Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SKKN toan 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.73 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “Một số kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả của các tiết lí thuyết hình học lớp 8” I. LỜI NÓI ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Cơ sở lí luận: Ngày nay, học sinh luôn được tiếp cận với nhiều kiến thức khoa học tiên tiến, với nhiều môn học mới lạ đầy hấp dẫn nhằm hoàn thiện và bắt kịp công cuộc đổi mới, phát triển toàn diện của đất nước. Trong các môn học ở trường phổ thông, toán học được xem là môn học cơ bản, là nền tảng để các em phát huy năng lực của bản thân trong việc tiếp thu và học tập các môn khoa học khác. Hình học cùng với số học và đại số có vị trí quan trọng trong hệ thống kiến thức toán học phổ thông. Hình học cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết trong cuộc sống, giúp phát triển tư duy logic, phát triển trí tưởng tượng không gian và óc thẩm mĩ, giúp học sinh hiểu biết về thế giới hình học xung quanh và khám phá thế giới ấy. Tuy nhiên để học sinh học tập tốt môn toán, đặc biệt là hình học thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh được đầy đủ lượng kiến thức cần thiết, cần đổi mới các phương pháp dạy học, làm cho các em trở nên yêu thích toán học hơn, vì có yêu thích mới dành nhiều thời gian để học toán. Từ đó các em tự ý thức trong học tập và phân bổ thời gian hợp lý đảm bảo yêu cầu học tập của thời đại mới. Xã hội càng phát triển thì người ta càng quan tâm và cũng đòi hỏi nhiều ở giáo dục. Việc đi tìm những phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả đã trở thành một trong những nhiệm vụ cấp bách của nhà trường nói chung, giáo viên dạy toán nói riêng..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Thực tế qua quá trình giảng dạy của bản thân và dự các tiết dạy của đồng nghiệp tôi vừa học hỏi vừa rút kinh nghiệm và đã có một số phương pháp dạy học để đạt những yêu cầu trên. Từ đó dẫn đến tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả của các tiết lí thuyết hình học lớp 8”. 1.2. Cơ sở thực tiễn Toán học được xem là khó đối với học sinh cấp 2, nhất là đối với lớp 8, trong đó, hình học lại luôn là nỗi “sợ hãi” của các em học sinh. Học toán đồng nghĩa với việc tư duy được toán, làm được bài tập toán; việc đó đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức cơ bản ở một mức độ nhất định nào đó. Đối với học sinh, nắm được các định nghĩa, định lí “khô khan” đã khó, vận dụng được chúng lại càng khó hơn. Vậy làm thế nào để giúp các em nắm vững các định nghĩa, định lí để từ đó có những lập luận logic, chặt chẽ trong các bài toán chứng minh hình học? Là một giáo viên dạy toán tôi thấy đa số học sinh nắm kiến thức không vững, còn ngại tìm tòi, dẫn tới học sinh nắm kiến thức thụ động nên kết quả học tập chưa cao, học sinh yếu kém môn toán còn nhiều, chất lượng môn toán qua các đợt kiểm tra là vấn đề rất đáng lo ngại. Vậy do nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này? Phải chăng môn toán khó đối với học sinh? Học sinh chưa nắm được phương pháp học tập? Bị mất căn bản từ lớp dưới? Hay do phương pháp dạy của thầy cô chưa phù hợp, chưa tạo được sự say mê tìm tòi sáng tạo cho học sinh? Với trách nhiệm của một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn toán, tôi rất thông cảm với các em và trăn trở trước thực tế đó. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn học hỏi đồng nghiệp và tìm tòi những phương pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả của các tiết lí thuyết hình học lớp 8, từ đó giúp các em học sinh yêu thích và học tốt môn toán.. 2. Sơ lược lịch sử vấn đề.