Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.76 KB, 45 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Họ tên:...............................................................................
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Đề: Phân tích tác phẩm “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Dàn bài Mb: - Trong xã hội phong kiến tàn bạo và bất công, người phụ nữ Việt Nam tuy chịu nhiều bất hạnh nghiệt ngã song họ vẫn sáng ngời vẻ đẹp hình thể lẫn tâm hồn, là cảm hứng sáng tác cho văn chương. - “Chuyện người con gái Nam Xương” trích từ tập truyện “ Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một minh chứng làm ta vô cùng cảm động. Tb: 1. Tóm lược tác phẩm: Vũ Thị Thiết – quê ở Nam Xương – là người con gái thùy mị nết na, tư dung lại tốt đẹp, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà giàu, ít học lại có tính hay ghen. Về làm dâu nhà họ Trương, hiểu tính chồng nên nàng hết mực giữ gìn khuôn phép, tránh để vợ chồng phải thất hòa. Lấy nhau chưa được bao lâu thì xảy ra chiến tranh, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, Vũ Nương ở nhà sinh con, nuôi dạy con một mình, phụng dưỡng mẹ chồng khi đau ốm, lo ma chay khi mất như cha mẹ đẻ. Năm sau, Trương Sinh trở về, vì nghe lời ngây thơ của con trẻ đã ngờ oan vợ thất tiết. Vũ Nương hết lời giải bày nhưng chồng không tin, nàng nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được Linh Phi cứu. Ở thủy cung, nàng gặp Phan Lang người cùng làng, nhờ Phan nhắn chồng lập đàn giải oan, nàng hiện về đa tạ tình nghĩa của chồng nhưng từ chối trở lại nhân gian. 2.Giá trị nội dung: a.Giá trị hiện thực: - Lên án chiến tranh phong kiến: nguyên nhân của cảnh biệt li, chết chóc. Đối với Vũ Nương, chiến tranh là điểm khởi đầu của một loạt biến cố: chia li, mẹ chồng chết, chồng nghi oan vợ, vợ tự vẫn bất hạnh. - Tố cáo hàng rào lễ giáo phong kiến nghiệt ngã, bất công, chế độ nam quyền gây nhiều đau khổ cho người phụ nữ. Điều này được gửi gắm qua nhân vật Trương Sinh: ít hiểu biết, hay ghen, gia trưởng, vũ phu, ngờ oan vợ và không nghe lời giải thích, đối xử tàn nhẫn, dồn vợ đến bước đường cùng. b.Giá trị nhân đạo: làm nên sức sống cho tác phẩm. Xây dựng hình tượng một người phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý: - Nàng không chỉ “nết na thùy mị” mà còn tư dung tốt đẹp”; trong đạo vợ chồng, nàng “hết sức khôn khéo”, “rất mực chú trọng giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để đến vợ chồng phải thất hòa” những mong hạnh phúc nhưng hạnh phúc thật mong manh. - Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không màng hư danh, hết mực lo lắng, yêu thương chồng. - Khi chồng ra trận vắng nhà, người thiếu phụ đáng thương ấy một mình ra sức tảo tần nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi đau ốm, lo ma chay khi mẹ chồng mất. Nàng đã thay chồng chăm sóc gia đình chồng chu đáo, trọn đạo làm dâu, làm vợ, làm mẹ. Lời người mẹ chồng trước lúc lâm chung- mong nàng được bù đắp, sống hạnh phúc- là một một minh chứng cho đức hạnh và tấm lòng của nàng. Những oan khổ mà người phụ nữ bất hạnh phải gánh chịu: - Ba năm chồng chinh chiến xa nhà, Vũ Nương ở nhà trọn đạo vợ hiền dâu thảo, mong mỏi ngày đoàn viên, gia đình hạnh phúc, những tưởng nàng được chồng bù đắp những tháng ngày cơ cực nhưng bất hạnh ập đến: nàng bị chồng ngờ oan không nghe lời biện minh và đối xử tàn nhẫn. Để giải nỗi oan tình nàng phải gieo mình tự vẫn thà chết chứ không chịu tiếng nhuốc nhơ giàu lòng tự trọng. - Vũ Nương không chết mà được Linh Phi cứu giúp, nàng gặp người cùng làng là Phan Lang và nhờ nhắn với chồng lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hiện về, oan tình được giải nhưng nàng không bao giờ trở lại nhân gian nữa. Đoạn kết kì ảo này càng làm tăng thêm bi kịch trong tâm hồn nàng. Lời buộc tội nhân gian phong kiến thiếu tình người, một người phụ nữ từng khát khao cuộc sống gia đình hạnh phúc nay từ chối trở lại dương gian vì nơi ấy quá bất công. 3.Giá trị nghệ thuật: - Cách khắc họa nội tâm nhân vật đã làm nổi rõ tính cách nhân vật. - Kết hợp tài tình giữa phương thức tự sự trữ tình và kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi và văn biền ngẫu. Lời văn cô động, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Tác giả nhiều lần để cho Vũ Nương nói khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết người đọc vô cùng xúc động..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Cách xây dựng tình huống thắt nút mở nút đầy bất ngờ, đầy kịch tính càng làm cho nỗi oan hiện rõ với tất cả cái bi thảm của nó. Lời nói ngây thơ của con trẻ và sự đa nghi thiếu hiểu biết, cố chấp của người chồng đã tạo bi kịch cho gia đình và bất hạnh cho người phụ nữ. - Truyện thêm đoạn Vũ Nương ở dưới thủy cung. Đây là phần sáng tạo độc đáo của tác giả. Yếu tố kì ảo này tạo bất ngờ cho phần kết của câu chuyện, nhấn mạnh nỗi bất hạnh của Vũ Nương. 4. Đánh giá chung về tác phẩm: Kb: - Sáng tạo trong nghệ thuật của Nguyễn Dữ đã làm cho tác phẩm sâu sắc và hấp dẫn hơn . - Xót thương cho người phụ nữ ngày xưa. - Tự hào cho người phụ nữ ngày nay không còn chịu nhiều đau khổ. .................------ ................ Bài tham khảo Mb: Xã hội phong kiến Việt Nam bên cạnh những thời kì lịch sử mà nhà nước phong kiến đã làm tròn vai trò của mình, còn có những thời kì mà người dân lương thiện phải sống trong những hoàn cảnh hết sức thương tâm, phi lý dưới chế độ thống trị bất công bạo ngược và những lễ giáo phong kiến nghiệt ngã – đặc biệt là người phụ nữ. Hạnh phúc đối với họ mong manh tựa sương khói, hư ảo bấp bênh như chiếc bóng trên tường. Vượt lên trên những bạo tàn và bất công, người phụ nữ Việt Nam vẫn rất đẹp, vẻ đẹp của hình thể, của tâm hồn và tính cách. Họ đã mang đến cho văn chương nhiều cảm hứng. Không phải ngẫu nhiên mà ta thấy những tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc nhất thường là những tác phẩm lấy nhân vật phụ nữ làm trung tâm. Chúng ta đã từng xót xa, day dứt cho nàng Kiều của Nguyễn Du, người chinh phụ của Đoàn Thị Điểm,người phụ nữ thấp thoáng trong thơ của Hồ Xuân Hương,… và giờ đây nhân vật Vũ Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” trích từ tập truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ đã khiến cho người đọc phải rớm lệ. Vì sao câu chuyện về người thiếu phụ Nam Xương với nhiều tình tiết li kỳ đã gây nên xúc động cho người Việt Nam trong mấy trăm năm qua? Đi vào khai thác tác phẩm phần nào ta sẽ rõ. Tb: 1. Tóm lược tác phẩm: Vũ Thị Thiết – quê ở Nam Xương – là người con gái thùy mị nết na, tư dung lại tốt đẹp, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà giàu, ít học lại có tính hay ghen. Về làm dâu nhà họ Trương, hiểu tính chồng nên nàng hết mực giữ gìn khuôn phép, tránh để vợ chồng phải thất hòa. Lấy nhau chưa được bao lâu thì xảy ra chiến tranh, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, Vũ Nương ở nhà sinh con, nuôi dạy con một mình, phụng dưỡng mẹ chồng khi đau ốm, lo ma chay khi mất như cha mẹ đẻ. Năm sau, Trương Sinh trở về, vì nghe lời ngây thơ của con trẻ đã ngờ oan vợ thất tiết. Vũ Nương hết lời giãi bày nhưng chồng không tin, nàng nhảy xuống sông tự vẫn và được Linh Phi cứu. Ở thủy cung, nàng gặp Phan Lang người cùng làng, nhờ Phan nhắn chồng lập đàn giải oan, nàng hiện về đa tạ tình nghĩa của chồng nhưng từ chối trở lại nhân gian. 2. Giá trị nội dung: a. Giá trị hiện thực: Trước hết, tác phẩm mang giá trị hiện thực khá rõ nét. Truyện đã lên án chiến tranh phong kiến. Trong tác phẩm, tác giả viết: “Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu”. Bao giờ cũng thế, đời xưa cũng như đời nay, chiến tranh luôn luôn là nguyên nhân của bao cảnh biệt li và chết chóc.Đối với Vũ Nương , chiến tranh là điểm khởi đầu của một loạt biến cố xảy ra dồn dập sau này: chia li, mẹ chồng chết, chồng nghi oan vợ, vợ đau khổ đến mức phải tự tử… Ở đây chiến tranh không phải nguyên nhân trực tiếp làm tan vỡ hạnh phúc gia đình nhưng chính nó góp phần đưa đến nỗi bất hạnh bất ngờ sau này. Truyện còn tố cáo hàng rào lễ giáo phong kiến nghiệt ngã, bất công đã gây nhiều đau khổ cho người phụ nữ. Điều ấy đã được tác giả gửi gắm qua nhân vật Trương Sinh. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> mắng nhiếc” và “đánh đuổi nàng”. Vợ phân trần thì không tin, hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì. Chính chồng và con – những người thân yêu nhất – đã xô đẩy nàng đến vực thẳm. b. Giá trị nhân đạo: Nhưng có thể nói chính giá trị nhân đạo đã làm nên sức sống cho tác phẩm. Giá trị nhân đạo trước hết biểu hiện ở việc tác phẩm đã xây dựng được một hình tượng phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý – mà Vũ Nương là một minh chứng. Đọc truyện, ta thấy Vũ Nương đúng là một mẫu mực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất đáng quý. Nàng không chỉ “thùy mị nết na” mà còn có “tư dung tốt đẹp”. Trong đạo vợ chồng, nàng rất mực khôn khéo, hết sức chú trọng “giữ gìn khuôn phép”, không từng để vợ chồng phải đến thất hòa. Với hai yếu tố quan trọng nhất của người phụ nữ nhan sắc và đức hạnh – nàng cũng đã đủ để có một cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng hạnh phúc đến với nàng thật mong manh và ngắn ngủi, chỉ một lần vào giây phút ban đầu khi về làm vợ chàng Trương. Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy hiện lên một Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh và giàu lòng vị tha. Nàng nghĩ đến sự khó nhọc gian nguy của chồng trước rồi mới nghĩ đến sự lẻ loi của mình: “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi… “ Trong những năm tháng chồng còn ngoài nơi chiến địa, người thiếu phụ đáng thương ấy đã ra sức tần tảo nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, ngày đêm giữ gìn hạnh phúc mà nàng mong đợi. Đối với mẹ chồng, nàng giữ vẹn đạo làm dâu thảo. Vũ Nương hết lòng chăm sóc lo thuốc thang khi mẹ chồng ốm đau và cả việc lo ma chay tế lễ khi mẹ chồng mất,…” Nhà văn đã tỏ ra già dặn, đã để cho chính bà mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng thơm thảo của nàng dâu trước khi bà qua đời. Trong đôi mắt của người mẹ chồng, nàng là người có “lòng lành”. Sự đảm đang hiếu nghĩa ấy cũng phần nào thể hiện tấm lòng son của nàng với Trương Sinh. Nàng đã trọn vẹn đạo làm con, làm vợ, làm mẹ. Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở việc tác phẩm đã đề cập đến những oan khổ bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu. Dõi theo câu chuyện, ta thấy người thiếu phụ Nam Xương này hoàn toàn vô tội. Ba năm chồng đi chinh chiến nàng vẫn ngày đêm mong chồng trở về. Vậy mà nàng có ngờ đâu phút giây đoàn viên hạnh phúc nhất cũng là phút giây bất hạnh nhất. Nàng có ngờ đâu hành động dùng cái bóng trên tường để khỏa lấp nỗi nhớ thương chồng ngày nào lại trở thành bi kịch thảm khốc. Giờ đây Vũ Nương không chỉ đau đớn ngậm đắng nuốt cay chịu đựng những đòn roi và những lời mắng nhiếc đuổi xua cay nghiệt mà còn phải mang lấy nỗi oan lớn nhất, đau đớn nhất của người phụ nữ đó là sự thất tiết. Thật còn oan hơn Thị Kính. Vì Thị Kính còn biết vì sao mình bị ngờ oan, còn Vũ Nương chỉ biết mình bị kết tội oan uất mà không biết nguyên cớ vì đâu bởi hỏi chồng thì chồng nhất định không nói. Bão tố oan khiên dậy đất đã dồn nàng vào kết cục bi thảm nhất là phải tuẫn tiết ở sông Hoàng Giang để tỏ lòng trinh bạch, giải nỗi oan tình. Ai trong chúng ta lại không khỏi cảm thấy xốn xang, nhức nhối khi nghe vọng lại lời thề nguyền thống thiết của nàng trước trời cao sông thẳm: “ Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ…”. Đó là tiếng khóc nghẹn ngào ai oán của Vũ Nương hay cũng là tiếng kêu thương chung cho những kẻ má hồng mệnh bạc. Đó cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội nam quyền độc đoán lúc bấy giờ…Một người mẹ hết lòng thương con lại phải đau đớn chọn cái chết, phải xa lìa đứa con mà nàng hết mực yêu thương. Phải bị dồn đến bước đường cùng thì người mẹ ấy mới chọn con đường biệt ly đau đớn ấy. Hạnh phúc đối với nàng sao mà quá xa xôi. Bao nhiêu cố gắng của người đàn bà bất hạnh hầu giữ lấy hạnh phúc gia đình đều vô vọng. Người thiếu phụ Nam Xương ấy thật đáng thương mà cũng đáng trọng: Bày tỏ tấm lòng của mình không được thì tự vẫn chứ không sống “ chịu tiếng nhuốc nhơ”. Thật là khí khái và giàu lòng tự trọng. Câu chuyện có thể được khép lại nơi đây, thế nhưng tác giả lại thêm vào chi tiết Vũ Nương ở dưới thủy cung nhằm tô đậm hơn tính cách cao đẹp của Vũ Nương đồng thời còn gián tiếp bộc lộ thái độ đồng cảm và thương yêu của tác giả trước số phận con người. Dù đã chết người thiếu phụ ấy vẫn còn tình xưa nghĩa cũ, vẫn còn vọng với quê hương xưa khác nào “Ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam”.Tấm lòng son sắt thủy chung của nàng thật đáng quý! Cũng chính lớp màn lung linh kì ảo ấy đã làm tăng thêm bi kịch trong tâm hồn nàng. Dù đã chết được thần linh chứng giám và sống trong vòng tay ân đức của Linh Phi, thế nhưng nàng vẫn cảm thấy ray rứt, giày vò đau khổ, tủi thẹn vì nỗi oan thất tiết còn đeo đẳng xuống chốn tuyền đài. Lời buộc tội cái nhân gian phong kiến đầy bất công xưa kia khép lại câu chuyện đầy thương tâm ấy cũng là một vẻ đẹp của giá trị nhân đạo mà câu chuyện mang lại. Tuy khát khao hạnh phúc, yêu thương chồng con, gắn bó thiết tha với cuộc sống trần thế nhưng khi chồng lập đàn giải oan như ước nguyện thì nàng lại từ chối cuộc sống trần thế. Trước hết đó là do nàng cảm được ân đức của Linh Phi “thề sống chết không bỏ”. Điều ấy cho ta thấy đó là một người phụ nữ có trước có sau, trọn nghĩa, trọn tình. Nhưng có lẽ căn nguyên sâu xa là cuộc sống nơi nhân gian kia thiếu hẳn ân.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> đức của Linh Phi, cái dương gian kia chỉ cho nàng những tháng năm chờ đợi mỏi mòn, vò võ cô đơn và những nỗi oan khổ bất hạnh. Dù đã nghe tiếng chồng gọi, người chồng vẫn chưa cạn tình người, đã thấu nỗi oan của vợ và có nỗi đau, sự ăn năn hối hận của chàng nhưng nàng cũng chỉ đau đớn đa tạ và đau đớn trở lại cuộc sống thủy cung, có nghĩa là nàng đớn đau chấp nhận khước từ thiên chức lớn lao, hạnh phúc lớn lao của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ. Lời đa tạ cuối cùng của nàng đối với chồng nghe sao xúc động thảm thiết! 3. Giá trị nghệ thuật: Truyện lôi cuốn người đọc không chỉ vì nội dung cảm động giàu ý nghĩa mà còn bởi cách viết tài hoa của Nguyễn Dữ. Ông đặc biệt chú ý đến cách khắc họa nội tâm của nhân vật qua đó tính cách nhân vật được thể hiện một cách rõ nét. Chẳng hạn ở trường đoạn người chồng bắt đầu ngờ vực lòng chung thủy của người vợ và bắt đầu ghen tuông cho đến khi Vũ Nương gieo mình xuống sông tự tử thì truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” chỉ ghi có vài dòng, còn trong truyện ngắn của Nguyễn Dữ thì đã phát triển thành cao trào, xung đột nội tâm được khắc họa khá tinh tế qua ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm. Tác phẩm kết hợp tài tình, nhuần nhuyễn những phương thức tự sự trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi và văn biền ngẫu. Lời văn cô đọng, xúc tích chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Tác giả đã để cho nhân vật Vũ Nương nhiều lần nói trong tác phẩm, giọng điệu khi thắm thiết, lúc thống thiết càng làm cho người đọc thêm xúc động. Cách xây dựng tình tiết mở nút thắt nút đầy bất ngờ kịch tính càng làm cho nỗi oan của Vũ Nương càng hiện rõ hơn với tất cả cái bi thảm của nó. Trước hết phải nói đến cách thắt nút bằng yếu tố bất ngờ. Tác giả đã khéo léo cân nhắc, chọn lọc câu nói phản ánh đúng suy nghĩ của đứa trẻ. Chỉ một câu nói ngây thơ của con trẻ mà bão tố nổi lên cuốn trôi hạnh phúc gia đình khi phúc giây đoàn viên chưa thỏa.Câu nói ấy đã tạo nên cơn bão nghi kị, ghen tuông trong lòng một người chồng – đa nghi và thiếu trí tuệ vừa đi xa trở về. Ngay cả người đọc cũng cảm thấy bàng hoàng sửng sốt. Cách gỡ nút cũng thật tự nhiên, bởi vì tìm ra sự thật cũng chính là người chồng đa nghi thiếu trí tuệ ấy. Thật trớ trêu thay, cái bóng của Vũ Nương trên tường buộc mối oan khiên thì cái bóng của chàng Trương trên tường lại mở mối oan tình ấy. Truyện lẽ ra kết thúc ở đoạn Vũ Nương trầm mình cũng được xem là hoàn chỉnh nhưng tác giả lại thêm đoạn Vũ Nương ở dưới thủy cung. Đây là sự sáng tạo trong việc xây dựng cốt truyện. Với phần hai, “Câu chuyện về vợ chàng Trương” không còn là một câu chuyện cổ tích đã được lưu truyền trong dân gian. Chính lớp màn kì ảo ấy đã tạo ra giá trị đặc sắc cho tác phẩm, đưa Nguyễn Dữ vào những ngôi đền lớn của dân tộc với trái tim nhân hậu bao la. Không bảo vệ được nhân vật phụ nữ của mình ở cõi nhân gian đầy bất hạnh đã để cho nhân vật mà mình yêu thương phải sống trong sựđọa đày, hành hạ, xúc phạm nhân phẩm của người chồng đa nghi và sẵn sàng dùng thế lực của kẻ mạnh, tác giả đành để cho Vũ Nương sống trong thế giới kí ảo, thế giới của ước nguyện và trí tưởng tượng. Ở nơi đó mọi người sống với nhau thật ân nghĩa. Phần hai của truyện với màu sắc hoang đường và kết thúc có hậu thường có trong truyện cổ tích tưởng chừng làm dịu nỗi đau nhân thế ở tác giả, người đọc và cả Vũ Nương. Nhưng đọc đến cuối tác phẩm thì người đọc hết sức bàng hoàng, một kết thúc không như ý của cả nhân vật, cả người đọc đã xảy ra. Nghe những lời nói chia li đau đớn của Vũ Nương khi từ chối trở về nhân gian thì nỗi đau, lòng thương cảm và cảm xúc ở người đọc tăng lên gấp bội. Nước mắt trong văn chương, nước mắt ngoài cuộc đời. 4. Đánh giá chung về tác phẩm (Cảm nhận của bản thân về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm). Truyện “ Người con gái Nam Xương” có giá trị về nội dung sâu sắc và đầy cảm động. Qua tác phẩm, chúng ta hiểu hơn về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ – có nhan sắc, nết na nhưng cuộc đời lại quá nhiều bất hạnh. Số phận truân chuyên ấy không chỉ vận vào mỗi Vũ Nương mà còn có nàng Kiều trong “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người chinh phụ trong “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm hay người phụ nữ trong thơ của Hồ Xuân Hương,…Tác phẩm còn là bản án nghiêm khắc dành cho xã hội phong kiến thối nát bất công và chiến tranh phi nghĩa. Để tạo nên sức sống mạnh mẽ trên, Nguyễn Dữ đã tỏ ra là bậc thầy trong nghệ thuật viết truyện. Tài năng cũng chưa đủ làm nên sức lay động kì diệu của tác phẩm mà phải có một trái tim yêu thương, cảm thông sâu sắc với thân phận người phụ nữ chịu nhiều bất công đau khổ trong xã hội phong kiến bạo tàn, khe khắc.Tài năng và tấm lòng của ông đáng cho những người cầm bút hôm nay học hỏi. Kb:.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Mặc dầu truyện còn phảng phất không khí thần linh, sử dụng văn biền ngẫu nhưng với cách tạo bố cục truyện bất ngờ, lý thú, tác phẩm đã làm sống dậy hình ảnh người phụ nữ trong quá khứ với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời thật bấp bênh, oan trái. Hiện thực đời sống xã hội cùng trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của Nguyễn Dữ đã làm nên cái hay cái đẹp của “ Chuyện Người con gái Nam Xương”. Tấm lòng và nỗi oan của người thiếu phụ đã làm rơi nước mắt của người Việt Nam trong mấy trăm năm qua. Đọc lại truyện ngắn đặc sắc của tập truyện được mệnh danh là “ thiên cổ kì bút”, ta vừa thương cảm cho “người đàn bà hôm qua”(Lưu Trọng Lư) vừa cảm thấy tự hào hơn về người phụ nữ ngày nay. Họ không còn phải chịu đựng nỗi oan như nỗi oan Thị Kính, không còn là những hòn đá vọng phu mà là những người phụ nữ “khỏe mạnh, lành mạnh”( Nguyễn Tuân) vừa đảm đang, thương chồng, thương con vừa yêu nước… .................------ ............... Đề: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.. Dàn bài Mb: - Dẫn bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương. - Liên hệ thân phận người phụ nữ trong bài thơ với Vũ Nương trong tác phẩm “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ( đảm đang, hiếu nghĩa, thủy chung mà hạnh phúc chỉ hư ảo, bấp bênh). Tb: 1. Tóm lược về tác phẩm: ( Xem phần phân tích tác phẩm) 2.Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương:. Bài làm tham khảo 2 a. Vũ Nương là một mẫu mực của người phụ nữ phong kiến với những phẩm chất đáng quý: - Nàng không chỉ “nết na thùy mị” mà còn tư dung tốt đẹp”; trong đạo vợ chồng, nàng “hết sức khôn khéo”, “rất mực chú trọng giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để đến vợ chồng phải thất hòa” những mong hạnh phúc nhưng hạnh phúc thật mong manh. - Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không màng hư danh, hết mực lo lắng, yêu thương chồng. - Khi chồng ra trận vắng nhà, người thiếu phụ đáng thương ấy một mình ra sức tảo tần nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi đau ốm, lo ma chay khi mẹ chồng mất. Nàng đã thay chồng chăm sóc gia đình chồng chu đáo, trọn đạo làm dâu, làm vợ, làm mẹ. Lời người mẹ chồng trước lúc lâm chung- mong nàng được bù đắp, sống hạnh phúc- là một một minh chứng cho đức hạnh và tấm lòng của nàng. b. Những oan khổ, bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu: - Nàng đã trọn đạo vợ hiền, dâu thảo, hết lòng hy sinh cho gia đình chồng. Giây phút đoàn viên hạnh phúc lại là giây phút bất hạnh . Nàng bị chồng ngờ oan cho lòng chung thủy, tiết hạnh sáng trong. Chồng không nghe lời giải bày mà còn mắng chửi, đánh đuổi. Bị dồn đến bước đường cùng, nàng gieo mình xuống sông tự vẫn. Trước khi gieo mình xuống sông, nàng đã cầu mong các đấng thiêng liêng chứng giám cho lòng trinh bạch của nàng. Thật xót xa cho một người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn! - Nàng được Linh Phi cứu giúp, nỗi oan tình được giải khi chồng lập đàn giải oan. Người phụ nữ từng khát khao hạnh phúc gia đình lại từ chối trở về nhân gian có lẽ vì nhân gian thiếu cái ân đức của Linh Phi và nơi ấy những người phụ nữ như nàng phải chịu nhiều oan khổ và bất hạnh. Lời từ biệt, đa tạ cuối cùng của nàng đối với chồng sao nghe thật xót xa. 3. Giá trị nghệ thuật: - Khắc họa nội tâm nhân vật để bộc lộ tính cách. - Kết hợp tài tình giữa phương thức tự sự trữ tình và kịch; giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả; giữa văn xuôi và văn biền ngẫu; lời văn cô đọng, súc tích chặt chẽ, hài hòa và sinh động; tác giả để cho nhân vật Vũ Nương nhiều lần nói trong tác phẩm, khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết làm người đọc vô cùng xúc động. - Cách xây dựng tình tiết thắt nút, mở nút càng làm cho câu chuyện giàu kịch tính, hấp dẫn. - Chi tiết hoang đường được thêm vào ở cuối truyện càng tăng tính bi kịch. 4. Đánh giá chung:.