới thiêng (Thần, Thánh) được
nhân dân suy tôn phụng thờ gắn với đời sống sinh hoạt văn hóa, tơn giáo, tín
ngưỡng của con người trong cộng đồng làng xã. Tín ngưỡng thờ cúng Thành Hồng
làng là nơi gửi gắm tâm linh với những thỉnh cầu mong Thánh, Thần ban sức khỏe,
tri thức, công danh, làm ăn, may mắn cuộc sống an lành, yên ấm, hạnh phúc … Theo
tài liệu nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thế Long (2005), đình và đền, Nxb Văn hóa
thơng tin, Tr13. “Tín ngưỡng là một trạng thái tâm lý quan hệ đến các hiện tượng tự
nhiên xã hội mà con người cảm thụ và chưa nhận thức được cho là có sức mạnh hơn
con người và thiêng liêng nên con người sợ và kính cẩn mong che chở giúp đỡ”. Tín
ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ cũng nằm trong hệ quy chiếu ấy.
Việc thờ cúng Phùng Lộc Hộ còn được gọi (Lân Hổ) đã hình thành dải di

tích trải dài từ Ba Vì, Phú Thọ cho tới Vĩnh Phúc; Trong dải văn hóa này với 18 di
tích thuộc các địa phương khác nhau thời kỳ (1945 trở về trước) đều có sự kết chạ

1


qua lại giao lưu văn hóa phong tục tập quán đã đồng nhất lấy ngày mùng 10 tháng
Hai âm lịch hàng năm làm ngày Xuân tế (đồng tế). Ngày này các địa phương có thờ
Phùng Lộc Hộ (Lân Hổ) đều hành hương về quê hương gốc của đức Thánh là di
tích đền Trúc Lâm làng Đồng Bảng xã Đồng Thái để cùng tham gia một nghi thức
tế Tam tuần (đồng tế) tạo sự đồng nhất đồng lòng, đồng thuận, thuần phục, tuân thủ,
nhất nhất hướng về đức Thánh Lân Hổ. Nhưng do biến cố của lịch sử nước nhà, do
quá trình vận động và phát triển của xã hội cho tới hiện nay trong nghi thức tế lễ
Phùng Lộc Hộ đã khơng có sự đồng nhất chung nữa ngồi nghi thức tế lễ Tam tuần
truyền thống thời Hậu Lê còn có cả Nghi thức Tế Hùng Vương của di tích xã Sơn
Dương huyện Lâm Thao Tỉnh Phú Thọ. Tạo nên sự phong phú đa dạng đậm đà đặc
sắc trong tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ hòa quyện giao lưu văn hóa tín
ngưỡng tơn giáo giữa Xứ Đồi Ba Vì và đất Tổ Vua Hùng Phú Thọ. Di tích đền
Trúc Lâm thơn Đồng Bảng, xã Đồng Thái, di tích đền Cao Lĩnh thôn Cao Lĩnh xã
Phú Sơn và 16 di tích của 16 xã có chung thờ Phùng Lộc Hộ nói riêng khơng chỉ là
nơi giữ gìn những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, là nơi lưu
giữ các cổ vật, di vật, đồ thờ có giá trị về vật chất lẫn tinh thần, khơng chỉ là nơi
đồn kết, gắn bó gắn kết cộng đồng dân cư của một làng, một xã, một dải văn hóa,
cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh nơi thực hiện các nghi thức, nghi lễ thờ cúng
tưởng niệm nhớ về Ngài, qua đó giáo dục các thế hệ về sự đồn kết, lịng dũng cảm,
u nước truyền thống đấu tranh đánh giặc giữ nước của dân tộc.
Theo cuốn “Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng” tập 1 Nxb Hồng
Bàng năm 2012 của tác giả Nguyễn Lương Bích thời kỳ đó Phùng Lộc Hộ là một
“dân binh”. Có sức khỏe, tài nghệ võ thuật với khí chất hiên ngang, tài thao lược
lịng u nước có uy tín đã được thanh niên trai tráng trong làng, nhân dân trong

vùng tôn vinh tin theo, suy tôn ông là người đứng đầu, coi ông như là một vị “tướng
trẻ” tài ba, giữa lúc nước nhà lâm nguy ông đã chiêu tập trai tráng trong làng, thanh
niên trong vùng đứng lên giúp vua, giúp nước đánh đuổi giặc ngoại xâm bảo vệ
nhân dân bảo vệ xóm làng, bảo vệ giang sơn xã tắc giữ n bờ cõi. Sau khi ơng đã
Thánh hóa về trời để ghi công ơn của Ngài, vua Trần tặng 8 chữ “Nam phương

2


tráng khí, bắc khấu hàn tâm” và được nhân dân nơi ông sinh ra, nhân dân nơi ông
chiêu tập trai tráng trong vùng tập luyện võ nghệ (hội binh), nhân dân những nơi
ông đánh giặc đi qua thờ phụng suy tôn ông làm Thần, Thánh của làng phụng thờ
ông, bảo vệ che chở ban phúc cho làng, xã.
Trong một xã hội đang hội nhập với thế giới, những chính sách xây dựng
nông thôn mới đang lan rộng khắp các làng quê Việt Nam. Đó là những yếu tố quan
trọng tạo nên những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, đời sống văn hóa, làm cho làng
quê chuyển biến theo hướng văn minh hiện đại. Đây không hẳn là một xu hướng
tiêu cực, nhưng càng hiện đại bao nhiêu thì con người lại sớm quên đi cái cũ, cái
truyền thống. Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ là một di sản phi vật thể của địa
phương thôn Cao Lĩnh xã Phú Sơn, thôn Đồng Bảng xã Đồng Thái do nhiều tác
động của thị trường mà đã phần nào đó cũng đang dần bị tam sao thất bản, dần thay
đổi đi so với lịch sử truyền thống xưa kia của nó. Để góp phần giữ gìn, bảo vệ
những giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ tại địa phương Đồng Thái,
huyện Ba Vì tìm hiểu những giá trị của di tích, hiện tượng thờ cúng nhân vật Phùng
Lộc Hộ và nhận diện những yếu tố lạc hậu, không phù hợp của tín ngưỡng, lễ hội,
những yếu tố mới thích nghi với thời cuộc mà không làm mất đi cái bản sắc cốt lõi
vốn có..., góp phần xây dựng truyền thống văn hóa tín ngưỡng và lưu truyền những
nét đặc sắc của loại hình tín ngưỡng dân gian tại đây, từ đó góp phần là tài liệu tham
khảo quan trọng để các địa phương có chung thờ cúng Ngài Phùng Lộc Hộ nghiên
cứu điều chỉnh, bổ sung, thêm bớt cho phù hợp và góp phần gắn kết, đồn kết, hiểu

