Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Kết cấu trong kịch của Samuel Beckett

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.1 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

LÊ THÚY HẰNG

KẾT CẤU TRONG KỊCH CỦA SAMUEL BECKETT

Chuyên ngành: Văn học nước ngồi
Mã số: 9.22.02.42

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2019


Cơng trình được hồn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐẶNG ANH ĐÀO

Phản biện 1: PGS.TS. Lê Phong Tuyết
Viện Văn học
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Mai Liên
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 3: TS. Nguyễn Thùy Linh
Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường,
họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi…..giờ… ngày… tháng… năm 2019


Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Samuel Beckett (1906-1989) là nhà văn, nhà viết kịch Ireland, sáng
tác bằng cả tiếng Anh và tiếng Pháp. Năm 1969, ông đoạt giải Nobel văn học.
Giải thưởng danh giá này đánh dấu thành công lớn trong sự nghiệp của nhà
văn. Trong sự nghiệp văn chương, Samuel Beckett để lại một khối lượng tác
phẩm khá đồ sộ ở nhiều thể loại: phê bình văn học, truyện ngắn, tiểu thuyết,
thơ và kịch. Vở kịch đầu tiên Trong khi chờ Godot ngay khi được công diễn
ngày 05.01.1953 tại nhà hát Babylone ở Paris đã làm rạng danh tên tuổi của
Samuel Beckett. Những vở kịch của ông theo khuynh hướng sân khấu mới,
như Martin Esslin gọi là Kịch phi lý (The Theatre of the Absurd), ở đó, các
yếu tố cơ bản của kết cấu đều ít nhiều thay đổi so với kịch truyền thống.
1.2. Kết cấu là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Đối với
Samuel Beckett, trong q trình sáng tác, ơng rất coi trọng kết cấu. Beckett
từng nói: “Tìm ra cấu trúc thích hợp với sự hỗn độn, đó là nhiệm vụ của
người nghệ sỹ”. Vì thế, việc nghiên cứu kết cấu trong kịch Samuel Beckett là
một con đường triển vọng để giải mã tác phẩm của nhà văn. Điều đó sẽ đóng
góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu Samuel Beckett ở trong nước.
1.3. Ở Việt Nam, Samuel Beckett là một tác giả được nghiên cứu và
giảng dạy trong các trường đại học (phần Samuel Beckett được nhà nghiên
cứu Đặng Anh Đào viết trong Giáo trình Văn học phương Tây và Lịch sử văn
học Pháp xuất bản từ năm 1992). Những năm gần đây, đã có một số cơng
trình nghiên cứu như Lời thoại trong kịch của Samuel Beckett (2012), Samuel
Beckett và sự cách tân kịch Pháp thế kỷ XX (2016) của Nguyễn Thùy Linh.
Về sân khấu kịch Beckett, luận án/chuyên luận của tác giả này là cơng trình duy

nhất. Vì vậy, chưa có cơng trình nào về kết cấu trong kịch của Samuel Beckett.
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Kết cấu
trong kịch của Samuel Beckett”.
1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn đề tài này, luận án đặt ra những mục đích cơ bản sau đây:
2.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu kịch Samuel Beckett từ tài liệu
trong nước và nước ngồi, từ đó kế thừa, phát triển những kết quả đã có để
tìm ra nét đặc trưng trong kết cấu kịch của nhà văn.
2.2. Chỉ rõ thành tố của kết cấu kịch mà Samuel Beckett hủy diệt, tập
trung phân tích hai kiểu kết cấu trong kịch S. Beckett ở các phương diện cụ
thể: lời thoại, nhân vật, cốt truyện, không gian và thời gian. Dựa trên cơ sở
đó, tác giả luận án tìm ra những nét đổi mới, sáng tạo của tác giả so với kịch
truyền thống và với các nhà viết kịch phi lý khác. Đồng thời, thông qua
nghiên cứu kết cấu, người viết làm nổi bật chiều sâu nội dung tư tưởng kịch,
cũng như quan niệm của tác giả về con người và cuộc đời.
2.3. Nhận diện những đóng góp của S. Beckett trong sáng tạo nghệ thuật
nhằm tôn vinh giá trị của nhà văn với nỗ lực mang lại trải nghiệm sân khấu mới
mẻ đối với người đọc, người xem vốn đã quen tư duy của kịch truyền thống.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đối với các tài liệu nước ngoài, phân chia thành các hướng nghiên cứu
như phê bình tiểu sử, văn học so sánh, phê bình tiếp nhận và thi pháp học để
tìm ra những khuynh hướng nghiên cứu về kịch Samuel Beckett trên thế giới.
Trong các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, chỉ ra các nhà nghiên cứu tiêu biểu
qua các bài viết, cơng trình liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phân tích các thành tố của kết cấu kịch (nhân vật, lời thoại, cốt truyện,
không gian, thời gian…) mà Samuel Beckett hủy diệt khác với kết cấu kịch

truyền thống.
- Đi sâu nghiên cứu hai kiểu kết cấu chính mà Samuel Beckett thường sử
dụng trong kịch. Với mỗi kiểu kết cấu, chúng tơi tìm hiểu sự biểu hiện của các
thành tố trong kết cấu kịch để tìm ra đặc trưng của kiểu kết cấu kịch Samuel
Beckett.
2


3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Văn bản
Đề tài nghiên cứu này sẽ chỉ dựa trên biểu hiện ở văn bản mà không thể
bàn đến yếu tố biểu diễn trên sân khấu.
Luận án tìm hiểu 32 vở kịch của Samuel Beckett in trong cuốn Samuel
Beckett - The Complete Dramatic Works, do NXB Faber and Faber Limited
ấn hành năm 1986 (bao gồm 32 vở kịch). Chúng tơi có tham khảo các bản
dịch của Hồng Ngọc Biên, Hồng Ngọc Tuấn, Nguyễn Đăng Thường, Vũ
Đình Phịng. Tuy nhiên, mức độ tìm hiểu ở mỗi văn bản khác nhau, tương
ứng với nội dung nghiên cứu của luận án.
3.1.2. Thuật ngữ
Luận án nghiên cứu kết cấu trong kịch của Samuel Beckett, do đó, thuật
ngữ được người viết nghiên cứu là kết cấu (structure). Dựa theo cuốn
Literary Terms and Criticism (Những thuật ngữ văn học và phê bình) của
John Peek và Martin Coyle và A Glossarry of Litarary Terms (Abrams M.
H.), chúng tôi cho rằng kết cấu (structure) là một khái niệm quan trọng thể
hiện mối liên hệ giữa các yếu tố bên ngoài và bên trong tác phẩm. Mọi yếu tố
cấu thành tác phẩm trong tính chỉnh thể trọn vẹn của nó đều chịu sự chi phối
của kết cấu.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là kết cấu trong kịch của Samuel

Beckett.
Trong phạm vi đề tài, chúng tơi chỉ tìm hiểu các thành tố sau của kết
cấu: lời thoại, nhân vật, cốt truyện, không gian, thời gian. Với từng nội
dung cụ thể, chúng tôi sẽ lựa chọn những thành tố nổi bật để làm đối tượng
nghiên cứu.
3