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Tài năng và tấm lòng của nhà văn đã ký thác vào nhân vật Vũ Nương. Nàng là một mẫu người phụ nữ lí tưởng. Trước nỗi đau của một người mẹ mãi mãi xa lìa đứa con thơ, người vợ thục hiền phải mãi xa lìa người chồng mà nàng hết mực yêu thương, chung thủy, ước nguyện sống trọn đời, ta thật xót xa cho cảnh ngộ của nàng. Kb: Tấm lòng và nỗi oan của người thiếu phụ đã làm rơi bao nước mắt của người đọc. Thương cho thân phận người phụ nữ xưa, tự hào cho hạnh phúc của người phụ nữ ngày nay. .................------ ................ Bài làm tham khảo Mb: “ Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son” (“Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương) Tiếng thơ hay cũng chính là lời than thân phận của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, mượn hình ảnh chiếc bánh trôi để nói lên thân phận truân chuyên của khách má hồng: dung nhan xinh đẹp, đức hạnh sáng ngời nhưng lại có cuộc đời lắm nỗi truân chuyên. Đem vịnh lời thơ ấy vào cuộc đời của Vũ Nương – nhân vật chính trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ - ta thấy đúng như vậy. Nàng là một người phụ nữ đảm đang, hiếu nghĩa, thủy chung son sắt thế mà hạnh phúc đối với nàng chỉ hư ảo, bấp bênh như chiếc bóng ở trên tường khiến chúng ta không khỏi xúc động khi đọc lại tác phẩm ấy. Tb: 1. Sơ lược tác phẩm: Vũ Thị Thiết – quê ở Nam Xương – là người con gái thùy mị nết na, tư dung lại tốt đẹp, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà giàu, ít học lại có tính hay ghen. Về làm dâu nhà họ Trương, hiểu tính chồng nên nàng hết mực giữ gìn khuôn phép, tránh để vợ chồng phải thất hòa. Lấy nhau chưa được bao lâu thì xảy ra chiến tranh, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, Vũ Nương ở nhà sinh con, nuôi dạy con một mình, phụng dưỡng mẹ chồng khi đau ốm, lo ma chay khi mất như cha mẹ đẻ. Năm sau, Trương Sinh trở về, vì nghe lời ngây thơ của con trẻ đã ngờ oan vợ thất tiết. Vũ Nương hết lời giải bày nhưng chồng không tin, nàng nhảy xuống sông tự vẫn và được Linh Phi cứu. Ở thủy cung, nàng gặp Phan Lang người cùng làng, nhờ Phan nhắn chồng lập đàn giải oan, nàng hiện về đa tạ tình nghĩa của chồng nhưng từ chối trở lại nhân gian. 2. Giá trị nội dung: Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương: a). Đọc truyện, ta thấy Vũ Nương đúng là một mẫu mực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất đáng quý. Nàng không chỉ “thùy mị nết na” mà còn có “tư dung tốt đẹp”. Trong đạo vợ chồng, nàng rất mực khôn khéo, hết sức chú trọng “giữ gìn khuôn phép”, không từng để vợ chồng phải đến thất hòa. Với hai yếu tố quan trọng nhất của người phụ nữ - nhan sắc và đức hạnh – nàng cũng đã đủ để có một cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng hạnh phúc đến với nàng thật mong manh và ngắn ngủi, chỉ một lần vào giây phút ban đầu khi về làm vợ chàng Trương. Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy hiện lên một Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh và giàu lòng vị tha. Nàng nghĩ đến sự khó nhọc gian nguy của chồng trước rồi mới nghĩ đến sự lẻ loi của mình: “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi…” Trong những năm tháng chồng còn ngoài nơi chiến địa, người thiếu phụ đáng thương ấy đã ra sức tần tảo nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, ngày đêm giữ gìn hạnh phúc mà nàng mong đợi. Đối với mẹ chồng, nàng giữ vẹn đạo làm dâu thảo. Vũ Nương hết lòng chăm sóc lo thuốc thang khi mẹ ốm đau và cả việc lo ma chay tế lễ khi mẹ chồng mất,… Nhà văn đã tỏ ra già dặn, đã để cho chính bà mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng thơm thảo của nàng dâu trước khi bà qua đời. Trong đội mắt của người mẹ chồng, nàng là người có “lòng lành”. Sự đảm đang hiếu nghĩa ấy cũng phần nào thể hiện tấm lòng son của nàng với Trương Sinh. Nàng đã trọn vẹn đạo làm con, làm vợ, làm mẹ. b).Tác phẩm còn đề cập đến những oan khổ bất hạnh mà người phụ nữ phải chịu đựng.Dõi theo câu chuyện, ta thấy người thiếu phụ Nam Xương này hoàn toàn vô tội. Ba năm chồng đi chinh.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> chiến nàng vẫn ngày đêm mong chồng trở về. Vậy mà nàng có ngờ đâu phút giây đoàn viên hạnh phúc nhất cũng là phút giây bất hạnh nhất. Nàng có ngờ đâu hành động dùng cái bóng trên tường để khỏa lấp nỗi nhớ thương chồng ngày nào lại trở thành bi kịch thảm khốc. Giờ đây Vũ Nương không chỉ đau đớn ngậm đắng nuốt cay chịu đựng những đòn roi và những lời mắng nhiếc đuổi xua cay nghiệt mà còn phải mang lấy nỗi oan lớn nhất, đau đớn nhất của người phụ nữ đó là sự thất tiết. Thật còn oan hơn Thị Kính. Vì Thị Kính còn biết vì sao mình bị ngờ oan, còn Vũ Nương chỉ biết mình bị kết tội oan uất mà không biết nguyên cớ vì đâu bởi hỏi chồng thì chồng nhất định không nói. Bão tố oan khiên dậy đất đã dồn nàng vào kết cục bi thảm nhất là phải tuẫn tiết ở sông Hoàng Giang để tỏ lòng trinh bạch, giải nỗi oan tình. Ai trong chúng ta lại không khỏi cảm thấy xốn xang, nhức nhối khi nghe vọng lại lời thề nguyền thống thiết của nàng trước trời cao sông thẳm: “ Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ…”. Đó là tiếng khóc nghẹn ngào ai oán của Vũ Nương hay cũng là tiếng kêu thương chung cho những kẻ má hồng mệnh bạc. Đó cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội nam quyền độc đoán lúc bấy giờ…Một người mẹ hết lòng thương con lại phải đau đớn chọn cái chết, phải xa lìa đứa con mà nàng hết mực yêu thương. Phải bị dồn đến bước đường cùng thì người mẹ ấy mới chọn con đường biệt li đau đớn ấy. Hạnh phúc đối nàng sao mà quá xa xôi. Bao nhiêu cố gắng của người đàn bà bất hạnh hầu giữ lấy hạnh phúc gia đình đều vô vọng. Người thiếu phụ Nam Xương ấy thật đáng thương mà cũng đáng trọng: Bày tỏ tấm lòng của mình không được thì tự vẫn chứ không sống “ chịu tiếng nhuốc nhơ”. Thật là khí khái và giàu lòng tự trọng. Câu chuyện có thể được khép lại nơi đây, thế nhưng tác giả lại thêm vào chi tiết Vũ Nương ở dưới thủy cung nhằm tô đậm hơn tính cách cao đẹp của Vũ Nương đồng thời còn gián tiếp bộc lộ thái độ đồng cảm và thương yêu của tác giả trước số phận con người. Dù đã chết người thiếu phụ ấy vẫn còn tình xưa nghĩa cũ, vẫn còn vọng với quê hương xưa khác nào “Ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam”.Tấm lòng son sắt thủy chung của nàng thật đáng quý! Cũng chính cái lớp màn lung linh kì ảo ấy đã làm tăng thêm bi kịch trong tâm hồn nàng. Dù đã chết được thần linh chứng giám và sống trong vòng tay ân đức của Linh Phi, thế nhưng nàng vẫn cảm thấy ray rứt, giày vò đau khổ, tủi thẹn vì nỗi oan thất tiết còn đeo đẳng xuống chốn tuyền đài. Lời buộc tội cái nhân gian phong kiến đầy bất công xưa kia khép lại câu chuyện đầy thương tâm ấy cũng là một vẻ đẹp của giá trị nhân đạo mà câu chuyện mang lại. Tuy khát khao hạnh phúc, yêu thương chồng con, gắn bó thiết tha với cuộc sống trần thế nhưng khi chồng lập đàn giải oan như ước nguyện thì nàng lại từ chối cuộc sống trần thế. Trước hết đó là do nàng cảm được ân đức của Linh Phi “thề sống chết không bỏ”. Điều ấy cho ta thấy đó là một người phụ nữ có trước có sau, trọn nghĩa, trọn tình. Nhưng có lẽ căn nguyên sâu xa là cuộc sống nơi nhân gian kia thiếu hẳn ân đức của Linh Phi, cái dương gian kia chỉ cho nàng những tháng năm chờ đợi mỏi mòn, vò võ cô đơn và những nỗi oan khổ bất hạnh. Dù đã nghe tiếng chồng gọi, người chồng vẫn chưa cạn tình người, đã thấu nỗi oan của vợ. Nỗi đau đớn, sự ăn năn hối hận của chàng nhưng nàng cũng chỉ đau đớn đa tạ và đau đớn trở lại cuộc sống thủy cung, có nghĩa là nàng đớn đau chấp nhận khước từ thiên chức lớn lao, hạnh phúc lớn lao của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ. Lời đa tạ cuối cùng của nàng đối với chồng nghe sao xúc động thảm thiết! 3.Giá trị nghệ thuật: Truyện lôi cuốn người đọc không chỉ vì nội dung cảm động giàu ý nghĩa mà còn bởi cách viết tài hoa của Nguyễn Dữ. Ông đặc biệt chú ý đến cách khắc họa nội tâm của nhân vật qua đó tính cách nhân vật được thể hiện một cách rõ nét. Chẳng hạn ở trường đoạn người chồng bắt đầu ngờ vực lòng chung thủy của người vợ và bắt đầu ghen tuông cho đến khi Vũ Nương gieo mình xuống sông tự tử thì truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” chỉ ghi có vài dòng, còn trong truyện ngắn của Nguyễn Dữ thì đã phát triển thành cao trào, xung đột nội tâm được khắc họa khá tinh tế qua ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm. Tác phẩm kết hợp tài tình, nhuần nhuyễn những phương thức tự sự trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi và văn biền ngẫu. Lời văn cô đọng, xúc tích chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Tác giả đã để cho nhân vật Vũ Nương nhiều lần nói trong tác phẩm, giọng điệu khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết càng làm cho người đọc càng xúc động. Cách xây dựng tình tiết mở nút thắt nút đầy bất ngờ kịch tính càng làm cho nỗi oan của Vũ Nương càng hiện rõ hơn với tất cả cái bi thảm của nó. Trước hết phải nói đến cách thắt nút bằng yếu tố bất ngờ. Tác giả đã khéo léo cân nhắc, chọn lọc câu nói phản ánh đúng suy nghĩ của đứa trẻ. Chỉ một câu nói ngây thơ của con trẻ mà bão tố nổi lên cuốn trôi hạnh phúc gia đình khi phúc giây đoàn viên chưa thỏa.Câu nói ấy đã tạo nên cơn bão nghi kị, ghen tuông trong lòng một người chồng – đa nghi và.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> thiếu trí tuệ - vừa đi xa trở về. Ngay cả người đọc cũng cảm thấy bàng hoàng sửng sốt. Cách gỡ nút cũng thật tự nhiên, bởi vì tìm ra sự thật cũng chính là người chồng đa nghi thiếu trí tuệ. Thật trớ trêu thay, cái bóng của Vũ Nương trên tường buộc mối oan khiên thì cái bóng của chàng Trương trên tường lại mở mối oan tình ấy. 4. Đánh giá chung về nhân vật: Có thể nói tài năng và tấm lòng của nhà văn dường như đã kí thác tất cả vào nhân vật trung tâm của tác phẩm. Đọc truyện, ta thấy Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc họa bằng ngòi bút thật trân trọng. Nàng đúng là mẫu người phụ nữ lý tưởng theo quan niệm xã hội lúc bấy giờ. Thế mà sự mất mát và đớn đau của nàng quá lớn, người mẹ đáng thương ấy phải mãi mãi xa lìa đứa con thơ dại, người vợ thục hiền giờ phải mãi mãi xa lìa người chồng mà nàng đã nguyện với lòng suốt đời chung thủy, gắn bó. Bao nhiêu cố gắng của người đàn bà bất hạnh hầu giữ gìn lấy hạnh phúc đều vô vọng, hạnh phúc đã rời khỏi đời nàng. Ai trong chúng ta không cảm thấy xốn xang nhức nhối khi nghe vọng lại lời thề nguyền thống thiết của nàng trước trời cao sông thẳm! Thiết nghĩ nếu nhà văn thiếu đi chữ tâm trên từng trang sách thì câu chuyện về người thiếu phụ bất hạnh của Nguyễn Dữ đâu có thể làm day dứt xốn xang lòng người đọc đến thế. B. KẾT BÀI 1: Mặc dầu truyện còn phảng phất không khí thần linh, sử dụng văn biền ngẫu nhưng với cách tạo bố cục truyện bất ngờ, lý thú, tác phẩm đã làm sống dậy hình ảnh người phụ nữ trong quá khứ với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời thật bấp bênh, oan trái. Hiện thực đời sống xã hội cùng trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của Nguyễn Dữ đã làm nên cái hay cái đẹp của “ Chuyện Người con gái Nam Xương”. Tấm lòng và nỗi oan của người thiếu phụ đã làm rơi nước mắt của người Việt Nam trong mấy trăm năm qua. Đọc lại truyện ngắn đặc sắc của tập truyện được mệnh danh là “ thiên cổ kì bút”, ta vừa thương cảm cho “người đàn bà hôm qua”(Lưu Trọng Lư) vừa cảm thấy tự hào hơn về người phụ nữ ngày nay. Họ không còn phải chịu đựng nỗi oan như nỗi oan Thị Kính, không còn là những hòn đá vọng phu mà là những người phụ nữ “khỏe mạnh, lành mạnh”( Nguyễn Tuân) vừa đảm đang, thương chồng, thương con vừa yêu nước… KẾT BÀI 2: Hình ảnh người phụ nữ phong kiến xưa kia là thế đó. Dịu dàng, xinh đẹp nhưng cũng thật là đắng cay. Nhân vật Vũ Nương trong truyện người con gái Nam Xương là như thế. Là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na đức hạnh nhưng hạnh phúc đối với nàng thật mỏng manh. Cuộc đời đấy bất hạnh và oan khổ của nàng đã gợi biết bao suy nghĩ cho người đọc từ xưa đến nay. .................------ ............... CẢM NHẬN ĐOẠN TRÍCH “CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG A. MỞ BÀI: Là một nhà văn rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất Nam bộ, truyện Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Tác phẩm của ông thường có cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống khá bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lí. Những đặc điểm nêu trên có thể thấy rõ trong truyện “Chiếc lược ngà”. Truyện được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt – khá tiêu biểu cho bút pháp của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông sáu và tình nghĩa đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ. Qua đó, tác giả nhằm khẳng định và ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. B. THÂN BÀI: 1. Tóm lược truyện: Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo dài trên mặt làm ba em không giống với người trong bức ảnh chụp mà em đã biết. Em đối xử với ba như với người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho người bạn nhờ trao lại cho đứa con gái yêu..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2. Giá trị nội dung: a. Truyện đã thể hiện tình phụ tử sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống: Đó là tình huống hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu đối với người cha của mình. Tình huống còn lại xoay quanh sự việc ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho đứa con gái. Tình huống thứ hai biểu lộ tình cảm sâu sắc của ông Sáu – của người cha đối với đứa con gái bé bỏng của mình. b. Cảm nhận về nhân vật bé Thu: Thái độ và hành động của Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha: - Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lãng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con càng tỏ ra ngờ vực, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động: hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu, chỉ gọi trống không với ông mà không chịu gọi ba, nhất định không chịu nhờ ông chắt nước nồi cơm to đang sôi, hất cái trứng cá mà ông gắp cho, cuối cùng khi bị ông Sáu đánh cho một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xuồng rổn rảng thật to. - Việc cô bé nói năng cộc lốc, cư xử vùng vằng, thái độ ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của cuộc đời và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường, nên nó không tin ông Sáu là ba nó vì trên mặt ông so với hình ba nó chụp với má nó thì có thêm vết sẹo. Phản ứng tâm lí của em hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc chân thật, em chỉ yêu ông Sáu – ba của em – khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái “cứng đầu” của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha “khác” – người cha trong tấm hình chụp chung với má em. Thái độ và hành động của Thu khi nhận ra người cha: - Tình cảm cha con tưởng chừng không hình thành được. Thế mà trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Khi nhìn thẳng, đối diện với cha “đôi mắt mênh mông của con bé bổng xôn xao. Đằng sau đôi mắt mênh mông ấy, chắc đang xáo động biết bao ý nghĩ, tình cảm. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi “ba” và tiếng kêu như xé, rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt cổ ba nó”, “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”, “hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Chắc cô bé khóc. Phải chăng lúc ấy Thu thấy xót xa ân hận về lỗi lầm của mình, thực sự thấy xót thương cho người cha đau khổ? - Trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà ngoại giải thích về vết sẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Vì thế trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Vì vậy, Thu cố siết cổ cha, cấu chặt lấy người cha như muốn đền bù những lỗi lầm đã qua. Nhà văn không viết nhiều, song chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy đủ cho chúng ta xúc động trước nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật. Nỗi niềm, tâm trạng ấy trong trẻo, chân thành biết bao. Vì thế khi thấu tỏ nguyên cớ khiến bé Thu ương ngạnh, chưa chịu nhận ông Sáu là cha, mọi người và bạn đọc chúng ta có thể lượng thứ cho Thu. Trong tâm hồn cô bé tám tuổi ấy, người cha đẹp lắm, trẻ lắm. Giờ đây cô lại vỡ ra thêm một vẻ đẹp nữa: cha cô sống gian khổ và thật anh hùng. Cái giây phút “vỡ” ra ấy được nhà văn miêu tả bằng một đoạn văn thật đặc sắc. Tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó...Nó chạy thót lên và dang tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Dường như, từ giờ phút thức tỉnh đó, Thu bắt đầu một giai đoạn sống khác. Cô bé không chỉ yêu cha mà còn thương cha, tự hào về cha. Tình yêu thương và niềm tự hào ấy, phải chăng đã trở thành sức mạnh hôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành? Chứng kiến những tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì thấy “như có bàn tay ai nắm lấy trái tim, mình” c. Cảm nhận về nhân vật ông Sáu:.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> - Vì cuộc chiến đấu của dân tộc, ông đã mang vết sẹo trên mặt, đã hi sinh vẻ đẹp của thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau tinh thần: đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông là cha, không một lời gọi “Ba”. Cho đến phút cuối cùng trước khi chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc của một người cha. Nhưng phút giây ấy quá ngắn ngủi. Ông Sáu cũng đâu ngờ rằng giây phút “nhận nhau” đầu tiên của hai cha con cũng là giây phút cuối cùng được gặp con. - Mang lời hẹn ước của con gái ra đi, khi đã kiếm được khúc ngà, ông đã vô cùng vui mừng, sung sướng rồi dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược, người cha ấy đã miệt mài, say sưa cưa, dũa thận trọng, tỉ mỉ như một nghệ nhân: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc” và trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. “Cây lược nhỏ xinh chưa kịp chải mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng” của ông. Nó trở thành vật thiêng liêng, quý giá, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ, song người đọc cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy, mỗi ngày một đẹp lên, trắng ngà, anh ánh, tỏa sáng lung linh. Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con ông Sáu và bé Thu. Do đó, khi biết sắp vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn, như một cử chỉ chuyển giao sự sống, chuyển giao tình yêu thương phụ tử thiêng liêng, một ước nguyện muôn đời gìn giữ tình cảm cha con ruột thịt. Đúng như ông Ba – người kể chuyện nói : “Chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Chiếc lược ngà đã tìm đúng địa chỉ, trao lại cho người con gái để “tình cha con không chết”! Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong cái sự sống của người đồng chí già. Người cha ấy đã ngã xuống trong lặng thầm, không một lời trăn trối, không một nấm mồ, không một bia mộ. “Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật, cũng đành một lẽ, còn người chết cũng phải chết bí mật nữa!”. Lời của ông Ba nói với đồng đội khi kể chuyện, hay đấy chính là lời nhắn nhủ thiêng liêng của ông Sáu gửi lại người ruột thịt, gửi lại chúng ta? Sống rồi hi sinh, khổ đau và lặng lẽ, song người chiến sĩ ấy vẫn không mất đi trong tâm khảm của người con, trong suy nghĩ của đồng đội và cả độc giả chúng ta. - Câu chuyện “Chiếc lược ngà” không chỉ làm nổi bậc tình cảm cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. 3. Giá trị nghệ thuật: Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện “Chiếc lược ngà” cũng như khá nhiều truyện của Nguyễn Quang Sáng là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lí: bé Thu không nhận ra cha khi ông Sáu về thăm nhà, sau đó cô bé lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy xúc động với người cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ còn gây được hứng thú cho người đọc khi hiểu được tính hợp lí của các sự việc, hành động bề ngoài có vẻ mâu thuẫn. Ở phần sau của truyện, tác giả còn tạo thêm bất ngờ nữa, đó là cuộc gặp gỡ tình cờ của nhân vật người kể chuyện – ông Ba, người đồng đội của ông Sáu – với đứa con của người đồng đội đã mất – cô bé Thu ngày xưa – giờ trở thành một cô giao liên dũng cảm, thông minh, trong một lần ông cùng đoàn cán bộ đi theo đường dây giao liên vượt qua một đoạn nguy hiểm ở Đồng Tháp Mười và trao cây lược lại cho cô bé Thu. - Một yếu tố góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này là lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai trò một người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật. Đồng thời qua những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật kể chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa tư tưởng của truyện thêm sức thuyết phục.Truyện được trần thuật theo lời của người bạn ông Sáu, người đã chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao nhiêu xúc động ở nhân vật kể chuyện: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người. Nghe thật xót xa. Đó là tiếng “Ba” mà nó cố đè nén trong bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Lòng trắc ẩn , sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến ông bỗng thấy khó thở “như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình”. Chọn nhân vật kể như vậy khiến cho câu chuyện đáng tin cậy hơn. Người kể chuyện hoàn toàn chủ động điều chỉnh nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe: “Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy”, “Cây lược ngà chưa chải được mái tóc của con nhưng nó gỡ rối phần nào được tâm trạng của anh”..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Đó còn là nghệ thuật miêu tả tâm lý tuổi thơ đặc sắc, tinh tế. Tác giả đã khắc họa một số nét tính cách của Thu biểu hiện qua tâm lý và hành động. Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu vẫn còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Qua những diễn biến tâm lý của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến trân trọng những tình cảm trẻ thơ. - Nghệ thuật kể chuyện, dẫn truyện của tác giả thật thoải mái, tự nhiên với giọng thân mật, dân dã. Ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Quang Sáng gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam bộ. Gấp sách lại, câu chuyện về “Chiếc lược ngà”, mấy lời nói cuối cùng của ông Ba – giọng trầm ấm, khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Ông Ba, hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải, đã sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động đến như vậy! C. KẾT BÀI: Tóm lại, truyện đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu và tình nghĩa đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ. Qua đó, tác giả nhằm khẳng định và ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. Tất cả đã được thể hiện qua ngòi bút rất riêng của nhà văn Nam bộ Nguyễn Quang Sáng. Cụ thể đó là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé Thu, cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên của tác giả. Qua cuộc đời mỗi nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn khẳng định một điều có ý nghĩa hết sức thiêng liêng: trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống... mãi mãi bất diệt như chiếc lược ngà của bé Thu, không bao giờ có thể mất đi! ...oo... CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT BÉ THU TRONG ĐOẠN TRÍCH “CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG SÁNG A. MỞ BÀI: (Cách 1) Là một nhà văn rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất Nam bộ, truyện Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Tác phẩm của ông thường có cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống khá bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lý. Những đặc điểm nêu trên có thể thấy rõ trong truyện “Chiếc lược ngà”. Truyện được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam bộ trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt – khá tiêu biểu cho bút pháp truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu và tình nghĩa đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ. Đọc truyện, chúng ta làm sao có thể quên được hình ảnh bé Thu – một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ và có tình yêu thương cha sâu đậm. (Cách 2) Chiến tranh từ bao đời nay luôn đồng nghĩa với chia ly, mất mát, đau thương, đổ vỡ, tàn phá, nước mắt... Cũng viết về đề tài quen thuộc ấy, nhà văn Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ góp thêm một tiếng nói tố cáo tội ác của bọn xâm lược Mỹ mà còn đem đến cho chúng ta sự rung động về một đề tài rất hạn hữu: tình cha con. Có thể nói hình ảnh cô bé Thu hồn nhiên, ương bướng, ngang ngạnh, có tình yêu thương cha rất mực, một cô giao liên thông minh gan dạ sau này đã để lại nhiều thiện cảm trong lòng độc giả. B. THÂN BÀI: 1. Sơ lược tác phẩm:( ở phần trên) 2. Cảm nhận về nhân vật bé Thu: Trước hết, đọc đoạn trích ta thấy bé Thu là một đứa trẻ hồn nhiên thơ dại nhưng có cá tính mạnh mẽ. Qua lời dẫn truyện của tác giả, ta thấy hiện lên hình ảnh “một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà”. Gặp người đàn ông xa lạ cứ nhận là ba của mình, bé tỏ ra ngờ vực, lảng tránh. Tâm lý và thái độ ấy của Thu đã.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động: hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu. Trong những ngày ông Sáu ở nhà nghỉ phép, bé nhất định chỉ gọi trống không mà không chịu nhận ông Sáu là cha; nhất định không chịu nhờ ông chắt nước trong nồi cơm to đang sôi, hất cái trứng cá mà ông gắp cho; cuối cùng khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xuồng kêu rổn rảng thật to. Những biểu hiện ấy đủ thấy em ương ngạnh biết bao! Chúng ta vẫn tự hỏi: Tại sao Thu cố chấp vậy? Không tin rằng đó là ba mình khi mà cả bác Ba, cả mẹ - những người mà Thu tin tưởng nhất đều khẳng định đó là ba Thu? Việc cô nói năng cộc lốc, cư xử vùng vằng, thái độ ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Bé không tin ông Sáu là ba nó chỉ vì trên mặt ông có thêm vết sẹo, khác với hình ba mà nó đã được biết. Phản ứng tâm lý của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái “cứng đầu” của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh của một đứa trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha “khác” – người trong tấm hình chụp chung với má em. Dõi theo tác phẩm, ta thấy bé Thu còn là một đứa trẻ có tình yêu thương cha sâu đậm. Trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà ngoại giải thích về vết sẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Thế nên trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Khi nhìn thẳng, đối diện với cha, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt mênh mông ấy, chắc đang xáo động biết bao ý nghĩ, tình cảm. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi “ba” và tiếng kêu như tiếng xé, rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “Nó hôn ba nó khắp cùng. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Chắc cô bé khóc. Phải chăng lúc ấy Thu thực sự thấy xót xa ân hận về lỗi lầm của mình, thực sự thấy xót thương người cha đau khổ? Nhà văn không viết nhiều, song chỉ bằng một vài chi tiết nhỏ ấy, đủ cho chúng ta xúc động trước những nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật. Nỗi niềm, tâm trạng ấy trong trẻo, chân thành xiết bao! Vì thế, khi thấu tỏ nguyên cớ khiến bé Thu ương ngạnh, chưa chịu nhận ông Sáu là cha, mọi người và bạn đọc chúng ta đều có thể cảm thông và lượng thứ cho Thu. Trong tâm hồn cô bé tám tuổi ấy, người cha đẹp lắm, trẻ lắm. Giờ đây, cô lại vỡ ra thêm một vẻ đẹp nữa là: cha cô sống gian khổ và thật anh hùng. Cái giây phút “vỡ” ra ấy của nhân vật được nhà văn miêu tả bằng một đoạn văn thật đặc sắc “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa... Tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó... Nó chạy thót lên và dang tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Dường như, từ giờ phút thức tỉnh đó, Thu bắt đầu một giai đoạn sống khác. Cô bé không chỉ yêu cha mà còn thương cha, tự hào về cha. Tình yêu và niềm tự hào ấy, phải chăng đã trở thành sức mạnh thôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành? Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy “như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình”. 3. Đánh giá chung: - Đọc đoạn trích chúng ta cảm thấy như vui buồn cùng các nhân vật. Đáng yêu làm sao hình ảnh một bé Thu hồn nhiên thơ dại. Tình cảm của Thu dành cho ba sâu sắc và cảm động biết dường nào!... - Qua những diễn biến tâm lý của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả rỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến trân trọng những tình cảm trẻ thơ. Phải là người từng trải, đã sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn Nguyễn Quang Sáng mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động đến như vậy! 4. Giá trị nghệ thuật: Truyện còn lôi cuốn độc giả bởi nghệ thuật viết truyện ngắn vững vàng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện “Chiếc lược ngà” cũng như khá nhiều truyện của Nguyễn Quang Sáng là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những tình huống bất ngờ nhưng hợp lý: bé Thu không nhận ra cha khi ông Sáu về thăm nhà, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy xúc động với người cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ càng.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> gây được hứng thú cho người đọc khi hiểu được tính hợp lý của các sự việc, hành động bề ngoài có vẻ mâu thuẫn. Đó còn là nghệ thuật miêu tả tâm lí tuổi thơ đặc sắc, tinh tế. Tác giả đã khắc họa một số nét tính cách của bé Thu biểu hiện qua tâm lí và hành động. Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu vẫn còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức gần như ương nghạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả những nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. C. KẾT BÀI: Tóm lại, qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé Thu, cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên của tác giả, truyện ngắn nói chung, đoạn trích nói riêng đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ. Qua đó tác giả nhằm khẳng định và ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng như như một già trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong cảnh ngộ khó khăn. Đọc đoạn trích ta còn thấy yêu làm sao một cô bé Thu hồn nhiên bướng bỉnh, một cô giao liên dũng cảm, thông minh sau này. Cảm động thay tình cha con ấm nồng sâu nặng của hai thế hệ cùng đi trên một con đường Cách mạng. ...oo... CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT ÔNG SÁU TRONG ĐOẠN TRÍCH “CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG SÁNG A. MỞ BÀI: Cách 1: là một nhà văn rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất Nam bộ, truyện Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Tác phẩm của ông thường có cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống khá bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lí. Những đặc điểm nêu trên có thể thấy rõ trong truyện “Chiếc lược ngà”. Truyện được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra ác liệt – khá tiêu biểu cho bút pháp truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu và tình nghĩa đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ. Đọc truyện chúng ta có thể làm sao quên được hình ảnh ông Sáu – một người cha có tình yêu thương con sâu đậm. Cách 2: Chiến tranh từ bao đời nay luôn đồng nghĩa với chia li, mất mát, đau thương, đỗ vỡ, tàn phá, nước mắt,...Cũng viết về đề tài quen thuộc ấy, nhà văn Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ góp thêm một tiếng nói tố cáo tội ác của bọn xâm lược Mĩ mà còn đem lại cho chúng ta sự rung động về một đề tài rất hạn hữu: tình cha con.Tình cảm ấy đã được tác giả gửi gắm qua việc xây dựng nhân vật ông Sáu – một người cha có tình yêu thương con sâu đậm. B. THÂN BÀI: 1. Sơ lược tác phẩm:( xem phần trên). 2. Cảm nhận về nhân vật ông Sáu: - Đọc đoạn trích “Chiếc lược ngà”, ta thấy đáng yêu làm sao hình ảnh một bé Thu hồn nhiên thơ dại nhưng cò tình cảm dành cho người cha thật sâu sắc ấm nồng!...Bên cạnh nhân vật bé Thu, truyện còn để lại trong ta sự xúc động trước tình yêu thương con da diết của nhân vật ông Sáu. - Vì cuộc chiến đấu của dân tộc, ông đã mang vết sẹo trên mặt, đã hi sinh vẻ đẹp của một thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau tinh thần: Đứa con gái duy nhất, ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông là cha, không một lời gọi “Ba”. Nhà văn tỏ ra sắc sảo khi khắc họa các chi tiết “Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi”. Đọc giả chúng ta làm sao không chia sẻ với người cha đang trong tâm trạng ấy. Chính vì vậy, ta càng thông cảm hơn là trách ông khi ông không nén được cơn tức giận đã “vung tay” đánh con mà lòng đau như cắt và hành động “không kịp suy nghĩ” ấy nó cứ “giày vò anh” khi người cha ấy trở về đơn vị. Tình yêu thương con của ông Sáu thẳm sâu biết nhường nào! - Cho đến phút cuối cùng trước lúc chia tay, ông nhìn con “với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu”. Khi nghe tiếng kêu “Ba” của con và cử chỉ chạy xô tới và cảm nhận đôi bàn tay nhỏ bé của con đang ôm chặt lấy cổ mình, ông Sáu đã “không ghìm được xúc động” và “một tay ôm con, một tay kia rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Cái giây phút “vỡ” ra ấy của nhân vật được nhà văn miêu tả.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> bằng một đoạn văn thật đặc sắc. Chúng kiến những biểu hiện tình cảm trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như “có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình”. Giờ đây ông mới được hưởng hạnh phúc của một người cha. Nhưng phút giây ấy ngắn ngủi quá.Ông Sáu đâu ngờ rằng cuộc chia tay ấy là lần cuối cùng được gặp con. - Mang lời hẹn ước của con gái ra đi, khi kiếm được khúc ngà, ông đã vô cùng vui mừng, sung sướng rồi dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược ngà. Người cha ấy đã miệt mài say sưa, cưa, dũa thận trọng, tỉ mỉ như một nghệ nhân: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc” và trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. “Cây lược nhỏ xinh chưa kịp chải mái tóc của con, nhưng nó như phần nào gỡ rối được tâm trạng” của ông. Nó trở thành vật thiêng liêng, quý giá, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ, song người đọc vẫn hình dung được cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy mỗi ngày một đẹp lên, trắng ngà, anh ánh, tỏa sáng lung linh. Đó là biểu tưởng trắng trong quý giá, bất diệt của tình cha con ông Sáu và bé Thu. Do đó, khi biết sắp vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn, như một cử chỉ chuyển giao sự sống, chuyển giao tình yêu thương phụ tử thiêng liêng, một ước nguyện muôn đời gìn giữ tình cảm cha con ruột thịt. Đúng như ông Ba – người kể chuyện nói : “Chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Chiếc lược ngà đã tìm đúng địa chỉ, trao lại cho người con gái để “tình cha con không chết”! Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong cái sự sống của người đồng chí già. Người cha ấy đã ngã xuống trong lặng thầm, không một lời trăn trối, không một nấm mồ, không một bia mộ. “Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật, cũng đành một lẽ, còn người chết cũng phải chết bí mật nữa!”. Lời của ông Ba nói với đồng đội khi kể chuyện, hay đấy chính là lời nhắn nhủ thiêng liêng của ông Sáu gửi lại người ruột thịt, gửi lại chúng ta? 3. Đánh giá chung về nhân vật: - Có thể nói hình ảnh ông Sáu trong đoạn trích được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút thật trân trọng. Tình cảm của ông Sáu dành cho con sâu sắc và cảm động biết dường nào! Sống rồi hi sinh, khổ đau và lặng lẽ, song người chiến sĩ ấy vẫn không mất đi trong tâm khảm của người con, trong suy nghĩ của đồng đội và cả độc giả chúng ta. - Thiết nghĩ, phải là người từng trải, sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê hương giàu tình nghĩ, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn Nguyễn Quang Sáng mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động bất ngờ, có giọng văn dung dị và cảm động đến như vậy! - Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ làm nổi bậc tình cảm cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. 4. Giá trị nghệ thuật: - Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện “Chiếc lược ngà” cũng như khá nhiều truyện của Nguyễn Quang Sáng là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lí. - Nghệ thuật kể chuyện, dẫn truyện của tác giả thật thoải mái, tự nhiên với giọng thân mật, dân dã. Ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Quang Sáng gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam bộ. - Một yếu tố góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này là lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai trò một người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật. Đồng thời qua những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật kể chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa tư tưởng của truyện thêm sức thuyết phục.Chọn nhân vật kể như vậy khiến cho câu chuyện đáng tin cậy hơn. Người kể chuyện hoàn toàn chủ động điều chỉnh nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe: “Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy”, “Cây lược ngà chư chải được mái tóc của con nhưng nó gỡ rối phần nào được tâm trạng của anh”. C.KẾT BÀI: Tóm lại, qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé Thu, cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên của tác giả, truyện ngắn nói chung, đoạn trích nói riêng đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của hai cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> tranh ác liệt thời chống Mĩ. Qua đó tác giả nhằm khẳng định và ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng như như một già trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong cảnh ngộ khó khăn. Gấp lại trang truyện, hình ảnh ông Sáu hớn hở chạy từ rừng sâu trở về, tay cầm chiếc lược ngà và dáng điệu người cha tẩn mẩn làm kỉ vật cho con vẫn vấn vương mãi trong tâm trí chúng ta..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Dàn ý A. Mở bài: Nguyễn Quang Sáng là nhà văn đã tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc. Với cách viết dung dị, mộc mạc, các sáng tác của ông tập trung thể hiện vẻ đẹp về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh cũng như hòa bình. Có thể coi (Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà viết trong thời chống Mĩ cứu nước. Truyện đã để lại nhiều suy nghĩ sâu sắc cho người đọc về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh. B. Thân bài: 1. Trình bày xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt truyện và nêu chủ đề: “Chiếc lược ngà được viết 1966, tại chiến trường Nam Bộ, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Đây là một câu chuyện cảm động về tình cha con, đồng chí sâu nặng. Tóm tắt ngắn gọn truyện ngắn. 2. Suy nghĩ về tình cảm gia đình trong chiến tranh: a. Chiến tranh là tổn thương tình cảm gia đình. Tình vợ chồng: suốt mấy năm chồng đi kháng chiến, vợ chồng ông Sáu chỉ gặp nhau có mấy lần, những lần đi thăm rất khí khăn (qua rừng, xa xôi,…), mỗi lần chỉ gặp nhau vài ngày họ sống trong nhờ thương, chờ đợi. Tình cha con: Sau tám năm xa cách, bé Thu không nhận cha: Lúc mới gặp ông Sáu, “con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng” nhìn vết thẹo dài trên má ông Sáu nó càng hoảng hốt, sợ hãi “mặt nó tái đi, vụt chạy rồi kêu thét lên”. Suốt ba ngày, con bé bộc lộ sự bướng bỉnh, nhất quyết không gọi ông Sáu bằng ba, chỉ nói trổng (khi mời ông Sáu ăn cơm, khi muốn nhờ ông chắt nước…). Hất văng ra khỏi chén cái trứng cá ông Sáu gắp cho bị ông Sáu đánh nó bỏ sang nhà bà ngoại. Bé Thu bộc lộ sự ương ngạnh, bướng bỉnh vừa đáng giận vừa đáng thương nhưng không đáng trách. Nguyên nhân: bé không nhận ông Sáu là ba vì ông Sáu có vết thẹo trên mặt “không giống cái hình ba chụp với má”. Với lứa tuổi của mình, Thu không thể hiểu những tình thế éo le, khắc nghiệt của chiến tranh. Vậy mà, vết sẹo chiến tranh hằn trên gương mặt ông Sáu đã làm tâm hồn Thu rướm máu hậu quả mà chiến tranh gây ra khiến con người xót xa. Ông Sáu rất đau lòng, thất vọng vì bé Thu không nhận mình: Xuồng chưa cặp bến, ông Sáu đã nhảy lên bờ gọi, đưa tay đón con, rất xúc động làm vết thẹo đỏ ửng giần giật, “giọng lập bập, run run”. Khi bé Thu chạy vụt đi, thét lên hoảng hốt, sợ hãi… “nỗi đau đớn khiến mặt anh tối sầm lại trông rất đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày phép, càng muốn gần gũi, yêu thương con, bé Thu càng lẫn tránh, lạnh lùng, vô lễ ông càng đau khổ hơn (năm mới được gặp con, những ngày phép ngắn dần mà con không chịu nhận ba, không một lần được ôm con trìu mến…) b. Chiến tranh không thể hủy diệt tình cảm gia đình: Tình vợ chồng: Bà Sáu vẫn vượt đường xa, nguy hiểm đến thăm chồng; khi ông Sáu về phép, bà lo lắng chăm sóc cho chồng (lo chuẩn bị đồ đạc, xếp từng chiếc áo,…) Tình cha con: Tình cảm thắm thiết mà ông Sáu dành cho con: Trong chuyến về phép thăm nhà: rất thương nhớ con lúc ở xa (lần nào cũng bảo vợ đưa con lên, đến lúc được về cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh); lúc mới thấy con: rất xúc động(giọng run run, vết sẹo đỏ giần giật…); luôn cố gắng kiềm chế nỗi bực dọc ngay cả khi con vô lễ; lúc chia tay, ông Sáu muốn ôm hôn con sợ con không chịu, ông chỉ nhìn con bằng đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu” khi Thu nhận cha, ông Sáu đã khóc vì sung sướng và xúc động. Lúc ở rừng, tại khu căn cứ: ông Sáu sung sướng khi tìm được khúc ngà( “hớt hải chạy về”, “hớn hở như trẻ con được quà”); lúc rỗi ông “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> người thợ bạc”, khắc hàng chữ nhỏ với bao tình cảm “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” lúc nhớ con, “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”, có cây lược ông càng mong gặp con. Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con vẫn da diết “không đủ sức trăn trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được” gửi cây lược cho đồng đội nhờ đưa cho con, lúc ấy mới nhắm mắt xuôi tay. Tình cảm bé Thu đối với cha: Trước lúc ông Sáu đi, ba gọi tiếng ba đầu tiên, xé lòng như thét lên (Ba…a…a… Ba!) tiếng “ba” mà nó cố đèn nén trong bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung từ đáy lòng nó. Nó vừa kêu “vừa chạy xô tới”, “dang tay ôm chặt cổ, nó hôn ba nó cùng khắp, nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”, “dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu máu với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba” bé Thu đã hiểu, muốn bù đắp tình cảm những ngày qua tình cảm với cha rất mãnh liệt. 3. Nhận xét đánh giá: Qua “Chiếc lược ngà”, người đọc nhận ra hậu quả tinh thần không nhỏ mà chiến tranh gây ra. Nó phần nào làm sứt mẻ, mất mát tình cảm gia đình, là niềm đau nhức nhối, dai dẳng trong lòng con người.Đây là đóng góp quan trọng của tác giả. Truyện còn giúp người đọc nhận ra đời sống tình cảm mãnh liệt của con người Việt Nam,vẻ đẹp tâm hồn. Chiến tranh dù khốc liệt đến đâu cũng không hủy diệt được tình cảm gia đình, tình cảm con người. 4. Nghệ thuật: Để thực hiện những điều trên, nhà văn đã sử dụng: tình huống độc đáo (cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, bé Thu không nhận cha. Lúc nhận ra thì ông Sáu lại phải ra đi (tình huống cơ bản). Ở khu căn cứ, ông dồn hết tình cảm thương nhờ con vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con nhưng ông đã hy sinh khi chưa kịp trao cho con món quà ấy. Xây dựng nhân vật khá thành công (bé Thu hiện lên đặc sắc, cụ thể, sinh động, tính cánh nhất quán, mạnh mẽ: cứng cỏi, ương ngạnh nhưng hồn nhiên, ngây thơ, chân thành, mãnh liệt trong tình cảm; ông Sáu chân thành, sâu sắc rất mực yêu thương con và là một chiến sĩ kiên cường, giàu lòng yêu nước); chi tiết chiếc lược ngà đã nối kết hai cha con trong sự xa cách ngay cả khi ông đã hi sinh, là hiện thân của tình yêu thương, nỗi mong nhớ của ông Sáu với con và nó trở thành kỉ vật của tình cha con sâu nặng. Câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất, người kể xưng “tôi” có mặt và chứng kiến toàn bộ câu chuyện có tác dụng rõ rệt trong việc vừa kể chuyện vừa bày tỏ sự đồng cảm với các nhân vật và thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. C. Kết bài: Tác giả đã thể hiện thành công đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh. Đó là tình cha con (chủ yếu), tình vợ chồng thắm thiết gợi nhiều xúc động, suy nghĩ về tình cảm con người trong chiến tranh. Qua tác phẩm, người đọc hiểu thêm về chiến tranh và tình cảm con người trong chiến tranh. Thấy được tài năng của nhà văn. ...oo... ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ A. MỞ BÀI:Bài thơ: Được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế ở Hồng Gai của nhà thơ. Khắc hoạ cảnh tượng đoàn thuyền đánh cá làm việc trong đêm tối. Ngợi ca sự giàu đẹp của biển quê hương và của những người lao động mới. B. THÂN BÀI: 1.Khổ 1: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” - Cảnh hoàng hôn trên biển: diễm lệ, huy hoàng, hùng vĩ đầy sức sống..