nhau đi đến thống nhất đồng nhất trong cung cách thờ cúng Phùng Lộc Hộ.
Từ những lý do trên mà tôi chọn tên luận văn “Tín ngưỡng thờ cúng
Phùng Lộc Hộ ở xã Đồng Thái, xã Phú Sơn Huyện Ba Vì, Thành Phố Hà Nội”
làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học ngành Tôn giáo học.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về Tín ngưỡng thờ cúng Thành
Hồng nói chung
Văn hóa thờ Thần của Việt Nam là một nét tiêu biểu của làng quê Việt Nam.
Việt Nam với truyền thống văn hóa dựng nước giữ nước lâu đời đã trải qua 1000
năm Bắc thuộc và gần đây nhất thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ XX nước ta trải qua
02 cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, Mỹ, thống nhất đất nước đã góp phần
hun đúc lên phẩm chất con người Việt Nam hiên ngang bất khuất dũng cảm kiên
cường, cần cù sáng tạo đưa đất nước bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trước 1990 vai trị tơn giáo tín ngưỡng chưa được nhà
nước quan tâm coi trọng, nhiều địa phương cịn coi là kìm hãm sự phát triển của xã
hội; sau năm 1990 tôn giáo và tín ngưỡng thờ cúng Thần, Thánh, Thành Hồng làng
…, mới được quan tâm đến và được phục hồi mạnh mẽ trên cả nước thu hút nhiều
nhà nghiên cứu tìm hiểu về loại hình tín ngưỡng này ngày một nhiều hơn; có một
số cơng trình của các cá nhân và tập thể tiêu biểu nghiên cứu về Thành Hoàng Việt
Nam và một số vùng miền. Tiêu biểu là các cơng trình nghiên cứu: “Di sản văn hóa
dân tộc trong tín ngưỡng và tơn giáo ở Việt Nam” của tác giả Chu Quang Trứ
(2000); Tục Thờ cúng của người Việt tác giả Bùi Xn Mỹ NXB Văn Hóa Thơng tin
năm 2001; Đình và Đền Hà Nội tác giả Nguyễn Thế Long NXB Văn Hóa Thơng Tin
năm 2005; Phong tục thờ cúng của người Việt, Tác giả Song Mai-Quỳnh Trang,
NXB Văn Hóa Thơng tin năm 2006; Nghi lễ thờ cúng truyền thống của người Việt
tại Nhà, Chùa, Đình, Đền Miếu, Phủ (tái bản lần thứ V) tác giả Hồ Đức Thọ NXB

Hồng Đức năm 2008; ngồi các cơng trình kể trên cịn có các cơng trình nghiên
cứu “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” của tác giả Vũ Ngọc Khánh, năm 2001, đã
nêu rõ được lịch sử một số tín ngưỡng dân gian Việt Nam, lễ thức gia đình (bàn thờ
gia tiên, ngày giỗ, văn khấn, thần tài, tiền chủ...) và một số Thần linh được thờ cúng
(Thành hoàng, Tứ pháp...); “Văn hóa dân gian Việt Nam – Những phác thảo” của
tác giả Nguyễn Chí Bền, Nxb Văn hóa - Thơng tin năm 2003; “Tìm hiểu tín ngưỡng
truyền thống Việt Nam”, 2005, tác giả Mai Thanh Hải và rất nhiều các nghiên cứu

4


khác đã công bố như của tác giả Nguyễn Duy Hinh Tín ngưỡng Thành Hồng Làng
Việt Nam NXB Khoa học xã hội năm 1996. Toan Ánh Phong tục thờ cúng tổ tiên
trong gia đình Việt Nam Nxb Văn Hóa Dân tộc năm 2001. Tân Việt Một trăm điều
nên biết về phong tục Việt Nam Nxb Văn hóa dân tộc năm 2001. Phan Kế Bính Việt
Nam Phong tục Nxb Văn Học năm 2005 các tác phẩm trên đã cung cấp tri thức cho
bạn đọc những giá trị truyền thống, phong tục tập quán các thú chơi, tiêu khiển, lễ
tục, văn hóa tơn giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, gia tiên, thờ Thành Hồng làng,
thờ đình, đền, chùa, miếu của người Việt.
2.2. Tình hình nghiên cứu về Tín Ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở
huyện Ba Vì, TP. Hà Nội
Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ diễn ra tại di tích Đền Cao Lĩnh xã Phú
Sơn và di tích đền Trúc Lâm thơn Đồng Bảng xã Đồng Thái huyện Ba Vì thành phố
Hà Nội. Đại diện điển hình tiêu biểu nhất là đền Trúc Lâm thôn Đồng Bảng xã
Đồng Thái, đã được Ban Quản lý di tích và Danh thắng Hà Nội khảo tả di tích, thiết
lập hồ sơ tháng 10 năm 1989, được Bộ Văn hóa cấp bằng cơng nhận xếp hạng di
tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia ngày 3 tháng 3 năm 1991. Những tài liệu ghi
chép cụ thể về nghi thức tế lễ, kiêng kỵ, thờ cúng, quy ước, quy định mặc định
chung liên quan của các xã cùng chung Ngài Phùng Lộc Hộ cổ xưa về văn bản ghi
chép khơng có, mà được lưu giữ tồn tại được thông qua truyền miệng của các cụ

cao niên trong làng người đi trước truyền lại cho người đi sau, thế hệ đi trước truyền
dạy lại cho thế hệ kế cận cú như vậy tồn tại cho tới ngày nay. Di tích đền Trúc Lâm
sau khi đã được Nhà nước xếp hạng 1991. Tới năm 2016 mới có 01 đề tài nghiên
cứu luận văn Thạc sĩ có tên “Lễ hội đền Trúc Lâm ở xã Đồng Thái, huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội hiện nay” của tác giả Phùng Quang Đức nghiên cứu đã đề cập
viết về lễ hội đền Trúc Lâm. Ở đề tài nghiên cứu này tác giả mới chỉ dừng lại nhắc
tới 18 xã có chung thờ đức Thánh Lân Hổ mà chưa có sự đi sâu tìm hiểu so sánh
cách bài trí nhân vật thờ, nghi thức tế lễ, lễ vật ở các xã có di tích cùng chung thờ
đức Thánh, chưa đề cập tới dải văn hóa, sự phong phú đa dạng nghi thức tế Hùng
Vương trong tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ. Nghiên cứu của tác giả Phùng