4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu, luận án sử dụng
phương pháp tiếp cận chủ yếu là thi pháp học cấu trúc trên nền tảng lý thuyết
văn học hậu hiện đại, bên cạnh đó cịn có các phương pháp và thao tác sau:
- Nghiên cứu so sánh: so sánh các vở kịch của Beckett với nhau và với
các vở kịch của các tác giả đồng đại, lịch đại để thấy được sự tương đồng,
khác biệt, theo đó, chỉ ra nét đặc trưng trong kết cấu kịch của tác giả này.
- Phân tích - tổng hợp: phân tích văn bản và các thành tố của kết cấu trong
tác phẩm để thấy được dụng ý nghệ thuật của Samuel Beckett, qua đó, tổng
hợp, khái quát vấn đề nhằm nhận diện những nỗ lực đổi mới nghệ thuật của
nhà văn.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: đặt tác giả và văn bản trong mối quan hệ
với thời đại mang tính lịch sử cụ thể để lý giải hình tượng nghệ thuật.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Luận án là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu hệ thống về
kết cấu trong kịch của Samuel Beckett dựa trên văn bản bằng tiếng Anh.
Luận án tìm hiểu về một số thành tố của kết cấu kịch được tác giả sáng tạo,
đó là quá trình hủy diệt lời, nhân vật, cốt truyện. Đồng thời, tác giả luận án
cũng đi sâu nghiên cứu hai kiểu kết cấu thường được Samuel Beckett sử
dụng là kết cấu trùng lặp, bất động và kết cấu phân mảnh. Những kiểu kết
cấu này chứa đựng tư tưởng, quan điểm của nhà văn về con người và thế
giới. Từ đó, tác giả luận án khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật những

vở kịch của Samuel Beckett cũng như nỗ lực cách tân, đổi mới sân khấu của
nhà văn này.
5.2. Về phương diện lý luận, nghiên cứu kết cấu kịch Samuel Beckett, luận
án góp phần giải mã một hiện tượng văn học độc đáo của thế kỷ XX, đồng
thời tôn vinh giá trị sáng tạo nghệ thuật của tác giả từng đoạt giải Nobel văn
học này.
4


5.3. Về phương diện thực tiễn, luận án là công trình đi sâu khai thác vấn
đề kết cấu trong kịch Samuel Beckett, từ đó có thể tạo cơ sở cho việc giảng dạy
chuyên đề về Samuel Beckett nói riêng và về thi pháp kịch hiện đại nói chung.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận án gồm 04 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Hủy diệt thành tố của kết cấu kịch truyền thống
Chương 3: Kết cấu trùng lặp và tuần hoàn
Chương 4: Kết cấu phân mảnh
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu kịch Samuel Beckett ở nước ngồi
Thế giới đã có hàng trăm nghìn các cơng trình lớn nhỏ nghiên cứu về kịch
của Samuel Beckett nói riêng và sự nghiệp văn học của ơng nói chung. Do giới
hạn trình độ của người thực hiện đề tài, luận án chỉ tiếp cận một số cơng trình
tiêu biểu về Samuel Beckett bằng tiếng Anh (từ những năm 1950 đến nay).
Thứ nhất, về phương diện phê bình tiểu sử, kịch Samuel Beckett được
nghiên cứu từ rất sớm, đặc biệt phải kể đến từ sau thành công của vở Trong
khi chờ Godot được biểu diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Babylone ở Pháp
(1953). Các nhà phê bình quan tâm nhiều vấn đề về Samuel Beckett cũng

như tác phẩm của ông, từ tiểu sử, con người, sự nghiệp sáng tác đến các góc
cạnh của đời sống nghệ thuật. Có thể kể ra một số tác giả tiêu biểu nghiên
cứu về Samuel Beckett như: Martin Esslin, Hugh Kenner, Rónán McDonald,
Sarah West, Linda Lin…
Thứ hai là về phương diện tiếp nhận, tác giả luận án tiếp cận một vài
cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa độc giả và kịch Samuel Beckett.
Qua những nghiên cứu này, chúng tơi nhận thấy thời gian đón nhận tác phẩm
5


của Samuel Beckett tùy thuộc vào nhiều yếu tố: văn hóa, chính trị, xã hội…
Ở giai đoạn đầu (những năm 50 - 60 của thế kỷ XX), có nhiều ý kiến trái
ngược nhau về giá trị của kịch Beckett, thậm chí một số nơi xem tác phẩm
của Beckett tiêu biểu cho chủ nghĩa hư vô, tiêu cực, bi quan. Nhưng ở giai
đoạn sau, các nhà phê bình ở nhiều quốc gia khác nhau đã thống nhất trong
sự phê bình, tiếp nhận, đánh giá và đề cao những sáng tạo, đóng góp nghệ
thuật của Samuel Beckett trong nỗ lực đổi mới sân khấu. Thêm vào đó, sự
tiếp nhận tác phẩm của Samuel Beckett diễn ra không đồng đều về mức độ.
Nếu như ở các nước phương Tây, kịch Beckett được đông đảo người đọc/xem
biết đến thì ở phương Đơng, tác phẩm của ơng nói chung và kịch nói riêng
dường như được tiếp nhận muộn hơn.
Thứ ba, về phương diện nghiên cứu so sánh, có hai khuynh hướng: so
sánh các tác phẩm của Beckett với nhau và so sánh tác phẩm của Beckett với
các nhà văn khác. Ở khuynh hướng thứ nhất, có một số bài viết tiêu biểu của
các tác giả như: Michael Y. Bennet, Abhinaba Chatterjee, Marzich
Keshavarz. Ở khuynh hướng thứ hai, có một số nghiên cứu của các tác giả
tiêu biểu như: Martin Esslin, Liliana Sikorska, Rick de Villiers, Mehmet Akif
Balkayav, Roberta Cauchi-Santoro, Sarah Gendron.
Thứ tư là tiếp cận theo hướng thi pháp học, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
được những đặc điểm về nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ, không gian, thời

gian trong kịch Samuel Beckett. Nhận định của các tác giả giúp chúng tơi
trong q trình nghiên cứu về mối liên hệ giữa các yếu tố của kết cấu tác
phẩm trong chỉnh thể toàn vẹn của nó. Qua tiếp cận theo hướng thi pháp học,
các nhà nghiên cứu đã nhận diện được nhiều vấn đề từ hình tượng nhân vật,
ngơn ngữ đến cốt truyện, khơng gian, thời gian. Nhìn chung, các tác giả đều
nhận thấy kịch Beckett đã có nhiều khác biệt so với kịch truyền thống. Kịch
của ơng khơng có kịch tính, phi cốt truyện. Cốt truyện lặp lại và kết cấu vòng
tròn được nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra như một đặc trưng của kịch Beckett.
Về ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu nhận thấy ngôn ngữ trong kịch Beckett trở
6