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Trong xu thế chung những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cấp bách, thiết thực nhất nhằm đào tạo những con người có năng lực hoạt động trí tuệ tốt. Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ trong các bài giảng lý thuyết, mà ngay cả trong các giờ luyện tập. Nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn toán trường THCS hiện nay là một vấn đề được nhiều người quan tâm, nhất là các cấp quản lý và những người trực tiếp đứng lớp. Việc nâng cao chất lượng đòi hỏi các giáo viên phải không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy, phát huy tính tích cực của học sinh, tạo cho học sinh sự thích thú khám phá, sáng tạo những cái hay, cái mới trong quá trình học tập bộ môn. Đồng thời qua đó càng rèn luyện tính kiên trì, chịu khó để hoàn thành công việc . Bên cạnh đó, trong thời đại kinh tế tri thức như hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, xuất hiện rất nhiều nguồn tri thức mới, đ ̣òi hỏi người học phải nắm bắt để không thể lạc hậu so với thời đại .Trong khi đó quỹ thời gian của học sinh không thể nào mở rộng ra được nữa. Chính vì thế nhu cầu cấp thiết bây giờ là phải làm sao giúp cho học sinh nắm được kiến thức cơ bản của bài học ngay trên lớp chứ không phải đợi về nhà nghiền ngẫm rồi mới nắm được. Do vậy vai trò của người giáo viên rất quan trọng, phải thể hiện vai trò chủ đạo của mình, giúp cho học sinh chủ động, tích cực trong việc nắm tri thức mà mình truyền đạt. Điều đó được thể hiện thông qua các biện pháp, thủ thuật mà người giáo viên sử dụng. 3. Phạm vi đề tài Đề tài được áp dụng để giảng dạy môn toán 8, phần hình học. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐÊ 1. Thực trạng tình hình Trong những năm gần đây, được sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường trong các hoạt động, đặc biệt trong họat động chuyên môn, luôn tạo mọi điều kiện cho giáo viên phấn đấu, học tập và nghiên cứu, phát huy các phương pháp dạy học đổi mới sáng tạo nhất. Bên cạnh đó các môn học khác có học sinh giỏi huyện luôn khuyến khích các giáo viên dạy toán và học sinh phải năng động tìm.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> tòi, tư duy sáng tạo trong việc dạy và học toán. Mặt khác trong sự nghiệp giáo dục của trường có nhiều thay đổi đáng kể, do đó các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các bậc phụ huynh, đặc biệt Hội khuyến học xã đã có phần quan tâm động viên hơn đối với sự nghiệp giáo dục của nhà trường. Bên cạnh những mặt thuận lợi cũng có nhiều những khó khăn như: điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường quá thiếu thốn, không có phòng học để mở các lớp phụ đạo học sinh yếu kém và bồi dưỡng cho học sinh khá giỏi theo một trình tự có hệ thống từ lớp 6 đến lớp 9. Phòng thư viện của nhà trường còn nghèo nàn, do đó việc tìm tòi sách đọc là vấn đề hạn chế. Nhưng khó khăn nhất vẫn là các em học sinh do điều kiện của địa phương với đặc thù là vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vì vậy việc quan tâm đến học hành còn hạn chế nhiều về tinh thần và vật chất, dẫn đến hạn chế việc học hành của các em đặc biệt là môn toán. Đa số học sinh hay thỏa mãn trong học tập, các em cho rằng các kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa là kết tinh của các nhà toán học, đó là những kiến thức đầy đủ nhất và chỉ cần học thuộc lòng nó để vận dụng vào làm các bài tập là xong. Chính