5


Quang Đức tập chung chủ yếu về phần Lễ hội ở di tích Đền Trúc Lâm và ý nghĩa
vai trị của lễ hội với đời sống nhân dân. Do vậy, luận văn của tác giả sau này là một
trong những cơng trình nghiên cứu có sự kế thừa, chọn lọc, để bổ sung, hoàn thiện
một cách cụ thể nhất về tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở huyện Ba Vì, thành
Phố Hà Nội hiện nay. Tới thời điểm hiện tại chưa có đề tài nghiên cứu nào lấy tên
“Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở Huyện Ba Vì.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: làm rõ thực trạng thờ cúng Phùng Lộc Hộ hiện nay ở xã Đồng
Thái huyện Ba Vì.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa các tư liệu về nhân vật, di tích và lễ hội thờ cúng Phùng Lộc Hộ
+ Mô tả đầy đủ lễ hội đình/ đền thờ cúng Phùng lộc hộ
+ Đánh giá vai trò của Phùng lộc Hộ với tư cách Thành Hoàng làng đối với
đời sống tâm linh, tinh thần của người dân địa phương
+ Bước đầu đưa ra một vài khuyến nghị cho cơng tác quản lý tín ngưỡng trên
địa bàn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ tìm hiểu khơng gian Tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ diễn
ra tại huyện Ba Vì (02 xã Đồng Thái và xã Phú Sơn; trọng tâm ở làng Đồng Bảng
nơi có di tích chính thờ Ngài đồng thời là vai anh của 17 địa phương khác cùng
chung thờ đức Thánh); kết hợp có mở rộng khái quát so sánh một vài điểm thờ cúng
Phùng Lộc Hộ ở các địa phương khác như (xã Sơn Dương, xã Cao Xá, xã Tứ Xã
huyện Lâm Thao Tỉnh Phú Thọ, xã Thổ Tang Huyện Vĩnh Tường, xã Đồng Văn
huyện Yên Lạc Tỉnh Vĩnh Phúc nơi có di tích thờ Ngài từ đó đi đến đề cập đến
những nét riêng, nét chung của tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ).

6


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng chủ yếu sử dụng cách tiếp cận Tơn giáo học: tìm hiểu về
niềm tin tơn giáo của người dân địa phương về vị Thần, Thành Hoàng, cách thực
hành nghi lễ thờ thần và những tác dụng của thực hành nghi lễ đến cố kết cộng đồng
địa phương nơi diễn ra tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ.
Các phương pháp chủ yếu sẽ sử dụng gồm: điền dã dân tộc học, phương
pháp nghiên cứu văn hóa dân gian, phỏng vấn sâu; phân tích tổng hợp.
- Phương pháp điền dã dân tộc học: phương pháp này giúp tác giả tìm hiểu và
tiếp cận với các nguồn tư liệu thành văn và không thành văn; các nhân chứng tại địa
phương Đồng Bảng, Đồng Thái, Ba Vì; trực tiếp tham dự lễ hội làng và trải nghiệm
cùng dân làng qua các mùa Lễ hội tại cơ sở thờ cúng Phùng Lộc Hộ, qua đó có thể
mơ tả được chính xác lễ hội tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ diễn ra tại địa
phương; đồng thời kết đi sâu tìm hiểu, so sánh với các thơng tin về tín ngưỡng này
tại các địa phương lân cận để lý giải về hiện tượng thờ cúng Phùng Lộc Hộ _ Lân

hổ và vai trò của tín ngưỡng thờ cúng Lân hổ đổi với người dân địa phương.
- Khơng có điều kiện tham dự trực tiếp tại các di tích cùng chung thờ đức
Thánh Lân Hổ ở khu vực Vĩnh Phúc nên tác giả cũng sử dụng phương pháp phỏng
vấn sâu, phỏng vấn hồi cố những đối tượng chính là các ơng Ngun là cụ Mệnh,
các ông là thủ từ và nguyên là thủ từ các di tích ngồi ra cịn có các ơng là Trưởng
thôn và những người đã từng được tham gia vào các hoạt động thờ cúng Phùng Lộc Hộ.
- Phương pháp thu thập tư liệu gồm các tư liệu nghiên cứu của các tác giả đi
trước, thu thập trên internet, tài liệu của các cụ cao niên trong làng ghi chép lại, tài
liệu của địa phương; Đối chiếu so sánh, phân tích, chọn lọc, sắp xếp, tổng hợp
thơng tin nhằm dựng lại tồn bộ tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ tại địa phương
và tìm hiểu vai trị, ý nghĩa của thực hành tín ngưỡng đối với đời sống tâm linh dân
gian tại địa phương; tìm hiểu sự biến đổi của tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ
hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

7


Luận văn, cung cấp hiện trạng tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ và các
nghi lễ, nghi thức, liên quan tới thờ cúng Ngài cũng như nét sinh hoạt văn hoá
truyền thống của cộng đồng dân cư làng xã. Luận văn cung cấp các tư liệu giúp các
nhà chuyên môn, nhà quản lý, nhà nghiên cứu lịch sử, những địa phương cùng thờ
chung đức Thánh Phùng Lộc Hộ có thêm các thông tin thực tiễn làm cơ sở thực tế
cho cơng tác quản lý văn hố, tơn giáo tín ngưỡng trên địa bàn, nhằm tăng cường
khả năng quản lý, phát huy các giá trị văn hoá, đạo đức, truyền thống của tín
ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ trong cơng cuộc xây dựng nông thôn mới ngày nay.
Tác giả cũng mong muốn qua quá trình nghiên cứu, làm rõ được vai trị của
tín ngưỡng thờ cúng Phùng Lộc Hộ với người dân địa phương; Đồng thời luận văn
còn là tài liệu tham khảo hữu dụng cho các nhà nghiên cứu lịch sử, tơn giáo, văn
hóa, bảo tồn quản lý di tích, những nhà hoạch định phát triển kinh doanh dịch vụ du

lịch văn hóa tâm linh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của
luận văn chia làm 3 chương như sau:
Chương 1 Khái quát về xã Phú Sơn, xã Đồng Thái, huyện Ba Vì.
Chương 2 Thực hành thờ cúng Phùng Lộc Hộ ở Ba Vì và một số địa phương khác.
Chương 3 Tổ chức lễ hội Phùng Lộc Hộ ở Đồng Thái hiện nay một số vấn đề
đặt ra cho cơng tác quản lý tơn giáo tín ngưỡng trên địa bàn.

8


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ XÃ PHÚ SƠN, XÃ ĐỒNG THÁI, HUYỆN BA VÌ
1.1. Một vài nét về đặc điểm tự nhiên; kinh tế - xã hội của xã Phú Sơn,
xã Đồng Thái
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Xã Phú Sơn Là một xã đồi gị huyện Ba Vì, Hà Nội. Phía Bắc giáp xã Thái
Hịa. Phía Đơng giáp xã Đồng Thái, Vật Lại. Phía Nam giáp xã Tịng Bạt. Phía Tây
giáp Tỉnh Phú Thọ. Xã có diện tích tự nhiên là 1374,39 ha, có 05 thơn là: Cao Lĩnh,
Phú Hữu, Quy Mơng, Yên Kỳ, Phú Mỹ với 2509 hộ và 976 nhân khẩu. Năm 2017
làng Phú Hữu ra thành 03 thôn gồm Đông Hữu, Thượng Tả và Nhông Nương Tụ.
Xã Đồng Thái Có vị trí nằm ở phía Tây Bắc huyện Ba Vì, cách trung tâm
huyện Ba Vì 04 km, có quốc lộ 32 và tỉnh lộ 411 chạy qua thuận tiện cho việc đi lại
và giao thương. Phía Bắc giáp xã Vạn Thắng, phía Nam giáp xã Phú Phương và Phú
Châu, phía Tây giáp xã Phú Đơng, Thái Hịa và xã Phú Sơn. Diện tích đất tự nhiên
của xã là 828,24 ha, dân số 14.165 người, được phân bổ tại 04 thơn gồm Đồng
Bảng, Tri Lai, Tăng Cấu, Thái Bình.
Cũng như các xã khác trong huyện Ba Vì xã Đồng Thái và xã Phú Sơn nằm
trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nên điều kiện khí hậu, thời tiết mang lại những đặc

