Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

60. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP UỶ ĐỊA PHƯƠNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUÂN SỰ QUỐC PHÒNG ĐỊA PHƯƠNG TRONG THỜI KỲ MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.68 KB, 28 trang )

1
Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN

TĂNG
TĂNG CƯỜNG
CƯỜNG SỰ
SỰ LÃNH
LÃNH ĐẠO
ĐẠO CỦA
CỦA CẤP
CẤP UỶ
UỶ ĐỊA
ĐỊA PHƯƠNG
PHƯƠNG ĐỐI
ĐỐI VỚI
VỚI
CƠNG
CƠNG TÁC
TÁC QN
QN SỰ
SỰ QUỐC
QUỐC PHỊNG
PHỊNG ĐỊA
ĐỊA PHƯƠNG
PHƯƠNG
TRONG
TRONG THỜI
THỜI KỲ
KỲ MỚI


MỚI


Hà Nội
Nội -- 2021
2021

1


2
MỞ ĐẦU
Cơng tác qn sự quốc phịng địa phương là một bộ phận trong tồn bộ
cơng tác qn sự quốc phòng của Đảng và Nhà nước, được tổ chức tiến hành ở
các địa phương trong cả thời bình và thời chiến, nhằm tổ chức và động viên
quần chúng tham gia xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân; xây dựng và tích trữ tiềm lực quốc phòng, chuẩn bị và tiến hành
chiến tranh nhân dân ở địa phương, thực hiện bảo vệ địa phương và giữ vững
chủ quyền an ninh quốc
gia trong THÁNG
thế trận phòng thủ
bảo vệ Tổ quốc của cả
BẮC
BẮC NINH,
NINH, THÁNG 55 NĂM
NĂM 2013
2013
nước.
Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn xác định cơng tác qn sự quốc phịng địa phương là

một cơng tác có vị trí chiến lược quan trọng nên đã thường xuyên chăm lo lãnh
đạo công tác quân sự quốc phòng địa phương. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam mà trực tiếp là của cấp uỷ địa phương đối với cơng tác qn sự quốc
phịng địa phương luôn luôn là nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định mọi thắng
lợi của công tác quân sự quốc phòng địa phương.
Ngày nay, đất nước ta đang ở vào thời kỳ phát triển mới, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới đặt ra yêu cầu cao hơn. Sự nghiệp đó lại
diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giói diễn biến nhanh chóng và phức tạp, bên
cạnh thời cơ thuận lợi chúng ta cịn có cả những thách thức khó khăn. Tình hình đó
địi hỏi chúng ta phải tăng cường quốc phịng, an ninh, trước hết là từ cơ sở, ở từng
địa phương, phải tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương để cơng tác qn
sự, quốc phịng địa phương phát triển đúng hướng và đem lại hiệu quả cao. Trong
khi đó hiệu quả lãnh đạo của cấp uỷ địa phương và kết quả cơng tác qn sự, quốc
phịng của các địa phương cịn có những hạn chế nhất định, chưa tương xứng với
địi hỏi của tình hình nhiệm vụ. Chính vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ
địa phương đối với cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương trong thời kỳ mới là
vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cấp uỷ địa phương lãnh đạo
công tác quân sự địa phương.
2


3
1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với cơng tác
qn sự, quốc phịng địa phương là một tất yếu khách quan và là yêu cầu cấp
thiết.
Cấp uỷ địa phương lãnh đạo công tác quân sự, quốc phòng địa phương là
lãnh đạo một bộ phận quan trọng của cơng tác qn sự, quốc phịng của Đảng và
Nhà nước được thực hiện ở các địa phương trong cả thời bình và thời chiến.
Lãnh đạo cơng tác qn sự, quốc phòng địa phương bao gồm lãnh đạo xây dựng

thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân ở địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp tại chỗ, độc
lập tự lực, ngăn ngừa và đối phó có hiệu quả với chiến lược “diễn biến hồ bình,
bạo loạn lật đổ. Lãnh đạo việc chuẩn bị và tiến hành chiến tranh nhân dân ở địa
phương khi có chiến sự, chiến tranh, phối hợp với các địa phương, các đơn vị
chủ lực đứng chân trên địa bàn để góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam
xã hội chủ nghĩa.
Tính tất yếu khách quan cấp uỷ địa phương lãnh đạo cơng tác qn sự,
quốc phịng địa phương trước hết xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo quân sự, quốc phịng nói chung,
cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương nói riêng.
Học thuyết Mác - Lênin đã chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản ra đời là một tất
yếu khách quan, xuất phát từ đòi hỏi của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
vô sản với giai cấp tư sản, là điều kiện tiên quyết để giai cấp vơ sản thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây là một cuộc đấu tranh giai
cấp rất gay go và quyết liệt, bởi vì giai cấp tư sản thống trị không bao giờ từ bỏ
những quyền lợi, lợi ích của chúng, kể cả khi chúng khơng cịn được nắm giữ
chính quyền. Vì vậy, ngay từ khi chủ nghĩa Mác ra đời đã xác định cần phải tổ
chức ra lực lượng quân sự để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được. C.
Mác và Ph. Ăngghen dự định sau khi cách mạng vơ sản thắng lợi, chính đảng
của giai cấp công nhân phải tổ chức một lực lượng quân sự mà các ông gọi là
xây dựng đội dân cảnh có vũ trang, đội dân cảnh có vũ trang đó được xây dựng
3


4
trên nền tảng chính trị - xã hội của chế độ mới và tất nhiên bản chất giai cấp của
đội dân cảnh có vũ trang đó cũng mang bản chất của Nhà nước, chế độ đã sinh
ra nó. Mặc dù những ý định đó chưa được thực hiện nhưng là căn cứ quan trọng
để V. I. Lênin kế thừa phát triển trong xây dựng lực lượng thường trực có vũ

trang mà Người quen gọi là xây dựng “quân đội kiểu mới”. “Quân đội kiểu mới”
đó phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp toàn diện của Đảng Cộng sản,
trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng tổ chức, cả xây dựng, huấn luyện và chiến
đấu. Quân đội kiểu mới đó chính là Hồng qn cơng nơng và Hải quân công
nông đỏ (thành lập vào đầu năm 1918).
V. I. Lênin đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan phải bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Người khẳng định: “Khơng cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hồ xã hội
chủ nghĩa thì chúng ta khơng thể tồn tại” 1 và “Một cuộc cách mạng không biết
tự bảo vệ mình là một cuộc cách mạng tự sát”. Vì vậy, trong q trình lãnh đạo
tồn dân xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để giữ vững thành quả
cách mạng, Đảng Cộng sản phải thường xuyên chăm lo đến sự nghiệp quốc
phịng của đất nước nói chung, cơng tác quân sự địa phương nói riêng.
Với trách nhiệm người đứng đầu Đảng và Nhà nước Xô-viết, V. I. Lênin
đã chủ trương phải bảo vệ Tổ quốc, tăng cường khả năng quốc phòng, chuẩn bị
chiến đấu của đất nước. Người nói: “Hiện nay, từ ngày 25/10/1917 chúng ta là
những người bảo vệ Tổ quốc nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm
túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chiến đấu của Nhà
nước”2. Đồng thời, Người yêu cầu: “Tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của
đất nước đều phải dành cho cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc” 3. Do đó, nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải là của tất cả mọi địa phương và của toàn dân.
Đảng Cộng sản phải lãnh đạo, tập hợp, đoàn kết toàn dân thành một khối thống
nhất. Các tổ chức đảng ở các địa phương, trực tiếp là cấp uỷ địa phương phải
lãnh đạo nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương mình, huy động nhân tài,
vật lực của địa phương vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của quốc gia, dân tộc. Có
1
2
3