vì vậy học sinh tiếp thu một cách thụ động, không cần suy nghĩ mày mò để tự mình khám phá ra kiến thức mới như một khái niệm, một định lý hay một tính chất nào đó...và những kiến thức đó không ăn sâu vào trí óc của học sinh, làm cho học sinh không quen khi vận dụng vào làm các bài tập. Qua thực tế giảng dạy và kết hợp kiểm tra, dự giờ của đồng nghiệp tôi thấy đa số học sinh rất ngại học hình. Việc nắm kiến thức hình học đối với các em là rất khó khăn nên ảnh hưởng nhiều đến quá trình vận dụng vào làm bài tập. 2. Những hạn chế, khó khăn khi giải quyết vấn đề trong thực tế Học sinh trên địa bàn Thuận Tiến đa phần là con em nông dân, cha mẹ không có điều kiện chăm lo cho con cái học hành. Ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ bố mẹ các công việc gia đình và đồng áng, không có nhiều thời gian để học, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh yếu, kiến thức bị “hổng” nhiều nên hầu hết các em sợ học môn toán. Mặt khác, phụ huynh học sinh chưa.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> thật sự quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình như theo dõi, kiểm tra, đôn đốc nhắc nhở việc học tập ở nhà. Do môn toán là môn học công cụ, được sử dụng rộng rãi trong việc học tập các môn học khác và trong đời sống. Học toán không phải chỉ để lĩnh hội một số tri thức mà điều quan trọng hơn là phải biết vận dụng những tri thức đã học, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo đặc biệt là những phương thức tư duy cần thiết nên đối tượng khó hiểu, học sinh không dễ dàng nắm kiến thức sau khi học. Trong khi đó: - Đa số học sinh không chuẩn bị bài ở nhà. - Học sinh có thói quen học thuộc lòng các định nghĩa, định lý; chưa phiên dịch từ ngôn ngữ thông thường sang các ngôn ngữ có tính chất trực quan của toán học như vẽ hình, kí hiệu. Đặc biệt học sinh chưa có cách vận dụng một định lí đã học vào một dạng bài tập nào. - Ngoài ra học sinh chưa có ý thức tích cực trong thảo luận nhóm. Các em chưa có ý thức tự giác trong học tập, chưa có kế hoạch về thời gian hợp lý khi tự học ở nhà. - Còn ham chơi, học còn mang tính chất để lấy điểm, chưa nắm vững, hiểu sâu kiến thức toán học, không tự ôn luyện một cách thường xuyên có hệ thống. - Trong lớp chưa thật tập trung chú ý vào bài giảng của thầy cô, chưa chịu đào sâu suy nghĩ để phát triển ra các kiến thức mới. - Chưa biết sử dụng đúng sách giáo khoa, sách nâng cao, còn hiện tượng giấu dốt không chịu học hỏi bạn bè. Đa số các em sử dụng các loại sách bài tập có đáp án để tham khảo nên khi gặp bài tập, các em thường lúng túng, chưa tìm được hướng giải thích hợp, không biết áp dụng phương pháp nào trước, phương pháp nào sau, phương pháp nào là phù hợp nhất, hướng giải nào là tốt nhất. - Bên cạnh đó, sở dĩ dẫn đến thực trạng trên một phần là do giáo viên chưa tạo được những tiết học lôi cuốn, chưa hình thành cho học sinh hệ thống các phương pháp. Đôi khi giáo viên áp đặt gò bó các em phải thế này, phải thế nọ mà không đưa ra thực tế để các em nhìn nhận vấn đề..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Từ đó dẫn đến kết quả học tập của học sinh không cao. Qua khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy tỉ lệ học sinh yếu kém còn nhiều, tỉ lệ học sinh khá giỏi chưa cao: Lớp. Sĩ số. 8/1 8/2 8/3. 