trưng chung của khu vực, được chia làm 2 mùa là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô
từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 2 năm kế tiếp.
Về điều kiện tự nhiên, xã Đồng Thái và xã Phú Sơn có đất đai thuộc loại phù
sa ít được bồi. Đất đai ở xã chủ yếu gồm các nhóm đất chính như:
- Đất phù sa ít glây.
- Đất phù sa cũ bạc màu có sản phẩm feralit.
- Đất phù sa glây mức trung bình.
Trên địa bàn 02 xã có nhiều ao hồ phục vụ cho việc tiêu thốt nước và số ít
được dùng để phụ vụ cho sản xuất, nguồn nước được dùng phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp chủ yếu được lấy từ Sông Hồng thông qua hệ thống kênh mương dẫn
9


nước. Mùa khơ nắng nóng kéo dài trên diện rộng cũng phần nào gây ảnh hưởng tới
việc thiếu nước phục vụ cho sản xuất. Ngồi nguồn nước mặt cịn có nguồn nước
mưa và nước ngầm khá dồi dào từ 2-4 m, tuy nhiên bị nhiễm phèn phải qua xử lý.
Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên hệ thống giao thông thuận tiện như
vậy, xã Đồng Thái và Phú Sơn có điều kiện thuận lợi thế để phát triển các loại hình
dịch vụ thương mại bn bán trao đổi hàng hoá giữa các địa phương vùng miền với
nhau. Nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, có độ ẩm cao là điều kiện tự nhiên thuận
lợi để đa dạng hoá cây trồng, nguồn lao động dồi dào, người dân cần cù, chịu khó,
nhanh nhậy, ham học hỏi, hiểu biết, là những nhân tố tích cực để thúc đẩy kinh tế
địa phương phát triển, xây dựng quê hương mạnh giàu.
Bên cạnh những mặt tích cực cịn có những hạn chế, khó khăn như: Biên độ,
nhiệt độ giữa các mùa lớn, mưa tập trung gây ngập úng gây ảnh hưởng không nhỏ
đến sản xuất nông nghiệp cụ thể: mùa khô xuất hiện gió Tây Nam, lượng bốc hơi
nước lớn nên gây hạn hán thiếu nước sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng mùa vụ;
mùa mưa thường xuất hiện bão, mưa kéo dài khơng tiêu thốt nước kịp gây úng
ngập thiệt hại tới cây trồng, mùa màng, vật nuôi, năng xuất lao động, ảnh hưởng tới
đời sống sinh hoạt của nhân dân.

1.1.2. Chính Trị- Kinh tế - Xã hội
Xã Phú Sơn trước đây thuộc tổng Phú Hữu, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây,
nay là Huyện Ba Vì thành Phố Hà Nội. Tháng 3 năm 1946, Hội Đồng nhân dân xã
khóa đầu tiên bầu 23 đại biểu đại diện cho nhân dân lao động trong xã; phiên đầu
tiên của Hội đồng nhân dân xã họp tại đình làng Phú Hữu đã bầu ra Ủy ban nhân
dân hành chính xã đặt tên xã là Phú Sơn từ đó tên Phú Sơn được gọi cho đến ngày nay.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 xã Phú Sơn cũng như các xã bạn lân
cận khác trong huyện Ba Vì chủ yếu là làm nơng nghiệp với thu nhập thấp đời sống
gặp nhiều khó khăn. Sau 1991 người dân xã Phú Sơn linh hoạt, nhanh nhẹn với vị
trí địa lý thuận lợi, có quốc lộ 32 chạy qua, có chợ từ lâu đời nên đã biết tận dụng
buôn bán, phát triển thương mại giúp kinh tế người dân khá giả lên nhiều. Cùng với
sự nhanh nhẹn do nghề “chợ búa” kinh doanh buôn bán trao đổi, đi tiên phong áp

10


dụng những kỹ thuật khoa hoc vào sản xuất nông nghiệp giúp nông dân phát triển
sản xuất với năng suất cao hơn. Hiện nay xã Phú sơn cũng đã có nhiều giải pháp tối
ưu đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ dân sinh, đầu tư hệ
thống kênh mương, đầu tư phát triển sản xuất nơng nghiệp, phát kiển kinh tế hộ gia
đình vườn ao chuồng, ưu tiên cho phát triển thương mại buôn bán dịch vụ vì vậy đời
sống của nhân dân ngày càng được khang trang, ấm no, giàu mạnh.
Xã Phú Sơn về vị trí địa lý tiếp giáp với xã Đồng Thái cùng huyện Ba Vì có
thổ nhưỡng và cũng có phong tục tập quán sinh hoạt giống nhau. Trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thực dân Pháp cầm quyền với chính sách “bần cùng hóa”,
“chia để trị”, dùng chính sách “ngu dân”, để mê hoặc dân ta khi đó tồn tổng Phú
Hữu xã Phú Sơn chỉ có 01 phịng học, dạy hết lớp ba đại bộ phận nhân dân đều mù
chữ. Cách mạng tháng Tám thành công mọi người dân được tuyên truyền bỏ các
thói hư tật xấu của chế độ cũ để lại, một lòng tin tưởng đi theo Đảng, Cách mạng,
được học chữ thơng qua lớp học bình dân học vụ, thực hiện nếp sống mới, bài trừ

mê tín dị đoan, giảm bớt lãng phí trong hiếu hỷ khao vọng, thực hành tiết kiệm.
Nghiêm cấm cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện. Hiện nay đời sống nhân dân được nâng
cao, thực hiện nếp sống văn hóa văn minh các hộ gia đình đã có của ăn của để gia
đình khá giả trong xã khơng cịn hộ đói, hộ nghèo giảm cịn 5%; đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao mỗi thôn được xây mới 01 nhà văn
hóa khang trang sạch đẹp tiện nghi đầy đủ để mọi người dân tham gia sinh hoạt văn
hóa văn nghệ thể dục dưỡng sinh nâng cao sức khỏe. Ủy ban nhân dân xã và các
đồn thể chính trị -xã hội thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu văn hóa văn nghệ
nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn trọng đại của tổ quốc.
Trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1963 xã Đồng Thái có tên là
Đồng Khánh, tới tháng 5/1963 xã đổi tên là Đồng Thái cho đến ngày nay. Với vị trí
địa lý ưu đãi có quốc lộ 32 và tỉnh lộ 411 chạy qua thuận tiện cho việc đi lại giao
thương, trong xã có nhiều gia đình sống bằng nghề mổ bị, ni bị vỗ béo, mổ lợn,
may nón, xây dựng và may mặc nhưng phần đa nhân dân vẫn sống bằng nghề sản
xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi; tập chung vào sản xuất các cây có