V. I. Lênin, tồn tập, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va 1977, t. 38, tr. 165-166.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va 1977, t. 35, tr. 480.

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va 1977, t. 27, tr. 24.

4


5
như vậy thì chúng ta mới có một nền quốc phịng vững mạnh, đủ sức đối phó
thắng lợi với mọi kẻ thù.
Tiếp thu những quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây
dựng sức mạnh quân sự, quốc phịng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp vào xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc
phịng tồn dân ở Việt nam.
Đối với Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc là một tất yếu khách quan, vì thế
Người thường nhắc nhở:
“Các vua Hùng đã có cơng dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước Việt nam có quyền hưởng tự do và độc lập
và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do
và độc lập ấy”4. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng, trong tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc” do phải đối phó với thù trong, giặc ngồi, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ những vấn đề cấp bách cần khẩn trương lãnh đạo để xây
dựng tiềm lực quốc phòng ở mỗi địa phương và trong cả nước. Người đề ra chủ
trương cần lãnh đạo là: “diệt giặc đói”, “diệt giặc dốt” và “diệt giặc ngoại xâm”.
Chủ trương của Người đã được cả nước và mỗi địa phương hưởng ứng, nhờ đó
chúng ta đã khắc phục được những khó khăn sau nạn đói năm 1945, bồi dưỡng,
nâng cao được tiềm lực con người và bảo vệ được nước Việt nam dân chủ cộng
hồ cịn non trẻ.
Để bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng nền

quốc phịng tồn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, kết hợp
xây dựng đất nước với bảo vệ đất nước, chuẩn bị mọi mặt cho đất nước sẵn sàng
tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thắng lợi. Người kêu gọi: “Mỗi người Việt
nam, bất kỳ giàu, nghèo, lớn nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ đấu tranh
trên mặt trận: Quân sự, kinh tế, chính trị, văn hố. Thực hiện khẩu hiệu:
4

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001, t. 3, tr. 557.

5


6
Toàn dân kháng chiến
Toàn diện kháng chiến.
...Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”5.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân qn du kích làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc. Người viết: “Ngày
nay, qn đội có hàng chục vạn người, cộng với bộ đội địa phương và dân qn
du kích thì lực lượng vũ trang và nửa vũ trang của nhân dân ta có hàng triệu
người”.6 Đồng thời, Hồ Chí Minh ln khẳng định rằng: Sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nói chung, sự
nghiệp qn sự, quốc phịng bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Người viết: “Đảng Cộng
sản là trung kiên lãnh đạo kháng chiến”; “Cách mệnh... trước hết phải có đảng
cách mệnh”7.
Như vậy, sự nghiệp quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc mang tính chất
giai cấp và bản chất giai cấp sâu sắc. Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đều đã khẳng định vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với sự nghiệp
cách mạng của giai cấp cơng nhân nói chung, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc xã hội chủ nghĩa, trong đó có cơng tác qn sự, quốc phịng nói riêng. Chỉ
có đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cơng tác qn sự, quốc phịng
mới có phương hướng, mục tiêu rõ ràng và đem lại hiệu quả cao.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước của dân, do
dân và vì dân, mang bản chất của giai cấp cơng nhân, vì hạnh phúc của nhân dân
lao động Việt nam. Vì vậy, “quốc phịng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt nam mang bản chất nhân dân, tồn dân, tồn diện, hiện đại vì sự nghiệp bảo
vệ nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa, góp phần
bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” 8. Để Nhà nước và nền quốc phịng

5
6
7

8

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001, t. 5, tr. 445-446.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001, t. 5, tr. 722.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001, t. 2, tr. 267.
Từ điển giải thích thuật ngữ quân sự, BTTM 1985, tr. 12.

6


7
của ta thực sự mang bản chất của giai cấp cơng nhân, phục vụ và bảo vệ lợi ích
của nhân dân thì phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò là người lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo
xã hội, điều đó đã được ghi rõ trong Hiến pháp của nước ta: “Đảng Cộng sản
Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt nam, đại biểu trung thành

quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc theo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội”. Thực hiện vai trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam phải có trách nhiệm
lãnh đạo mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hố - xã hội, an ninh - quốc
phòng và lãnh đạo xây dựng nền quốc phịng tồn dân, tiến hành chiến tranh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Đối với Quân đội nhân dân, Cơng an nhân dân và sự
nghiệp quốc phịng - an ninh, Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”.
Cấp uỷ địa phương là cơ quan lãnh đạo của Đảng ở địa phương, một bộ
phận cấu thành Đảng, chịu trách nhiệm trước toàn Đảng, trước đảng bộ và nhân
dân địa phương lãnh đạo mọi mặt công tác ở địa phương theo phạm vi chức
năng và nội dung quy định cho từng cấp. Cơng tác qn sự, quốc phịng địa
phương là một nội dung, một nhiệm vụ quan trọng đối với tất cả các địa phương
cũng như toàn Đảng nên cấp uỷ địa phương phải thực hiện vai trò trực tiếp lãnh
đạo mọi mặt đối với công tác quân sự, quốc phịng địa phương.
Tính tất yếu khách quan cấp uỷ địa phương lãnh đạo cơng tác qn sự,
quốc phịng địa phương cịn xuất phát từ vị trí chiến lược quan trọng của mỗi địa
phương, từ mục đích, nội dung, đặc điểm, tính chất của cơng tác qn sự, quốc
phịng địa phương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương qn triệt và thể hiện đầy đủ,
sinh động quan, đường lối của Đảng về xây dựng nền quốc phịng tồn dân,
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt cơng tác qn sự, quốc
phịng địa phương sẽ phát huy được cao độ sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân
và lực lượng vũ trang tạo nên thực lực sức mạnh quân sự trên một khu vực, một
vùng được phân ra từ một tổ chức cao nhất là Trung ương (Quốc gia); trực tiếp
góp phần vào giữ hồ bình, phịng thủ đất nước, đẩy lùi hoạt động gây chiến của
7