<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Biện pháp so sánh “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa” vẽ lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ vào lúc chiều tàn. - Liên tưởng nhân hoá: “cài”, “sập” => thiên nhiên như con người. - Từ “lại”: sự tiếp diễn liên tục của nhịp điệu lao động => qua đó nói lên sự yên bình, ổn định. Khi vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì lại là lúc con người bắt đầu một ngày lao động mới. “Câu hát” vút cao thể hiện niềm phấn khởi, lạc quan, đồng thời biểu hiện sự khoẻ khoắn của những người lao động: câu hát có thể làm “căng buồm” Chi tiết lãng mạn độc đáo :tình yêu lao động, sự hăng hái hứng khởi của người lao động. Hai câu đầu sử dụng nhiều thanh trắc: sự mạnh mẽ, vội vàng. Hai câu sau sử dụng nhiều thanh bằng: yên bình, thư thả của con người trước một ngày lao động mới. 2.Khổ 2: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi !” - Thể hiện tâm tư của người lao động qua lời ca của họ: - Yêu vẻ đẹp của biển: so sánh hình ảnh đoàn cá thu lướt nhanh trên biển như những con thoi chạy ngang dọc trên tấm vải là biển => sự liên tưởng thú vị, sáng tạo. - Thán phục sự giàu có của biển: “cá bạc biển Đông lặng”, “cá thu”, “dệt biển”, “muôn luồng sáng”Hình ảnh ẩn dụ đã tạo sự độc đáo của hình ảnh thơ, dấu hai chấm tỏ ý liệt kê về sự giàu có của biển. - Mong muốn đánh được nhiều cá: “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” -> câu hát như một lời tâm tình thiết tha. Nhịp thơ sôi nổi, hào hứng, ngân dài, vang xa tâm trạng sảng khoái say sưa của những con người làm việc với tất cả tình yêu lao động, yêu biển, yêu nghề yếu tố tạo nên cái phơi phới của đoàn thuyền. 3.Khổ 3: Đoàn thuyền lướt đi giữa trùng khơi: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” - Bút pháp lãng mạn, sự tưởng tượng phong phú: trăng làm “cánh buồm”, gió làm “bánh lái” →Sự hoà hợp giữa thiên nhiên và con người. - Chữ “lướt” đặc tả cảnh đoàn thuyền ra khơi với tốc độ nhanh. Hình ảnh đoàn thuyền hiện lên lớn lao ngang tầm với vũ trụ. - Hình ảnh “dò bụng biển” và “Dàn đan thế trận” nói lên sự vất vả, nguy hiểm của ngư dân đồng thời thể hiện tinh thần lao động hăng say nghiêm túc. - Nhịp thơ hối hả, lôi cuốn gợi nên cảnh lao động vất vả. 4.Khổ 4: Biển quê hương giàu đẹp: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” - Biện pháp liệt kê đã diễn tả sự phong phú, giàu có của biển: cá nhụ, cá chim,… - Nghệ thuật phối sắc tài tình: “đuốc đen hồng”, “trăng vàng chóe” tứ thơ đẹp như bức tranh. - Đại từ “em” thể hiện sự trân trọng, yêu mến sản vật quê hương. - Hình ảnh “đêm thở” và “sao lùa nước” gợi nên cảnh đẹp lung linh của biển. Đây còn là sự liên tưởng độc đáo: ánh sao in xuống nước, sóng đẩy vào mạn thuyền tạo nên cảnh “sao lùa nước” và tưởng như đêm đang “thở” biển và đêm như con người. Tình yêu biển sâu sắc. 5. Khổ 5: Cảnh bắt cá trên biển: Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào - Tiếng hát lại vang lên làm cho công việc bớt phần mệt nhọc..
<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Bút pháp lãng mạn “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”: Ánh trăng in xuống nước, sóng nhịp nhàng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạng thuyền tạo thành hình ảnh muôn ngàn ánh vàng tan theo làn nước vỗ vào mạn thuyền, tác giả liên tưởng trăng gõ thuyền gọi cá vào sự liên tưởng thú vị, độc đáo và lãng mạn. Ánh trăng hiền hòa dịu mát cứ trở đi trở lại như bầu bạn, chia sẻ với con người trong lao động mệt nhọc. - Tác giả so sánh lòng biển “như lòng mẹ” và nhân hoá biển “nuôi lớn đời ta” đã thể hiện tình cảm yêu mến, tri ân của ngư dân đối với biển. Với họ, biển như người mẹ bao dung và hào phóng. - Âm điệu thơ trầm lắng, ngọt ngào, ấm áp, thiết tha như làn điệu dân ca. 6. Khổ 6: Sau một đêm lao động vất vả, những ngư dân đang thực hiện những thao tác cuối cùng để trở về: Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng - Đêm đã tàn “sao mờ” thôi thúc người lao động làm việc khẩn trương cho “kịp trời sáng”. Hình ảnh “kéo xoăn tay chùm cá nặng” đã miêu tả công việc lao động vất vả, cật lực nhưng tràn niềm vui vì được mùa. Đại từ “Ta” vang lên đầy kiêu hãnh. Nó khẳng định sự tự chủ của những con người sống trong tự do, khi đất nước sạch bóng quân thù. Đó còn là tiếng nói thân thương của cả một tập thể thống nhất bởi ở đây không đơn thuần chỉ là cái tôi mà ở đây là cả tập thể lớn mạnh đã hoà mình vào cái “ta” thống nhất. Hình ảnh “vẩy bạc đuôi vàng” góp phần tô điểm cho cảnh sắc thiên nhiên và bộc lộ niềm hân hoan của dân chài trước những thành quả thu được. “Nắng hồng”: vẻ đẹp của bầu trời hay màu hồng của một ngày mới, cuộc đời mới. Nhịp thơ nhanh gọn khắc họa rõ nét thao tác nhịp nhàng, thành thạo của những ngư dân. 7. Khổ cuối: Đoàn thuyền trở về trong niềm hân hoan: Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi Câu hát: xuyên suốt bài thơ (xem hình ảnh “câu hát” ở khổ thơ 1) Đoàn thuyền trở về với hình ảnh “Mặt trời đội biển muôn màu mới” thật hùng vĩ. Thủ pháp nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” chạy đua với thời gian, sự khẩn trương của con người : gợi nên cảnh trở về phơi phới niềm vui. “Màu mới”: + Màu của thời gian. + Màu của cuộc sống mới trên đất Bắc khi không còn bóng quân thù. Khổ thơ vẽ ra cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân vùng biển. Khổ thơ như một điệp khúc của bài ca lao động vang lên từ nhịp sống khẩn trương của những con người làm chủ đất nước. C.KẾT BÀI: Bài thơ: - Như một bài hát yêu đời - Ngợi ca lao động. - Ngợi ca sự giàu có của biển quê hương. - Thể hiện tình yêu biển sâu sắc của ngư dân, đồng thời cũng nói lên tình yêu biển của tác giả. BÀI LÀM THAM KHẢO A. MỞ BÀI: Nhắc đến Huy Cận, người ta liên tưởng ngay đến nhà thơ của vũ trụ, của thiên nhiên. Nhưng thơ ông trước Cách Mạng Tháng Tám lại thấm đẫm nỗi buồn. Sau những ngày hòa bình được lập lại trên miền Bắc –thơ ông đã chuyển mình. Cũng cảm hứng lãng mạn nhưng thơ không xa rời thực tế mà gắn liền với cuộc sống của con người. ái nhìn của thi sĩ về thiên nhiên bỗng trở nên ấm áp và tràn đầy niềm tin yêu vào con người. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế ở Hòn Gai là một bằng chứng. Bài thơ đã khắc họa ảnh đoàn thuyền đánh cá làm việc cật lực trong đêm tối để từ đó tác giả kín đáo bộc lộ thái độ ngợi ca sự giàu đẹp của biển quê hương và vẻ đẹp của những người lao động mới..
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Có thể nói sự độc đáo trong bút pháp nghệ thuật và tư tưởng tình cảm của tác giả đã được thể hiện khá nét trong trong đoạn trích sau: “Trích dẫn đề” B. THÂN BÀI: Mở đầu bài thơ là cảnh tượng hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ huy hoàng, vừa hùng vĩ đầy sức sống: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa” Nghệ thuật liên tưởng và nhân hóa mà tác giả sử dụng ở đây thật độ đáo, đầy kì thú mới lạ. Nó không chỉ cuốn hút mà còn diễn tả cụ thể cảnh vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái ngơi nghỉ. Thanh trắc trong hai câu thơ đầu chiếm ưu thế cùng với động từ mạnh “cài”, “sập” dễ khiến cho chúng ta nghĩ đến cảnh cập rập chuẩn bị đi nghỉ của thiên nhiên… Cái quang cảnh kết thúc một chu kì thiên nhiên ấy là sự mở đầu cho một ngày lao động mới của con người: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Đây là sự ra đi đầy khí thế của một tập thể “đoàn thuyền”, không phải là một chiếc thuyền con hoặc vài ba chiếc thuyền lưa thưa rời rạc. Từ “lại” cho ta thấy đây là sự tiếp diễn nhịp điệu lao động của họ, cảnh ra khơi khi hoàng hôn xuống như thế này đã diễn ra thường xuyên trong nhiều đêm, đó là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định, đã đi vào nề nếp trong hòa bình. Hình ảnh những cách buồm căng lên vì no gió là chi tiết thực nhưng chi tiết “câu hát căng buồm” thì rõ ràng là hư ảo. Tuy vậy, chính chi tiết lãng mạn độc đáo ấy lại biểu hiện được khí thế mạnh mẽ của những con người trong lao động tập thể. Tiếng hát của họ vang xa, vút cao trên sóng nước mênh mông. Tiếng hát chính là sự thể hiện niềm vui, phấn khởi, niềm lạc quan tươi trẻ của những người ngư dân trên biển. Nếu như hai câu thơ đầu thanh trắc được sử dụng ưu thế thì ở hai câu sau, thanh bằng được mở ra như ngân nga, kéo dài…Sự đối lập về hình ảnh và nhạc điệu giúp người đọc phần nào hiểu được nỗi vất vả cực nhọc của công việc lưới chài về đêm.. Vẫn nhịp điệu sôi nổi, hào hứng, khổ thơ tiếp theo là nội dung lời bài hát thể hiện tâm tư người lao động cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn và là lời ca ngợi sự giàu có của biển cả: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Biển ta giàu có, đẹp đẽ, thân thiết với con người vì có nhiều cá. Tác giả đã ví đoàn cá thu lướt nhanh trên biển “như đoàn thoi”, từ đó tác giả liên tưởng đến tấm vải dệt là biển. Một hình ảnh đẹp và khoáng đạt biết bao! Từng đoàn cá như những con thoi chạy ngang dọc trên tấm vải là biển, tạo nên những luồng sáng lấp lánh giữa biển đêm. Yêu vẻ đẹp của biển, thán phục sự giàu có của biển, những người dân mong muốn đánh bắt được nhiều cá để phục vụ cho đất nước: “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”. Câu nói như một lời kêu gọi “đoàn cá” vào lưới nhưng cũng đồng thời là lời của những người ngư dân thúc giục nhau hãy nhanh tay lao động…Những hình ảnh “cá bạc”, “luồng sáng”, dệt lưới” là những hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tục thú vị về vẻ đẹp của thơ ca. Nhịp thơ đọc lên nghe sôi nổi, hào hứng, ngân dài, vang xa như chính tâm trạng sảng khoái, say sưa của những người làm việc với tất cả trí tuệ và tình yêu lao động, yêu biển, yêu nghề…Dường như đó chính là yếu tố tạo nên cái phơi phới của đoàn thuyền đang lướt đi giữa trùng khơi… Cảnh đoàn thuyền lướt đi giữa trùng khơi: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò dụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” Trong cảnh đêm tối đang lan dần, chúng ta thấy đoàn thuyền vẫn lướt đi nhẹ nhàng với “ánh trăng” làm cánh buồm, “gió làm bánh lái”. Bút pháp lãng mạn với những yếu tố tưởng tượng bất ngờ tạo cho ta một ấn tượng sâu sắc về sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Nếu ở khổ đầu ta bắt gặp ánh sáng của một buổi hàng hôn thì giờ đây khi màn đêm buông xuống, ánh sáng được tỏa chiếu từ ánh trăng. Hình ảnh đoàn thuyền hiện lên thật lớn lao ngang tầm với vũ trụ và chan hòa với trời nước bao la tuyệt đẹp. Công việc đánh bắt cá trở nên thơ mộng…Chúng ta như được cùng tác giả hòa nhập vào cái tâm trạng lâng lâng sảng khoái của những con người đang trong tư thế làm chủ vùng biển của đất nước. Chữ.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc nhanh, thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ đọc lên nghe hối hả, lôi cuốn. Nhưng rõ ràng đây không phải là cuộc du ngoạn bằng thuyền trên sông nước mà đây là cuộc chiến đấu thật sự để giành lấy từ thiên nhiên những tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ của con người: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” Những hình ảnh “dò bụng biển”, “dàn đan thế trận” như chứa đựng tất cả sự vất vả, hiểm nguy của những con người gắn bó suốt cuộc đời mình với ngư trường, với biển cả. Sự giàu đẹp của biển quê hương: “ Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long” Một loạt những hình ảnh liệt kê: “Cá nhụ, cá chim, cá song, cá đé” đã diễn tả sự phong phú giàu có của biển cả! Đó là cảnh đêm trăng trên biển lung linh lấp lánh ánh vàng do sự khuấy động của đàn cá. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Đại từ “em” thể hiện sự trân trọng, yêu mến sản vật quê hương, là sự gắn bó giữa con người và biển cả. Cảnh đẹp ban đêm còn được diễn tả bằng hình ảnh “sao lùa nước Hạ Long”. Sự tưởng tượng của tác giả thật phong phú và khá bất ngờ vì ánh sao in xuống nước, sóng đẩy vào mạn thuyền tạo nên cảnh “sao lùa nước”…khiến chúng ta có cảm giác như “đêm” đang “thở”. Trong cái hơi thở ấy có âm thanh của sóng, gió mà còn có cả hơi thở từ lồng ngực căng khỏe của những người ngư dân. Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của nước ta. Hạ Long mang một vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận với bút pháp lãng mạn đã tả cảnh đánh cá trên biển Hạ Long vào một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới có thể viết nên những vần thơ tuyệt bút như vậy. Cảnh đánh bắt cá trên biển: “Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” Tiếng hát vang lên đưa thuyền ra khơi, tiếng hát lại vang lên trong lúc lao động làm cho công việc bớt phần mệt nhọc. Ánh trăng in xuống nước, sóng nhịp nhàng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền tạo thành hình ảnh muôn ngàn ánh vàng tan theo làn sóng mà thi sĩ ngỡ là nhịp trăng cao đang gõ cá. Bút pháp lãng mạn được sử dụng ở đây đã góp phần làm đẹp thêm công việc đánh cá trên biển. Ánh trăng hiền hòa dịu mát cứ trở đi trở lại trong bài thơ như đứng về phía con người trong lao động, làm bạn với con người. “Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” Với nghệ thuật so sánh lòng biển “như lòng mẹ” cùng với bút pháp nhân hóa: biển “nuôi lớn đời ta”, tác giả đã thành công trong việc bộc lộ cách cảm, cách nghĩ của người dân chài. Theo họ, biển là bà mẹ bao dung và hào phóng, đang mở cả lòng ra để cho họ thật nhiều cá. Và cũng từ hai câu thơ này, ta phần nào hiểu thêm sự gắn bó thiêng liêng giữa biển và cuộc đời họ. Âm điệu thơ ở đây không sôi nổi, dứt khoát mạnh mẽ mà trầm lắng, ấm áp, ngọt ngào, da diết như làn điệu dân ca. Sau một đêm lao động vất vả, những ngư dân đang thực hiện các thao tác cuối cùng trước khi trở về đất liền: “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng…” Đêm đã tàn “sao mờ”, không gian và thời gian như thôi thúc người lao động làm việc nhanh gấp cho “kịp trời sáng”. Đại từ “ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh, nó không còn là cái tôi nhỏ bé đơn côi như những ngày xưa nữa mà là cái “ta” tập thể đầy sức mạnh. Hình ảnh “kéo xoăn tay” đã miêu tả động tác lao động vất vả, thái độ làm việc cật lực của những người ngư dân. Hình ảnh “chùm cá nặng” mang tính ẩn dụ thật độc đáo, trong hình ảnh đó chứa đựng biết bao niềm vui tươi, sảng khoái trước những thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được:.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Những “vẩy bạc đuôi vàng” của cá tô điểm cho cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, góp ánh sáng cho buổi rạng đông đồng thời cũng biểu hiện tâm hồn rạng rỡ hân hoan của những con người… Rạng đông đến không phải từ mặt trời mà từ thành quả lao động của con người. Một lần nữa khổ thơ cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh rạng đông đều được miêu tả thật tuyệt đẹp. Vẫn nhịp thơ nhanh gọn, tác giả đã khắc họa rõ những thao tác nhịp nhàng, thành thạo cuối cùng của một đêm lao động. Màu “nắng hồng” chính là vẻ đẹp của bầu trời hay đó là màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới… Đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh đẹp trời, con người lại trở về trong tiếng hát, trong khung cảnh buồm căng gió lộng: “Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” Tiếng hát hòa trong gió thổi đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Vẫn chi tiết lãng mạn, hình ảnh sáng tạo, nhịp thơ khỏe đầy khí thế hào hùng, sảng khoái, tác giả miêu tả “đoàn thuyền” cũng chính là con người đang khẩn trương “chạy đua cùng mặt trời”, tranh chấp với thời gian để tạo ra thành quả lao động xây dựng cuộc sống mới. Nếu ra đi trong cảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” hùng tráng thì giờ đây họ trở về trong cảnh “Mặt trời đội biển nhô màu mới” cũng thật hùng vĩ. Hình ảnh “đội biển” cũng là một nét sáng tạo độc đáo… Hình ảnh “màu mới” của không gian cũng gợi cho ta nhiều liên tưởng. Cái “mới” đâu chỉ của thời gian mà còn là cái mới trong cuộc đời lao động, lao động cho chính bản thân mình, cho tập thể, vì thế trong câu thơ niềm vui cứ dâng đầy. Phải chăng đây còn là màu mới của cuộc đời hồng tươi sắc thắm trên miền Bắc không còn bóng quân xâm lược. Thuyền về bến cảng trong buổi ban mai, ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui… Câu thơ không chỉ là bức tranh thu hoạch được mùa cá mà còn vẽ lên cả cảnh tượng cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết lên bài ca cuộc đời. Khổ thơ cuối như một điệp khúc của bài ca lao động vang lên từ nhịp sống khẩn trương của những con người làm chủ đất nước. Đánh cá trong đêm, đối diện với thiên nhiên rộng lớn nhưng người lao động không bị rợn ngợp, không sợ hãi, đó chính là nhờ rất nhiều ánh sáng. Đó là ánh sáng của thiên nhiên nhưng cũng là ánh sáng của lòng người, ánh sáng tỏa phát từ cuộc đời lao động vất vả nhưng tràn ngập niềm vui của con người lao động mới, đang làm chủ cuộc đời. Đó cũng là ánh sáng của thời đại mới. (Liên hệ: Nếu như trước Cách Mạng, thơ Huy Cận thấm đẫm nỗi buồn vào vũ trụ và lòng người qua ánh sáng leo lét, sầu buồn của “Lửa thiêng” thì những bài thơ được viết sau những ngày mùa thu lịch sử lại mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời với nhiều ánh sáng rực rỡ, ấm áp tình đời, tình người, ánh sáng của chế độ mới. Bởi thế có thể nói cảm quan vũ trụ đã có trong thơ Huy Cận trước Cách mạng, đến “Đoàn thuyền đánh cá” được tiếp nối và phát triển với những bước tiến mới.) C.KẾT BÀI: Bài thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, con người lao động mà còn là một bài ca cuộc đời mới, tinh thần lao động mới giàu ý nghĩa. Điều này, trước Cách Mạng tháng 8, hồn thơ Huy Cận chưa có được. Chính ánh sáng chói chang của Cách mạng đã tái tạo hồn thơ ông, soi đường cho ông đến những thành công vững chắc trên thi đàn. Bài thơ còn khơi gợi ở chúng ta tình yêu lao động, yêu cuộc sống. MỞ BÀI 2: “Yêu biết mấy những con người đi tới Hai cánh tay như hai cánh bay lên Ngực dám đón những phong ba dữ dội Chân lội bùn không sợ những loài sên” (“Bài ca mùa xuân 1961” – Tố Hữu).