thành thử thách đối với người xem/đọc bởi sự rời rạc, vơ nghĩa và khó hiểu
trong lời thoại. Họ cũng chỉ ra sự cẩn trọng của tác giả khi sắp đặt từ những vật
đơn giản trên sân khấu cho đến hình thể, động tác, hành động của diễn viên.
Tóm lại, điểm qua các cơng trình nghiên cứu, chúng tơi nhận thấy các
nhà nghiên cứu hết sức quan tâm tới việc giải mã kịch Beckett. Mặc dù vậy,
chưa có cơng trình nào về kết cấu trong kịch của Samuel Beckett. Các nhà
nghiên cứu ít nhiều đã chỉ ra những khía cạnh khác nhau liên quan đến các
thành tố của kết cấu kịch. Đây là tiền đề để chúng tôi triển khai đề tài luận án.
1.2. Tình hình nghiên cứu kịch Samuel Beckett ở Việt Nam
Mặc dù Samuel Beckett được nghiên cứu ở nhiều phương diện trên thế
giới với hàng trăm nghìn cơng trình lớn nhỏ nhưng ở Việt Nam, dường như,
việc nghiên cứu tác phẩm của Samuel Beckett nói chung và kịch nói riêng
vẫn cịn rất mỏng. Điều đó chưa xứng với tầm vóc của nhà văn, nhà viết kịch
tài năng, một trong những cây bút có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến dòng văn
chương hiện đại thế kỷ XX. Do đó, trong phần tổng quan về tình hình nghiên
cứu kịch Samuel Beckett ở Việt Nam, chúng tôi sẽ lần lượt kể tên các nhà
nghiên cứu kết hợp với trật tự thời gian xuất hiện các cơng trình tiêu biểu liên
quan trực tiếp hay gián tiếp đến các yếu tố cơ bản trong kịch Samuel Beckett,

cũng là các yếu tố tạo nên kết cấu trong kịch của ông. Đáng kể đến là các nhà
nghiên cứu như: Đỗ Đức Hiểu, Đặng Anh Đào, Phùng Văn Tửu, Nguyễn
Văn Dân, Vũ Đình Phịng, Nguyễn Thùy Linh…
Như vậy, ở Việt Nam, mặc dù chưa có cơng trình nào trực tiếp bàn về
kết cấu trong kịch Samuel Beckett, nhưng ở nhiều khía cạnh khác nhau của
kết cấu (nhân vật, lời thoại, cốt truyện…), các nhà nghiên cứu ít nhiều cũng
đề cập đến. Đây là những tiền đề quan trọng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu
về kịch Beckett, cụ thể là kết cấu trong kịch của nhà văn.

7


Tiểu kết chương 1
Qua các cơng trình nghiên cứu bằng tiếng Anh, chúng ta thấy một khối
lượng đồ sộ các bài viết, tiểu luận, sách chuyên khảo… đã nghiên cứu về
Beckett mà ở phạm vi đề tài, luận án mới chỉ tìm hiểu được một phần nhỏ
trong số đó. Beckett được đón nhận trên phạm vi tồn cầu mặc dù q trình
tiếp nhận do điều kiện văn hóa, chính trị, xã hội… khác nhau nên có những
nơi nghiên cứu Beckett sớm và có những nơi muộn hơn đến một vài thập kỷ.
Vở kịch Trong khi chờ Godot được công nhận là một trong những tác phẩm
kinh điển vĩ đại nhất của khuynh hướng kịch phi lý, đồng thời, cũng là một
trong vở kịch quan trọng nhất của thế kỷ XX. Các nhà nghiên cứu đều chỉ ra
đặc trưng “phản kịch” trong kịch Beckett khi ông xây dựng vở kịch không
theo tư duy truyền thống. Kịch Beckett khơng có cốt truyện, khơng có kịch
tính, nhân vật khơng có tính cách, đặc điểm cá nhân, ngơn ngữ rời rạc, mơ
hồ, khó hiểu, đó là một thế giới ảm đạm được bao bọc trong không gian, thời
gian không xác định.
Chương 2
HỦY DIỆT THÀNH TỐ CỦA KẾT CẤU KỊCH TRUYỀN THỐNG
2.1. Hủy diệt nhân vật

2.1.1. Xu hướng nhân vật tiêu biến
Trong chuyên luận Samuel Beckett và sự cách tân kịch Pháp thế kỷ XX,
Nguyễn Thùy Linh cũng đã nhận định về số lượng các nhân vật tham gia đối
thoại trong kịch Beckett: “Thứ nhất, số lượng các nhân vật tham gia đối thoại
giảm dần. Đầu tiên là năm (Trong khi chờ Godot), xuống còn bốn, và cuối
cùng chỉ cịn một (Động tác khơng lời I và Cuộn băng cuối cùng). Càng ở
giai đoạn sau, nhân vật càng ít đi, thậm chí trong một số vở kịch khơng có
bóng dáng con người”1. Chúng tơi đồng tình với nhận định của tác giả
1

Nguyễn Thùy Linh (2016), Samuel Beckett và sự cách tân kịch Pháp thế kỷ XX, NXB. Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 160.

8


Nguyễn Thùy Linh, và hơn nữa, không chỉ xét về số lượng các nhân vật tham
gia đối thoại mà xét trong tồn bộ tiến trình phát triển kịch của Beckett, nhận
định này vẫn đúng. Khảo sát các vở kịch của Beckett theo trục thời gian,
chúng ta có thể chia thành hai giai đoạn sáng tác của Beckett: từ năm 1947
(bắt đầu viết Trong khi chờ Godot) đến 1956 và từ 1956 về sau. Ở giai đoạn
đầu, tiêu biểu là bốn vở kịch: Trong khi chờ Godot, Tàn cuộc, Những ngày
tươi đẹp, Tất cả những người ngã xuống. Ở giai đoạn sau, nhân vật của
Beckett ngày càng giảm dần và tiêu biến trên sân khấu. Điều này khác với
các sáng tác của Ionesco.
Thứ hai, số lượng vở kịch chỉ có hai nhân vật trở xuống chiếm 54%. Ở
giai đoạn từ năm 1956 trở đi, Beckett triệt để giảm số lượng nhân vật xuất
hiện trong tác phẩm. Như vậy, nhân vật của Beckett mất dần vị thế trên sân
khấu. Đặc biệt phải kể đến nỗ lực sáng tạo của Beckett khi xóa bỏ sự hiện
diện của nhân vật trên sân khấu nhưng vẫn cịn vị trí trung tâm trong tác
phẩm. Đó là sự xuất hiện của kiểu nhân vật vắng mặt trong Trong khi chờ

Godot, Khơng phải tơi.
Tóm lại, Beckett đã nỗ lực nhằm xóa bỏ vị trí độc tơn của nhân vật trên
sân khấu, từ việc giảm dần số lượng nhân vật đến nhân vật hoàn toàn vắng
mặt. Nhân vật ngày càng ít dần, thậm chí khơng xuất hiện trên sân khấu. Mặc
dù không xuất hiện trên sân khấu nhưng nhân vật lại đóng vai trị trung tâm,
đây là kiểu nhân vật vắng mặt – theo cách nói của Nguyễn Thùy Linh. Tiêu
biểu nhất là nhân vật Godot trong vở kịch Trong khi chờ Godot – vở kịch tạo
nên tên tuổi của Samuel Beckett. Ngược lại với kiểu nhân vật này là nhân vật
xuất hiện đóng vai nhân vật chính nhưng lại hồn tồn mất vị thế của mình,
trở thành con rối cho những kẻ khác giật dây. Việc xóa bỏ vị trí của nhân vật
trên sân khấu phải chăng thể hiện sự mất vị thế của con người trong chính sân
khấu cuộc đời, họ đã bán hết quyền và trở thành những kẻ đi cầu xin (lời của
Vladimir ở Trong khi chờ Godot).