8
kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy

mơ.
Cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương có đặc điểm là: chủ thể thực
hiện, đối tượng tác động đa dạng, phong phú. Phương thức tiến hành luôn gắn
liền với công tác vận động quần chúng ở địa phương. Đồng thời, công tác quân
sự, quốc phịng địa phương có sự kết hợp nhiều nhiệm vụ, nhiều chức năng trên
cùng một địa bàn. Một địa phương có thể vừa làm nhiệm vụ quân sự địa
phương, vừa làm nhiệm vụ quân sự đối với cả nước, vừa làm nhiệm vụ của tiền
tuyến, vừa làm nhiệm vụ của hậu phương... vừa được đặt dưới sự lãnh đạo của
Trung ương, vừa chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của đảng uỷ quân sự và người chỉ huy
quân sự theo hệ thống dọc từ trên xuống dưới, vừa chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực
tiếp về mọi mặt của cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Tính chất của cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương gồm có: tính chất
chính trị, tính chất qn sự, tính chất tồn diện, tính chất nhân dân và tính chất
địa phương. Những tính chất này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo nên sự
đa dạng, phong phú của cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương.
Nội dung cơ bản của công tác quân sự, quốc phòng địa phương là tổ chức
nhân dân xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, xây dựng và tích trữ tiềm lực quốc phòng, chuẩn bị và tiến hành chiến tranh
nhân dân ở địa phương. Bao gồm các mặt công tác cụ thể: giáo dục quốc phịng
tồn dân; xây dựng khu vực phịng thủ; xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân; tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương
vững mạnh tồn diện; xây dựng lực lượng vũ trang địa phương; xây dựng lực
lượng dự bị động viên và chuẩn bị động viên thời chiến; kết hợp quốc phòng với
kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại, tổ chức nhân dân chống
“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của địch, chuẩn bị địa phương sẵn sàng và
thực hành chống chiến tranh xâm lược; thực hiện công tác tuyển quân và tuyển
sinh quân sự; xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự địa phương; thực hiện quản lý
quốc phòng ở địa phương; tổ chức thực hiện chính sách về quốc phịng và chính

8



9
sách hậu phương quân đội; tổng kết và nghiên cứu khoa học về qn sự, quốc
phịng địa phương.
Với vị trí chiến lược quan trọng, đặc điểm da dạng và tính chất phong phú,
cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương địi hỏi phải có một tổ chức đảng đủ
thẩm quyền, sát thực tế, có khả năng giải quyết thoả đáng hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng ở địa phương thì cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương
mới phát triển đúng hướng và thể hiện được đầy đủ vị trí chiến lược, đặc điểm
và tính chất của nó. Tổ chức đảng đó chính là cấp uỷ địa phương.
Thực tiễn cách mạng Việt nam đã khẳng định: sự lãnh đạo của cấp uỷ địa
phương là nhân tố quyết định thắng lợi của cơng tác qn sự, quốc phịng ở mỗi
địa phương. Những năm đổi mới vừa qua lại càng cho ta thấy rõ điều đó. Nếu ở
đâu sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương được tăng cường thì quốc phòng, an ninh
ở địa phương và cơ sở được giữ vững, tình hình ổn định, có điều kiện để đi lên.
Ngược lại, nếu ở đâu và khi nào có biểu hiện coi thường, hạ thấp, buông lỏng sự
lãnh đạo của cấp uỷ địa phương thì ở đó cơng tác qn sự, quốc phòng địa
phương hoạt động kém hiệu quả, địa phương sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Ngày nay, tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với cơng tác
qn sự, quốc phịng địa phương khơng những là yêu cầu cơ bản mà còn là yêu
cầu cấp thiết.
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nước ta đã có bước phát triển mới với nhiều nội
dung mới với yêu cầu cao hơn. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX chỉ ra, Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) một lần nữa
khẳng định: bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự
nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội và nền văn hố, giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hồ bình,

phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh tình hình
thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chứa đựng những yếu tố khó
lường, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay gắt, quyết liệt, chủ nghĩa đế quốc và
9


10
các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn
lật đổ chống phá cách mạng nước ta, đòi hỏi từng địa phương phải được xây
dựng vững mạnh toàn diện, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện cơng tác qn
sự, quốc phịng địa phương, đủ sức đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Để thực hiện được yêu cầu đó, cần phải tăng cường trách nhiệm lãnh đạo trực
tiếp về mọi mặt của cấp uỷ địa phương đối với công tác quân sự, quốc phòng địa
phương.
Mặt khác, hiện nay những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống như mặt
trái của cơ chế thị trường, các hiện tượng tiêu cực xã hội, nạn tham nhũng, tệ
quan liêu và vấn đề dân tộc, tôn giáo... đang diễn biến phức tạp đặt ra cho cơng
tác qn sự, quốc phịng địa phương phải tham gia giải đáp và giải quyết đúng
đắn, kịp thời. Tình hình đó địi hỏi phải thường xun tăng cường sự lãnh đạo
của cấp uỷ địa phương đối với công tác qn sự, quốc phịng địa phương, bảo
đảm cho cơng tác quân sự, quốc phòng địa phương được thực hiện đúng đường
lối chính trị, quân sự của Đảng, phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, đạt
hiệu quả cao và thiết thực.
1.2. Cơ chế Đảng lãnh đạo công tác quân sự, quốc phòng địa phương.
Cơ chế Đảng lãnh đạo cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương đã được
Nghị quyết 02/NQ/TW Bộ Chính trị (khố VI) xác định. Nghị quyết nêu rõ:
“Phải chú trọng tăng cường trách nhiệm lãnh đạo của cấp uỷ đảng địa phương,
phát huy được sức mạnh của các địa phương trong công cuộc xây dựng và củng
cố quốc phòng... Việc xây dựng, củng cố quốc phịng tồn dân trên các địa bàn
tỉnh, thành phố, huyện, quận... được đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất

của tỉnh uỷ (thành uỷ), huyện uỷ (quận uỷ), dưới sự điều hành của chính quyền
địa phương và sự chỉ huy thống nhất của người chỉ huy quân sự tỉnh, huyện”.
Đây là những vấn đề cơ bản mang tính định hướng về ngun tắc. Q trình
thực hiện cơ chế đó đã được bổ sung, phát triển ngày một hoàn chỉnh cho phù
hợp với thực tiễn. Hiện nay, cơ chế đó được xác định là: Cấp uỷ địa phương lãnh
đạo, chính quyền địa phương quản lý và điều hành theo pháp luật; các cơ quan,
ban, ngành, đồn thể chính trị - xã hội của địa phương (nòng cốt là cơ quan quân
10


