Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Huyện ba bể tỉnh bắc kạn (1975 - 2005).pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.41 KB, 107 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH





HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN
(1975 - 2005)






LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ









THÁI NGUYÊN - NĂM 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH



HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN
(1975 - 2005)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54




LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG NGỌC LA


THÁI NGUYÊN - NĂM 2010


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................................................................................................. 7
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN TRƯỚC NĂM 1975 ........... 7
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .......................................................................................................................................... 7
1.2. Dân tộc và truyền thống đấu tranh cách mạng ................................................................................................... 10
1.3. Tình hình kinh tế - xã hội trước năm 1975 ............................................................................................................... 14
CHƢƠNG 2: HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN TRONG GIAI ĐOẠN 1975 - 1985 ....... 23
2.1. Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng (1975 -
1978) ........................................................................................................................................................................................................................ 23
2.2. Sáp nhập vào tỉnh Cao Bằng, ra sức bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội
(1979 - 1985) .................................................................................................................................................................................................. 34
2.2.1. Trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ................................................. 34
2.2.2. Ra sức phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng ................................... .36
CHƢƠNG 3: HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(1986 -2005) ........................................................................................................................................................................................................... 48
3.1. Bước đầu tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội (1986 - 1990) .................................. 48
3.2. Đưa nền kinh tế - xã hội thoát ra khỏi khủng hoảng (1991 - 1996) ............................................ 60
3.3. Tái lập tỉnh Bắc Kạn, huyện Ba Bể đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, phát

triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo (1997 - 2005) .......................................................................... 70
3.3.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng ................................................................................................................................................. 72
3.3.2. Phát triển kinh tế - xã hội ............................................................................................................................................. 73
3.3.3. Công cuộc xoá đói giảm nghèo ............................................................................................................................ 85
KẾT LUẬN .................................................................................................................................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................................................................................... 98
PHỤ LỤC .......................................................................................................................................................................................................................104



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Huyện Ba Bể (tức Chợ Rã cũ) là một trong những huyện miền núi vùng cao
của tỉnh Bắc Kạn, là nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em, có truyền thống chống
ngoại xâm oanh liệt. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, đồng bào các dân tộc
huyện Ba Bể luôn đoàn kết chặt chẽ bên nhau trong lao động sản xuất, trong xây
dựng cuộc sống cũng như trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm góp phần quan
trọng vào sự phát triển chung của đất nước.Với những thành tích to lớn mà Đảng bộ
và nhân dân các dân tộc huyện Ba Bể đã giành được, Đảng và Nhà nước ta đã phong
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân cho huyện Ba Bể và 6 xã.
Trong thời kì vận động Cách mạng Tháng Tám, Ba Bể là một trong những
huyện có cơ sở, phong trào cách mạng sớm, là huyện thành lập được chính quyền
cách mạng cấp huyện đầu tiên của tỉnh Bắc Kạn, Ba Bể đã đập tan các cuộc tiến công
của phát xít Nhật vào vùng giải phóng, giữ vững chính quyền cách mạng, bảo vệ an
toàn cuộc hành trình của lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Cao Bằng qua Ba Bể về Tân Trào
(Sơn Dương, Tuyên Quang) để chỉ đạo cuộc chuẩn bị tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.

Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng bộ huyện Ba Bể ra đời đã lãnh đạo
nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc kháng chiến kiến quốc của Đảng; bảo vệ và
giải phóng quê hương, đập tan các cuộc hành quân xâm lược của thực dân Pháp,
góp phần vào giải phóng Bắc Kạn; là hậu phương kháng chiến, nhân dân các dân
tộc huyện Ba Bể đã tiến hành cuộc vận động tiễu phỉ, củng cố chính quyền, đẩy
mạnh sản xuất, phát triển văn hoá giáo dục, ra sức đóng góp sức người, sức của cho
cuộc kháng chiến của dân tộc đi đến thắng lợi.
Phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng của mình, Đảng bộ và nhân dân
các dân tộc huyện Ba Bể ra sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, đóng góp
sức người, sức của vào thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2
huyện Ba Bể đã và đang nỗ lực phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Từ năm 1975 - 2005, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo nhân dân phát huy thắng lợi,
khắc phục khó khăn tiếp tục vươn lên giành những thắng lợi mới. Những năm
1975-1978, huyện Ba Bể đã ra sức phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, ổn định đời
sống, giữ vững trị an xã hội, củng cố an ninh quốc phòng. Từ 1979-1996, sáp nhập
vào tỉnh Cao Bằng, huyện Ba Bể đã làm tốt nhiệm vụ hậu cứ trong chiến tranh bảo
vệ biên giới phía Bắc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng, giành được nhiều thắng lợi, góp phần ổn định, nâng cao đời sống vật chất
và văn hoá tinh thần của nhân dân. Tỉnh Bắc Kạn tái lập (cuối 1996), từ năm 1997
huyện Ba Bể tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, ra sức xây dựng cơ sở
vật chất kĩ thuật, phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo đạt nhiều thành tựu
to lớn. Kể từ khi chia tách huyện (2003), huyện Ba Bể đã khơi dậy sức lao động
sáng tạo của nhân dân, khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của địa phương, tranh thủ
mọi nguồn vốn từ các chương trình, dự án để phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an

ninh quốc phòng, đạt được nhiều thành tựu mới.
Trải qua 30 năm (1975 - 2005), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, kinh tế -
xã hội huyện Ba Bể không ngừng phát triển, quê hương, con người đều đổi mới, đời
sống của nhân dân các dân tộc không ngừng nâng cao, trật tự xã hội, an ninh quốc
phòng được giữ vững. Đó là tiền đề quan trọng để huyện Ba Bể vươn lên tiếp tục
đạt được những thành tích to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, cùng đồng bào cả nước phấn đấu cho mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ
bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Việc nghiên cứu về huyện Ba Bể trong giai đoạn 1975 - 2005 là một việc làm
hết sức cần thiết, góp phần khẳng định các giá trị lịch sử, văn hoá, những thành tựu
to lớn mà Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Ba Bể đã giành được trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện đổi mới quê hương. Đồng thời qua việc
nghiên cứu về huyện Ba Bể giai đoạn 1975 - 2005 sẽ giúp ta thấy được những ưu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3
điểm để phát huy và những tồn tại để khắc phục cho xứng với tiềm năng và nguồn
lực vốn có của huyện Ba Bể.
Việc nghiên cứu về huyện Ba Bể trong giai đoạn 1975 - 2005 còn góp phần
cung cấp thêm cho việc nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương, phục vụ cho công
tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống quý báu của huyện Ba Bể cho thế hệ trẻ.
Vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu đề tài: Huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn (1975 - 2005)
không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có cả những ý nghĩa về mặt thực tiễn.
Vì thế, tôi đã chọn vấn đề: “Huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn (1975 - 2005)” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến đề tài, có tính định hướng cho việc nghiên cứu đó là các Nghị
quyết, các Văn kiện Đại hội đại biểu của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ
tỉnh Bắc Thái, Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Đảng bộ tỉnh Cao Bằng và Đảng bộ huyện Ba