9


2.1.2. Phi nhân vật hóa
Bên cạnh việc giảm số lượng nhân vật xuất hiện trong tác phẩm, nhân
vật bị đánh mất vai trị trên sân khấu thì Beckett cịn sử dụng biện pháp phi
nhân vật hóa. Đây là biện pháp mà nhà văn tạo ra kiểu nhân vật khơng có
hình dạng cụ thể. Với Beckett, âm thanh đóng vai trị quan trọng trong việc
thay thế nhân vật – những con người cụ thể trên sân khấu. Bằng biện pháp
“phi nhân vật hóa”, âm thanh đã trở thành một kiểu nhân vật độc đáo trong
kịch của Beckett. Giọng nói (Voice), Lời nói (Words), Âm nhạc (Music) là
một kiểu nhân vật đặc trưng của Beckett. Tác giả đã thể hiện tài năng nghệ
thuật của mình thơng qua việc sử dụng những thiết bị của thời hiện đại (máy
ghi âm, máy quay phim) để đưa chúng lên sân khấu và biến thành một kiểu
nhân vật vô cùng độc đáo. Những vở kịch tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là:
Này Joe, Bài hát ru, Lời và Nhạc, Độc thoại, Cascando, Không phải tôi.

Trong Lời và Nhạc, Nhạc đóng vai trị làm nên cho câu chuyện, lúc thì
nhẹ nhàng, êm ái, lúc thì nhanh, lúc lại im lặng. Ban đầu cịn có đủ Lời, Nhạc
và Croak. Sau đó thì chỉ cịn Lời và Nhạc. Có vẻ như Nhạc chính là giai điệu
sự sống của Croak, là nhịp đập của con tim, cho đến kết thúc, khơng cịn
tiếng của Croak, Nhạc cũng im bặt. Chúng ta có thể quan sát sự thay đổi của
các nhân vật qua sơ đồ sau:

Trong Bài hát ru, Giọng nói ghi âm của W hát những đoạn lặp đi lặp lại
như những con sóng liên tiếp vỗ bờ, đoạn sau dài hơn đoạn trước. Đoạn một:
50 câu, đoạn hai: 56 câu, đoạn ba: 57 câu và đoạn bốn: 82 câu. Chúng ta có
thể nhìn trong sơ đồ sau để thấy được những trường đoạn của Bài hát ru mà
W dành cho mình:
10


Thở là một vở kịch siêu ngắn, khơng có nhân vật, chỉ có âm thanh.
Câu hỏi đặt ra là nhân vật có hồn tồn biến mất trong kịch của Beckett
khơng? Câu trả lời là không, mặc dù với những nỗ lực phi thường nhằm xóa
bỏ vị trí độc tơn của nhân vật trên sân khấu nhưng sự thật là nhân vật vẫn
hiện diện và có một ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm của Beckett. Họ là
những con người cô đơn trong một thế giới đổ vỡ niềm tin, Chúa đã mất và
hoàn toàn tuyệt vọng. Những con người này đã đánh mất vị trí trung tâm trên
sân khấu cuộc đời. Họ khơng cịn kiểm sốt được cuộc đời mình mà để nó tự
trơi dần vào qn lãng. Họ bị bủa vây bởi tuổi già, nỗi lo sợ về cô đơn và cái
chết. Thứ duy nhất khiến họ tiếp tục tồn tại là mơ về Godot dẫu biết rằng
Godot không bao giờ đến.
2.2. Hủy diệt lời thoại
Lời thoại (đối thoại, độc thoại) là một trong những thành tố quan trọng
của kịch. Nhắc đến kịch, người ta thường nghĩ ngay đến lời thoại với đối
thoại hay độc thoại. Tuy nhiên, đến Samuel Beckett, trong kịch của ơng, nhân

vật nói năng, lảm nhảm khơng dứt, đối thoại có lúc chuyển hóa thành độc
thoại, độc thoại ngày càng chiếm ưu thế, có lúc, kịch khơng cịn lời thoại,
biến thành kịch khơng lời. Nói về hủy diệt lời thoại trong kịch Samuel
Beckett, chúng ta nhận thấy nhà văn đã: (1) gia tăng số lượng lời thoại lên
cấp số nhân, nói cách khác, lời thoại được thậm phồn để tạo ra một kiểu thoại
triền miên, không dứt trong kịch; (2) giảm số lượng lời thoại đến mức triệt
tiêu hồn tồn, khơng cịn lời thoại mà chỉ còn cử chỉ động tác.

11


Nghiên cứu về lời thoại trong kịch của Samuel Beckett đã có cơng trình
luận án và chun luận của Nguyễn Thùy Linh. Có thể nói, Samuel Beckett
và sự cách tân kịch Pháp thế kỷ XX là một cơng trình cơng phu nghiên cứu về
lời thoại trong kịch Beckett. Tác giả đã chỉ ra những đặc trưng cũng như cách
tân về lời thoại trong kịch của Beckett dựa trên phân tích các bối cảnh tồn tại
của lời. Do đó, ít nhiều Nguyễn Thùy Linh cũng đã đề cập đến một số đặc
điểm về không gian, thời gian, nhân vật, cốt truyện… (những thành tố của kết
cấu) trong kịch Beckett. Điều này giúp ích cho chúng tơi, những người đi sau
khi tìm hiểu về kịch Beckett. Để làm rõ hơn về hủy diệt lời thoại trong kịch
Beckett, khi nhà văn đã triệt tiêu lời thoại trong tác phẩm thì cử chỉ, động tác đã
trở thành yếu tố “phi ngôn ngữ” truyền tải những thông điệp của tác phẩm đến
người xem, chúng tôi chọn phân tích một số tác phẩm sau: Quad, Phim.
Như đã nói ở phần đầu, lời thoại là yếu tố quan trọng được ví như linh
hồn của kịch. Vậy tại sao Beckett lại đem đến những vở kịch hoặc là chỉ có
lời thoại triền miên, vơ nghĩa hoặc là khơng có lời thoại? Việc nhà văn phủ
nhận ngơn từ trong tác phẩm có ý nghĩa gì? Theo chúng tơi, có hai lý do. Thứ
nhất, Beckett nhận thấy sự bất lực của ngôn từ trong việc biểu đạt ý nghĩa,
khi mà con người đã mất niềm tin và mắc căn bệnh cô đơn vô phương cứu
chữa. Họ biến thành những cỗ máy vô tri, vô giác, ăn ngủ, sinh hoạt đều được

lập trình hoặc bị chi phối từ một thế lực vơ hình nào đó. Đây là hệ quả tất yếu
của lối sống hiện đại thời “kỹ trị”. Thứ hai, mặc dù, khơng có lời thoại nhưng
Beckett lại rất chú trọng vào yếu tố phi ngôn ngữ, tức là những cử chỉ động
tác, điệu bộ của nhân vật trên sân khấu. Đó là lý do vì sao cả vở kịch chỉ toàn
là lời dẫn của nhà văn về cử chỉ/ động tác/ hành động của nhân vật. Khi ngôn
từ đã thất bại trong việc biểu đạt nghĩa thì yếu tố phi ngôn ngữ lại trở nên vô
cùng quan trọng, giúp người tiếp nhận giải mã được thông điệp của nhà văn
trong tác phẩm.