11
sự) làm tham mưu theo chức năng; chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương
chỉ huy thống nhất các lực lượng thuộc quyền.
Cơ chế trên đây đã chỉ rõ thành phần, chức năng và mối quan hệ giữa các
tổ chức thành viên của cơ chế trong quá trình tổ chức thực hiện cơng tác qn
sự, quốc phịng địa phương. Thành phần gồm có: thành phần lãnh đạo là cấp uỷ
địa phương các cấp; thành phần quản lý điều hành là chính quyền địa phương;
thành phần làm tham mưu là tất cả các ban, ngành, đồn thể chính trị xã hội của
địa phương (nòng cốt là cơ quan quân sự địa phương); thành phần chỉ huy là
người chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương.
Trong cơ chế, cấp uỷ địa phương có chức năng trực tiếp lãnh đạo mọi mặt
cơng tác qn sự, quốc phịng ở địa phương. Vì vậy, cấp uỷ địa phương phải
thường xuyên nắm vững các quan điểm, chủ trương nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh của Đảng; đánh giá đúng tình hình qn sự, quốc phịng của địa phương;
nắm vững âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với địa phương... để thường xuyên
có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác quân sự, quốc phòng địa
phương sát đúng và tổ chức thực hiện thắng lợi.
Chức năng của chính quyền trong cơ chế là quản lý và điều hành mọi hoạt
động công tác quân sự, quốc phòng địa phương theo đúng quy định của pháp
luật. Chính quyền địa phương phải căn cứ vào nghị quyết của cấp uỷ, chỉ thị của

cấp trên, tình hình mọi mặt của địa phương, chỉ đạo các cơ quan chức năng soạn
thảo các kế hoạch, phương án, các văn bản pháp quy và các chỉ thị để tổ chức
quản lý và điều hành các ngành, các cấp ở địa phương thực hiện; kiểm tra đơn
đốc và duy trì các lực lượng thực hiện thắng lợi kế hoạch, chỉ thị đã ban hành.
Các cơ quan, ban, ngành, đồn thể chính trị xã hội của địa phương có chức
năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương về thực hiện cơng tác qn
sự, quốc phịng địa phương. Các cơ quan, ban, ngành đoàn thể phải căn cứ vào
yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của địa phương, chức năng và tình hình
cụ thể của cơ quan, đồn thể mình để đề đạt với cấp uỷ, chính quyền địa phương
việc sử dụng lực lượng, huy động tiềm năng trong nhân dân, phát động phong
trào quần chúng, sử dụng nhân tài, vật lực thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc
11


12
phòng, bảo vệ địa phương, giúp cấp uỷ, uỷ ban nhân dân soạn thảo các chỉ thị,
hướng dẫn, kế hoạch, văn bản pháp qquốc phòng để tổ chức điều hành các lực
lượng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phịng; tổ chức thực hiện có
hiệu quả cơng tác qn sự, quốc phịng ở cơ quan, đồn thể mình theo đúng quy
định.
Chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương có chức năng chỉ huy thống
nhất các lực lượng thuộc quyền thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng của địa phương. Chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương phải căn cứ
vào nghị quyết của cấp uỷ địa phương, trực tiếp là của đảng uỷ quân sự địa
phương, chỉ thị của chính quyền và mệnh lệnh của người chỉ huy cấp trên về
công tác quân sự, quốc phòng, trực tiếp chỉ huy cơ quan quân sự cấp mình và
hướng dẫn các ban, ngành của địa phương soạn thảo các kế hoạch, phương án để
thông qua cấp uỷ, chính quyền địa phương; trực tiếp chỉ huy cơ quan quân sự và
các đơn vị thuộc quyền thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Trong cơ chế ta cũng thấy rõ mối quan hệ của các tổ chức thành viên:

quan hệ giữa cấp uỷ địa phương với các thành viên trong cơ chế là mối quan hệ
giữa lãnh đạo và phục tùng. Quan hệ giữa chính quyền địa phương với các cơ
quan, ban, ngành, đồn thể chính trị - xã hội và người chỉ huy trưởng cơ quan
quân sự địa phương là mối quan hệ giữa quản lý điều hành và chấp hành. Quan
hệ giữa các cơ quan, ban ngành, đồn thể chính trị - xã hội với nhau và với
người chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương là quan hệ phối hợp hiệp
đồng công tác để cùng thực hiện nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của cấp uỷ, chính
quyền địa phương về các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương. Quan hệ
giữa người chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương với các lực lượng thuộc
quyền là mối quan hệ giữa chỉ huy và phục tùng. Trong quá trình thực hiện cơ
chế cần nhận thức rõ về các mối quan hệ để giải quyết tốt, đem lại hiệu quả cao
trong công tác quân sự, quốc phòng địa phương.
1.3. Thực trạng cấp uỷ địa phương lãnh đạo cơng tác qn sự, quốc
phịng địa phương.

12


13
Cấp uỷ địa phương lãnh đạo công tác quân sự, quốc phòng địa phương là
nhân tố quyết định bảo đảm cho cơng tác qn sự, quốc phịng địa giành thắng
lợi ở trên từng địa phương, góp phần vào thắng lợi của cơng tác qn sự, quốc
phịng địa phương trong cả nước. Lãnh đạo cơng tác qn sự, quốc phịng ở địa
phương chính là sự cụ thể hố đường lối, quan điểm quốc phịng tồn dân, chiến
tranh nhân dân của Đảng và Nhà nước ta. Kết quả lãnh đạo góp phần xây dựng
vững chắc nền quốc phịng tồn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an
ninh nhân dân ngay tại địa phương, đồng thời kết hợp chặt chẽ với cơng tác quốc
phịng ở Trung ương và các địa phương khác tạo nên sức mạnh quân sự, quốc
phòng của cả nước. Lãnh đạo công tác quân sự, quốc phịng địa phương cịn góp
phần xây dựng hậu phương vững chắc, chuẩn bị động viên thời chiến.

Những năm qua, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị của cơng tác quân sự
địa phương, Đảng ta, trực tiếp là các cấp uỷ địa phương đã quan tâm lãnh đạo
nâng cao chất lượng cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương. Nhờ đó mà cơng
tác qn sự, quốc phịng địa phương đã thu được những kết quả quan trọng. Vai
trò của cấp uỷ, chính quyền địa phương đối với cơng tác qn sự, quốc phòng
địa phương đã được coi trọng và đề cao hơn một bước. Nhận thức về vai trò lãnh
đạo của cấp uỷ địa phương đối với công tác quân sự, quốc phòng địa phương
ngày càng rõ hơn và được nâng lên ở tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Cơ chế về sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể là của cấp uỷ địa phương đối với cơng
tác qn sự, quốc phịng địa phương được xác định, hồn thiện, đưa vào thực
hiện, từng bước vận hành có nề nếp và có hiệu lực. Các tổ chức trong hệ thống
chính trị và các cơ quan chức năng ngày một nhận rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ
và trách nhiệm của mình trong cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương và
chấp hành sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với việc tổ chức thực hiện
công tác quân sự, quốc phòng địa phương và từng bước phát huy trách nhiệm đó
trong thực hiện nhiệm vụ. Quy trình lãnh đạo cơng tác qn sự, quốc phịng địa
phương nói chung và các mặt cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương có
nhiều tiến bộ, phát triển đúng hướng và thu được kết quả khá toàn diện.