11


thế mạnh đặc sản của địa phương như trồng cây khoai lang, cây bầu, cây đỗ và đưa
tri thức khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng xuất vận hành theo cơ chế thị
trường nhưng bấp bênh khi được mùa thì mất giá, chăn ni rủi ro cao năm được
năm mất vì vậy đời sống vẫn cịn nhiều khó khăn.
Trước cách mạng tháng Tám đất nước ta là nước nửa phong kiến nửa thuộc
địa của Pháp bị thực dân Pháp đơ hộ cai trị thi hành nhiều chính sách ngu dân, bần
cùng hóa tự ti dân tộc, tuyên truyền văn hóa đồi trụy, khuyến khích các hủ tục mê
tín, lối sống phong kiến lạc hậu để dễ bề cai trị tăng cường bóc lột vơ vét của cải
đưa về chính quốc. “Từ năm 1936 đến năm 1939 ở các vùng nông thôn thực dân
Pháp bổ đầu cho mỗi người dân phải tiêu thụ 4-5 lít rượu mỗi năm. Giao trách
nhiệm cho Tri huyện phân bổ về các xã chánh tổng, lý trưởng thực hiện. Trong các

làng, hàng ngũ hương, lý phải lo việc thường xuyên Hội hè, đình đám, lễ bái ở đình,
chùa. Ép đám cưới hỏi khao thọ phải tiêu thụ một lượng rượu cồn nhất định” [13, tr.23].
Cách mạng tháng Tám thành công mọi người dân bỏ các thói hư tật xấu của
chế độ cũ để lại, một lòng tin tưởng đi theo cách mạng đi theo Đảng. Hiện nay hòa
chung vào sự phát triển mạnh mẽ của cả nước đời sống nhân dân của xã Đồng Thái
đã có nhiều đổi thay xã khơng cịn hộ đói, hộ nghèo cịn 119 hộ, chiếm 3,7%. Phong
trào phát triển văn hóa văn nghệ lên cao; nhu cầu được thụ hưởng và tham gia các
hoạt động văn hóa văn nghệ giải trí của nhân dân phát triển khơng ngừng để đáp
ứng nhu cầu đó Ủy ban nhân dân xã thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu văn
hóa văn nghệ nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, các thơn, các xóm cũng
có sự giao lưu văn nghệ với nhau. Riêng với thôn Đồng Bảng đã khôi phục lại câu
lạc bộ hát tuồng, câu lạc bộ hát dân ca, hát chèo và thường xuyên phục vụ nhân dân
nhân vào các dịp lễ tết các ngày kỷ niệm của thôn làng. Để đáp ứng nhu cầu tâm
linh văn hóa các di tích cũng thường xun mở cửa vào các ngày rằm, ngày mùng
một để các gia đình và du khách thập phương vào thăm quan làm lễ; riêng đối với di
tích đền Trúc Lâm các cụ cao niên ngồi ngày rằm ngày mùng một hàng tháng cịn
phải đảm nhiệm việc túc trực ba tháng hè liên tục mở cửa di tích để làm lễ và phục
vụ nhân dân tới làm lễ sinh hoạt tại đền.

12


1.2. Phong tục tập quán
Thực hiện nhất quán chủ trương chính sách của Đảng, Pháp luật nhà Nước
về tổ chức thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và mừng
thọ cơ bản là giống nhau nhưng ở mỗi địa phương vẫn có những đặc điểm riêng
khác nhau.
* Lễ tết
Tết của người dân xã Phú Sơn cũng giống với các địa phương khác trong
huyện Ba Vì, vùng châu thổ Sông Hồng và trên đất nước Việt Nam; Tết được người

Việt Nam dù ở trong nước hay ở ngồi nước định cư lao động, cơng tác làm việc,
học tập đều rất coi trọng. “Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày
mở đầu cho vận hội hanh thơng của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng” [25,
tr.126].
Ngày Tết là dịp để mọi người thân trong gia đình, họ hàng dịng tộc đi xa về
gần được quần tụ quây quần đoàn tụ thăm hỏi gặp gỡ người thân gia đình, bạn bè,
người quen, mọi người được vui chơi, cởi mở được đoàn tụ, trẻ em, được bố mẹ gia
đình chiều chuộng, mua sắm, được mặc những bộ quần áo đẹp, được vui chơi, được
nhận mừng tuổi …vv, nên ai cũng rất hào hứng đón tết thêm hun náo nhộn nhịp.
Với thơn Đồng Bảng, xã Đồng Thái nơi có di tích Đền Trúc Lâm thờ đức
Thánh Phùng Lộc Hộ vào đêm 30 tết giờ chuyển giao năm cũ sang năm mới; các cụ
“Điện” của đền Trúc Lâm cắt cử người ra giếng Trại “Giếng thiêng” của làng lấy
nước về dâng hương làm lễ thờ cúng trong những ngày tết. Những gia đình trong
làng cử người thân trong gia đình hoặc đích thân ra giếng Trại của làng lấy nước lộc
về thắp hương cúng tổ tiên trong 3 ngày tết và dùng nấu cơm, đun nước uống, rửa mặt
tưới cây mong Thánh phù hộ gia đình được bình an, may mắn. Giếng trại được coi là
“Giếng thiêng” gắn với sự tích nơi mẫu thân sinh ra đức Thánh Lộc Hộ thủa xa xưa
vào rừng kiếm củi khát nước “xoáy chân uống đất” lấy nước uống tại đây. Vì vậy
mà mỗi khi làng tổ chức lễ hội “qn lính” các xóm phải chạy từ đền Trúc Lâm ra
“Giếng Trại” lấy nước về để nấu cơm đóng oản dâng lên đức Thánh vào ngày Lễ

13


Hội 9- 10/giêng âm lịch và khi rước Ngài đi du ngoại qua Điếm Trại nghỉ dừng
chân cũng phải đợi qn lính lấy nước về kiệu kính thánh thì mới được tiếp tục đi.
* Cưới xin
Thủa xưa lấy nhau phải theo sự sắp đặt của bố mẹ, ông bà “Cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” cha mẹ nói con phải nghe lời "tìm tơng, tìm họ" khơng có nghĩa là
tìm chốn sang giàu, khinh người nghèo khó, mà chủ yếu là tìm nơi có gia giáo, có