12


2.3. Mờ hóa cốt truyện
2.3.1. Thủ tiêu xung đột, kịch tính
Đến với kịch của Samuel Beckett, chúng ta thấy khơng có xung đột, mâu
thuẫn xã hội hay tính cách. Ơng khơng đưa các nhân vật vào trong hồn cảnh
có vấn đề để từ đó bộc lộ phẩm chất, tính cách nhân vật. Beckett chủ trương
xây dựng các nhân vật càng giống hệt nhau càng tốt, hình thức và tuổi tác
khơng quan trọng. Nhân vật chỉ là những con rối-hình-người di chuyển hoặc
bất động trên sân khấu. Trong sự cãi vã của Vladimir và Estragon hay đối
thoại của họ với Pozzo khơng có bóng dáng của mâu thuẫn giữa các tầng lớp,
giai cấp. Ngay cả mối quan hệ chủ tớ Pozzo - Lucky , Clov - Hamm cũng
không tồn tại độ căng của mâu thuẫn mặc dù Lucky trông rất thảm hại, Clov
thì ln miệng muốn bỏ đi.
Beckett đã xóa mờ cốt truyện trong kịch, thay vào đó là những câu
chuyện có thể tóm lược vơ cùng ngắn gọn. Chẳng hạn như Trong khi chờ
Godot là câu chuyện về hai kẻ lang thang chờ đợi Godot nhưng rút cục Godot
không đến. Những ngày tươi đẹp là câu chuyện về Winnie bị chôn vùi trong ụ
đất, không ngừng lải nhải. Tàn cuộc là câu chuyện xoay quanh nhân vật
Hamm, Clov, bố mẹ Hamm. Động tác không lời I là chuyện về người đàn ông

với những thứ trên cao nhưng không được. Cuộn băng cuối cùng của Krapp là
độc thoại của Krapp với giọng nói của chính mình được ghi âm. Đoạn Kịch
nháp I là đối thoại giữa A và B. Tro tàn là đối thoại của Henry và Ada. Phác
thảo Kịch truyền thanh I là đối thoại rời rạc của Chàng và Nàng. Hài kịch là
lời của ba nhân vật W1, W2, M vang lên đồng thời hoặc lần lượt. Bài hát ru
chỉ là lời nói của nhân vật khi nghe lại chính giọng của mình được ghi âm.
2.3.2. Hành động “dậm chân tại chỗ”
Việc tạo ra chuỗi những hành động lặp lại, khơng có sự tiến triển trong
cốt truyện là một trong những kỹ thuật thường được Beckett sử dụng. Nhân
vật trong kịch Beckett được đặt vào một trạng thái nào đó và từ khi mở đầu
đến lúc kết thúc, trạng thái của nhân vật dường như không thay đổi.
13


Martin Esslin đã nhận xét: “Và điều gì trải qua trong những vở kịch này
[Trong khi chờ Godot, Tàn cuộc - LTH] thì khơng phải là sự kiện (events) với
mở đầu và kết thúc rõ ràng, mà là một kiểu tình huống (situation) mãi mãi lặp
lại chính nó” [93; 76]. Phát triển trên ý kiến nhận xét của Esslin, chúng tôi
nhận thấy kịch Beckett thực chất xoay quanh một trạng thái tồn tại nào đó.
Chờ đợi là một trạng thái khá phổ biến trong kịch Beckett: đó có thể là chờ
đợi một người mà khơng biết họ có đến khơng (Trong khi chờ Godot) hay
chờ đợi chuyến tàu cuối cùng trong ngày đến muộn (Tất cả những người ngã
xuống). Nuối tiếc quá khứ tươi đẹp chính là tâm trạng của Krapp (Cuộn băng
cuối cùng của Krapp) và Winnie (Những ngày tươi đẹp). Trạng thái đangchết-dần là mẫu số chung cho các nhân vật trong Tàn cuộc, Bài hát ru. Mê
sảng là trạng thái của Không phải tôi, Độc thoại, Khúc ứng tác Ohio… Điều
đó cho ta thấy việc xóa mờ cốt truyện với những hệ thống nhân vật độc đáo,
sự kiện phức tạp là chủ ý của nhà văn nhằm tập trung làm nổi bật trạng thái
tồn tại của con người. Beckett đã tạo ra những vở kịch chỉ bao gồm các
chuõi hành động lặp lai lặp lại, tiêu biểu trong số các vở kịch đó là Động tác
khơng lời I.

Tiểu kết chương 2
Kịch của Beckett đã đem đến cho thế giới một làn gió mới mẻ bằng việc
cách tân kịch thông qua việc hủy diệt một số thành tố của kết cấu kịch truyền
thống. Người ta thường nói đến việc ông thủ tiêu lời thoại, nhân vật, cốt
truyện (sự kiện, biến cố, kịch tính), khơng gian, thời gian. Tuy Beckett hủy
diệt một số thành tố của kết cấu kịch truyền thống nhưng khơng phải ơng
hồn tồn phủ định chúng (không phải hủy diệt dẫn đến mức cực đoan như
trường hợp chủ nghĩa Đa đa).

14


Chương 3
KẾT CẤU TRÙNG LẶP VÀ TUẦN HỒN
3.1. Kết đơi nhân vật
3.1.1. Kết đôi nhân vật dựa trên sự tương đồng
Nhân vật của Beckett hầu như không được nhấn mạnh về ngoại hình,
nhân vật càng giống nhau càng tốt. Cặp nhân vật tương đồng là những nhân
vật cùng cảnh ngộ, chung số phận. Đó là Vladimir và Estragon (Trong khi
chờ Godot) lang thang trên con đường vô định hay Nagg - Nell (Tàn cuộc)
trong những thùng rác, thỉnh thoảng ú ớ vài tiếng.
Như vậy, bằng việc sử dụng kỹ thuật kết đôi nhân vật theo phương thức
tương đồng, các nhà viết kịch phi lý đã tô đậm ấn tượng về những con người
bị tha hóa, bị xóa nhịa đường viền lịch sử tâm lý. Kỹ thuật này giúp cho nhà
văn phản ánh cái nhìn phi lý về sự tồn tại của con người trong một thế
giới vô nghĩa.
3.1.2. Kết đôi nhân vật dựa trên sự khác biệt
Bên cạnh kiểu kết đôi nhân vật theo phương thức tương đồng là kết đôi
nhân vật theo phương thức khác biệt. Sự khác biệt thể hiện vị thế xã hội (chủ
- tớ) hay mối quan hệ gia đình (vợ - chồng, cha - con, mẹ - con…). Nếu như