13


14
Tuy nhiên, trong thực tiễn việc nhận thức về sự lãnh đạo và tổ chức thực
hiện sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với công tác quân sự, quốc phòng
địa phương chưa thật đầy đủ và đồng đều ở tất cả các tổ chức và các đối tượng
cán bộ trong hệ thống chính trị. Trình độ lãnh đạo và mức độ quan tâm lãnh đạo
của tập thể cấp uỷ và cá nhân các đồng chí cấp uỷ viên có trách nhiệm chưa thật
sự chú trọng và ngang bằng với các mặt cơng tác khác. Quy trình, trách nhiệm
lãnh đạo và vai trị, vị trí của một số tổ chức chưa thật sự chuẩn xác. Một số tổ

chức trong bộ máy hệ thống chính trị chưa thật sự được đề cao. Cơng tác đảng,
cơng tác chính trị trong cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương có lúc, có nơi
còn chưa được quan tâm đúng mức, nhận thức và thực hiện nó chưa đầy đủ.
Chính vì vậy, việc tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với cơng
tác qn sự, quốc phịng địa phương chưa được đặt ra đúng mức, làm cho công
tác quân sự, quốc phịng địa phương tuy có tiến bộ nhưng cịn hạn chế, chưa
tương xứng với vị trí chiến lược và yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng
trong thời kỳ mới.
Thực trạng trên và những lý do đã trình bầy ở phần trước cho ta thấy: tăng
cường sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với công tác quân sự, quốc phòng
địa phương trong thời kỳ mới vừa là yêu cầu khách quan, vừa là yêu cầu cấp
thiết hiện nay.
2. Yêu cầu lãnh đạo và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với cơng tác qn sự, quốc phịng địa
phương.
2.1. Yêu cầu lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với cơng tác qn sự,
quốc phịng địa phương.
Do tính chất, đặc điểm, tình hình nhiệm vụ lãnh đạo cơng tác quân sự,
quốc phòng địa phương thời kỳ mới cần phải nắm vững các yêu cầu sau:
Một là, chấp hành nghiêm túc đường lối nguyên tắc và cơ chế lãnh đạo
của Đảng đối với cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
Quân đội và sự nghiệp quốc phòng, an ninh là nguyên tắc cơ bản nhất trong xây
14


15
dựng quân đội và sự nghiệp quốc phòng. Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng của Đảng, nhiệm vụ xây dựng quân đội và nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng.

Cấp uỷ địa phương là một bộ phận trong hệ thống tổ chức của Đảng, chịu
trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân địa phương lãnh đạo mọi mặt
của địa phương, trong đó có cơng tác qn sự, quốc phòng địa phương, nên phải
chấp hành nghiêm túc đường lối, nguyên tắc và cơ chế lãnh đạo của Đảng.
Để thực hiện tố yêu cầu trên, cấp uỷ địa phương phải lãnh đạo đảng bộ và
nhân dân địa phương chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, quan điểm, chủ
trương, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về quân sự, quốc phòng,
lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở
địa phương.
Trên cơ sở đường lối, quan điểm quân sự, quốc phòng của Đảng, các chủ
trương, chính sách, nghị định của Nhà nước, các chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ quốc
phòng và nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương Quân khu giao cho, đề ra
được những chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo và tổ chức thực
hiện có hiệu quả cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương. Khắc phục những
biểu hiện vin vào khó khăn về kinh tế, xã hội dẫn tới chấp hành nhiệm vụ quân
sự, quốc phịng địa phương khơng nghiêm, đạt chất lượng hiệu quả thấp.
Lãnh đạo vận hành có hiệu quả cơ chế: Đảng lãnh đạo, chính quyền quản
lý điều hành và vai trò làm tham mưu của các cơ quan, ban ngành đồn thể đối
với cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương.
Hai là, bám sát tình hình thực tiễn, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương được tiến hành trên các địa
phương, các vùng lãnh thổ có những đặc điểm riêng về địa lý, trình độ dân trí,
phong tục tập qn, điều kiện kinh tế, xã hội, kinh nghiệm truyền thống. Nhiệm
vụ quân sự, quốc phịng địa phương lại gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng an ninh ở địa phương. Do đó, bám sát tình
hình thực tiễn, nhiệm vụ chính trị của địa phương là một yêu cầu lãnh đạo, chỉ
đạo công tác quân sự, quốc phòng địa phương.
15



16
Để thực hiện yêu cầu này đòi hỏi cấp uỷ địa phương phải luôn sâu sát cơ
sở, bám sát sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ chính trị của địa phương, kịp
thời đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng. Đề phịng, khắc phục tình
trạng xem xét giải quyết vấn đề một cách chung chung, không sát tình hình thực
tiễn của địa phương.
Ba là, lãnh đạo kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường
quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu trước mắt và nhiệm vụ lâu dài, đáp ứng
cả trong thời bình và trong thời chiến.
Sức mạnh quốc phịng an ninh của mỗi địa phương là sức mạnh tổng hợp
của các mặt: chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, qn sự, an ninh... Các mặt đó
ln có mối quan hệ chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau. Chính trị ổn định là điều kiện
phát triển kinh tế, văn hoá xã hội; kinh tế phát triển, đời sống nhân dân nâng cao
là cơ sở bảo đảm cho quốc phòng, an ninh được xây dựng, củng cố về mặt vật
chất và tiềm lực. Quốc phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện giữ vững ổn định
chính trị, bảo đảm cho kinh tế phát triển. Do vậy, phải trên cơ sở xây dựng và
phát triển kinh tế mà củng cố thế trận quốc phòng, an ninh và từ khả năng, ý đồ
phòng thủ bảo vệ địa phương mà thực hiện quy hoạch, xây dựng và phát triển
kinh tế cho phù hợp.
Để thực hiện tốt yêu cầu này cấp uỷ địa phương phải giáo dục nâng cao
nhận thức, làm cho mọi ngành và toàn thể nhân dân địa phương thấu suốt hai
nhiệm vụ chiến lược, thấy được sự tất yếu phải thường xuyên kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng an ninh với kinh tế. Chỉ đạo các
cấp, các ngành, các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với nhau trong hoạt
động, nhất là trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch tổng thể của mỗi địa phương.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng tại địa phương
cần làm cho mọi cấp, mọi ngành và toàn thể nhân dân địa phương nhận thức rõ
những vấn đề cần thiết bảo đảm cho sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi,
đặc biệt là những địa bàn trọng điểm, với những vấn đề có lợi cho cả kinh tế và
quốc phòng phải ưu tiên thực hiện trước. Khi quyết định các nhiệm vụ quốc