15 6 10. Giỏi SL 1 0 0. Khá % 6,7 0 0. SL 3 1 2. % 20 16,7 20. TB SL 5 2 4. % 33,3 33,3 40. Yếu- kém SL % 6 40 3 50 4 40. Qua tình hình thực tiễn nêu trên, tôi xác định rằng muốn nâng cao chất lượng bộ môn cho học sinh thì phải nâng cao hiệu quả của các tiết lí thuyết, đặc biệt là các tiết lí thuyết hình học. III. TRÌNH BÀY GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ 1. Những giải pháp khắc phục khó khăn đã thực hiện nhằm đạt được hiệu quả cao 1.1. Phương pháp dạy học khái niệm Trong việc dạy học toán, điều quan trọng nhất là hình thành một cách vững chắc cho học sinh một hệ thống khái niệm. Đó là cơ sở toàn bộ kiến thức toán học cho học sinh, là tiền đề quan trọng để xây dựng cho các em khả năng vận dụng các kiến thức đã học. Quá trình hình thành các khái niệm có tác dụng lớn đến đến việc phát triển trí tuệ, đồng thời cũng góp phần giáo dục thế giới quan cho học sinh. Việc dạy học các khái niệm toán học cho học sinh phải đạt được các yêu cầu sau: - Nắm vững các đặc điểm đặc trưng cho một khái niệm - Biết nhận dạng và thể hiện khái niệm - Phát biểu rõ rằng, chính xác định nghĩa của một số khái niệm - Biết vận dụng khái niệm trong giải toán và thực tiễn - Nắm được mối quan hệ của khái niệm này với các khái niệm khác trong hệ thống các khái niệm.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Để đảm bảo được các yêu cầu trên, có thể hình thành khái niệm cho học sinh theo những con đường sau: a) Con đường suy diễn Xuất phát từ những định nghĩa khái niệm đã học để định nghĩa khái niệm mới. Ví dụ: Khi dạy khái niệm hình thang cân có thể tiến hành như sau: - Xuất phát từ hình thang ABCD, giáo viên bổ sung thêm vào đặc điểm Cˆ Dˆ. - Yêu cầu học sinh nêu lên điều đặc biệt của hình thang này ( có 2góc kề một đáy bằng nhau) - Giới thiệu ABCD là hình thang cân. - Yêu cầu học sinh nêu định nghĩa hình thang cân ( Hình thang cân là hình thang có hai góc kề một đáy bằng nhau) Dạy học theo con đường này sẽ tiết kiệm được thời gian và thuận lợi cho việc tập dợt cho học sinh tự học những khái niệm toán học thông qua sách và tài liệu. Tuy nhiên lại hạn chế về mặt khuyến khích học sinh phát triển những năng lực trí tuệ chung như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa. b) Con đường quy nạp Xuất phát từ những trường hợp cụ thể ( mô hình, hình vẽ, ví dụ…), bằng con đường trừu tượng hóa, khái quát hóa, giáo viên dẫn dắt học sinh tìm ra những dấu hiệu bản chất của khái niệm thông qua những ví dụ cụ thể đó, từ đó đi đến định nghĩa khái niệm. Ví dụ: Để học sinh tiếp cận khái niệm hình thang có thể tiến hành như sau: Giáo viên - Cho hình vẽ: A. Học sinh. B. 1100 D. 700. C.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> ? Tứ giác ABCD có gì đặc biệt. - Tứ giác ABCD có AB//CD vì 2 góc A và D ở vị trí trong cùng phía và có tổng bằng 1800. ? Hai cạnh AB và CD ở vị trí như thế - Là 2 cạnh đối nhau nào - Ta nói ABCD là hình thang. Vậy thế - Hình thang là tứ giác có 2 cạnh đối nào là một hình thang?. song song. Dạy học theo con đường này rất thuận lợi cho việc phát huy hoạt động tích cực của học sinh, góp phần phát triển năng lực hoạt động trí tuệ chung và tạo điều kiện cho các em nâng cao tính độc lập trong việc đưa ra định nghĩa. Tuy nhiên, con đường này đòi hỏi phải tốn kém nhiều thời gian, vì vậy không phải bao giờ cũng có điều kiện thực hiện. Quá trình tiếp cận khái niệm chưa kết thúc khi học sinh phát biểu được định nghĩa khái niệm đó. Một khâu rất quan trọng là củng cố khái niệm, được thực hiện bằng những hoạt động sau: - Nhận dạng và thể hiện khái niệm Ví dụ: + Nhận dạng khái niệm hình chữ nhật: Tứ giác có 3 góc vuông, hình bình hành có 1 góc vuông, hình thang cân có 1 góc vuông có phải hình chữ nhật không? + Thể hiện khái niệm hình chữ nhật: Để tứ giác ABCD là hình chữ nhật cần có điều kiện gì? - Hoạt động ngôn ngữ: Yêu cầu học sinh phát biểu lại định nghĩa bằng lời lẽ của mình và biết thay đổi cách phát biểu, diễn đạt định nghĩa dưới dạng ngôn ngữ khác nhau; phân tích, nêu bật những ý nghĩa quan trọng chứa đựng trong định nghĩa. Ví dụ: Có thể khuyến khích học sinh phát biểu định nghĩa hình vuông theo những cách sau: + Hình vuông là tứ giác có 4 góc vuông và 4 cạnh cạnh bằng nhau + Hình vuông là hình thoi có 4 góc vuông.