ở cặp đôi tương đồng, chúng ta thấy rõ sự đồng dạng về hoàn cảnh sống, số
phận thì ở cặp đơi khác biệt, các nhân vật có độ vênh ở nhiều khía cạnh. Tiêu
biểu là các mối quan hệ giữa Hamm-Clov, Lucky-Pozzo, Winnie-Willie.
Với kỹ thuật kết đôi nhân vật theo phương thức khác biệt, Beckett đã
phác họa được mối liên hệ giữa các cặp nhân vật theo quan hệ gia đình hay
xã hội (nhà văn đặc biệt quan tâm đến những mối quan hệ thân thiết như vợ
chồng, cha con…). Điểm giống nhau của các cặp nhân vật này là sự thiếu
đồng cảm và quan tâm nhau. Họ tồn tại cạnh nhau mà vô cảm với nhau. Điều
này càng tô đậm sự cô đơn của mỗi cá thể trong mối liên hệ với người khác,
nhất là những người có quan hệ gần gũi với họ.

15


3.2. Kiến tạo cốt truyện tuần hoàn
3.2.1. Với vở kịch chia hồi
Như đã nói ở trên, cốt truyện tuần hồn thường xuất hiện trong các vở
kịch từ hai hồi mà hồi hai lặp lại y hệt như hồi một. Tiêu biểu cho cốt truyện
tuần hoàn là các vở Trong khi chờ Godot, Những ngày tươi đẹp.
Đây là kết cấu của Trong khi chờ Godot:

Và đây là kết cấu của Những ngày tươi đẹp:

Qua cốt truyện tuần hoàn với những hành động lặp lại của nhân vật,
Beckett đã tạo ra công thức: không hành động tức là thất bại và chờ đợi
không phải là hạnh phúc, chờ đợi là vô vọng.
3.2.2. Với vở kịch khơng chia hồi
Cốt truyện tuần hồn khơng chỉ có trong những vở kịch chia hồi mà cịn
có trong những vở kịch không chia hồi. Ở những vở kịch này, sự vật, sự việc
vẫn tồn tại trong trạng thái lặp đi lặp lại, dậm chân tại chỗ. Đó là các tác

16


phẩm tiêu biểu: Động tác không lời I (chúng tôi đã phân tích ở chương 2),
Động tác khơng lời II, Tàn cuộc, Cái gì, ở đâu.
Việc tạo ra các sự kiện, hành động, lời thoại trùng lặp, bất động đã khiến
cho người đọc cảm nhận được khơng khí chung trong tác phẩm. Đó là cuộc
sống thiếu sinh khí bao trùm tất cả các nhân vật bởi mọi thứ đã bị đơng cứng
trong trạng thái bất động. Phải chăng đó cũng là khơng khí chung của cuộc
sống con người thời hiện đại ở phương Tây khi bị cái phi lý, Hư vô chế ngự?
Họ cứ luẩn quẩn trong Lâu đài (tên một tác phẩm của Kafka) và rơi vào mê
cung mà khơng tìm ra được lối thốt.
3.3. Khơng gian và thời gian không thay đổi
Trong kịch của Beckett, không gian và thời gian cũng là những yếu tố
quan trọng thể hiện kết cấu của tác phẩm. Kết cấu trùng lặp và tuần hồn chi
phối khơng gian và thời gian trong các vở kịch của Beckett, tạo ra một kiểu
không gian, thời gian khơng thay đổi, biểu hiện ở tính khơng xác định và lặp lại.
Trước hết là ở tính khơng xác định. Nếu như trong kịch truyền thống,
chúng ta biết được thời gian và địa điểm cụ thể xảy ra câu chuyện thì với kịch
Beckett, thời gian và khơng gian mang tính phiếm chỉ, khơng xác định. Đó
cũng là một đặc trưng của kịch phi lý.
Bên cạnh tính khơng xác định là tính lặp lại của khơng gian và thời gian
trong kịch Beckett. Ở những vở kịch hai hồi, không gian, thời gian hồi hai
tương tự hồi một. Những vở kịch tiêu biểu cho kiểu không gian, thời gian này
là Trong khi chờ Godot và Những ngày tươi đẹp.
Như vậy, việc lặp lại khơng gian, thời gian trong vở kịch có tác dụng tô
đậm dấu ấn không gian, thời gian không thay đổi của tác phẩm. Điều đó cũng
đồng nghĩa với số phận bi kịch của các nhân vật không được giải quyết. Nhân
vật của Beckett bị đặt vào tình huống trớ trêu và kết thúc tác phẩm, họ vẫn
phải chịu đựng tình trạng thê thảm đó. Họ vẫn chờ Godot từ ngày này sang

ngày khác, vẫn không ngừng hát về những ngày tươi đẹp dẫu cho khơng có ai
lắng nghe và thấu hiểu.
17


Tiểu kết chương 3
Sử dụng kết cấu trùng lặp và tuần hoàn, tác giả đã tạo ra những nhân vật
kết đôi theo phương thức tương đồng/khác biệt, cốt truyện tuần hồn, lặp lại
của các sự kiện và khơng gian, thời gian không thay đổi. Beckett kế thừa và
phát huy kết cấu nhân vật cặp đơi đã có trong lịch sử văn học để rồi sáng tạo
nên những cặp đôi bất hủ. Những cặp đôi này bổ sung, tương trợ hoặc tương
phản nhau để làm nổi bật sự xuống cấp của họ. Cốt truyện tuần hồn cùng
với bối cảnh khơng gian, thời gian khơng thay đổi, đã góp phần gia tăng sự
đơn điệu, tẻ nhạt của cuộc sống các nhân vật. Cốt truyện tuần hoàn khiến cho
những sự vật, sự việc hiện lên trong bức tranh chung tưởng như có sự vận
động nhưng thật ra lại khơng có gì thay đổi. Điều này tạo ra ấn tượng về một
cuộc sống nhàm chán, vô nghĩa.
Chương 4
KẾT CẤU PHÂN MẢNH
4.1. Nhân vật - những mảnh ghép rời rạc
4.1.1. Nhân vật với nhân vật: những mảnh vỡ
Xét trong mối quan hệ các nhân vật với nhau, nhân vật của Beckett dù
sống giữa cộng đồng nhưng họ vẫn khơng thể nào hịa hợp và kết nối được
với nhau. Tiêu biểu cho mối liên hệ này là ở các vở kịch Đoạn kịch nháp I,
Tất cả những người ngã xuống, Phác thảo kịch truyền thanh I, Tro tàn.
Rõ ràng, các nhân vật của Beckett là những mảnh ghép không thể kết nối
được với nhau. Beckett đã đặt những mảnh đời cạnh nhau nhưng sự liên hệ
của họ rời rạc bởi họ khơng có cùng mối quan tâm, hơn nữa, giữa họ khơng
có sự cảm thơng, chia sẻ. Niềm tin và tình yêu giữa những con người tưởng
chừng rất thân thiết (trong mối quan hệ gia đình) đã bị mất. Họ là những cuộc