<span class='text_page_counter'>(24)</span> Đẹp thay, tự hào thay hình ảnh những con người mới đang làm chủ cuộc đời mình. Có thể khung cảnh lao động và hình ảnh con người mới là nguồn cảm hứng dạt dào trong những trang văn học được viết ở giai đoạn hòa bình trên miền Bắc. Bên cạnh “Bài ca mùa xuân 1961”, “Tiếng chổi tre” (Tố Hữu), “Ngói mới” (Xuân Diệu), “Anh chủ nhiệm” (Hoàng Trung Thông), “Tiếng hát con tàu” (Chế Lan Viên) … làm sao ta lại không nhớ đến một bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận được viết năm 1958 nhân chuyến đi thực tế ở Hòn Gai. ...oo... PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ÁNH TRĂNG” – NGUYỄN DUY A. MỞ BÀI: Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ. Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người. B. THÂN BÀI: Khổ thơ mở đầu như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ: “Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ” Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn, xa gia đình, quê hương, vầng trăng mới thành “tri kỷ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau, hiểu biết, thông cảm lẫn nhau. Điệp từ “hồi”, “với” diễn tả cuộc sống nhiều biến động của một con người. Điều ấy chứng tỏ nhà thơ đã đi nhiều, trải nhiều... Qua những hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”, tác giả đã diễn tả tinh tế sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ lớn lên từ đồng nội... Tác giả như khắc đậm thêm tình cảm của mình đối với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” Trăng có vẻ đẹp bình dị vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình với thiên nhiên, gần gũi với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên”. Tâm hồn người chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây cỏ”... Vầng trăng “tri kỷ” đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào: “ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” Trăng mỗi tháng một lần theo chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên, lại đến với con người. Trăng mang ánh sáng đến cho con người giữa ban đêm. Trăng tỏa ánh sáng xuống vòm cây, soi tỏ những lối đi, tỏa vẻ đẹp dịu mát xuống sân nhà. Trăng làm vui vẻ trẻ con, làm ấm lòng người già, trăng tạo mộng mơ cho đôi lứa, trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với những người lính ở rừng núi. Cái “tình nghĩa” vẹn toàn ấy của trăng làm sao con người có thể quên được. Cách nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm nặng lòng của tác giả đối với trăng biết nhường nào! Từ “ngỡ” ở đầu câu thơ thứ ba như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự đoán và suy nghĩ ban đầu... Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã quên: “Từ hồi về thanh phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường”.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, quen “ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng... dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên. Phải chăng “vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những năm tháng gian khổ ấy. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm gian khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”... Hình ảnh nhân hóa ở đây thật sinh động “đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương vậy mà con người thật lạnh lùng dửng dưng... Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến con người thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”. Khổ thơ này có kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa, lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ. Đặt những hình ảnh có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân thành, nghiêm khắc. Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính: “Thình lình đèn điện tắt phòng buyn – đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn” Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ” lúc bấy giờ chỉ là phản xạ hết sức tự nhiên của một người quen với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong có được một chút ánh sáng bên ngoài cho căn phòng đỡ tối tăm hơn mà thôi. Nhưng may mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại có trăng. Trăng trở nên quý giá biết bao vào những khi mất điện. Và riêng tác giả, cái vầng trăng đột ngột hiện trên khoảng trời kia đâu phải chỉ để thay thế trong khoảnh khắc cho sự cố vừa rồi, mà nó còn làm xáo trộn tâm hồn thi sĩ: “Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng, là bể như là sông, là rừng” Trong câu thơ “Ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng đối xứng hai từ “mặt” rất hay. Đó là nhìn mặt tri kỷ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Từ gợi tả “rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động của thi sĩ... Những kỉ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc: “như là đồng là bể như là sông, là rừng” Điệp từ “như là” cùng với nhịp thơ gấp bộc lộ rất rõ cảm xúc đang trào dâng mạnh mẽ... Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời: “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.” Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết. Cái ánh sáng tròn đầy hay cũng là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và cao quý biết bao bởi vì “vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Nhưng chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình” tỉnh ngộ: “ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình” Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng, “sự im lặng đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc này mới nhận rõ mình hơn. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người. Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu tư tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc. C. KẾT BÀI: Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn và việc không viết hoa chữ cái đầu dòng thơ– thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ cảm xúc, bài thơ “Ánh trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả. Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng” cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì một thời quá khứ chưa được đánh giá đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng” không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi! ...oo... PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ANH THANH NIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN “LẶNG LẼ SA PA” CỦA NGUYỄN THÀNH LONG A.MỞ BÀI: Cách 1.“Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời...” (“Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải) Đó chính là lý tưởng sống của những con người ngày nay đang cống hiến tuổi thanh xuân cho quê hương đất nước. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long – một truyện ngắn giàu chất thơ được viết năm 1970 trong miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội – đề cập đến những con người có lẽ sống cao đẹp như vậy. Điều nổi bậc ở anh thanh niên – nhân vật trung tâm của truyện – là niềm say mê với công tác khoa học, tinh thần tự giác vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cùng với những nét đáng yêu trong cá tính của mình. Đối với độc giả, anh thực sự có sức thuyết phục mạnh mẽ. Cách 2: Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Thành Long được đánh giá là một trong những cây bút viết truyện ngắn khá thành thục và vững vàng. Vẻ đẹp ở thế giới nghệ thuật của tác giả không nằm ở những phát hiện sắc sảo, táo bạo mà ở việc tạo dựng một chất thơ trong trẻo, nhẹ nhàng. “Lặng lẽ Sa Pa” được viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của nhà văn, có thể coi là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách viết của Nguyễn Thành Long. Thông qua câu chuyện của bốn nhân vật: bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ mới ra trường và anh thanh niên cán bộ khí tượng, tác giả muốn giới thiệu với độc giả về một vùng đất đang có những con người “lặng lẽ” nhưng âm thầm say mê hiến dâng tuổi trẻ và tình yêu của mình cho đất nước quê hương. B.THÂN BÀI: 1. Sơ lược tác phẩm: Từ cuộc hội ngộ bất ngờ và ngắn ngủi thoáng qua trong khoảng ba mươi phút của bốn nhân vật trong không gian đẹp đến như hư ảo của núi rừng Sa Pa, tác giả đã làm toát lên vẻ đẹp tính cách trong mỗi con người và tình cảm nồng ấm giữa họ với nhau. Phân tích các nhân vật ta thấy rõ hơn giá trị nội dung của truyện. 2. Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên: Điều ta cảm nhận trước hết ở người thanh niên này là đó là niềm say mê thích thú với ngành nghề khoa học. Có lẽ vì thế mà anh đã tự nguyện dấn thân nhận nhiệm vụ ở một vùng xa xôi hẻo lánh “trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét” mà theo lời của bác tài xế thì nơi đây “bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”, không một bóng người qua lại. Anh cũng có thể ở lại chốn phồn hoa đô thị - nơi có ánh đèn thành phố và nhộn nhịp cuối tuần – để góp bàn tay và khối óc vào việc xây dựng quê hương như bao con người khác. Thế nhưng ai cũng có nghĩ suy đơn giản như vậy thì ai sẽ làm những viên đá lát trên con đường khám phá, tìm hiểu những miền đất hứa của Tổ quốc. Dù sống và làm việc ở một nơi “cô độc nhất thế gian”, chàng trai giàu nhiệt tâm này vẫn gắn mình với cuộc sống của những người dưới xuôi kia thông qua công việc của một người cán bộ kiêm vật lý địa cầu: “Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm góp phần đắc lực vào việc dự báo thời tiết phục vụ cho cả hai công cuộc sản xuất và chiến đấu. Công việc thật đặc biệt của anh chính là sợi dây thắt chặt cuộc đời riêng lẻ với cuộc sống đời thường của bao người..
<span class='text_page_counter'>(27)</span> Lúc mới tiếp nhận công việc, những cơn thèm người cứ cồn cào trong lòng anh. Chàng trai đáng yêu này đã làm đủ mọi cách để được gặp bóng dáng con người, mong ngóng được nghe tiếng nói, giọng cười dù là những con người xa lạ. “Cái nỗi nhớ xe nhớ người ấy” cùng với những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt như ngăn trở việc làm và chùn nhụt ý chí của người trai ở Sa Pa, thế nhưng anh vẫn tự giác vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ bằng một tinh thần trách nhiệm cao: những bản báo cáo vẫn điều đặn gửi về trạm, những giờ ốp giữa cao điểm ban đêm đầy gió lạnh, có cả “mưa tuyết” và “cái im lặng đáng sợ” của cao nguyên vào lúc nửa đêm vẫn có mặt anh. Và thông thường trong hoàn cảnh sống như vậy, người ta rất dễ buông thả thế nhưng anh vẫn tự tổ chức cho bản thân có cuộc sống ngăn nắp đàng hoàng như bao người khác: một vườn hoa đủ màu sắc, một đàn gà đẻ ăn không hết trứng, sách báo,...Điều đó chứng tỏ anh sống có trách nhiệm với cả chính mình. Một con người làm việc như vậy mà vẫn tự cho mình chưa xứng đáng là mẫu người sống đẹp đích thực trong cuộc sống. Anh thật tình thấy mình chưa có điểm gì đáng để người họa sĩ ghi lại. Mặc khác anh còn nhường cái “vinh dự ấy cho người cán bộ “nghiên cứu bản đồ sét” mà suốt mười một năm không một ngày rời xa cơ quan hoặc ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa kia. Anh quả là một con người rất mực khiêm tốn. Nhưng có lẽ điều làm cho mọi người dù “lần đầu tiên đặt chân đến xứ sở của anh” vẫn cảm thấy gần gũi, thân quen. Đó là do thái độ tiếp đón niềm nở ân cần của người chủ nhà là anh. Sống cô độc ở một nơi lạnh giá thế nhưng tâm hồn anh không giá lạnh mà trái lại còn gần gũi, ấm áp tình người. Anh xuất hiện trước mắt mọi người với củ tam thất cầm trên tay để bồi dưỡng cho vợ bác lái xe vừa ốm dậy. Bó hoa “đầy háo hức và mơ mộng” gửi cho cô kĩ sư, chén trà nóng làm ấm lòng người họa sĩ già sau những ngày đường mệt nhọc cùng, làn trứng cho những người hành khách trên xe hoàn toàn không quen biết,...Tất cả đều là những món quà bình dị mà thấm đẫm tình người biết bao! Tiếp xúc với anh, độc giả còn nhận ra ở con người này đức tính cầu tiến và tác phong bộc trực hồn nhiên đáng yêu. NHững cuốn sách mà anh đã tìm mọi cách xoay xở để có được vừa giúp anh khuây khỏa trong những lúc trống vắng và nội dung trong những trang sách ấy có sức động viên anh rất nhiều trên bước đường sự nghiệp. “Cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện nghĩa là sách ấy mà, mỗi người viết một vẻ”...Qua lời nói chuyện với cô kĩ sư, ta nhận ra nét đẹp ấy. Những suy nghĩ, băn khoăn về công việc, bản thân trước khi nhận công việc được anh chân thành tâm sự đã làm cho ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ thực sự cảm động và thán phục: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy ngôi sao xa, cháu nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa”. 3. Đánh giá chung về nhân vật: (Nêu suy nghĩ, thái độ của bản thân về nhân vật): Đọc truyện, ta thấy lí tưởng mà anh đã chọn thật đẹp! Người thanh niên đáng cảm phục này đến với Sa Pa – nơi duy nhất ở việt Nam có tuyết – với một bầu nhiệt huyết sôi trào của tuổi trẻ và một tình yêu nghề cháy bỏng, da diết chứ không phải suy nghĩ nhất thời bốc đồng. Chính cuộc sống đẹp cùng với tâm hồn chan chứa yêu thương của anh đã làm cho mọi người yêu thích. Ông họa sĩ hẹn trở lại đây, còn cô kĩ sư chìa tay cho anh nắm như người ta cho nhau cái gì đó chứ không phải là cái bắt tay”. Ngay cả độc giả của chúng ta cũng không khỏi bị cuốn hút, không khỏi cảm thấy gần gũi và tin yêu người thanh niên ấy. Có thể nói, tác phẩm nói chung, nhân vật anh thanh niên nói riêng đã để lại trong tâm hồn bạn đọc một ấn tượng sâu đậm về một vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn của con người Việt Nam, giai đoạn miền Bắc vượt muôn ngàn gian khó để vừa chia lửa với miền Nam chống Mĩ vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính những vang âm, sắc màu, hơi ấm của một vùng đất lặng lẽ ấy đã khơi gợi biết bao trong lớp người đọc tác phẩm này tình yêu Tổ quốc, tình yêu con người – những con người đã một thời sống đẹp, suy nghĩ đẹp để từ đó hướng tới tìm cho mình một vẻ đẹp riêng trong sự sống, cách sống của con người. 4. Giá trị nghệ thuật: Chuyển ý: Truyện không chỉ hấp dẫn, lôi cuốn t a bởi những vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện mà còn đem lại sự lý thú cho độc giả bởi nghệ thuật viết văn khá thành thục và vững vàng của tác giả. Trước hết phải kể đến nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Truyện không có những nhân vật có cá tính đặc biệt lạ lùng mà họ đều là những con người bình thường, dễ gần gũi. Tất cả các nhân vật trong truyện đều không rõ tên, địa chỉ. Phải chăng Nguyễn Thành Long muốn lưu ý với chúng ta một điều: họ đều là những con người bình dị trong cuộc sống đời thường. Họ xuất thân từ những vùng đất khác nhau, làm những công việc khác nhau nhưng lại gặp nhau ở một điểm “ lặng lẽ dâng cho đời”, cống hiến cho đời với tất cả tình yêu cuộc sống của mình. Thông qua những cảm xúc, suy nghĩ cùng thái độ cảm mến của các nhân vật phụ, hình ảnh nhân vật anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> đẹp hơn. Đây là một thủ pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng thành công trong việc xây dựng nhân vật chính của truyện. Kết cấu của chuyện cũng rất chặt chẽ, gần như không có chuyện, sự phát triển của các tình tiết nhẹ nhàng. Tác phẩm không có những tình tiết li kỳ, phức tạp. “Lặng lẽ Sa Pa” thu hút người đọc ở sự giản dị đến mức không ngỡ của nó. Có thể nói tác phẩm tiêu biểu cho phong cách viết của tác giả với những trang miêu tả giàu chất thơ, trong sáng, hàm súc nhất là những miêu tả cảnh thiên nhiên.Dưới ngòi bút của Nguyễn Thành Long, Sa Pa hiện lên với một vẻ đẹp dịu nhẹ, trong trẻo thanh thoát nên thơ, đầy sức hấp dẫn: “lúc bấy giờ nắng đã mạ bạc cả con đèo... nắng chiều làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ theo”, “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to phải đi theo cô...mà vì một bó hoa nào khác nữa”,...Ngay cả ngôn ngữ đối thoại cũng thể hiện sự dụng công của nhà văn. Đó là ngôn ngữ rất riêng rất phù hợp với tâm lí và tình cảm của từng nhân vật: anh thanh niên vui vẻ, hồn nhiên; cô kĩ sư e ấp dễ xao xuyến; ông họa sĩ lịch duyệt, rất tâm lí. Ngay cả nhan đề của tác phẩm nghe cũng rất thơ mộng. C.KẾT BÀI: Bằng một giọng văn nhẹ nhàng, thâm trầm cùng với nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật độc đáo: Xây dựng những nhân vật phụ để làm nổi bật nhân vật chính, nhà văn Nguyễn Thành Long đã hoàn toàn chinh phục trái tim độc giả qua hình ảnh anh thanh niên – một con người “ngày đêm làm việc và lo nghĩ” cho đất nước. Trong truyện cũng có thể xem là những bức tranh đẹp, những bức tranh về cảnh thiên nhiên ở Sa Pa, về cuộc gặp gỡ giữa ba nhân vật và đặc biệt là bức chân dung kí họa về nhân vật chính. CÁC KẾT BÀI THAM KHẢO Cách 1: Tập thể những con người trong truyện nói chung và cá nhân anh nói riêng đã có sức động viên rất lớn cho những ai đang chuẩn bị hành trang để bước vào đời. Cách 2. Đọc truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, ta tán thành ý kiến của PGS Nguyễn Văn Long: “ Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh cũng thật trong sáng, đẹp đẽ”. ...oo... Cảm nhận về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê A. MỞ BÀI: MỞ BÀI 1: Lê Minh Khuê thuộc thế hệ những nhà văn bắt đầu sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Những tác phẩm đầu tay của cây bút nữ này ra mắt vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX, đều viết về cuộc chiến đấu của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn, đã tạo ra được sự chú ý của bạn đọc. Từ sau 1975, sáng tác của Lê Minh Khuê bám sát những chuyển biến của đời sống, đề cập nhiều vấn đề bức xúc của xã hội và con người với tinh thần mạnh mẽ. Lê Minh Khuê là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo, đặc biệt là tâm lí nhân vật phụ nữ. Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là một minh chứng cho phong cách viết ấy. Qua nhân vật Phương Định trong truyện – một nữ thanh niên xung phong anh hùng, đẹp cả ngoại hình, tâm hồn, suy nghĩ và hành động – đọc giả dễ dàng nhận ra thông điệp đầy chất lãng mạn, lý tưởng của tác phẩm: tình cảm yêu mến, cảm phục và ngợi ca những người thanh niên xung phong của người viết. MỞ BÀI 2: “Chuyện kể rằng: em cô gái mở đường Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương Cho đoàn xe kịp giờ ra trận Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa Đánh lạc hướng kẻ thù hứng lấy luồng bom:. (“Khoảng trời – Hố bom” – Lâm Thị Mỹ Dạ).