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> + Hình vuông là hình chữ nhật có 4 cạnh bằng nhau - Khái quát hóa, đặc biệt hóa và hệ thống hóa những khái niệm đã học Ví dụ: Sau khi học xong chương I ( Tứ giác) có thể cho học sinh hệ thống lại các kiến thức về tứ giác theo sơ đồ sau:. Tứ giác. Hình thang. Hình thang vuông. Hình bình hành. Hình thangchữ cân Hình nhật. Hình thoi. Hình vuông. 1.2. Phương pháp dạy học định lí: Các định lí toán học làm nền tảng cho việc rèn luyện kĩ năng bộ môn, đặc biệt là khả năng suy luận và chứng minh, phát triển năng lực trí tuệ chung, rèn luyện tư tưởng, phẩm chất và đạo đức. Khi học các định lí toán học, học sinh phải đạt được các yêu cầu sau: - Nắm được nội dung các định lí và mối liện hệ giữa chúng, vận dụng vào giải toán và thực tiễn.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Thấy được sự cần thiết phải chứng minh chặt chẽ, suy luận chính xác - Hình thành và phát triển năng lực chứng minh toán học Để đạt được các yêu cầu trên, có thể dạy học định lí theo hai con đường sau: a) Con đường có khâu suy đoán: Từ các hoạt động thực hành, học sinh phát hiện ra định lí rồi đi đến chứng minh. Ví dụ: Để dạy định lí về trường hợp đồng dạng thứ hai ta có thể tiến hành theo trình tự sau: + Gợi động cơ học tập cho học sinh: Trong tam giác, đường phân giác của một góc chia cạnh đối diện với góc đó thành 2 đoạn thẳng theo tỉ số nào? 0 + Yêu cầu học sinh vẽ tam giác ABC có: AB = 3cm, AC = 6cm, Aˆ 100 .. Dựng đường phân giác của góc A, đo độ dài các đoạn thẳng DB, DC rồi so sánh A. AB DB các tỉ số AC và DC. AB DB + Học sinh thực hành và so sánh được AC = DC. 6. 3. B. D. C. + Qua các hoạt động trên yêu cầu học sinh rút ra nhận xét (dự đoán và phát biểu định lí) + Hướng dẫn học sinh lập luận để chứng minh định lí + Cho học sinh vận dụng và củng cố định lí từ đó giải quyết vấn đề đã đặt ra ở phần gợi động cơ Dạy học định lí theo con đường này tuy mất nhiều thời gian nhưng lại khuyến khích tìm tòi, dự đoán, phát hiện vấn đề trước khi giải quyết vấn đề, khuyến khích học tập tri thức toán học trong quá trình nó đang nảy sinh và phát triển chứ không hạn chế ở việc trình bày lại tri thức toán học có sẵn. Chúng ta có thể sử dụng phương pháp này khi tồn tại một cách tìm tòi, phát hiện định lí mà học sinh có thể hiểu được và có thể tự mình thực hiện được tới mức độ nhất định..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> b) Con đường có khâu suy diễn: Từ những tính chất, định lí đã được chứng minh, biến đổi, suy luận để đi đến một định lí mới. Ví dụ: Để dạy định lí về tổng các góc của một tứ giác có thể tiến hành theo trình tự sau: + Gợi động cơ học tập: Mỗi tam giác có tổng các góc bằng 360 0, còn tứ giác thì sao? + Vẽ tứ giác ABCD. Yêu cầu học sinh dựa vào định lí về tổng 3 góc của một tam giác để tính tổng Aˆ  Bˆ  Cˆ  Dˆ + Qua phần lập luận trên yêu cầu học sinh phát biểu định lí + Cho học sinh vận dụng và củng cố định lí. Dạy học theo con đường này vừa tiết kiệm được thời gian lại tạo được cơ hội cho học sinh tự học theo sách báo tham khảo. Chúng ta có thể sử dụng phương pháp này khi quá trình suy diễn dẫn tới định lí đơn giản và ngắn gọn. Trong dạy