đời xếp cạnh nhau mà khơng thể hàn gắn nổi. Đó là những thực thể cô đơn
đến chết.
18


4.1.2 Nhân vật với chính mình: sự tách rời bản thể
Nếu như nhân vật trong mối quan hệ với người khác là những mảnh
ghép rời rạc, không thể giao tiếp được thì xét trong mối quan hệ với chính
mình, nhân vật tách rời khỏi bản thể. Nói một cách dễ hiểu, đó là có một
(nhiều) con người khác trong cùng một con người và những con người khác
này không đồng nhất với nhau. Nó tự tách ra khỏi bản thể để lắng nghe chính
mình (Khúc ứng tác Ohio); hay tự nhìn nhận con người mình trong chiều dài
thời gian (Cuộn băng cuối cùng của Krapp), thậm chí, nhân vật độc thoại với
người đã chết để giãi bày tình cảm của mình (Tro tàn). Độc thoại là hình thức
phù hợp nhất để nhân vật đối diện với chính mình.
Hình ảnh con người tự phân thân, độc thoại trong kịch Beckett xuất hiện
trở đi trở lại, cho ta thấy nỗi khắc khoải của nhà văn về bản thể nhân sinh. Có
hay khơng sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong một con người? Bản chất
con người thực sự là gì? Những nhân vật của Beckett có gương mặt vơ cảm,
họ có vẻ thản nhiên đối mặt với cuộc đời và chấp nhận nó. Bản chất con
người trong thế giới kịch Beckett là một thực thể cơ đơn, khơng bao giờ hịa
hợp được với người khác và với chính mình.
4.2. Cốt truyện phân mảnh
Ở nhiều vở kịch của Beckett, cốt truyện phân mảnh với các sự kiện,
hành động rời rạc, cắt mảnh, ngẫu nhiên và khơng có sự liên kết với nhau.
4.2.1. Cốt truyện ghép bởi những mảnh ngẫu nhiên
Trong một số vở kịch của Beckett, cốt truyện được ghép bởi nhiều mảnh
sự kiện ngẫu nhiên, phi lý. Những sự kiện này không theo lo-gic thông
thường. Người đọc phải dùng thao tác tư duy lắp ghép để khôi phục lại câu
chuyện theo cảm nhận của riêng mình. Những vở kịch tiêu biểu cho kiểu cốt

truyện này là Tất cả những người ngã xuống, Đến và đi, Đoạn kịch nháp I.
Cốt truyện phân ra thành những mảnh nhỏ rời rạc, khơng có sự liên kết
với nhau. Hành động ở đây bao gồm cả giao tiếp, nói năng, cử chỉ, động tác
của nhân vật. Các nhân vật giao tiếp với nhau theo kiểu người điếc, mỗi
19


người đuổi theo một ý riêng, không để tâm đến lời của người khác, trả lời câu
hỏi bằng câu hỏi, chuyện nọ xọ chuyện kia…
Như vậy, bằng thao tác tư duy lắp ghép, người đọc đã hình dung được
câu chuyện theo cảm nhận của riêng mình. Mỗi người đọc với trình độ nhận
thức, thẩm mỹ khác nhau sẽ tiếp nhận tác phẩm khác nhau. Do đó, ở mỗi giai
đoạn, khi đọc lại kịch Beckett, người đọc/xem lại vỡ ra được điều gì đó mới mẻ
mà nhà văn gửi gắm qua những mảnh đời, kiếp người trong tác phẩm của mình.
4.2.2. Cốt truyện phân mảnh rời rạc
Nếu như ở cốt truyện phân mảnh ngẫu nhiên, người đọc có thể thấy các
sự kiện, hành động được lắp ghép ngẫu nhiên, tình cờ đến phi lý thì ở cốt
truyện phân mảnh rời rạc, những sự kiện lại thật khó để xâu chuỗi lại với
nhau. Trước hết là nhà văn để cho hành động của các nhân vật diễn ra đồng
thời (họ phát ngôn cùng lúc) nhưng diễn ngôn của họ lại không hướng vào
nhau. Sau đó là các hành động, lời thoại đứt đoạn, ngắt quãng trong văn bản.
Hành động của nhân vật khơng theo mối quan hệ nhân quả. Đó là cốt truyện
trong Hài kịch, Này Joe, Cascando.
Như vậy, Beckett đã tạo ra những sự kiện, hành động khơng có mối liên
hệ lo-gic nhân quả. Cốt truyện của các vở kịch phân thành các mảnh rời rạc,
đứt đoạn, đã cho người đọc hình dung về một cuộc sống đổ vỡ niềm tin, con
người trở thành những bóng ma vật vờ, lải nhải về những ngày tháng bi kịch
đã qua.
4.3. Không gian cắt mảnh
Trong một số vở kịch của Beckett, chúng tôi nhận thấy không gian bị cắt

thành nhiều mảnh đối nghịch nhau và có sự ghép mảnh của khơng gian thực ảo. Điều đó tạo nên những hiện thực đa chiều về cuộc sống của con người
hiện đại.
4.3.1. Cắt mảnh thành nhiều không gian đối nghịch
Tất cả những người ngã xuống là vở kịch tiêu biểu nhất cho kiểu không
gian bị cắt thành nhiều mảnh đối nghịch. Ở đây, ta thấy có nhiều mảnh không
20


gian tương ứng với diễn biến câu chuyện là không gian đồng quê - không
gian của thành thị (nhà ga), không gian của con đường (quê - thành thị).
Bên cạnh Tất cả những người ngã xuống, Phim cũng là một tác phẩm có
nhiều khơng gian đối nghịch. Đó là sự đối nghịch giữa khơng gian mở
(khơng gian bên ngồi, khơng gian cộng đồng) với khơng gian đóng (khơng
gian bên trong ngôi nhà, không gian cá nhân).
4.3.2. Cắt mảnh không gian thực - ảo
Trong tác phẩm của Beckett, không gian phân mảnh thành những mảnh
ghép thực và ảo. Những mảnh ghép này kết hợp với nhau theo nguyên tắc
đồng hiện. Do đó, nhà văn đã tạo ra được một kiểu khơng gian độc đáo để thể
hiện những trạng thái của nhân vật trên sân khấu. Một số tác phẩm tiêu biểu
cho kiểu không gian này là Bước chân, Ba con ma, Hài kịch.
Tóm lại, kịch của Beckett với sự lắp ghép không gian thực - ảo đã tạo ra
những hiện thực đa chiều. Người đọc phải liên tục đồng sáng tạo để chắp
nối câu chuyện và kiến tạo cho mình cách hiểu riêng về những hiện thực
xảy ra trong tác phẩm.
Tiểu kết chương 4
Với kết cấu phân mảnh, Beckett đã tạo nên một thế giới các nhân vật
ghép mảnh rời rạc. Cốt truyện được cắt thành nhiều mảnh mà người đọc chỉ
có thể kiến tạo được câu chuyện trong tưởng tượng nhờ tư duy lắp ghép.
Không gian cũng được chia cắt thành nhiều mảnh đối nghịch và không gian
ghép mảnh thực - ảo. Thế giới hiện thực đa chiều đã hiện lên trong những tác

phẩm của Beckett với dự cảm về sự bất trắc, phi lý, ngẫu nhiên, sự đổ vỡ
niềm tin và niềm vô vọng. Con người trở nên bất lực trong khơng gian này và
chỉ cịn biết chấp nhận số phận của mình, bởi sinh ra cũng là chết đi.