phòng, an ninh phải tính đến thực trạng kinh tế địa phương, đảm bảo hợp lý
16


17
trong huy động và sử dụng lực lượng, đồng thời cần đấu tranh khắc phục
khuynh hướng chỉ nghĩ đến lợi ích kinh tế trước mắt mà coi nhẹ, không nhận
thức được những tác hại về quốc phòng, an ninh, đặt cơ sở liên doanh với nước
ngồi tại nhưng vị trí chiến lược phịng thủ trọng yếu.
Bốn là, lãnh đạo tồn diện, nhưng biết tập trung vào những nhiệm vụ chủ
yếu, nhiệm vụ quan trọng.
Cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương là vấn đề tổ chức và phát động
quần chúng tham gia xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng và tiến
hành thắng lợi chiến tranh nhân dân ở địa phương. Lãnh đạo cơng tác qn sự,
quốc phịng địa phương là một trong những nhiệm vụ lãnh đạo chủ yếu của cấp
uỷ địa phương. Để thực hiện vai trị lãnh đạo mọi mặt đối với cơng tác qn sự,
quốc phòng địa phương, cấp uỷ địa phương phải lãnh đạo tất cả các nhiệm vụ,
mọi lực lượng, mọi khâu, các bước của chu trình lãnh đạo, điều hành và tổ chức
thực hiện của cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương. Nhưng trước những
diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, trong nước và yêu cầu nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng địa phương thời kỳ mới, trong khi coi trọng lãnh đạo toàn diện,
các cấp uỷ địa phương cần tập trung sự lãnh đạo vào những nhiệm vụ chủ yếu,
nhiệm vụ quan trọng.
Trước hết, cần tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục
quốc phòng cho các đối tượng, nhất là với cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành,
đội ngũ đảng viên và thế hệ trẻ.
Tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ địa phương
ngày càng vững chắc, bao gồm cả thế trận, cả lực lượng, cơ sở vật chất,kỹ thuật;
xây dựng các tiềm lực của khu vực phòng thủ; lãnh đạo xây dựng các phương án
phòng thủ.

Lãnh đạo kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng, an ninh.
2.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ địa
phương đối với cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương trong thời kỳ mới.

17


18
Để tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với cơng tác qn
sự, quốc phịng địa phương cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, cần
tập trung làm tốt những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán
bộ các cấp, các ngành và toàn dân đối với cơng tác qn sự, quốc phịng địa
phương.
Sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là
sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Thường xuyên giáo dục nâng
cao nhận thức trách nhiệm chính trị của cán bộ các cấp, các ngành và tồn dân
đối với cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương chính là xây dựng cơ sở nền
tảng chính trị của nền quốc phịng tồn dân và thế trận quốc phịng tồn dân, góp
phần đào tạo, bồi dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa, con người phát triển
tồn diện, có đạo đức, có sức khoẻ, có kiến thức và kỹ năng quân sự cần thiết để
tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu giáo dục là làm cho mọi người có nhận thức đúng đắn quan
điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng và hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Khắc phục khuynh
hướng coi nhẹ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương, thường xuyên nâng
cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, từ đó đề cao
trách nhiệm đối với cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối với công tác
quân sự, quốc phòng địa phương.

Nội dung giáo dục cần tập trung vào các vấn đề có liên quan trực tiếp đến
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Trước hết là các quan điểm, tư
tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, đường lối và các quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng.
Hai là, giáo dục những nội dung của Hiến pháp, pháp luật, quy định của Nhà
nước và từng địa phương có liên quan đến quốc phòng, an ninh. Ba là, hệ thống
các kiến thức, tri thức, kỹ năng quân sự cần thiết, tạo điều kiện cho mỗi người
sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhanh chóng thích nghi với hoạt động
quân sự. Bốn là, giáo dục truyền thống yêu nước, lịng tự hào, tự tơn dân tộc,
18


19
những giá trị văn hoá tinh thần tốt đẹp của dân tộc, truyền thống cách mạng của
từng địa phương. Năm là, làm cho mọi người nhận thức rõ âm mưu thủ đoạn
chống phá cách mạng nước ta của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch,
quán triệt sâu sắc nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quân sự của địa phương, của lực
lượng vũ trang địa phương. Đặc biệt cần làm cho mọi đối tượng nhận rõ đặc
điểm tình hình nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phịng chống “diễn biến
hồ bình”, bạo loạn lật đổ ở địa phương.
Trên cơ sở những nội dung trên nghiên cứu vận dụng cho cho phù hợp vói
đối tượng gắn với tình hình thực tế, nhiệm vụ của từng địa phương và cơ sở.
Đối với đông đảo quần chúng nhân dân nội dung giáo dục phải mang tính
phổ cập, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Cần đa dạng hố các
loại hình chuyển tải nội dung, phát huy hiệu quả của các phương tiện thông tin
đại chúng.
Đối với thế hệ trẻ trên cơ sở những hình thức biện pháp có hiệu quả đã và
đang sử dụng cần thường xun tìm tịi đổi mới các hình thức biện pháp cho phù
hợp với đặc điểm nhận thức và tâm lý lứa tuổi. Nâng cao chất lượng dạy học các
môn khoa học xã hội và nhân văn kết hợp với các hình thức khác tạo sự hứng

thú cho tuổi trẻ.
Đối với cán bộ của Đảng, Nhà nước cần kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục
tập trung với giáo dục thường xuyên, thông qua huấn luỵên quân sự, diễn tập và
thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Cần tổ chức bồi dưỡng theo phân
cấp, tiêu chuẩn hoá yêu cầu về kiến thức quốc phòng đối với từng loại cán bộ,
và các chức danh cán bộ chủ chốt.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương trong thời kỳ mới.
Cấp uỷ địa phương là cơ quan lãnh đạo, trung tâm đoàn kết của Đảng bộ
địa phương giữa hai kỳ Đại hội. Năng lực lãnh đạo của cấp uỷ địa phương là
trình độ, khả năng quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những quan điểm
tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính
sách của Đảng, trình độ kiến thức về mọi mặt và kinh nghiệm thực tiễn để đề ra
19