học định lí ta cần giúp học sinh củng cố kiến thức bằng cách cho học sinh tập luyện những hoạt động như: - Nhận dạng và thể hiện định lí. Ví dụ: Sau khi học xong định lí về tính chất đường phân giác của tam giác ta có thể củng cố bằng cách yêu cầu học sinh viết các tỉ lệ thức có được từ hình vẽ sau: A D. E. B. - Hoạt động ngôn ngữ: Cần khuyếnCkhích học sinh phát biểu lại định lí M. bằng lời lẽ của mình và biết thay đổi cách phát biểu. Ví dụ: Học sinh có thể phát biều định lí về trường hợp đồng dạng thứ nhất theo những cách sau: + Nếu 3 cạnh của tam giác này tỉ lệ với 3 cạnh của tam giác kia thì 2 tam giác đó đồng dạng + Nếu hai tam giác có các cạnh tương ứng tỉ lệ thì chúng đồng dạng với nhau.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Khái quát hóa, đặc biệt hóa, hệ thống hóa định lí Ví dụ: Sau khi học xong bài “ Trường hợp đồng dạng thứ ba” ta có thể yêu cầu học sinh hệ thống lại các trường hợp đồng dạng và bằng nhau của hai tam giác rồi so sánh những điểm giống và khác nhau để học sinh khắc sâu. 1.3. Nâng cao chất lượng các câu hỏi trong phương pháp vấn đáp Xét chất lượng câu hỏi về mặt yêu cầu năng lực nhận thức, người ta phân biệt hai loại chính: - Loại câu hỏi có yêu cầu thấp, đòi hỏi tái hiện các kiến thức sự kiện, nhớ lại và trình bày một cách có chọn lọc, có hệ thống. Ví dụ: Khi nào tam giác A’B’C’ đồng dạng với tam giác ABC? - Loại câu hỏi có yêu cầu cao, đòi hỏi sự thông hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, vận dụng kiến thức. Ví dụ: Theo định lí về hai tam giác đồng dạng để tam giác AMN đồng dạng với 1 tam giác ABC theo tỉ số k = 2 , ta xác định điểm M,N như thế nào?.. Dạy theo phương pháp tích cực thì giáo viên cần chú trọng tăng cường loại câu hỏi thứ hai, song cũng không nên xem nhẹ loại câu hỏi thứ nhất. Cần tránh khuynh hướng hình thức, đặt câu ở chỗ dễ hỏi chứ không phải là những chỗ cần hỏi. Mỗi học sinh cần có một câu hỏi then chốt, nhằm vào những mục đích nhận thức xác định, trên cơ sở đó khi lên lớp sẽ phát triển thêm những câu hỏi phụ tùy theo diễn biến của tiết học. 1.4. Tổ chức có hiệu quả các hoạt động nhóm Lớp học được chia thành những nhóm từ 4 đến 6 người. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định, ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi trong từng phần của tiết học, các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc khác nhau. Nhóm bầu ra nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi nhóm viên hoàn thành một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> làm việc tích cực, không ỷ lại vào một vài người có hiểu biết và năng động hơn, các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả chung của cả nhóm. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện, hoặc có thể phân công mỗi nhóm viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ học tập là khá phức tạp. Ví dụ: Khi dạy bài “Khái niệm hai tam giác đồng dạng”, có thể tổ chức dạy phần 1 như sau: - Làm việc chung cả lớp: + Xác định nhiệm vụ nhận thức: sẽ trả lời 2 câu hỏi: 1- Nhìn vào hình vẽ hãy viết các cặp góc bằng nhau. 2- Tính các số:. A' B ' AB. 