<span class='text_page_counter'>(29)</span> Đoạn thơ là lời tưởng niệm đầy xúc động về sự hy sinh anh dũng của người nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đối với nữ sĩ Lê Minh Khuê, một người đã từng khoát áo thanh niên xung phong, từng chia sẻ vui buồn, sự sống và cái chết với những anh bộ đội, những cô thanh niên xung phong đang tuổi hưởng hạnh phúc đã phải chôn vùi tuổi xuân của mình trong những cánh rừng già đầy bom đạn, gánh chịu đủ mọi gian nan, thiếu thốn thì mảnh đất và con người ở đây đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho những trang viết của nữ văn sĩ. “Những ngôi sao xa xôi” được viết năm 1977 là một ví dụ điển hình. Bằng sự cảm nhận sâu sắc của người trong cuộc, nữ sĩ đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, hồn nhiên, lạc quan để từ đó hướng chúng ta tới sự xót thương, cảm phục những “cô gái mở đường” đã anh dũng hy sinh dưới làn mưa bom bão đạn để góp vào sự nghiệp chung của đất nước, dân tộc. Nỗi niềm ấy được nhà văn gửi gắm qua nhân vật Phương Định – nhân vật trung tâm của tác phẩm. B. THÂN BÀI: 1. Cảm nhận về nhân vật: a. Hoàn cảnh sống và chiến đấu: Ba người nữ thanh niên xung phong: Nho, Thao và Phương Định là một tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn – “Cái tên làm gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng”. Họ ở trên một cao điểm, tức là ở nơi tập trung nhất bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. Không những thế, công việc của họ lại càng đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom, họ phải lao ra trọng điểm, đo và tính khối lượng đất đá bị bom địch cày xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt cạnh vào đấy để phá. Đó là một công việc phải mạo hiểm với cái chết, nói như tác giả: “thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẫn trong ruột những quả bom”, con người phải luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức. Bản thân các cô bị bom vùi luôn. “Có khi bò trên cao điểm chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng loá trên khuôn mặt nhem nhuốc”. Ngay Phương Định cũng là một nạn nhân: “Tôi bây giờ còn một vết thương chưa lành miệng ở đùi”. Nhưng đối với cô thì những côn việc ấy đã trở thành công việc thường ngày, thậm chí cô còn xem đó là niềm đam mê: “Việc nào cũng có cái thú của nó”. Niềm vui lớn nhất của các cô là tuyến đường được thông mạch, được “leo tót lên trọng điểm, cầm xẻng xúc, nói vài câu buồn cười với một anh lái xe nào đó. Vui. Chỉ khổ đứa phải trực máy điện thoại trong hang”. b. Cảm nhận về tính cách của nhân vật: Dù ở trong một tập thể rất gắn bó với nhau nhưng ở mỗi người vẫn có nét cá tính. Điều ta cảm nhận trước tiên ở nhân vật Phương Định chính là tính cách hồn nhiên, trẻ trung yêu đời, sôi nổi. Vào chiến trường đã ba năm, đã quen với những thử thách và nguy hiểm, giáp mặt hằng ngày với cái chết, nhưng ở cô không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng và những ước mơ về tương lai. Nét cá tính ở nhân vật được thể hiện khá rõ. Phương Định là cô gái nhạy cảm, hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát: “Tôi mê hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi mà bò ra cười một mình”, “Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích Cachiu-sa của hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh…”. Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm. Thích nhiều”. Phương Định là con gái Hà Nội vào chiến trường với nhiều nhung nhớ và mơ mộng. Cô có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư lự bên mẹ, một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh trong những ngày thanh bình trước chiến tranh ở thành phố mình. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi của trận mưa đá, hình ảnh “người mẹ, cái cửa sổ hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”, “hoặc là cái vòm tròn của nhà hát”, “hình ảnh những chiếc xe chở đầy thùng kem”, những “ngọn điện trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích nói về những xứ sở thần tiên”. Những kỉ niệm ấy cứ ùa về “chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí”, làm sống lại trong cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến trường. Cũng như các cô gái mới lớn, Phương Định nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Hãy nghe cô tự đánh giá: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”. Cô biết mình được nhiều người, nhất là các anh lính để ý và có thiện cảm. Điều đó làm cô thấy vui và cả tự hào, nhưng chưa dành riêng tình cảm cho một ai. Nhạy cảm.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> nhưng cô lại không hay biểu lộ tình cảm của mình, tỏ ra kín đáo giữa đám đông, khiến cho người khác tưởng là kiêu kì. Dõi theo những trang truyện của Lê Minh Khuê, đặc biệt là đoạn khắc hoạ tâm trạng của Phương Định trong một lần phá bom, ta còn nhận ra ở cô những nét tâm lí, tính cách rất đáng quý. Đó là lòng quả cảm, sự tự trọng. Mặc dù đã rất quen với công việc nguy hiểm này, thậm chí một ngày có thể phá tới năm quả bom, nhưng mỗi lần vẫn là một thử thách với thần kinh cho đến từng cảm giác: “Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích kiểu đi khom khi có thể đường hoàng mà bước tới”. Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người như cũng trở nên sắc nhọn hơn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của qua bom. Cũng giống như hai người đồng dội trong tổ trinh sát, Phương Định yêu mến những người đồng đội trong tổ và cả đơn vị mình. Đọc đoạn văn thuật lại việc Nho bị sập hầm khi đi phá bom làm sao ta có thể quên được hình ảnh cô bế Nho đặt lên đùi mình, nhìn thấy”Máu túa ra từ cánh tay Nho, túa ra, ngấm vào đất” cho đến cảm giác nhìn đồng đội “không giống cái que kem trắng của tôi khi nãy nữa… Da xanh đi, mắt nhắm nghiền, quần áo đầy bụi” mà Lê Minh Khuê đã miêu tả rất chân thực và tinh tế. Hành động rửa vết thương cho Nho, pha sữa cho người đồng đội uống và cảm được những giọt nước mắt đang chảy ngược vào trong là những biểu hiện rất cảm động cho tình đời, tình người. Qua những đoạn phân tích ở trên, cùng với rất nhiều chi tiết trong truyện, ngòi bút Lê Minh Khuê đã miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật, làm hiện lên một nội thế giới nội tâm phong phú, trong sáng, không phức tạp. Cách nhìn và thể hiện con người thiên về cái tốt đẹp, trong sáng, cao thượng cũng là phương hướng chủ đạo và thống nhất trong văn học Việt Nam thời kì kháng chiến. Cũng nằm trong hướng chung đó nhưng truyện của Lê Minh Khuê không rơi vào tình trạng giản đơn, công thức, dễ dãi vì tác giả đã phát hiện và miêu tả được đời sống nội tâm với những nét tâm lí cụ thể của nhân vật. 2. Đánh giá chung về nhân vật: Gợi ý: Em có cảm nhận, đánh giá gì về nhân vật Phương Định nói riêng, về các cô thanh niên xung phong nói chung trong truyện… Em hình dung và cảm nghĩ thế nào về thế hệ tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ… Qua cách xây dựng nhân vật Phương Định em có suy nghĩ gì về nhà văn Lê Minh Khuê…. (Gợi ý: Viết tác phẩm, tác giả đã sáng tạo nên những nhân vật qua những con người đã sống cùng nữ sĩ trên trọng điểm ở đường 20. Những cảm xúc về thành phố, về chiến tranh là cảm xúc chân thành và trong trẻo nhất vì khi đó tác giả đang ở tuổi hai mươi. Cuộc sống ngày ấy nhìn qua lăng kính của tuổi trẻ tràn ngập lãng mạn. Khai thác một đề tài quen thuộc đã làm nên nhiều tên tuổi lớn trên văn đàn nhưng với khả năng sáng tạo và nhờ có những ngày từng lăn lộn với chiến trường Trường Sơn. Lê Minh Khuê đã tạo cho tác phẩm của mình có một chỗ đứng vững vàng trên nền văn học kháng chiến chống Mĩ). 3. Đánh giá về nghệ thuật: Đường Trường Sơn và những cô gái thanh niên xung phong, những anh bộ đội lái xe đã thành đề tài của nhiều tác phẩm thơ, truyện, ca khúc trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Trong số đó, tiêu biểu có thể kể đến bài thơ của Phạm Tiến Duật, Lâm Thị Mỹ Dạ, truyện “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu. “Những ngôi sao xa xôi” thuộc một trong những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê. Tuy có nhiều điểm gặp gỡ với các tác phẩm cùng đề tài, nhưng truyện vẫn có những nét đặc sắc riêng, đặc biệt là bút pháp nghệ thuật. Trước hết phải nói đến cách chọn ngôi kể của tác giả. Truyện được trần thuật qua lời nhân vật và cũng là nhân vật chính: Phương Định – cô gái thanh niên xung phong rất trẻ và nhiều mơ mộng, có tâm hồn nhạy cảm và trong sáng. Chính bằng cách lựa chọn vai kể ở ngôi thứ nhất này, nhà văn đã tạo được thuận lợi để biểu hiện đời sống nội tâm với nhiều cảm xúc, ấn tượng, hồi tưởng của nhân vật, làm hiện lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của những cô gái thanh niên xung phong. Điểm nhìn trần thuật ngôi thứ nhất đã xoá nhoà khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật khiến cho câu chuyện gần gũi, bình dị và bình thường hơn. Truyện ngắn này của Lê Minh Khuê, cũng như nhiều tác phẩm khác được viết ngay trong thời kì chiến tranh, không phải không có hạn chế trong cách phản ánh hiện thực và con người. Những tác phẩm này chủ yếu thể hiện chủ nghĩa anh hùng, vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng và những phẩm chất cao cả của con người Việt Nam.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> trong cuộc chiến tranh yêu nước được nhìn theo khuynh hướng sử thi, mà truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là một tiêu biểu. Truyện ngắn này có cốt truyện khá đơn giản. Tác giả thành công trong việc tạo dựng rõ nét khung cảnh và không khí ở một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, bằng một vài nét miêu tả không rườm rà. Nhưng thành công hơn cả có lẽ là nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật. Tâm lí nhân vật Phương Định đã được miêu tả rất cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ dù chỉ là thoáng qua trong giây lát. Tác giả đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ, cả lời trần thuật và lời đối thoại rất linh hoạt, tự nhiên, đậm chất trẻ trung phù hợp với tâm lí nhân vật. Có thể nói điều tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm là ở sự am hiểu cặn kẽ cuộc sống cùng với tâm lí, tình cảm và suy nghĩ của những con người trẻ tuổi trên tuyến đường Trường Sơn. Ngay nhan đề “Những ngôi sao xa xôi” cũng rất lãng mạn, rất đặc trưng của văn học thời kháng chiến chống Mĩ. Hình ảnh đó cũng toả ra một thứ ánh sáng dịu dàng mát mẻ như sương núi, cái ánh sáng ẩn hiện xa xôi, có sức mê hoặc lòng người. Đó là biểu tượng của sự ngời sáng cách mạng trong những cô gái thanh niên xung phong Trường Sơn. Thao, Nho, Phương Định đều là “những ngôi sao xa xôi” trên tuyến đường Trường Sơn, đều sáng ngời vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật kể chuyện – cô gái thanh niên xung phong người Hà Nội – tạo cho tác phẩm có giọng điệu và ngôn ngữ tự nhiên, gần với khẩu ngữ, trẻ trung và có chất nữ tính. Lời kể thường dùng những câu ngắn, nhịp nhanh, tạo được không khí khẩn trương trong hoàn cảnh chiến trường. Ở những đoạn hồi tưởng, nhịp kể chậm lại, gợi nhớ những kỉ niệm của tuổi niên thiếu hồn nhiên, vô tư và không khí hoà bình trước chiến tranh. C. KẾT BÀI: Với lối kể chuyện rất riêng và bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và sắc sảo, nữ sĩ Lê Minh Khuê đã khắc hoạ thật đáng yêu hình tượng Phương Định – người con gái anh hùng đẹp cả ngoại hình, tâm hồn, nghĩ suy và hành động qua một tác phẩm đầy chất lãng mạn, lý tưởng. Vẻ đẹp của cuộc sống và con người Việt Nam mãi mãi sẽ trở thành nguồn đề tài khai thác không vơi cạn của tất cả các nhà văn. Cảm ơn nữ sĩ đã để cho những cô gái mở đường thời chống Mĩ còn lại mãi trong những trang văn viết về những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. KẾT BÀI 2: Có thể nói chính sự trải nghiệm ở cuộc sống khắc nghiệt ở Trường Sơn, bằng sự xúc động sâu sắc trước sự cống hiến thầm lặng mà cao cả của những cô gái mở đường cùng với sự khéo léo, tinh tế, tài hoa trong ngòi bút giàu nữ tính, đã làm cho tác phẩm nói chung, nhân vật Phương Định của nhà văn Lê Minh Khuê nói riêng có một chỗ đứng nhất định trong lòng bạn đọc. KẾT BÀI 3: Truyện ngắn này in năm 1971 ở tạp chí “Tác phẩm mới”. Năm 2005, nhà xuất bản Houghton Mijjlin ở Mĩ làm một tuyển tập gọi là “Nghệ thuật truyện ngắn Thế giới” quy tụ nhiều tác giả nổi tiếng từ cổ điển đến hiện đại. “Những ngôi sao xa xôi” là truyện ngắn duy nhất của Việt Nam được giới thiệu trong tuyển tập này. Các truyện ngắn được chọn trong tuyển tập nghiêng về xu thế miêu tả cuộc sống tốt đẹp, ca ngợi cái đẹp và niềm hi vọng. Thiết nghĩ đó là món qùa chất chứa biết bao niềm hạnh phúc, vinh dự dành cho nữ sĩ. ...oo... Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. A. Mở bài: Nhắc đến thi sĩ Thanh Hải, bạn đọc yêu thơ nghĩ ngay đến cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam từ những ngày đầu. Sinh ra và lớn lên ở vùng quê hương Bình Trị Thiên trong cuộc chiến đấu đầy khói lửa và lao động xây dựng cuộc sống mới, Thanh Hải đã góp vào nền thơ Việt Nam một tiếng thơ trữ tình, thật chân thành và bình dị nhưng có sức cổ vũ, động viên người đọc,… Một trong những bài thơ vẫn đứng vững trong lòng độc giả có lẽ là bài “Mùa xuân nho nhỏ” được viết trên giường bệnh vào cuối năm 1980. Trước khi “trở về với cát bụi”, thi sĩ vẫn có cái nhìn tươi trẻ, lạc quan về đất nước trong thời kì mới đồng thời còn ghi lại những suy tưởng của mình về một lối sống đẹp: sống có ích và cống hiến cho xã hội, cho đất nước. Đi vào phân tích đoạn thơ sau, ta phần nào cảm nhận được bút pháp nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác phẩm. “Trích dẫn đề” B. Thân bài:.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> Bài thơ mở ra trước mắt chúng ta bức tranh mùa xuân ở cố đô Huế thật dịu dàng, tươi mát, tràn đầy sức sống: “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi! Con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời…” Màu nước xanh đặc trưng của Hương giang hay cũng chính là tín hiệu báo mùa xuân về? Màu nước ấy khác hẳn với “dòng sông trong mát” của Vàm Cỏ Đông, cũng không “đỏ nặng phù sa”: như sông Hồng, chẳng “xanh biếc” như con sông Trà Bồng vào những buổi trưa hè của quê hương Tế Hanh. Giữa dòng sông êm trôi dịu mắt bỗng mọc lên “Một bông hoa tím biếc” nổi trội đậm đà. Bông hoa là có thật hay là biểu tượng của niềm tin, niềm hy vọng, là sắc màu thân quen của xứ Huế. Chỉ bằng vài nét phác hoạ đơn sơ: “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, tiếng “chim chiền chiện” hót vang trời kết hợp với nghệ thuật đảo cấu trúc mà tác giả vẽ ra được cả một không gian cao rộng, cả sắc màu tươi thắm của mùa xuân, cả âm thanh vang vọng của đất trời. Những từ cảm thán “ơi”, “chi” như ngỡ ngàng, thích thú, reo vui, biểu hiện một tâm trạng say sưa ngây ngất… Thi sĩ lắng nghe tiếng chim hót không chỉ bằng cảm giác cụ thể mà cả trí liên tưởng độc đáo, biểu hiện một thái độ trân trọng nâng niu rất mực: “Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng” Hình ảnh “Từng giọt long lanh rơi” ở đây không chỉ là những giọt sương xuân giữa ban mai tinh khiết đọng trên cành lá, cũng chẳng phải giọt mưa xuân thánh thót rơi hoặc giọt màu sắc, giọt thời gian chầm chậm trôi hay là giọt hạnh phúc đang tới mà đó là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện kết tụ lại mà tác giả ngỡ như những giọt nước óng ánh sắc màu rơi mãi, rơi mãi tưởng chừng không dứt. Tiếng chim là một âm thanh, chứ không phải là một vật thể có hình khối, chúng ta không thể cân, đong, đo đếm được mà chỉ có thể nghe bằng tai, cảm nhận bằng tâm hồn, bằng sự rung động của con tim. Từ cảm nhận bằng thính giác, tác giả chuyển dần sang cảm nhận bằng thị giác, xúc giác. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác thật tinh tế, độc đáo, mới lạ… Hình ảnh “đưa tay hứng” thể hiện sự trân trọng, nâng niu rất mực. Có thể nói nhà thơ đã đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa trong tâm hồn,… Âm điệu thơ đọc lên thật tươi vui nhưng nhỏ nhẹ phù hợp với việc bộc lộ tâm trạng của người dân xứ Huế. Ngôn ngữ cũng hết sức gần gũi với lời ăn tiếng nói của đời thường… Liên hệ: Bài thơ được viết vào thời điểm mùa đông giá rét, giữa lúc cái chết đang đến với ông từng giờ, từng phút, thế nhưng tràn ngập trong khổ thơ là hương xuân, sắc xuân. Chính tình yêu cuộc sống, sự lạc quan yêu đời của một con người gắn bó máu thịt với quê hương đã tạo nên ngọn lửa nhiệt huyết căng tràn sức sống trong bài thơ. Ngọn lửa ấy mãi toả sáng mãi trong nhân cách cao cả của thi nhân khiến độc giả phải xúc động. Chuyển ý:Từ mùa xuân của thiên nhiên, của đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của cách mạng, của đất nước: “Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao” “Mùa xuân” ở đây không phải là khoảnh khắc đầu tiên trong bốn mùa, không phải là mùa xuân của muôn hoa, của âm thanh mà là biểu tượng cho sự trỗi dậy mạnh mẽ, cho sức sống trẻ trung, sôi nổi… Tác giả đã chọn hai hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” để tượng trưng cho hai nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước. Ý thơ không có gì mới nhưng tác giả đã gợi cảm cho câu thơ bằng hình ảnh “lộc” non của mùa xuân. Đó là chồi non của cây đang vươn lên hay cũng chính là sức sống, sức vươn lên hay nó còn hàm chứa sự may mắn sẽ đến với cuộc cách mạng dân tộc. Những người chiến sĩ ra trận với chồi non trên cành lá ngụy trang. Người nông dân ra đồng gieo “lộc” trên khắp cánh đồng. Chính những con người ấy đã đem đến mùa xuân cho mọi nơi.
<span class='text_page_counter'>(33)</span> trên đất nước hay họ đang cống hiến tuổi xuân để xây dựng đất nước. Nghệ thuật đối ngữ trong đoạn thơ khiến ta liên tưởng đến hai công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước cùng phát triển song hành. Điệp ngữ “mùa xuân” và hình ảnh “lộc” trong khổ thơ có tác dụng hỗ trợ cho việc bộc lộ ý thơ, nhằm khẳng định sự chuyển mình đi lên của sự nghiệp cách mạng. “Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao” Điệp ngữ “tất cả” cùng hoà nhịp thơ nhanh mạnh như một khúc quân hành đã góp phần diễn tả được không khí “hối hả”, “xôn xao” gấp gáp, khẩn trương, sôi nổi,… của cuộc sống mới. Liên hệ: Bài thơ được ra đời trong những năm tháng sau hoà bình lập lại. Quân dân miền Bắc phải chống lại sự xâm lược của bọn bành trướng Trung Quốc, thêm vào đó là cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam, nền kinh tế đất nước chưa được phục hồi sau chiến tranh. Thế mà tác giả vẫn có cái nhìn tươi sáng về sự nghiệp cách mạng của đất nước. Điều này càng làm cho ta trân trọng thái độ lạc quan của thi sĩ. Chuyển ý: “Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước” Cụm từ “bốn nghìn năm” bộc lộ niềm tự hào sâu sắc về truyền thống lịch sử dựng và giữ nước. Hình ảnh “Đất nước bốn ngàn năm” đó là đất nước của quá khứ: “Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” (Nguyễn Khoa Điềm) Mở rộng: Trải qua gần mười thế kỉ bị đô hộ, ngay từ những ngày đầu thiết lập nhà nước phong kiến, quốc gia ấy đã tự dõng dạc khẳng định chủ quyền của mình: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” Đó còn là một đất nước có nền văn hiến lâu đời: “Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi) Cụm từ “Vất vả và gian lao” chứa đựng trong đó biết bao nỗi gian khó, nhọc nhằn mà cha ông ta phải nếm trãi do thiên tai địch hoạ. Nói như nhà thơ Tạ Hữu Yên “Sớm chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa” suốt từ thuở vua Hùng ban sơ dựng nước đến những ngày phá Tống Bình Nguyên, kháng Minh, đạp Thanh sôi nổi… và gần đây là hai cuộc kháng chiến thần thánh chống quân xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Suốt một chiều dài lịch sử bốn ngàn năm gian khổ quật cường, giờ đây đất nước chuyển mình mà tác giả so sánh “như vì sao” – hình ảnh biểu tượng cho tương lai ngời sáng của Tổ quốc. Dưới cái nhìn lạc quan của thi sĩ, đất nước còn phải gánh chịu bao hậu quả của chiến tranh để lại nhất định sẽ đi lên vững vàng như một quy luật: “Cứ đi lên phía trước”… Điệp ngữ “đất nước” góp phần tạo nhạc điệu cho đoạn thơ.. Trong khổ thơ ta thấy có kết cấu đối lập giữa hình ảnh Tổ quốc trong quá khứ và hiện tại. Chính kết cấu ấy đã khắc hoạ rõ sự hoá thân kỳ diệu của đất nước. Liên hệ: (Học sinh xem khổ 2). Chuyển ý: “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải không chỉ đẹp bởi bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh, bởi tiếng chim véo von thánh thót mà còn đẹp biết bao bởi tư tưởng của tác giả. Đi suốt bài thơ là hình ảnh mùa xuân náo nức, rạo rực của thiên nhiên, của đất nước nhưng ấn tượng sâu đậm nhất để lại trong lòng người đọc chính là mùa xuân của tâm hồn thi sĩ: “Ta làm con chim hót Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến”.