20
chủ trương, phương hướng lãnh đạo đúng đắn kịp thời, sát với thực tiễn của
đảng bộ và địa phương; là năng lực giáo dục, tổ chức, động viên quần chúng
thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, xây dựng đảng bộ và địa phương
vững mạnh về mọi mặt, hồn thành thắng lợi nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Do đó, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là nhân tố trực tiếp quyết định chất
lượng, hiệu quả lãnh đạo của cấp uỷ.
Trong thời kỳ mới, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng
đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, đòi hỏi cấp uỷ phải nâng cao trình độ, năng
lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực hiện mới có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp uỷ địa phương thể hiện ở những nội
dung chủ yếu sau:
- Cấp uỷ địa phương phải quán triệt và chấp hành đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp lệnh, nghị định của Nhà nước, các chỉ thị mệnh lệnh

của Bộ quốc phòng, Quân khu về quân sự, quốc phòng địa phương. Việc quán
triệt và chấp hành phải kiên quyết, chủ động, tích cực. Trên cơ sở đó đề ra chủ
trương lãnh đạo cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với thực tế địa phương.
- Lãnh đạo giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xh với nhiệm vụ củng
cố quốc phòng, an ninh ở địa phương.
Trong từng thời kỳ phải biết đặt sự ưu tiên và cần tập trung sự lãnh đạo
cho đúng, bảo đảm nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phịng an ninh đều hồn thành
tốt. Thực tế hiện nay cho thấy, nếu không quán triệt tốt hai nhiệm vụ chiến lược
dễ sa vào sự vụ và bị cuốn hút vào nhiệm vụ kinh tế xã hội.
Để thực hiện tốt nội dung này trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa
hai nhiệm vụ chiến lược, giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường
quốc phòng, an ninh cần chú trọng thể hiện trong tất cả các khâu, các bước. Từ
vạch kế hoạch, định ra chủ trương đến tổ chức thực hiện đều phải đảm bảo đẩy
mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh. Đồng thời, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, động viên được thanh niên và nhân dân hăng hái tham gia làm
20


21
nghĩa vụ quân sự, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa
phương. Cần khắc phục khuynh hướng chỉ biết mặt này, xem nhẹ mặt kia.
- Lãnh đạo phát huy vai trị chức năng của chính quyền, của các cơ quan,
ban ngành, đoàn thể trong quản lý điều hành và làm tham mưu trong công tác
quân sự, quốc phòng địa phương.
Đây là một yêu cầu khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo chính quyền thơng qua
Nhà nước, bằng Nhà nước để thực hiện vai trị của mình. Mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng có đến với quần chúng, biến thành hiện thực hay
không phải thông qua vai trò tổ chức của Nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng phải đi đôi với nâng cao hiệu lực bộ máy Nhà nước và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Để thực hiện tốt nội dung này cần phát huy vai trò, chức năng của Hội
đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp trong việc cụ thể hố các nghị quyết
của cấp uỷ về cơng tác quân sự, quốc phòng địa phương thành các quy định, các
kế hoạch, biện pháp và tổ chức thực hiện. Phát huy vai trị của các cơ quan, ban
ngành, đồn thể địa phương trong công tác tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền
địa phương về cơng tác qn sự, quốc phòng địa phương, tham gia tuyên truyền
vận động nhân dân và tổ chức triển khai nghị quyết của cấp uỷ, kế hoạch, biện
pháp của chính quyền.
- Kiên định và giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ lãnh đạo tập
thể, coi trọng cải tiến phương pháp, tác phong cơng tác đối với cơng tác qn sự,
quốc phịng địa phương.
Để thực hiện tốt nguyên tắc, chế độ lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
qn sự, quốc phịng địa phương cần xây dựng quy chế hoạt động lãnh đạo chặt
chẽ, thống nhất. Quy chế phải xác định cụ thể chức năng quyền hạn của cấp uỷ
đối với công tác quân sự, quốc phòng địa phương, trách nhiệm của thường vụ,
trách nhiệm, quyền hạn của chính quyền, xác định đầy đủ mối quan hệ giữa lãnh
đạo của cấp uỷ với quản lý điều hành, tổ chức thực hiện của chính quyền, quan
hệ giữa cấp uỷ, chính quyền với cơ quan quân sự và các cơ quan ban ngành
khác.
21


22
Đi đôi với giữ vững nguyên tắc, chế độ lãnh đạo còn phải thường xuyên
coi trọng cải tiến phương pháp lãnh đạo và phương pháp tác phong công tác.
Phải thực sự dân chủ, sâu sát cơ sở, thông qua việc chỉ đạo chặt chẽ hoạt động
của hệ thống chính quyền, các ban ngành, đoàn thể để làm cho hoạt động của
cấp uỷ luôn bám sát thực tiễn của địa phương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân

sự, quốc phòng địa phương.
- Xây dựng cấp uỷ, chính quyền, các cơ quan ban ngành, đồn thể ở địa
phương vững mạnh.
Trong q trình đổi mới, Đảng ta khẳng định, xây dựng chỉnh đốn Đảng là
nhiệm vụ then chốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nước ta, cũng như
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Cần đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng Đảng
nói chung, xây dựng cấp uỷ địa phương nói riêng. Để xây dựng cấp uỷ địa
phương trong sạch vững mạnh phải thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh
đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương VI (lần 2 khoá VIII) và Nghị quyết Đại
hội lần thứ IX của Đảng. Coi trọng bồi dưỡng nâng cao kiến thức toàn diện cho
cấp uỷ viên, nhất là kiến thức về quân sự, quốc phòng.
Cùng với xây dựng cấp uỷ địa phương phải xây dựng hệ thống chính
quyền, các ban ngành, đồn thể ở địa phương trong sạch vững mạnh, có đầy đủ
khả năng quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện có hiệu quả cơng tác qn sự,
quốc phịng địa phương. Tiếp tục quán triệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 8
(khoá VII) và Nghị quyết Đại hội Đảng IX về “Đẩy mạnh cải cách hành chính,
xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh”. Đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương V (khoá IX).
Ba là, xây dựng cơ quan quân sự địa phương và đội ngũ cán bộ quân sự
địa phương vững mạnh đủ sức làm tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa
phương trong cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương.
Cơ quan quân sự địa phương là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân
dân thuộc hệ thống tổ chức của Bộ quốc phòng, là cơ quan quốc phòng trong tổ
chức chính quyền địa phương; đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp
22


23
uỷ, sự điều hành chính quyền địa phương và sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của