đức độ gia đình phải tương xứng "Môn đăng hộ đối" và trước đây đều có tục thách
cưới. Hiện nay các đơi trai gái đã có quyền tự tìm hiểu nhau, quyết định tương lai
cuộc đời của mình và khơng có thách cưới như ngày xưa mà tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế gia đình bên nhà Trai có giàu có hay khơng mà đi đến thỏa thuận thống
nhất giữa 2 bên. Sau đó mua xe, sắm vàng, mua nhẫn làm quà tặng lại cho con gái
hôm tổ chức lễ cưới khi trao dâu. Thực hiện theo quy định của Pháp luật, theo Quy
ước “Làng Văn hóa” của thơn đã quy định.
Đối với thơn Đồng Bảng, xã Đồng Thái nơi thờ đức Thánh Phùng Lộc Hộ ở
huyện Ba Vì có khác với các địa phương khác trong huyện Ba Vì. Cưới con trai
khơng cần phải mời anh em trong dòng họ (dòng tộc), khi nghe tin trong họ có con
cháu cưới thì tự giác về tới làm giúp ăn cỗ và mừng cưới (đối với anh em trong chi,
nhánh, khuốn cả nhà phải đến làm giúp và ăn cỗ); chỉ có khách ngồi dịng tộc và
cưới con gái thì phải mời mới tới ăn cưới.
* Tang ma
Trong đám tang của người Phú Sơn cũng như ở các địa phương khác trong
huyện Ba Vì bao gồm: lễ khâm niệm, lễ nhập quan, lễ viếng và lễ đưa tang. Sau đó
lễ cúng ba ngày, một tuần và bốn mươi chín ngày, một trăm ngày, giỗ đầu, giỗ hết
là bốc mộ, sau đó là giỗ hàng năm. Theo đạo lý, phong tục, tập quán của từng địa
phương để thể hiện lịng hiếu kính, tơn kính của con với cha mẹ, con trai chống gậy
“Tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt
lưng”. Hiện nay văn minh hơn xong việc tang chỉ cần đeo 01 tấm băng đen cài trên
ngực khi 49, 100 ngày làm lễ mới lại đeo khăn Tang thực hiện nghi lễ xong lại tháo
bỏ. Cha mẹ mất, đưa ma ra đồng thì con gái, con dâu, cháu gái lăn đường mới là

14


con hiếu thảo thì nay thực hiện theo nếp sống văn minh cũng bỏ, bỏ cả chống gậy,
đội mũ rơm, thắt lưng dây chuối, buông xổ gấu áo không phục hồi. Ở thôn Cao Lĩnh
xã Phú Sơn khi trong làng có người mất thì trưởng thơn thơng báo các gia đình

trong làng đi đào huyệt trị huyệt gọi là các đô tùy; trước kia gia chủ đều mời cơm
các đô tùy ở lại dự cơm với gia đình để tỏ lịng cảm ơn chia buồn cùng gia đình nay
cũng đã bỏ đô tùy không ăn cơm chỉ đi với trách nhiệm làm phúc.
Đặc biệt ở Đồng Bảng, xã Đồng Thái cịn giữ tục khi cha, mẹ mất đi đưa
Tang thì người con Trưởng đều đi lùi để nói lên điều hiếu kính đức hy sinh của cha,
mẹ với con cháu với gia đình. Ở một số địa phương khác thì khi mẹ chết mới đi lùi,
cha chết vẫn đi tiến, có nơi thì bỏ đi lùi đều đi tiến đẩy sau xe tang. Đối với việc
chống gậy cũng vậy vẫn được duy trì cha chết thì chống gậy “tre”, mẹ chết thì
chống gậy “vơng”; ngày nay gậy “vơng” được thay thế bằng gậy “xoan” khơng có
khúc do q trình đơ thị hóa nơng thơn nhanh cây “vơng” bị chặt đi giờ cịn ít nên
khó kiếm. Đặc biệt trong nhà có người mất ngồi người thân gia đình con cháu phải
đeo khăn trắng thì cây cối trong vườn, nhà cũng được buộc một mảnh vải trắng nhỏ
(hiện tại ít gia đình còn thực hiện điều này).
* Mừng thọ
Mừng thọ là một phong tục tập quán có từ lâu đời thể hiện lịng thành kính
kính trọng của con cháu, của người ít tuổi đối với người lớn tuổi theo câu “Kính lão
đắc thọ” hoặc “yêu già già để tuổi cho”. Thể hiện sự trường thọ và mong muốn
được thọ, được sống lâu của con người. Ở xã Phú Sơn năm 1944 trở về trước muốn
được đi ăn cỗ thọ của xã phải đóng một suất gọi Nơm là “Đinh khao thọ” thì mới
được đi ăn cỗ các cụ được tuổi thọ, muốn đóng được suất đinh khao thọ này phải là
con nhà trung nơng, địa chủ có điều kiện giàu có khơng phải ai cũng có tiền đóng;
khi các cụ được tuổi thọ đều có lễ ra trình đình và gia đình con cháu tổ chức ăn
uống rất to linh đình từ 2-3 ngày. Hiện nay xã Phú Sơn thực hiện theo nếp sống văn
hóa văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và mừng thọ đã ấn định các thôn tổ
chức mừng thọ cho các cụ vào ngày mùng 6 tháng Giêng hàng năm; các cụ được
tuổi thọ sửa lễ mang lễ ra đình, đền thắp hương lễ bái gọi là trình thọ và thực hiện

15



theo nếp sống văn minh, tuôn thủ theo quy định của quy ước thơn, gia đình chỉ tổ
chức đơn giản khơng q 20 mâm cỗ, khơng ăn uống linh đình, mời khách tràn lan,
bày vẽ phơ trương lãng phí.
Cũng giống như ở xã Phú Sơn và các địa phương khác trong huyện Ba Vì.
Thơn Đồng Bảng xã Đồng Thái nơi thờ đức Thánh Phùng Lộc Hộ các cụ được tuổi
70, 80, 90, 100 tuổi trở lên khi Hội người cao tuổi có danh sách niêm yết cơng bố
thơng báo, được ban lãnh đạo thôn Chi hội người cao tuổi thôn tổ chức trao giấy
chứng nhận tôn vinh làm lễ tại đền vào tối ngày 30 tết, sau đó tất cả các cụ được
tuổi năm đó cùng con cháu trong gia đình các cụ vào làm lễ Thánh cầu xin sức
khỏe, tài lộc, làm ăn, …., bình an hạnh phúc. Tới mùng 3 tết tất thảy các gia đình
các cụ được thọ đều làm mừng thọ trong một ngày mùng 3 đã được ấn định; nhân
dân trong làng không cần phải mời mà chỉ cần nghe tin các cụ được tuổi thọ thì tự
đến nhà chúc mừng các cụ; cả làng hơm đó đơng vui nhộn nhịp như làng mở hội.
(Người đi mừng thọ khơng phân biệt họ hàng dịng tộc anh em hàng xóm, láng
giềng, người quen biết tin đều tự giác đến mừng); gia đình các cụ khơng làm cỗ
khao thọ mời khách, chỉ làm cơm phục vụ cho gia đình, người xa về, người đi mừng
thọ khơng ăn nhà ai cả, chỉ đến mừng chúc thọ các cụ, trường hợp thân thiết, nể
nhau trong năm mới uống chén rượu xuân mừng cho cụ thì ở lại dùng vài ba đồng
bánh, hoặc dùng một chút rượu sau đó lại đi nhà khác. Anh em trong dòng họ phân
theo chi, nhánh nghe tin cụ nào trong chi, nhánh thì tự về tới mừng thọ và làm giúp
công việc dọn dẹp, tiếp khách, ăn cơm.
1.3. Thờ cúng Phùng Lộc Hộ và mối liên hệ giữa hai xã Phú Sơn và
Đồng Bảng
Thờ ngài Phùng Lộc Hộ có cơng giúp vua nhà Trần đánh giặc Nguyên Mông
xâm lược nước ta lần thứ nhất vào năm 1258 và được vua ban tặng 8 chữ “Nam
Phương tráng khí Bắc khấu hàn tâm” tạm dịch nghĩa là trời nam khí mạnh giặc bắc
lịng run. (Theo Thần phả đền Trúc Lâm được tác giả Dương Thị The, Viện Hán
Nôm dịch năm 1989). Tại đền Trúc Lâm thôn Đồng Bảng, xã Đồng Thái (nơi ngài sinh