'C ' C ' A' ; BBC ; CA. , rồi so sánh các tỉ số đó.. + Chia nhóm: chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm 5 học sinh trong đó có học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu, kém xen kẽ nhau. + Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm: Mỗi nhóm sẽ thảo luận, ghi lại các ý kiến trong nhóm lên bảng nhóm Giáo viên gợi ý thêm. Ví dụ, về nội dung 1: Nhìn vào hai hình xem các góc nào kí hiệu giống nhau thì bằng nhau.Về nội dung 2: Trên hình vẽ đã cho độ dài các cạnh như thế nào? Từ đó lập tỉ số giữa các cạnh theo yêu cầu song phải rút gọn tỉ số giữa các cạnh rồi xem xét kết quả của các tỉ số như thế nào để đưa ra kết luận. - Làm việc theo nhóm: Phân công trong nhóm để thực hiện nhiệm vụ theo các gợi ý trên. Trao đổi để hoàn chỉnh công việc. Thể hiện kết quả trên bảng nhóm, cử đại diện trình bày. - Thảo luận, tổng kết: + Đại diện các nhóm trình bày trước lớp. Cử mỗi nhóm trình bày xong thì dừng lại để các bạn trong lớp nêu câu hỏi. + Học sinh thảo luận, giáo viên uốn nắn lúc cần bổ sung một tư liệu, số liệu đã chuẩn bị để làm bài học thêm sâu sắc..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> + Cuối cùng giáo viên tổng kết về hai nội dung nêu ra trong bài, từ đó đi đến định nghĩa của hai tam giác đồng dạng. Tuy nhiên phương pháp này bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định của tiết học cho nên giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học sinh đã khá quen thuộc với phương pháp này thì mới có kết quả. Cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu chủ yếu của đổi mới phương pháp dạy học, nghĩ rằng càng cho học sinh hoạt động nhóm nhiều thì càng đổi mới phương pháp dạy học. 1.5. Giáo viên cần hiểu được đặc điểm tâm lý của học sinh Giáo viên nên trao đổi để tìm hiểu về vấn đề học tập của từng học sinh với giáo viên đã dạy qua năm trước đó, đồng thời đầu năm học nên kiểm tra chất lượng để đánh giá từng học sinh chính xác hơn. Bên cạnh đó giáo viên cần hiểu được tâm lý của học sinh như: - Học sinh khao khát tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu ra. - Học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên trình bày chưa đủ rõ. - Hay nhất là tổ chức những tình huống có vấn đề đòi hỏi dự đoán, nêu giả thiết, tranh luận những ý kiến trái ngược. - Tiến hành dạy học ở mức độ thích hợp nhất đối với trình độ phát triển của học sinh. Một nội dung quá dễ hoặc quá khó đều không gây được hứng thú. Cần biết dẫn dắt để học sinh luôn luôn tìm thấy cái mới, có thể tự lực giành lấy kiến thức mới, cảm thấy mình mỗi ngày một trưởng thành. 2. Kết quả đạt được: Qua việc áp dụng đề tài này vào giảng dạy, tôi thấy đa số học sinh nắm được kiến thức cơ bản của bài học, đặc biệt nhiều em đã nắm vững ngay trên lớp, nên các em có nhiều thời gian để luyện tập nâng cao kĩ năng vận dụng kiến thức lý thuyết vào bài tập và áp dụng vào cuộc sống thực tiễn. Thái độ của học.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> sinh đối với giờ học toán đă có sự chuyển biến tốt. Từ chỗ học sinh chỉ thụ động lắng nghe, ghi chép kiến thức do giáo viên truyền đạt, các em đă có sự tiến bộ: chủ động, tích cực hơn trong các giờ học Toán. Từ đó các em thấy tự tin hơn, hứng thú hơn khi học môn Toán. Nó còn mang lại cho các em tâm tư thoải mái, nhẹ nhàng khi tiếp thu kiến thức hình học. Nhờ vậy kiến thức được các em ghi nhớ lâu hơn, chất lượng học tập môn Toán do đó ngày càng được nâng cao hơn. Qua khảo sát chất lượng học sinh giữa kì II và kết quả của các bài kiểm tra thường xuyên và định kì, tôi thấy kết quả của học sinh đã nâng cao rõ rệt: L ớp 8/1 8/2 8/3. Sĩ số 15 6 10. Giỏi SL 1 0 1. Khá % 6,7 0 10. SL 3 2 2. % 20 33,3 20. TB SL 6 2 4. % 40 33,3 40. Yếu- kém SL % 5 33,3 2 33,3 3 30. IV. KẾT LUẬN: 1. Tóm lược giải pháp Các tri thức, kĩ năng toán học được sắp xếp theo một hệ thống chặt chẽ về mặt lôgic. Nếu học sinh mất kiến thức cơ bản ở lớp dưới thì rất khó tiếp thu bài mới. Vì vậy việc củng cố phải diễn ra thường xuyên trong quá trình dạy học, phải đảm