<span class='text_page_counter'>(34)</span> “Con chim”, “cành hoa” đó là những hình ảnh tượng trương cho những vật vốn bé nhỏ, mảnh mai nhưng bản thân nó vốn cống hiến vô tư cho đời, thêu dệt nên bức tranh xuân của thiên nhiên. Một nốt trầm trong bản hoà ca muôn điệu. Nốt trầm như chìm đi sau bao giai điệu sôi nổi, nó không ồn ào, chỉ lặng lẽ gieo vào lòng người bao “xao xuyến”, lắng đọng. Cái nốt trầm giản dị nhưng quý giá và rất đáng trân trọng trong cả bản nhạc mùa xuân. Sử dụng những hình ảnh ẩn dụ đơn sơ nhưng gợi nhiều liên tưởng này, thi sĩ muốn cất lên một cách tha thiết mà khiêm tốn ước vọng sống có ích, có cống hiến để tạo nên “mùa xuân” cho đời như một lẽ tự nhiên.. Điệp ngữ “ta làm” trở đi trở lại trong đoạn thơ thể hiện rõ những suy tư, trăn trở trong tâm trí tác giả về một lối sống đẹp… Ở khổ thơ thứ nhất, tác giả xưng “tôi”, thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất trước “bông hoa tím biếc” trên “dòng sông xanh”, trước âm thanh thánh thót của “con chim chiền chiện”. Nhưng ở đây tác giả chuyển đổi cách xưng hô, từ “tôi” sang “ta”. Trong tiếng Việt, “ta” là đại từ chỉ một cá nhân, một số ít hoặc có thể chỉ số đông người. Vì thế, dùng đại từ “ta” vừa bộc lộ khát vọng của chính tác giả, vừa thể hiện tâm niệm của tất cả mọi người. Nói cái riêng mà vẫn có cái chung. Không cao giọng, không quá đề cao vai trò cá nhân, ước muốn của Thanh Hải thật chân thành tha thiết. Đoạn thơ với âm điệu nhỏ nhẹ, êm ái, đọc lên như lời tự tình với cuộc đời, với mọi người. Mở rộng: Khát vọng sống cao đẹp cho cuộc đời cũng được nhà thơ Tố Hữu ghi lại trong giai điệu “Một khúc xuân ca” đầu năm 1977: “Nếu là con chim chiếc lá Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” Chuyển ý: Ý thức đóng góp của: “Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc” “Mùa xuân” ở đây không còn là mùa xuân của dịu ngọt, của muôn hoa, của Hương giang, cũng không phải là thời khắc chuyển giao mỗi khi năm mới đến mà “mùa xuân nho nhỏ” ở đây như có hình, có khối. Phải chăng đó là con tim, khối óc, là tâm hồn tươi đẹp và tràn đầy sức sống của nhà thơ? Bằng hình tượng độc đáo, tác giả đã tạo nên một dấu ấn cho riêng mình trong vườn thơ xuân đất Việt. Hình ảnh ẩn dụ ấy đã trở thành biểu tượng nghệ thuật thể hiện chủ đề của bài thơ.Đây là tiếng hát của con người muốn cống hiến sức mình cho cuộc sống, cho cách mạng, cho đất nước, để cùng với mọi người làm nên “mùa xuân lớn” của dân tộc và co đó là niềm vui lẽ sống. Nhân vật trữ tình lúc này không còn là “tôi” hay “ta” nữa. Công việc “lặng lẽ dâng cho đời” dù ở lứa tuổi nào đâu còn là của riêng ai! Nó là khát vọng sống của cả một thời đại, của tôi, của bạn, của cả thế hệ chúng ta. Chính sự chuyển đổi như vậy của nhân vật trữ tình đã làm cho khổ thơ tuy vẫn được diễn đạt bằng giọng thơ nhỏ nhẹ nhưng lại mang sức khái quát lớn, có ý nghĩa triết lý. Những từ gợi tả “nho nhỏ”, “lặng lẽ”, “dâng” lần nữa cho ta thấy sự gắn liền mình với cuộc đời chung của nhà thơ xứ Huế ấy là khiêm nhường, âm thầm, tự nguyện, thiêng liêng và thành kính sâu xa. Càng trân trọng hơn nữa khi ta biết được tác giả tâm nguyện sẽ cống hiến bền bỉ, kiên trì dù tuổi xuân đã qua, “tóc bạc” đã điểm”: “Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc” Điệp ngữ “Dù là” cùng với hình ảnh hoán dụ: “tuổi hai mươi”, “tóc bạc” phần nào cho ta thấy rõ những suy tư nung nấu của nhà thơ không dừng lại ở một khoảnh khắc nào đó mà nó đi theo suốt một đời người. So với khổ thơ trên, âm điệu của đoạn này chậm rãi, trầm lắng hơn, đọc lên nghe như lời độc thoại. Liên hệ: Chính “mùa xuân” tâm hồn bất diệt là nội lực to lớn giúp tác giả vượt lên bệnh tật để cất tiếng hát cuối cùng dâng đời. Trong phút cận kề của cái chết, thơ Thanh Hải vẫn chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu con người tha thiết. Có thể nói, ông là một “mùa xuân nho nhỏ” suốt đời cống hiến cuộc đời mình cho cách mạng. Tuổi thanh niên, ông hăng hái tham gia các phong trào văn nghệ ở quê nhà rồi trở thành chính trị viên của đoàn văn công kháng chiến. Sau hiệp định Giơnevơ 1954, không tập kết ra Bắc như nhiều chiến sĩ khác, nhà thơ tình nguyện ở lại phục vụ trong vùng địch tạm thời kiểm soát. Trong suốt thời kì kháng chiến ấy, những bài thơ chân thành giản dị của ông đã đến.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> với mọi người, cổ vũ và động viên tinh thần họ sống và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Cuộc đời Thanh Hải là bằng chứng rõ nhất thể hiện tình yêu quê hương đất nước và sự gắn bó với Cách mạng sâu sắc. Lẽ sống cao đẹp ấy cũng là lẽ sống chung của những con người hết lòng vì đất nước. Thi sĩ Tố Hữu từng có suy nghĩ như vậy: “Xin tạm biệt cuộc đời yêu quý nhất Còn mấy vần thơ, một nắm tro Thơ gởi bạn đời, tro bón đất Sống là cho và chết cũng là cho” Mở rộng: Tâm trạng và khát vọng của thi sĩ thật đáng trân trọng và cảm phục. Nó khác hẳn với tâm trạng bế tắc, buồn chán của những nhà thơ trong phong trào “Thơ Mới”: “ Tôi có chờ đâu có đợi đâu Đem chi xuân đến gợi thêm sầu Với tôi tất cả như vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng Với của hoa tươi muôn cánh rã Về đây đem chắn nẻo xuân sang” (“Xuân” – Chế Lan Viên) Đó là lí do khiến “Mùa xuân nho nhỏ” neo lại mãi trong lòng độc giả. Chuyển ý: Sau khi trút hết những dòng suy tư thầm kín, tác giả khe khẽ hát những giai điệu dân dã, trầm lắng của quê hương: “Mùa xuân – ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế”. Hình ảnh “mùa xuân” lại trở về với ý niệm ban đầu… “Câu Nam ai, Nam bình” là những làn điệu mộc mạc, sâu lắng của tác giả Điệp ngữ “Nước non ngàn dặm” tạo nhạc điệu hài hoà, ríu rít, ngân nga lan toả như một làn điệu dân ca xứ Huế, bài thơ đã kết thúc mà tiếng lòng của thi sĩ, nét nhạc của thơ cứ vấn vương mãi trong tâm trí độc giả, cứ giục giã muôn người… Đoạn thơ cuối cùng còn giúp ta hiểu thêm tình yêu quê hương, niềm tin sắt son vào tiền đồ đất nước của thi sĩ. Dưới cái nhìn của Thanh Hải, đất nước đã đi lên dựa trên những giá trị truyền thống vững bền… C. Kết bài: Qua việc sử dụng âm điệu thơ nhỏ nhẹ trầm lắng, ngôn ngữ thơ đơn sơ mà gợi cảm kết hợp những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng đặc sắc, thi sĩ Thanh Hải đã thể hiện tấm lòng thật đáng trân trọng của mình: suốt đời suy nghĩ và khát khao được cống hiến cho Tổ quốc, cho Cách mạng.. Bài thơ đã thực sự sống thay tác giả, trò chuyện với mọi người, an ủi, động viên chúng ta trong cuộc sống hiện tại lẫn tương lai. Sở nguyện của thi sĩ quá cố hay cũng chính là của độc giả chúng ta?... CÁC CÁCH MỞ BÀI – KẾT BÀI KHÁC MỞ BÀI: Cách 2: “Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai” (Cáo tật thị chúng) Một nhành mai của Thiền Sư Mãn Giác biểu tượng cho tình yêu cuộc sống, cho tình cảm lạc quan vẫn bất tử với thi ca,với thời gian,…Đọc lại áng thơ được viết trên giường bệnh của người xưa, ta lại bất chợt nhớ đến bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải…. Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm… Nêu khái quát nội dung… Cách 3: “Nếu là con chim chiếc lá Thì con chim phải hót,chiếc lá phải xanh.
<span class='text_page_counter'>(36)</span> Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” (“Một khúc ca xuân” – Tố Hữu) Thật vậy, “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” – quan niệm sống là phải cống hiến cho đời được tác giả gửi gắm trong một đoạn thơ tuyệt đẹp,…Ta lại bắt gặp ước nguyện sống cao quý ấy qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Bài thơ được viết trong những khoảnh khắc cuối cùng của một đời người. Trước khi đi xa, nhà thơ đã để lại cho đời một bài thơ thật nhân hậu, thiết tha, thanh thản, không hề gợn một nét ưu buồn của cuộc đời sắp tắt. Giữa mùa thu của đời mình nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất tuyệt.. Nêu khái quát nội dung: Những vần thơ ấy đã thể hiện tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống và khát vọng hiến dâng sức mình làm cho cuộc đời thêm phong phú… Cách 4: Ai đã từng đọc tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Nga n. Ôxtơrôpki làm sao có thể quên được câu nói nổi tiếng của nhân vật Pa-ven: “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình…” Quan niệm sống là phải sống cống hiến cho đời được gửi gắm trong tác phẩm thật cao đẹp. Lý tưởng sống ấy đã được nhiều nhà văn, nhà thơ đề cập đến. Cảm động làm sao khi ta biết rằng có những người đang đối mặt với bệnh tật, với cái chết mà vẫn thầm nguyện khao khát cống hiến cho đời. Đó là trường hợp của nhà thơ Thanh Hải với bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”… Những vần thơ ấy đã thể hiện niềm yêu mến thiết tha đối với thiên nhiên, đất nước, đồng thời còn ghi lại ước nguyện được làm “một mùa xuân nho nhỏ” dâng cho đời của tác giả. Cách 5: Mùa xuân đến, dạo gót trên những vườn hoa thắm, đánh thức những chồi non lộc biếc và làm vang ngân bao khúc ca xuân rộn rã. Đất trời trở mình thức giấc sau giấc ngủ mùa đông. Không khí se lạnh, hoa đào rung rinh khoe sắc rực rỡ, tràn trề sức sống chẳng kém những thiếu nữ tuổi đôi mươi. Cỏ cây cựa quậy, đâm chồi nảy lộc. Muôn thú tìm nhau, tập hợp bầy đàn. Và con người, sinh vật quy tụ tinh tú nhất của sự sống trên hành tinh này lại xốn xang với biết bao khát khao, hi vọng. những giai điệu ngọt ngào, những ý thơ tình tứ ẩn náu tự bao giờ chợt vang ngân trong tâm hồn thi nhân, đòi được hoà điệu cùng cùng thanh âm vũ trụ. Có lẽ vì thế mà mùa xuân đã trở thành một đề tài lớn và xuyên suốt trong thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay. Nhắc đến những dòng thơ xuân được xem là bất tử trong nền thơ ca của dân tộc làm sao lại quên nhắc đến “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Bài thơ được viết… Nêu khái quát nội dung: Những vần thơ xuân ấy đã thể hiện… KẾT BÀI: Cách 2: Bài thơ có nhịp hành khúc. “Mùa xuân nho nhỏ” đúng là hành khúc của mùa xuân, đặc biệt là hành khúc mùa xuân ở cuối mùa thu của một đời người muốn hoà nhập vào mùa xuân bất tận của Tổ quốc. Cách 3: Hãy sống đúng với tuổi trẻ của chúng ta. Hãy làm một mùa xuân cho xã hội, hãy gieo cấy trên cách đồng tương lai của tuổi trẻ để mang lại mùa xuân vĩnh cửu cho đất nước. Đó là tất cả những gì chúng ta cảm nhận được qua những vần thơ xuân của nhà thơ Thanh Hải. ...oo... Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương A.Mở bài: 1. Viễn Phương là một cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ. Năm 1976 khi đất nước được thống nhất, lăng Bác được khánh thành. Để thỏa mong ước được gặp Bác, tác giả đã thực hiện cuộc hành hương ra Bắc để gặp Người. Trong chuyến đi này, bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời. 2.Bài thơ giàu cảm xúc thể hiện lòng kính yêu chân thành, xót thương, tiếc nuối đối với vị cha già của dân tộc. B.Thân bài:.
<span class='text_page_counter'>(37)</span> 1.. Phân tích khổ thơ đầu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” - Câu mở đầu gọn như một lời thông báo. Qua cách xưng hô đầy thân mật: “Con- Bác” biểu hiện thái độ thành kính, tình cảm thân thương đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. - Tiếng “miền Nam” gợi sự xa xôi, tình cảm của nhân dân miền Nam khao khát được gặp Bác. “Miền Nam” còn thể hiện sự thân thương máu thịt với Bác: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” Tại kì họp tại quốc hội khóa I, Bác đã nói: “Miền Nam trong trái tim tôi”, rồi Người đưa tay chậm dòng nước mắt. Người luôn dành cho miền Nam ruột thịt những tình cảm thiêng liêng nhất. - Ta xúc động vì tấm lòng, hoàn cảnh của tác giả: từ miền Nam xa xôi ra thăm lăng Bác. “ Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” - Hình ảnh đầu tiên, ấn tượng đậm nét về cảnh quan quanh lăng Bác là “ hàng tre”_ hình ảnh thân thuộc của làng quê, đất nước Việt Nam. - Hình ảnh “hàng tre” mộc mạc, vẫn đứng thẳng hàng, hiên ngang dù “bão táp mưa sa” là biểu tượng cho tâm hồn, sức sống kiên cường bền bỉ của dân tộc. - Âm điệu thơ trữ tình, đậm màu sắc Nam bộ. 2. Phân tích khổ thơ thứ hai: “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…” - Hình ảnh mặt trời sóng đôi tạo sự cân đối cho khổ thơ “ Mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của vũ trụ vĩnh hằng tỏa sáng, đem lại sự sống cho muôn loài. Hình ảnh ẩn dụ: “Mặt trời trong lăng” là Bác, Người là vầng dương soi sáng con đường cách mạng đem lại độc lập cho nước nhà tự do cho dân tộc biểu tượng cho sự trường tồn của Người trong lòng mỗi con người Việt Nam. - “Tràng hoa”: Tình cảm kính yêu của dòng người vào viếng Bác chính là tràng hoa ngát hương dâng lên Người liên tưởng đặc sắc, dùng từ tinh tế thể hiện sự nâng niu quí trọng. - Hình ảnh ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” Bác đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân, đem đến mùa xuân cho đất nước và con người Việt Nam. - Điệp ngữ “ngày ngày” vòng tuần hoàn của thời gian là vô tận nhưng tình cảm của người dân Việt Nam dành cho Bác là vô tận. - Câu thơ cuối dài và dấu chấm lửng cuối câu đã góp phần diễn tả ý thơ trên. 3.Phân tích khổ thơ thứ ba: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Hai tiếng “miền Nam” xem lại khổ 1 Nếu ở khổ đầu, ta bắt gặp cảm xúc của riêng tác giả: “Con ở miền Nam...” thì giờ đây nhân vật trữ tình không xuất hiện trực tiếp nữa. Dòng cảm xúc ấy đã trở thành nỗi niềm chung của mấy mươi triệu người con Nam bộ. Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam – những người con xa – bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với Người. Thi sĩ ước nguyện là tiếng chim “hót quanh lăng Bác”, muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây” và hơn hết muốn làm “cây tre trung hiếu” canh gác cho Bác ngày đêm. Ba hình ảnh ẩn dụ “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre trung hiếu” đã kín đáo bộc lột tâm trạng lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa nơi yên nghỉ của Người. So với các khổ trên, nhịp điệu ở đây dồn dập hơn cùng với các điệp ngữ “muốn làm”, tác giả đã bộc lộ niềm khao khát chân thành, da diết của những người con miền Nam đối với Bác. Việc dùng những hình ảnh biểu tượng ở đây có tác dụng gợi lên sự liên tưởng, suy ngẫm sâu xa, việc bộc lộ cảm xúc thêm kín đáo. C. Kết bài: HS tự làm..
<span class='text_page_counter'>(38)</span> BÀI THAM KHẢO A. MỞ BÀI: * Cách 1: - Giới thiệu đôi nét về sự góp mặt của nhà thơ trong giai đoạn văn học chống Mỹ... và hoàn cảnh ra đời của bài thơ... (tham khảo cứ liệu trong sách giáo khoa) - Giới thiệu khái quát nội dung của bài thơ: ... Chuyển ý: ... * Cách 2: Trong những năm tháng chiến đấu chống Mỹ ở chiến trường Nam Bộ, nhà thơ Viễn Phương đã từng viết về Bác: “Xưa con ước mơ một ngày thống nhất Bác Hồ về tắm mát suối quê hương Đường quê con mịn màng cát trắng Mát bước chân Cha, gian khổ dặm trường” (“ Nghe lời Tổ quốc”) Ao ước đơn giản ấy cũng không thực hiện được mãi cho đến khi đất nước lặng yên tiếng súng, từ mảnh đất miền Nam mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ, thi sĩ làm một cuộc hành hương về Bắc. Dồn hết tình cảm thương nhớ và thái độ thành kính đối với vị cha già dân tộc suốt bao nhiêu năm, thi sĩ đã viết nên bài thơ thật xúc động “Viếng lăng Bác”. Từ việc khắc họa cảnh quan nơi lăng Bác, tác giả kín đáo bộc lộ tâm trạng xúc động, thái độ thành kính, tình cảm yêu thương của mình đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Chuyển ý: ... * Cách 3: “Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác (“Người đi tìm hình của Nước” - Chế Lan Viên) Viết về Bác Hồ, đó là nguồn cảm hứng dồi dào, là hạnh phúc đối với các văn nghệ sĩ ... Giữa những tác phẩm thành công khi viết về đề tài người cha già kính yêu của dân tộc như: “ Sáng tháng năm”, “Bác ơi” (Tố Hữu), “Người đi tìm hình của Nước” (Chế Lan Viên), “Đêm nay Bác không ngủ” (Minh Huệ) ... độc giả yêu thơ làm sao có thể quên được “Viếng lăng Bác” của thi sĩ Nam Bộ Viễn Phương. Bài thơ đã ghi lại thật xúc động tâm trạng, thái độ, suy nghĩ của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân tộc khi lần đầu tiên đặt chân đến viếng lăng của Người. Chuyển ý:... B. THÂN BÀI: Bàng bạc suốt bài thơ là cảm xúc, tâm trạng thành kính, cảm phục, tiếc thương của tác giả. Bài thơ mở ra bằng hình ảnh một người lặn lội từ chiến trường Nam Bộ ra thăm nơi yên nghỉ của vị lãnh tụ: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” Câu thơ mở đầu gọn như một lời thông báo. Qua cách xưng hô đầy thân mật: “Con – Bác”, thi sĩ đã biểu hiện thái độ thành kính, tình cảm thân thương của mình đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Câu thơ ấy khiến ta xúc động vì hoàn cảnh của tác giả: từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Hai tiếng “miền Nam” không chỉ gợi sự xa xôi mà còn gợi lên tình cảnh của nhân dân miền Nam – nhân dân một nửa nước đã “đi trước về sau” trong hai cuộc kháng chiến – khao khát mong mỏi được gặp Bác. Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và là ấn tượng đậm nét về cảnh quan quanh lăng Bác là hàng tre xanh. Đó là hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê Việt Nam, của đất nước Việt Nam. “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Hình ảnh “Hàng tre” thân thuộc, mộc mạc, vẫn đứng thẳng hàng, hiên ngang cho dù “Bão táp mưa sa” hay đó còn là biểu tượng cho tâm hồn, sức sống bền bỉ, kiên cường bất khuất của dân tộc. Tre còn gắn bó với người Việt Nam trong lao động “Tre dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang” (Thép Mới). Tre gắn bó cả với chiến đấu sinh tử của dân tộc. Cậu bé Gióng đã nhổ tre đằng ngà quật giặc Ân xâm lược, đồng bào miền Nam đã dùng gậy tầm vông, chọi với đại bác, chiến xa của thực dân đế quốc... - Âm điệu thơ trữ tình....
<span class='text_page_counter'>(39)</span> - Ngôn ngữ thơ mang đậm màu sắc Nam Bộ... Chuyển ý: Trên cái nền đơn giản mà trang nghiêm đó, thi sĩ đã tả lăng Bác với những dòng người xếp hàng đến viếng vị cha già kính yêu của dân tộc: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chính mùa xuân” Sử dụng hình ảnh ẩn dụ: “Mặt trời trong lăng” phải chăng nhà thơ muốn ca ngợi Bác là vầng thái dương soi sáng cho con đường cách mạng. Người đã đem lại ấm no hạnh phúc cho dân tộc. Hay hình ảnh ấy cũng là biểu tượng cho sự trường tồn bất tử của Người trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Tương tự như vậy, dòng người đến tưởng niệm Bác chính là “tràng hoa” dâng lên Người. Sự liên tưởng thật đặc sắc, cách dùng từ tinh tế, chứa đựng tình cảm nâng niu quý trọng. Mà nhà thơ cũng đang hòa nhập vào “tràng hoa” ấy. Thi sĩ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác: hình ảnh “bảy mươi chín mùa xuân”. Đây là hình ảnh hoán dụ lấy mộ nét trong cuộc đời bảy mươi chín tuổi để chỉ Bác Hồ. Con người “bảy mươi chín mùa xuân ấy” đã sống cuộc đời tươi đẹp như những mùa xuân và đã làm nên những mùa xuân cho đất nước, cho con người. Mở rộng: Nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng ca ngợi: “Bảy mươi chín tuổi xuân trong sáng Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay” Những biện pháp ẩn dụ sử dụng trong khổ thơ thật mới lạ đã diễn tả được tình cảm thương yêu, thái độ biết ơn và tự hào về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Điệp ngữ “ngày nay” trở đi trở lại trong đoạn thơ khiến ta cảm nhận như nó là tiếng bước đi của thời gian, vòng tuần hoàn của đất trời vô tận, vĩnh viễn như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác. Mặc dù thời gian cứ lẵng lặng trôi qua nhưng những tình cảm thương nhớ của người dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ vẫn còn mãi mãi. Câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai dài hơn các câu thơ khác cùng với dấu chấm lửng đã diễn tả rất đúng ý thơ. Chuyển ý: Giờ đây , người con miền Nam ấy đã được tận mắt chứng kiến dáng hình của Bác” “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Theo dòng người, nhà thơ đi vào trong lăng, một cảnh tượng thật tĩnh lặng trang nghiêm: Bác đang nằm đấy, Người đang ngủ dưới ánh sáng như ánh trăng dịu hiền. Xuất phát từ trái tim yêu thương và thái độ thành kính đã tạo cho tác giả một cái nhìn thật đẹp. Bác đã đi vào trong cuộc trường sinh thế nhưng tác giả cứ ngỡ như Người đang ngủ, một “giấc ngủ bình yên” thật đẹp của một con người suốt cả cuộc đời đấu tranh cho dân tộc, cho nhân loại. Giờ đây giấc ngủ của Bác thật thanh thản, thật trọn vẹn. Bởi lẽ ước nguyện thống nhất đất nước đã thành hiện thực. “Ham muốn tột bậc” của Người đã được thỏa nguyện. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” ở đây biểu tượng cho cuộc đời của Bác. Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước, dân tộc. Nhưng tất cả vẫn không làm khuây được nỗi nhớ thương, sự mất mát không gì bù đắp được trong lòng mỗi con người Việt Nam. Hiểu được sự thật ấy, tác giả đã có tâm trạng quặn đau, xót xa “nhói ở trong tim”. Giờ đây, Người không còn diễm phúc nhìn thấy đất nước nở hoa độc lập, kết trái tự do. Bác vĩnh viễn không còn đặt chân trên thành phố mà mấy mươi năm người đã ra đi. Từ “nhói” diễn tả tâm trạng tiếc thương, xốn xang, xúc động mạnh, không kìm nén được trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Chuyển ý: Còn đứng trên đất Bắc, tác giả đã phải bịn rịn nghĩ tới lúc chia tay, phải xa nơi Bác nghỉ. Dòng cảm xúc giờ đây đã được đẩy tới mức cao nhất, tuôn trào mạnh mẽ nhất: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”. Câu thơ đầu như một lời nói thông thường, không cần dùng đến kỹ thuật, giọng thơ không ồn ào thế mà đọc lên thấy xúc động. Trước hết bởi cách nói, cách bộc lộ có một cái gì rất Nam bộ: chân.