16



ra) và đền, đình Làng Cao Lĩnh, xã Phú Sơn Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội (nơi Ngài
kiếm củi, chiêu mộ dân binh tập hợp binh lính tập luyện võ nghệ trước khi đi đánh giặc).
Lễ hội đền Trúc Lâm và Lễ hội đền, đình Cao Lĩnh được diễn ra vào ngày 910/Giêng/âm lịch. Theo điển tích, Thần phả ghi lại tại đền Trúc Lâm thì lai lịch của ngài
Phùng Lộc Hộ được nhắc chi tiết (xem phần Phụ lục 02, trang. 85-86)
Với những thông tin này của địa phương có thể nhận định Ngài Phùng Lộc
Hộ là nhân Thần một người có thật quê hương Đồng Bảng, Đồng Thái là nơi ông
sinh ra và lớn lên cùng phụ mẫu sinh sống cho tới khi ông đi đánh giặc và hóa
Thánh, nhà của Ngài chính là di tích Đền Trúc Lâm bây giờ, mộ của mẫu thân sinh
ra Ngài vẫn còn hiện hữu tại làng Đồng Bảng được dân làng xây lăng thờ cúng và
bảo vệ; thân xác của Ngài Lộc Hộ nằm lại tại Gị Dung thơn Dục Mỹ, xã Cao Xá,
huyện Lâm Thao, Tỉnh Phú Thọ. Tương truyền Ngài đã Thánh hóa về trời (chết
trận) trong trận đánh cuối cùng đánh đuổi quân Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi nước
ta và được nhân dân ở đó xây cất lăng mộ thờ cúng bảo vệ. Bên cạnh lăng mộ Ngài
là ngôi đền Xa Lộc cũng là nơi thờ cúng ngài (nơi đây chính là chiến trường xưa kia
diễn ra trận đánh ác liệt sinh tử trước khi giặc Ngun Mơng khiếp đảm rút hết qn
về nước). Ngồi ra tại địa phương còn được các cụ cao niên trong làng Đồng Bảng
truyền lại cho biết thêm bà Phùng Thị Dong mẫu thân sinh ra đức Thánh Phùng Lộc
Hộ (gốc tích khơng phải là người địa phương), bà có nhan sắc tuyệt trần và có phần
nào đó liên quan tới Hồng thân Quốc thích của triều đại nhà Lý mang dòng giống
dõi quý tộc. Sau khi bị Nhà Trần cướp ngơi phải mai danh ẩn tích sinh con đặt theo
họ mẹ hiện chưa có tài liệu để đối chứng.
Để cảm ơn công đức của Phùng Lộc Hộ dân làng Đồng Bảng, làng Cao Lĩnh
xã Phú Sơn và các xã nơi Ngài cầm quân đánh giặc đi qua lập miếu, đền, đình, thờ
cúng với ước muốn Ngài bảo vệ và che chở cho dân làng. Từ đó tục thờ, cúng
Phùng Lộc Hộ được nhân dân duy trì tại Đồng Bảng xã Đồng Thái, làng Cao Lĩnh
xã Phú Sơn của huyện Ba Vì và 16 xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Phú Thọ tạo lệ thờ
cúng duy trì và khơi dậy truyền thống anh dũng, đấu tranh đánh giặc giữ nước bảo


17


vệ xóm làng, bảo vệ quê hương đất nước được truyền từ đời này qua đời khác từ thế
hệ này sang thế hệ khác được nhân dân gìn giữ lưu truyền cho tới ngày nay.
Ngoài tư liệu do viện Hán Nơm dịch chính thống ra các cụ cao niên trong làng
còn truyền miệng, ghi chép tay tài liệu lưu truyền nói về đức Thánh Lân Hổ. Cụ thể
(xem phần Phụ lục 02, trang. 87-88).
Căn cứ vào tài liệu của tác giả Vũ Văn Quân trong cuốn Thăng Long Hà Nội
1000 sự kiện lịch sử thì giặc Ngun Mơng tràn vào nước ta vào “Tháng Chạp năm
Đinh Tỵ (1257), giặc hội quân ở vùng Bạch Hạc, rồi dọc sông tiến xuống Bình Lệ
Nguyên”. “Ngày 29 tháng 1 năm 1258 vua Trần Thái Tông cùng các tướng lĩnh
đem quân từ Thiên Mạc ngược sơng Hồng tập kích qn địch ở Đơng Bộ Đầu. Một
trận quyết chiến đã sảy ra. Quân Mông Cổ đại bại phải vội vàng rút chạy về nước,
thành Thăng Long được giải phóng” [19, tr.102-104].
Trong khi trước đó vào tháng 8 năm Đinh Tỵ (tức 10/9 đến 8/10/1257) giặc
đã có sự xâm lấn biên giới được trại chủ Quy Hóa báo tin. Vì vậy đã phần nào
chứng minh chiến thắng quân Mông Cổ vào năm 1258 và khi giặc có sự xâm lấn
biên giới là cuối năm 1257. Nhưng để khi quân giặc Nguyên Mông ra khỏi hết bờ
cõi nước ta ít nhất là phải qua ngày mùng 10 Mậu Tý, tháng Giêng, Mậu Dần, Năm
Mậu Ngọ (1258) ngày này là ngày Thánh hóa về trời của Ngài Phùng Lộc Hộ đây
cũng là trận đánh ác liệt nhất trước khi giặc Ngun Mơng rút qn hồn tồn ra
khỏi bờ cõi non sông nước ta.
Trong Thần phả cũng như qua lời truyền miệng của các cụ cao niên trong
làng Đồng Bảng, tài liệu các cụ ghi chép lại về Ngài Phùng Lộc Hộ (Lân Hổ) có sự
vay mượn các chi tiết giống với Thánh Gióng như “vua cầu hiền tài, xin phép mẹ
già ra ứng phong; được Triều đình chấp nhận cử làm Tướng tiên phong, xin triều
đình cấp ngựa sắt, Trùy sắt” …, đây là sự vay mượn văn hóa để làm tăng tính
thiêng của Phùng Lộc Hộ phản ánh sự tự hào của địa phương sự oai phong của
Thánh làng mình. Nhưng chính những chi tiết này đã làm giảm tính thiêng của Thần

đối với nhân dân trong đó có các cụ cao niên thời kỳ trước của xã Sơn Dương, Lâm
Thao, Phú Thọ đã giận bỏ về tự thờ ở địa phương mình và khơng sang Đồng Bảng