Đảng uỷ quân sự Trung ương và Bộ quốc phòng.
Cơ quan quân sự và đội ngũ cán bộ quân sự địa phương là lực lượng nòng
cốt trực tiếp làm tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương về cơng tác
qn sự, quốc phịng địa phương và trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chun
mơn của cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương. Vì vậy, cấp uỷ địa phương
cần thường xuyên chăm lo xây dựng cơ quan quân sự và cán bộ quân sự địa
phương vững mạnh, đủ sức thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Mục tiêu, yêu cầu xây dựng cơ quan quân sự và đội ngũ cán bộ quân sự
địa phương có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, có năng lực tồn diện;
nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước,
nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và tình hình
mọi mặt của địa phương. Từ đó nâng cao năng lực nghiên cứu, đề đạt với cấp
uỷ, chính quyền địa phương về các chủ trương, biện pháp thực hiện nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng địa phương và năng lực hướng dẫn, kiểm tra các ban
ngành, đoàn thể, các đơn vị cơ sở thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở
địa phương.
Để đạt được mục tiêu yêu cầu trên cần tập trung làm tốt những nội dung
chủ yếu sau:
Xây dựng cơ quan quân sự vững mạnh toàn diện đáp ứng 5 tiêu chuẩn
theo Chỉ thị 1020/CT/-QP/1996 và 5 tiêu chuẩn xây dựng đơn vị vững mạnh
toàn diện theo Chỉ thị số 917/1999/CT-QP của Bộ trưởng Bộ Quốc phịng. Đó là
phải xây dựng cơ quan qn sự địa phương vững mạnh về chính trị, tổ chức biên
chế đúng quy định, duy trì nghiêm túc các chế độ sẵn sàng chiến đấu, huấn
luyện giỏi; xây dựng nề nếp chính quy và quản lý kỷ luật tốt; bảo đảm hậu cần
tài chính và đời sống bộ đội; bảo đảm tốt công tác kỹ thuật.
Vấn đề nổi lên ở cấp huyện, quận hiện nay là nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng nặng nề, khó khăn, phức tạp, địa bàn rộng, biên chế tổ chức, cán bộ thiếu,
phải kiêm nhiệm nhiều việc, quân hàm lại thấp... Vì vậy cần kiện tồn cơ quan

23



24
quân sự địa phương đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, không để sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp phải kiêm nhiệm nhiều việc.
Đi đơi với kiện tồn về tổ chức phải coi trọng bồi dưỡng năng lực toàn
diện cho đội ngũ cán bộ quân sự địa phương. Đây là khâu then chốt có ý nghĩa
quyết định đến xây dựng cơ quan quân sự vững mạnh toàn diện. Trong thời kỳ
phát triển mới của đất nước hiện nay, việc nâng cao kiến thức toàn diện cho cán
bộ đang là một vấn đề cấp bách. Nhất là việc rèn luyện bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định với mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa, tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền địa phương. Nắm vững đường lối,
quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng, của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nghệ thuật quân sự Việt nam. Về kinh tế xã hội, cần bồi dưỡng cho cơ
quan quân sự và cán bộ quân sự địa phương nắm vững đường lối quan điểm
kinh tế của Đảng, những chủ trương chính sách, biện pháp kinh tế của Nhà
nước, của địa phương. Chú trọng đào tạo cán bộ các dân tộc ít người đáp ứng
yêu cầu thực tiễn ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao
trách nhiệm quản lý giáo dục của các tổ chức đảng, cơ quan chức năng, của
người chỉ huy đối với cán bộ thuộc quyền. Chấp hành đúng quy chế công tác cán
bộ, bảo đảm việc đề bạt, bố trí sử dụng cán bộ và chính sách đối với cán bộ được
thực hiện chính xác, vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, vừa động viên được cán bộ
yên tâm công tác, gắn bó với địa phương, tạo sự thống nhất việc quản lý cán bộ
giữa cấp uỷ chính quyền địa phương với cơ quan có thẩm quyền trong quân đội.
Đối với đội ngũ cán bộ ở cơ quan quân sự xã, phường, thị trấn, đơn vị dân
quân tự vệ, cấp uỷ phải hướng dẫn cấp uỷ cấp dưới, các ban ngành đoàn thể ở cơ
sở thông qua thực tiễn hoạt động của quần chúng thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng mà lựa chọn cán bộ, bảo đảm đủ số lượng, có chất lượng cao, coi trọng
chất lượng chính trị. Định kỳ chỉ đạo bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ kiến
thức mọi mặt cho cán bộ quân sự không chuyên trách đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ.
Để xây dựng cơ quan quân sự và đội ngũ cán bộ quân sự địa phương vững
mạnh, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải xây dựng đảng uỷ quân sự địa
24


25
phương vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bởi vì, đảng uỷ quân sự
địa phương là một khâu, một mắt xích quan trọng trong tổ chức sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng. Mọi đề xuất của cơ quan quân
sự cho cấp uỷ, chính quyền địa phương đều phải thơng qua đảng uỷ quân sự địa
phương. Thường xuyên coi trọng xây dựng đảng uỷ quân sự địa phương vững
mạnh, trong sạch là vấn đề quyết đến việc xây dựng cơ quan quân sự và đội ngũ
cán bộ quân sự địa phương vững mạnh.
Nội dung xây dựng đảng uỷ quân sự địa phương cần quán triệt và thực
hiện tốt những yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo nghị quyết Trung ương
VI (lần 2, khoá VIII), nghị quyết Đại hội Đảng IX và các nghị quyết của Ban
chấp hành Trung ương khóa IX. Vấn đề nổi lên hiện nay là: Thường xuyên củng
cố đảng uỷ đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý, nâng cao chất
lượng sinh hoạt, xây dựng và thực hiện đúng quy chế, làm việc dân chủ, khoa
học, có hiệu quả. Coi trọng xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong đảng uỷ
làm hạt nhân đoàn kết giữa cơ quan quân sự với các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở địa phương.
Bốn là, tiếp tục hồn thiện và thực hiện tốt cơ chế, chính sách, luật pháp
đối với cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương.
Cơ chế chính sách, luật pháp là một vấn đề rất quan đối với lĩnh vực quân
sự, quốc phòng địa phương: nếu cơ chế chính sách phù hợp sẽ có tác dụng thúc
đẩy, nếu khơng phù hợp, có tác dụng ngược lại. Thời gian qua, Đảng và Nhà
nước ta đã quan tâm điều chỉnh, bổ sung cơ chế chính sách cho phù hợp với
những yêu cầu nhiệm vụ và sự vận động, biến đổi của thực tiễn đặt ra, tổ chức

thực hiện đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện
nay cịn nảy sinh những vấn đề đòi hỏi cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung
cho ngày càng hồn chỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác qn sự quốc
phịng địa phương.
Cấp uỷ địa phương cần coi trọng việc giáo dục, nâng cao nhận thức và
trách nhiệm thực hiện chính sách cho tồn đảng bộ, chính quyền, các ban ngành,
đồn thể, lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương. Lãnh đạo phát huy đầy đủ
25


×