bảo lấp kín các lỗ hổng làm cho học sinh nắm vững từng móc xích của hệ thống tri thức, kĩ năng, móc xích này làm tiền đề cho móc xích kia. Do vậy giáo viên cần có những biện pháp sau: - Phương pháp dạy định nghĩa, định lí phù hợp với từng đối tượng học sinh sao cho dễ hiểu, nhớ lâu và vận dụng đúng. - Câu hỏi đặt ra phải gây hứng thú, đam mê học toán của học sinh. - Phương pháp thảo luận nhóm phải đạt hiệu quả. Ngoài ra giáo viên cần phải nắm được đặc điểm tâm lí của học sinh để tạo ra được những tiết học lôi cuốn, hấp dẫn các em. 2. Phạm vi áp dụng của đề tài Đề tài này đã được áp dụng để giảng dạy môn toán 8, phần hình học ở trường THCS Thuận Tiến..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> 3. Bài học kinh nghiệm - Từ những vấn đề trên ta thấy sau khi giảng dạy xong một khái niệm, một định lí, phải tập cho học sinh thói quen vận dụng vào làm bài tập. - Đồng thời phải nâng cao chất lượng các câu hỏi trong tiết học và đề kiểm tra, giảm số câu hỏi tái hiện sự kiện, tăng tỉ lệ các câu hỏi yêu cầu tư duy tích cực sáng tạo, chú trọng nhận xét sửa chữa các câu trả lời của học sinh. - Trong hoạt động nhóm nên chia từ 4 đến 6 người. Hoạt động trong tập thể nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Hiệu quả học tập sẽ tăng lên, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành công việc. Trong hoạt động theo nhóm, tích cực năng lực của mỗi cá nhân được bộc lộ, được uốn nắn; phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tương trợ, ý thức cộng đồng. - Cần biết những kiến thức và kỹ năng cần thiết đã có sẵn ở học sinh tới mức độ nào. Điều này có thể hiện thực nhờ quá trình theo dõi từ trước hoặc bằng phương pháp kiểm tra. - Bên cạnh đó phải chú ý đến những đặc điểm về tâm lý lứa tuổi của học sinh khi áp dụng các phương pháp dạy học mang tính tích cực. - Giảng dạy phải tường minh, chính xác các kiến thức cơ bản của toán học; nghiên cứu kỹ, xác định được rõ mục tiêu của từng bài để xây dựng phương pháp giảng dạy cho phù hợp. - Khuyến khích động viên học sinh, khen chê kịp thời, đúng lúc. Chú ý giúp và phân công học sinh khá giúp đỡ các em có học lực trung bình, yếu kém nắm được kiến thức cơ bản, mở rộng kiến thức cho học sinh khá giỏi. - Học sinh phải nắm và thuộc lý thuyết theo 2 mặt là nhớ ý nghĩa và nhớ máy móc. Nếu chỉ nhớ máy móc thì kiến thức sẽ hình thành và khi đột nhiên quên di toàn bộ hay một chi tiết kiến thức thì không có cách gì khôi phục lại được. Nhưng nếu chỉ nhớ ý nghĩa thì kiến thức không thường trực trong óc, khi cần thiết lại phải mất thời gian tái tạo lại nó dẫn đến vận dụng chậm.  Kiến nghị đề xuất:.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Để giúp học sinh phát huy hết khả năng sáng tạo của mình trong việc học toán, người giáo viên phải tìm tòi nghiên cứu để có nhiều phương pháp dạy học tích cực, phù hợp. Muốn vậy cần tổ chức nhiều buổi sinh hoạt chuyên môn để trao đổi các chuyên đề và phương pháp dạy học. Từ đó mỗi giáo viên nâng cao được trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác. Thuận Tiến, ngày 15 tháng 04 năm 2012 Người viết. Vũ Thị Thúy Hằng. HỘI ĐỒNG TĐ – KT TRƯỜNG THCS THUẬN TIẾN Xếp loại:……………………………………...... Thuận Tiến, ngày……. tháng ……năm 2012 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG TĐKT. HỘI ĐỒNG TĐ – KT NGÀNH GIÁO DỤC Xếp loại:……………………………………. Hòn Đất, ngày……. tháng …… năm 2012 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG TĐKT.

<span class='text_page_counter'>(18)</span>

<span class='text_page_counter'>(19)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×