<span class='text_page_counter'>(40)</span> thành, bộc trực: “Thương trào nước mắt”. Những giọt lệ ấy như dồn tụ tất cả nỗi niềm bùi ngùi, thái độ thành kính tiếc thương, tâm trạng quặn đau trong tâm hồn con người. Hai tiếng “miền Nam” xem lại khổ 1 Nếu ở khổ đầu, ta bắt gặp cảm xúc của riêng tác giả: “Con ở miền Nam...” thì giờ đây nhân vật trữ tình không xuất hiện trực tiếp nữa. Dòng cảm xúc ấy đã trở thành nỗi niềm chung của mấy mươi triệu người con Nam bộ. Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam – những người con xa – bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với Người. Thi sĩ ước nguyện là tiếng chim “hót quanh lăng Bác”, muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây” và hơn hết muốn làm “cây tre trung hiếu” canh gác cho Bác ngày đêm. Ba hình ảnh ẩn dụ “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre trung hiếu” đã kín đáo bộc lột tâm trạng lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa nơi yên nghỉ của Người. So với các khổ trên, nhịp điệu ở đây dồn dập hơn cùng với các điệp ngữ “muốn làm”, tác giả đã bộc lộ niềm khao khát chân thành, da diết của những người con miền Nam đối với Bác. Việc dùng những hình ảnh biểu tượng ở đây có tác dụng gợi lên sự liên tưởng, suy ngẫm sâu xa, việc bộc lộ cảm xúc thêm kín đáo. C. KẾT BÀI: Toàn bộ bài thơ có giọng thành kính, trang nghiêm, phù hợp với không khí trang nghiêm ở lăng, nơi lãnh tụ yên nghỉ. Hòa cùng giọng điệu ấy là những hình ảnh ẩn dụ đã làm toát lên niềm xúc động, lòng biết ơn và tự hào của tác giả. Đó không chỉ là tình cảm của cá nhân mà dường như đó là tình cảm chung của nhân dân đối với lãnh tụ. Đọc xong bài thơ, ai trong chúng ta lại chẳng tâm nguyện sẽ sống sao cho xứng đáng với những gì mà Bác đã trao: “Bác đã đến, mang cho đời tất cả Và ra đi trao tất cả cho đời” ( “Có một niềm mơ” – Viễn Phương) KẾT BÀI 2: “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc. Nếu phải chọn một trong những bài thơ hay viết về Bác thì độc giả yêu thơ hẳn không thể không nhắc đến “Viếng lăng Bác” KẾT BÀI 3: “Viếng lăng Bác” đã được viết trong niềm vui toàn thắng của dân tộc và trong nỗi xót xa thương cảm của Viễn Phương cũng như của vạn vạn đồng bào cả nước. Viễn Phương đã khơi dậy trong ta tình yêu đất nước tha thiết, xây dựng trong ta một hình tượng của vị lãnh tụ mà có người chưa một lần gặp gỡ. Ý nghĩa bài thơ mà Viễn Phương muốn gửi gắm đến chúng ta qua bài thơ này là như vậy đấy. Chúng ta thực sự cảm ơn ông, một Viễn Phương với biết bao tình cảm chân thành dành cho Bác đã để lại một tác phẩm chan chứa tình cảm yêu thương sâu sắc cho chúng ta và cả cho mai sau. “Viếng lăng Bác” rồi sẽ sống mãi mãi như vị cha già kính yêu của dân tộc như vầng dương, như bầu trời vĩnh cửu bất diệt..
<span class='text_page_counter'>(41)</span> ĐOẠN VĂN Công thức xây dựng đoạn văn nghị luận: a/ Đoạn nghị luận xã hội: 1/ Giới thiệu luận điểm. 2/ Hiện trạng của vấn đề. 3/ Nguyên nhân của vấn đề. 4/ Hậu quả (hoặc kết quả) của vấn đề ..? 5/ Giải pháp.. 1 câu giới thiệu chủ đề. 2 đến 3 câu nêu rõ hiện trạng của vấn đề. 2 đến 3 câu giải thích nguyên nhân của vấn đề. 3 đến 4 câu nêu rõ hậu quả (kết quả của vấn đề). 2 đến 3 câu đưa ra biện pháp khắc phục (hay phát huy) vấn đề.. b/ Đoạn nghị luận tư tưởng đạo lý: 1/ Giới thiệu luận điểm.. 1 câu giới thiệu chủ đề.. 2/ Thế nào…? 3/ Tại sao ta phải…?. 1 đến 2 câu giải thích rõ chủ đề. 3 đến 5 câu giải thích và làm rõ lý do tại sao phải thực hiện đạo lý. 3 đến 5 câu nêu rõ cách thức thực hiện bài học đạo lý.. 4/ Chúng ta phải làm gì để thực hiện đạo lý …? Nếu đề yêu cầu viết văn bản: - Mục 1 đưa lên làm mở bài. - Các mục còn lại là thân bài. - Viết thêm ý kết thúc để làm kết bài.. 1. ĐẠO HIẾU Mở đoạn (Nêu luận điểm) : Lòng hiếu thảo là một trong những phẩm chất, đọa lí tốt đẹp của con người.Phát triển đoạn (giải thích) : Lòng hiếu thảo có nghĩa là lòng kính yêu cha mẹ, người đã có công sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Mẹ chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau, cha nặng vai gánh vác nuôi nấng ta nên người. Suốt cuộc đời mẹ cha tận tụy hi sinh không hề tính tháng tính ngày… Vậy đạo làm con phải giữ gìn chữ hiếu. Thờ mẹ, kính cha không phải chỉ là lời nói suông mà cần được thể hiện bằng thái độ và hành động cụ thể… Kết đoạn ( chốt ý, liên hệ) : Hãy giữ gìn và bồi đắp phẩm chất này bằng sự tự giác trong suy nghĩ và hành động cụ thể. Viết đoạn (1)Dân tộc Việt Nam vốn coi trọng đạo lí làm người, nhất là chữ hiếu. (2) Chữ hiếu mà ta đề cập đến chính là lòng kính yêu của con cái đối với cha mẹ.(3) Phận là con ta phải có bổ phận hiếu kính đối với cha mẹ vì công cha, nghĩa mẹ vô cùng to lớn. (4) Sự to lớn ấy thể hiện trước tiên ở công sinh thành: cha mẹ là người sinh ra ta, không có cha mẹ thì không có ta. (5) Không chỉ sinh chúng ta ra, cha mẹ còn nuôi dưỡng ta khôn lớn nên người với bao lo toan vất vả: cơm ăn áo mặc hằng ngày, thuốc thang khi ta đau ốm, các vật dụng ta dùng đều do công lao động vất vả và tấm lòng lo toan, yêu thương bao la của cha mẹ.(6) Ta hiểu điều hay lẽ phải, biết cách cư xử trong gia đình, ngoài xã hội đều do công lao dạy bảo, giáo dục của cha mẹ.(7) Ta được đi học để mở mang kiến thức trở thành người có văn hóa cũng là nhờ công sức và tình thương của cha mẹ.(8) Vậy ta phải làm thế nào để tỏ lòng hiếu thảo của mình đối với cha mẹ?(9) Khi còn nhỏ, ta biết vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ những công việc nhà, cố gắng học để làm rạng danh, là niềm tự hào của cha mẹ.(10) Khi ta trưởng thành thì cha mẹ đã già yếu, ta phải chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ với tấm lòng quý trọng của mình. (11) Nhìn vào dân gian từ xưa đến nay có biết bao tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ làm ta cảm phục: Mục Kiều Liên, Thúy Kiều, …(12) Phát huy truyền thống tốt đẹp đó, nhiều địa phương trong cả nước, hằng năm đều tổ chức ngày hội vinh danh “Những người con hiếu thảo”; tổ chức trọng thể lễ Vu lan báo hiếu cha mẹ.(13) Tuy nhiên bên cạnh những người con hiếu thảo ta vẫn thấy đây đó những đứa con bất hiếu, đối xử tệ bạc với cha mẹ, đó là những hành vi xấu mà chúng ta cần lên án vì nó là biểu hiện của sự suy đồi đạo đức xã hội. (14) Tóm lại, công ơn cha me là vô cùng to lớn và vĩ đại, phận làm con chúng ta phải biết giữ tròn chữ hiếu. (15) Riêng em, em sẽ cố gắng học tập chăm chỉ, vâng lời để cha mẹ vui lòng..
<span class='text_page_counter'>(42)</span> 2/ LÒNG NHÂN ÁI Dàn ý Mở đoạn (Nêu luận điểm) : Lòng nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Phát triển đoạn (giải thích) : Nhân ái là tình yêu thương giữa người với người trong xã hội. Biểu hiện của lòng nhân ái là sự đồng cảm, sẻ chia, bảo bọc, giúp đỡ lẫn nhau,…. Ta phải yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau vì giữa mọi người đều có mối quan hệ gắn bó mật thiết về vật chất lẫn tinh thần. lòng nhân ái được thể hiện bằng nhiều việc làm cụ thể như …. Kết đoạn ( chốt ý, liên hệ) : Cách sống đẹp cần gìn giữ và phát huy qua mọi thời đại. Viết đoạn (1)Từ xưa đến nay, lòng nhân ái là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, nó thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người trong xã hội. (2)Người Việt Nam luôn tự hào là « Con rồng cháu tiên », cùng sinh ra trong một bọc trứng, cùng chung một giống nòi. (3)Bởi vậy, từ ngàn xưa, cha ông ta đã cất lên những tiếng hát đầy yêu thương : « Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước thì thương nhau cùng ». (4) Biểu hiện của lòng nhân ái đôu khi rất đơn giản. (5) Kính trọng ông bà, cha mẹ, yêu thương, giúp đỡ anh chị em,… là thể hiện tình thương yêu đối với những người ruột thịt. (6) Quan tâm, chia sẽ, giúp đỡ bạn bè, đồng nghiệp cũng là yêu thương. (7) Xót xa cho những đứa trẻ mồ côi, những người nghèo khổ hay đôi khi chỉ là cầm tay dìu một bà lão qua đường cũng là thể hiện lòng nhân ái đối với đồng loại. (8) Mở rộng ra, chúng ta có thể yêu thương loài vật, nâng niu từng ngọn cây, cành lá… (9) Lòng nhân ái rất cần thiết trong cuộc sống. (10)Hãy tưởng tượng thử xem nếu thế giới này không có tình yêu thương, sẽ như thế nào nếu trái tim chúng ta đều khép kín và băng giá ? (11) Tất cả sẽ sẽ lạnh lẽo biết bao, tất cả sẽ bị bao trùm bởi đám mây u ám và cuộc sống sẽ vô cùng tẻ nhạt, vô vị. (12) Và mỗi con người sẽ biến thành một ốc đảo đơn độc trong thế giới rộng lớn này. (13) Hãy mở rộng hồn mình, hãy sưởi ấm trái tim của nhau bằng hơi ấm của tình thương, hãy chia sẻ với mọi người những già bạn có ! (14) Giúp đỡ những người còn khó khăn đang ở ngay cạnh bạn ; góp một phần nhỏ để giúp đỡ những người đồng bào ruột thịt đang bị thiên tai hoành hành,… (15) Làm được như vậy là bạn đang nối kết những sợi dây vô hình kéo con người xích lại gần nhau hơn và tiếp nối truyền thống đạo ly tốt đẹp của dân tộc. 2. Sức mạnh của ý chí Trải qua những thành công và thất bại trong cuộc sống lắm thử thách, người xưa đã rút ra một kinh nghiệm “Có chí thì nên”.(1) (2)Câu tục ngữ khẳng định, có ý chí, nghị lực, lòng quyết tâm con người sẽ thành công trong cuộc đời.(3)Thật vậy, cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, con đường dẫn đến thành công không bao giờ bằng phẳng mà luôn gập ghềnh. (4) Còn con người , mỗi khi bắt tay vào làm công việc gì cũng mong muốn công việc ấy kết thúc thắng lợi.(5) Chính vì thế, con người phaỉ có bản lĩnh và quyết tâm hành động để đạt được mục đích đã đề ra, không cho phép mình đầu hàng hay thối lui trước hoàn cảnh. (6)Người có ý chí coi gian nan, khó khăn trên đường đời là dịp để tôi luyện bản thân và trưởng thành: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”.(7)Và trong quá trình tiến hành công việc, nếu biết giữ vững ý chí sẽ có nhiều biện pháp sáng tạo giúp ta vượt qua thử thách.(8)Từ việc học tập, nghiên cứu, đến đấu tranh vì độc lập tự do, con người nhờ có sức mạnh ý chí mà làm nên những chuyện phi thường: các danh nhân, các nhà bác học, các vị anh hùng đều để lại sự nghiệp lớn lao. (9)Những thành tựu xuất sắc cho dân tộc, cho nhân loại đều là kết quả của qúa trình bền gan, lập chí, trải qua quá trình rèn luyện không ngừng, vượt lên mọi cảnh ngộ.(10)Quả thật “Ví thử đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai”.(11)Ngược lại, người thiếu ý chí sẽ dễ dàng buông xuôi, không tự tin vào chính mình để giải quyết một công việc nào dù đơn giản và cả đời họ sẽ không biết đến thành công.(12) Có thể khẳng định: ý chí là phẩm chất của người lao động chân chính, cũng là truyền thống của dân tộc Việt Nam. (13)Học sinh chúng ta đang trên con đường chinh phục đỉnh cao của trí tuệ nhân loại, phía trước thật nhiều chông gai vì vậy hãy kế thừa và phát huy truyền thống của thế hệ đi trước: trước bài văn, bài toán khó, công thức dài… không được lười suy nghĩ, thấy khó mà nản chí. (14)Hãy tập lối sống dám đương đầu, bất chấp mọi khó khăn, có tinh thần cầu tiến để vững vàng đi tiếp trọn con đường mà chúng ta đã xác định: “Đường đi khó không vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Có công mài sắt có ngày nên kim/ Nước chảy đá mòn/ kiến tha lâu cũng đây tổ/Không có việc gì khó.Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển.Quyết chí ắt làm nên…..
<span class='text_page_counter'>(43)</span> 3. Nói không với thái độ thiếu nghiêm túc trong thi cử. Tổng thống Mĩ A.Lincoln đã nói: “Xin thầy dạy cho cháu thấy rằng bị điểm kém còn hơn là gian lận trong thi cử”. Đây cũng chính là vấn đề nhức nhối hiện nay trong ngành giáo dục. Trong học đường, bên cạnh những thành tích cao đáng tự hào mà thế hệ trẻ Việt Nam bằng sự nổ lực của bản thân đã đạt trong những kì thi quốc Tế thì trong nước ta hiện tượng gian lận trong thi cử, thật đáng xấu hổ, ngày càng phổ biến và nghiêm trọng. Biểu hiện rất phong phú như nhắc bài nhau, táo bạo hơn thì mở sách, tài liệu, mang phao vào phòng thi… Nhiều lí do được học sinh mang ra để giải thích cho hành vi sai trái cuả mình: chương trình học nặng nên không nắm được kiến thức, phải đi học thêm nhiều nên không còn thời gian để chuẩn bị bài, vì áp lực nặng nề của gia đình và bản thân nên không muốn điểm thấp,… Tuy nhiên, đó chỉ là cái cớ để tự bào chữa cho sự lười biếng, ỷ lại mà thôi. Đã đi học thì phải học bài, nắm vững kiến thức và vận dụng nó khi làm kiểm tra để được đánh giá sức học của mình một cách khách quan và chính xác. Hậu quả của việc gian lận không phải nhỏ: bị trừ điểm, hạ hạnh kiểm, hủy bài thi, chịu sự chê cười của bạn bè, mất lòng tin của mọi người xung quanh và nghiêm trọng và lỗ hỏng kiến thức của bản thân. Nếu sự thiếu trung thực này không bị phát hiện thì hậu quả nghiêm trọng hơn: học sinh bằng lòng với điểm ảo, có thói quen gian lận dù có nắm được kiến thức cũng không tự tin khi làm bài, giáo viên tự mãn với thành tích của học trò nên chủ quan trong giảng dạy, cha mẹ bị ngộ nhận về học lực của con, đến khi ra trường những con người này chỉ có năng lực ảo. Bác sĩ chẩn đoán bệnh sai gây chết người, kĩ sư xây dựng công trình sập lún, giáo viên truyền đạt kiến thức sai, công nhân làm việc năng suất, chất lượng sản phẩm kém… Hậu quả là cả xã hội thiếu tri thức – thiếu tài – thiếu trung thực – thiếu đức, thật vô cùng tai hại. Là học sinh cuối cấp, chuẩn bị bước vào một kì thi tuyển đầy thử thách, chúng ta hãy tự tin đứng lên bằng chính nỗ lực của bản thân, nói không với “quay cóp” thì chắc chắn kết quả chúng ta đạt được là cao quý vô cùng. 1. Sống có trách nhiệm Xã hội văn minh đòi hỏi con người sống phải có trách nhiệm với cộng đồng(1).Vậy thế nào là người sống có trách nhiệm(2)? Sống có trách nhiệm là tuân thủ những qui định của tập thể, của xã hội mà mình đang sống; là làm tròn bổn phận và nghĩa vụ của mình với tập thể, với xã hội ấy(3).Trong gia đình, ông bà, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cháu(4). Con cháu có trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc tuổi già(5). Mỗi thành viên trong gia đình đều phải có trách nhiệm quan tâm, lo lắng, bảo vệ, chăm sóc nhau(6). Ở ngoài xã hội, mỗi công dân phải có trách nhiệm tuân thủ những qui định của pháp luật, của đạo lí trong lối sống và hành vi của mình, đặt lợi ích của tập thể, của cộng đồng, của quốc gia lên hàng đầu(7). Người sống có trách nhiệm sẽ có kế hoạch làm việc cụ thể, làm việc nghiêm túc vì thấy rằng thành quả của công việc không chỉ vì lợi ích của bản thân mà còn là đóng góp của họ cho xã hội(8). Chính vì lẽ đó mà người sống có trách nhiệm sẽ làm việc hiệu quả hơn, sống nghiêm túc và tử tế hơn(9). Như vậy, sống có trách nhiệm sẽ giúp con người ta sống đẹp hơn, xã hội văn minh, tốt đẹp, phồn vinh hơn(10).Để rèn luyện tinh thần trách nhiệm, ngay từ bé, bản thân mỗi chúng ta hãy có trách nhiệm với bản thân trong việc học tập như hoàn thành bài tập thầy cô đã giao, rèn luyện,bảo vệ bản thân; có trách nhiệm với gia đình như phụ giúp bố mẹ việc nhà; trách nhiệm với nhà trường và xã hội như tuân thủ các qui định của các đơn vị tập thể này(11).Tuy nhiên, xã hội vẫn còn tồn tại những kẻ sống vô trách nhiệm(12).Những kẻ này thường làm trái pháp luật, đi ngược lại với lợi ích của cộng đồng và xã hội(13). Chúng là những con sâu làm rầu nồi canh(14). Hãy triệt để bày trừ thói vô trách nhiệm để xã hội trong sạch, phát triển và tốt đẹp hơn(15). 2. Sống đẹp Trong cuộc sống, có những người chỉ biết sống cho riêng mình, đó là lối sống nhỏ nhen, ích kỉ(1). Muốn xã hội tốt đẹp hơn thì con người phải biết sống cao đẹp(2). Lẽ sống cao đẹp ở đây là sống có mục đích, có ước mơ, lí tưởng, sống vì cộng đồng, sống để cống hiến cho xã hội, cho đất nước(3).Sống đẹp là sống có ý chí cầu tiến, biết đứng dậy bằng chính đôi chân của mình khi bị vấp ngã, biết bền lòng và dũng cảm vượt qua những thử thách, khó khăn để vươn lên, chấp cánh cho ước mơ của mình được bay cao, bay xa(4). Chúng ta cần phải sống đẹp vì đó là mục đích tốt đẹp mà mỗi con người cần hướng tới. Là lí do mà mỗi con người cần mong muốn đạt được(5).Người có lí tưởng sống cao đẹp là người luôn suy nghĩ và hành động để hoàn thiện mình hơn, giúp ích cho gia đình, xã hội và đất nước(6).Trong lịch sử của dân tộc có biết bao tấm gương về sống đẹp: xưa có Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…; nay có anh Kim Đồng, chị Võ Thị Sáu, anh Lê Văn Tám,… và cao cả hơn là Bác Hồ kính yêu(7). Họ là người sống hết mình vì dân tộc, đã hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời cho dân tộc, cho Tổ quốc(7). Họ xứng đáng là tấm gương sáng về lí tưởng sống đẹp cho chúng ta noi theo(8). Bên cạnh.
<span class='text_page_counter'>(44)</span> đó cũng không hiếm những người có lối sống tiêu cực, đi ngược với luân lí và đạo đức(8). Đó là những tên bán nước, buôn người, những người đầu độc chính dân tộc mình bằng thuốc phiện, rượu cồn(9). Đó là những tấm gương xấu đáng bị bài trừ(10). Vậy chúng ta làm gì để trở thành người có lí tưởng sống đẹp(11)? Trước hết, ta cần phải xác định lí tưởng sống đúng đắn, có những hoài bão lớn ích nước lợi nhà ra sao(12). Tiếp theo cần phải lên kế hoạch học tập, rèn luyện kĩ năng, sức khỏe nhằm thực hiện mục đích đó(13). Và điều quan trọng là chúng ta phải cụ thể hóa những kế hoạch ấy bằng những hành động cụ thể(14). Hãy sống và cống hiến hết mình như ngày hôm nay là ngày cuối cùng ta được sống, không sống hoài, sống phí dù chỉ một ngày(15).. Người con gái Nam Xương.
<span class='text_page_counter'>(45)</span>
<span class='text_page_counter'>(46)</span>