18


đồng tế nữa. Sau đó là sự gián đoạn do đất nước sảy ra chiến tranh, mãi tới năm
2017 xã Sơn Dương đã tìm về với Nguồn cội quê hương đức Thánh Phùng Lộc Hộ.
Ngoài những chi tiết trên trong tài liệu các cụ ghi chép lại còn nhắc tới địa danh
Khối Châu Hưng n nhưng trong chính sử chỉ nhắc tới Sơng Thiên Mạc khơng
nhắc tới địa danh Khối Châu đây cũng là một điều bí ẩn, hay vay mượn, nhầm lẫn
mà hiện tại tác giả chưa có tài liệu để đối chứng.
Đền Trúc Lâm thôn Đồng Bảng, xã Đồng Thái, huyện Ba Vì là đền chính thờ
cúng Ngài Phùng Lộc Hộ (Lân Hổ) vai anh của 17 xã có di tích cùng chung thờ ngài Lân
Hổ trải dài theo bờ bên kia của con sông Hồng thuộc 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Nơi
di tích đền Trúc Lâm tọa lạc cũng chính là ngơi nhà của Ngài, nơi Ngài được sinh ra lớn
lên sinh sống cùng phụ mẫu ngày ngày vào rừng đốn củi làm nương; Di tích đình Cao
Lĩnh là nơi ngài tập hợp Binh mã (dân binh, trai tráng trong làng, trong vùng) tập luyện
võ nghệ và đi đánh giặc; Di tích đình Hùng Vỹ tương truyền là nơi Ngài đánh giặc khi
vua Trần phản công từ Hưng Yên lên giặc thua rút chạy, di tích Miếu Trúc, Đình Thổ
Tang là nơi Ngài đánh đuổi giặc tháo chạy và là nơi ngài tạm dừng chân cho binh lính
nghỉ chân ăn dưa và truy đuổi tiếp ... Di tích Thụy Vân ngài đánh đuổi giặc đi qua, di tích
Đình Dục Mỹ xã Cao Xá, Sơn Vi, Tứ Xã là chiến trường Ngài vây đánh quần nhau với
giặc; Di tích Lăng Dục Mỹ là nơi Ngài Thánh hóa về trời thân xác ở lại, di tích đền Sơn
Dương tục truyền lại là nơi ngài dạy nhân dân đào hào đắp lũy đánh giặc. Từ khi Thánh
hóa về trời đất nước được bình n, để tưởng nhớ cơng ơn của Ngài nhân dân ở đây và
các địa phương khác lập đền miếu, đình thờ cúng ngài để được ngài che chở bảo vệ cho
dân làng được bình yên ngày ngày no ấm, hạnh phúc.
Với di tích đình Thổ Tang thuộc thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh
Phúc là một trong những di tích có khn viên đẹp rộng lớn xung quanh là những cây đa

cổ thụ rợp bóng mát quanh năm. “Đình được tạo dựng từ thế kỷ XVII, trải qua thời gian,
đến nay còn bảo lưu được tương đối nguyên vẹn kiểu thức kiến trúc thời hậu Lê. Đình
thờ danh tướng Lân Hổ, có cơng đánh giặc Nguyên Mông ở thế kỷ XIII. “Tương truyền,
theo lệnh vua Trần, Lân Hổ đã dẫn quân lên vùng Gia Ninh (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) lập
phòng tuyến, bày binh bố trận, chỉ huy quân sĩ chiến đấu anh dũng, tiêu diệt nhiều sinh

19


lực địch, bảo vệ kinh đô Thăng Long. Hiện nay suốt một dải từ Dục Mỹ- Sơn Vi (Phú
Thọ) đến Vĩnh Tường - Yên Lạc (Vĩnh Phúc) có hệ thống di tích thờ Lân Hổ. Ở xã Thổ
Tang có Miếu Trúc, đình Thổ Tang, đình Phương Viên, trong đó đình Thổ Tang là trung
tâm để tổ chức lễ hội cùng những trò diễn, hèm tục tưởng niệm về vị tướng tài Lân Hổ và
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước của dân tộc ta thời Trần. Kiến
trúc Đình Thổ Tang được xây dựng quy mơ lớn đồ sộ, gồm hai tồ kiến trúc bố cục theo
hình chữ "đinh". Đại đình 5 gian 2 dĩ 6 hàng chân, hậu cung 2 gian. Tồn đình có 60 cột,
làm bằng gỗ tốt đại khoa. Cột cái có đường kính 0,80m, cột con đường kính 0,61m. nền
đình dài 25,80m, rộng 14,20m, bó đá xanh xung quanh. Kết cấu kiến trúc kiểu tứ trụ,
chồng rường giá chiêng, gia cố bền chắc. Về kiến trúc nghệ thuật chạm khắc tại Đình:
“hiện cịn 21 bức chạm khắc gỗ hết sức tinh tế, được thể hiện trên các thành phần kiến
trúc: Thân kẻ, thân bẩy, thân rường, nội dung phong phú, khái quát về chu trình: lao
động - làm ăn - hưởng thụ của cư dân nông nghiệp, của nhân dân ta thời Lê Trung Hưng.
Các bức chạm được sắp xếp thứ tự theo chu trình đó. Bước vào cửa đình thì thấy ngay
bức chạm đầu tiên là "ngày hội xuống đồng" (lễ tịch điền) rồi lần lượt đến các bức "bắn
thú dữ" để bảo vệ mùa màng, thơn xóm. Cảnh vui chơi giải trí có: "đá cầu", "chơi cờ",
"uống rượu", "người múa". Cảnh sinh hoạt gia đình có: "trai gái tình tự", "gia đình hạnh
phúc". Phê phán những thói hư tật xấu có: "đánh ghen", "vợ chồng lười". Trang trí thờ
phụng gồm các bức: "cửu long tranh châu", "bát tiên quá hải" và nhiều hình rồng, phượng
khác” [11].
Mặc dù tác giả có sử dụng tư liệu nguồn của báo Vĩnh Phúc cũng như qua lời

kể truyền miệng của các cụ cao niên làng Thổ Tang về Ngài Phùng Lộc Hộ. Nhưng
hiện tại chưa có tài liệu ghi chép cụ thể chi tiết để đối chứng lịch sử thực tế vì vậy
đó vẫn cịn là những sáng tạo dân gian.
Ngoài ra tư liệu điền dã còn cho biết thêm đền Xa Lộc” xã Tứ Xã huyện Lâm
Thao, tỉnh Phú Thọ là nơi diễn ra trận đánh ác liệt của Tù Trưởng Hà Bổng và Ngài
Phùng Lộc Hộ vây hãm đánh đuổi quân Nguyên Mông thua tháo chạy về nước khơng
dám cướp bóc, chính nơi đây Ngài đã bị trọng thương và Thánh hóa về trời thân xác nằm
tại Gị Dung của thơn Dục Mỹ xã Cao Xá (Phú Thọ) ngày nay.

20


×