21


KẾT LUẬN
Samuel Beckett là một tài năng văn chương độc đáo trên văn đàn thế giới.
Những tác phẩm của ông đã tạo ra một làn gió mới mẻ cho sân khấu đương
thời. Bản thân ông là một người luôn nỗ lực tìm tịi đổi mới nghệ thuật, khơng
lặp lại chính mình, đặc biệt là trong quá trình xây dựng kết cấu kịch. Chúng tôi
triển khai đề tài Kết cấu trong kịch của Samuel Beckett nhằm đi sâu tìm hiểu thế
giới kịch của tác giả này qua những thành tố cơ bản của kết cấu kịch.
1. Hủy diệt các thành tố cơ bản trong kết cấu kịch truyền thống là một nỗ
lực của Samuel Beckett nhằm cách tân kịch, để mang đến cho sân khấu thế
giới những trải nghiệm mới mẻ. Nếu như trong kịch truyền thống, lời thoại
và hành động của nhân vật diễn ra trong một không gian, thời gian cụ thể đã
trở thành những yếu tố sống còn của kịch thì đến kịch Samuel Beckett, người
ta nhận thấy nhân vật bị dần dần mất vai trò trên sân khấu, từ việc số lượng
nhân vật giảm dần đến tiêu biến hoàn toàn, lời thoại của nhân vật bị phân hủy
trở thành những lời vô nghĩa, lắp bắp khi nhận vật rơi vào cơ đơn, tuyệt vọng
và thậm chí, câm lặng hoàn toàn. Việc xây dựng kiểu nhân vật âm thanh là
một sáng tạo độc đáo của Samuel Beckett khi biến giọng nói, lời nói từ vơ
hình trở thành một kiểu nhân vật hiển hiện trên sân khấu thông qua những
máy ghi âm, máy quay phim. Cốt truyện trong kịch Samuel Beckett khơng
cịn những tình tiết li kỳ, hấp dẫn hay những sự kiện, biến cố khiến cho nhân
vật thay đổi cuộc đời, bộc lộ phẩm chất, tính cách, cá tính. Kịch tính hiểu
theo nghĩa thơng thường đã vắng bóng trên sân khấu của Beckett, về cơ bản,
nhà văn đã xóa mờ cốt truyện trong kịch truyền thống. Thay vào đó, Beckett

tập trung vào tình huống (theo nhận xét của Martin Esslin) và cụ thể hơn là
trạng thái tồn tại của con người để diễn tả được sự tha hóa, xuống cấp của
con người hiện đại trong một thế giới cô đơn, đổ vỡ niềm tin và Chúa đã
chết. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, việc hủy diệt các thành tố cơ bản
trong kết cấu kịch truyền thống như nhân vật, lời thoại, cốt truyện, không
gian, thời gian… không có nghĩa là Samuel Beckett phủ nhận hồn tồn các
yếu tố này, khiến cho kịch đi vào cực đoan, mà ông đã kế thừa những thành
tựu của văn học phi lý, đồng thời, sáng tạo nên một không gian sân khấu
riêng, mang đậm màu sắc kịch Beckett. Có thể nói, việc hủy diệt những thành
tố cơ bản trong kết cấu kịch truyền thống là một bước đi táo bạo của nhà văn
22


nhằm tạo ra một kiểu sân khấu mới lạ, buộc người xem phải tư duy lại những
vấn đề cốt lõi của đời sống nhân sinh.
2. Mỗi kết cấu là một sáng tạo của nhà văn trong việc thể hiện thế giới đầy
phức tạp và sống động. Do đó, nhà văn đã lựa chọn kiểu kết cấu trùng lặp và
tuần hoàn để miêu tả một cuộc sống cứ lặp đi lặp lại khơng có ai đến, chẳng có
ai đi, mọi thứ thật tồi tệ. Điều đặc biệt của Samuel Beckett chính là đưa những
thứ tầm thường, nhạt nhẽo, vô vị lên sân khấu và diễn như thể không diễn.
Mọi thứ cứ diễn ra như chính đời sống tự nhiên như thế. Kết cấu trùng lặp và
tuần hoàn trong kịch của Beckett trở thành công cụ vô cùng hiệu quả để nhà
văn cảnh tỉnh người xem về một thế giới trống rỗng, vơ nghĩa, ở đó, con người
đang dần dần đi đến cái chết, mà đúng hơn là chết-khi-đang-sống bởi họ bắt
buộc phải chịu đựng cảnh sống-khơng-bằng-chết. Họ khơng có lựa chọn nào
khác, họ bị chôn chân trong trạng thái đông cứng, nói năng lảm nhảm, ngày
tiếp ngày đều là những chuỗi chờ đợi vơ vọng. Đó có phải là một cuộc sống
hạnh phúc hay khơng? Câu trả lời do chính khán giả/độc giả rút ra. Và đó cũng
là ý nghĩa thức tỉnh của kịch Beckett đến người xem trong thế giới thực tại.
3. Kết cấu phân mảnh trong các vở kịch của Samuel Beckett về sau càng

được sử dụng nhiều, nhằm biểu hiện một thế giới lộn xộn, mê sảng, hỗn độn,
phi lý và khơng có sự sống. Nhà văn đã thành công khi sử dụng kiểu kết cấu
này để tạo ra các nhân vật mảnh vỡ, mặc dù các nhân vật được đặt trong mối
quan hệ cộng sinh, nhưng họ vẫn rời rạc, không thể kết nối được với nhau.
Bản thân họ cũng là những mảnh ghép bất toàn với nhiều tiếng nói bất đồng
trong cùng một con người. Những con người đó khơng cịn ý niệm về sự chia
sẻ, đồng cảm, họ hồn tồn cơ đơn và bất lực trong thế giới của mình. Những
sự việc diễn ra một cách tình cờ, ngẫu nhiên đến phi lý khiến cho nhân vật
như rơi vào một mê cung mà không thể tìm được lối thốt. Khơng gian thực
và ảo đan xen thậm chí, cái ảo dần xâm chiếm cái thực đã khiến nhân vật
hoàn toàn rơi vào mê sảng. Tỉnh – thức khơng cịn là vấn đề khi mà con
người hồn tồn mất trí, khơng thể phân biệt được q khứ, hiện tại và tương
lai. Cuộc sống của họ hoàn toàn chìm đắm trong sự bất an, lo âu và khủng
hoảng. Con người đã trở thành sinh vật thảm hại nhất trên Trái Đất và chỉ còn
biết chờ đợi ngày cuối cùng đến để kết thúc cuộc sống của mình. Beckett đã
thể hiện nỗi hoang mang cùng cực của những con người vừa bước ra khỏi hai
23


×