Bể từ năm 1975 đến năm 2005, các Báo cáo tổng kết năm từ 1975 - 2005 của
Huyện uỷ Ba Bể, của Uỷ ban nhân dân huyện Ba Bể.
Các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài chủ yếu là Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng và Lịch sử Đảng bộ huyện
Ba Bể qua các thời kì từ 1930 - 2005, Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp,
chống đế quốc Mĩ của tỉnh Bắc Kạn và các huyện trong tỉnh, bao gồm:
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000.
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (1975-2005), Tập 2, Tỉnh uỷ Bắc Kạn xuất
bản năm 2005.
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930 - 1945), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003.
- Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Bể (1930 - 1954), Huyện ủy Ba Bể xuất bản năm 1998.
- Lịch Sử Đảng bộ huyện Ba Bể (1954 - 1975), Huyện ủy Ba Bể xuất bản năm 2001.
- Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Bể (1975 - 2005), Huyện ủy Ba Bể xuất bản năm 2010.
- Bắc Kạn - Lịch sử kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội 2001.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4
- Bắc Kạn - Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc (1954 - 1975), Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2004.
- Lịch sử lực lƣợng vũ trang nhân dân tỉnh Bắc Kạn thời kì xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc (1975 - 2005), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2008.
- Ba Bể lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975),
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.
- Chợ Đồn lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975),
Đảng uỷ - Ban Chỉ huy Quân sự huyện Chợ Đồn xuất bản năm 2006.
Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) còn có:
- Luận văn thạc sĩ lịch sử của Âu Thị Hồng Thắm: “Bắc Kạn trong cuộc kháng
chiến chống Pháp 1946 - 1954”.

- Luận văn thạc sĩ lịch sử của Ma Thị Ngọc: “Ba Bể trong cuộc kháng chiến
chống Pháp 1945 - 1954”.
Liên quan tới địa danh, cảnh quan Chợ Rã (Ba Bể) và phong tục, lễ hội của
các tộc người huyện Ba Bể còn có:
- Dƣ địa chí của Nguyễn Trãi, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội 1960.
- Hội xuân Ba Bể của Hoàng Ngọc La đăng trên báo Nhân Dân cuối tuần số ra
ngày 3.3.2002.
Tuy nhiên, nghiên cứu, tìm hiểu về huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn từ năm 1975
đến năm 2005 dưới góc độ lịch sử dân tộc, với đề tài luận văn là công trình đầu tiên.
Mặc dù vậy, chúng tôi đánh giá rất cao các công trình nói trên và coi là nguồn tư
liệu quý để vận dụng, định hướng giúp cho việc nghiên cứu đề tài Luận văn thạc sĩ
của mình.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Luận văn nêu lên khái quát về huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn trước năm 1975.
- Luận văn tập trung nghiên cứu về huyện Ba Bể - tỉnh Bắc Kạn trong giai
đoạn từ năm 1975 đến năm 2005.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu huyện Ba Bể - tỉnh Bắc Kạn trong các giai
đoạn lịch sử từ năm 1975 - 2003 và Ba Bể sau khi chia tách huyện từ năm 2003 - 2005.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về huyện Ba Bể trong 30 năm từ
năm 1975 đến năm 2005.
3.3. Nhiệm vụ đề tài
- Đề tài nghiên cứu một cách khái quát về huyện Ba Bể : vị trí địa lí, điều kiện
tự nhiên, dân tộc và truyền thống đấu tranh cách mạng, đặc điểm kinh tế - xã hội

trước năm 1975.
- Nội dung quan trọng của Luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện quá trình phát triển kinh tế - xã hội, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
của huyện Ba Bể từ 1975 - 2005.
- Từ kết quả nghiên cứu, luận văn còn rút ra một số tồn tại, đề xuất một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Ba Bể trong giai đoạn tiếp theo.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Nguồn tƣ liệu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các nguồn tài liệu sau:
- Các văn kiện, Nghị quyết của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, Đảng
bộ tỉnh Bắc Kạn, Đảng bộ tỉnh Cao Bằng và Đảng bộ huyện Ba Bể từ 1975 đến 2005.
- Các báo cáo tổng kết hàng năm từ 1975 - 2005 của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân
dân huyện Ba Bể, niên giám thống kê huyện Ba Bể, tài liệu của Ban Chỉ huy quân
sự huyện, Công an huyện về xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ trị an xã hội, an
ninh quốc phòng.
- Các công trình nghiên cứu khoa học về Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, tỉnh
Cao Bằng và huyện Ba Bể từ năm 1975 - 2005.
- Các tài liệu từ 1975 - 2005 của các đoàn thể của huyện như Mặt trận, Hội liên
hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên và của phòng văn hoá thông tin, phòng giáo dục...
được khai thác nhằm phục vụ cho luận văn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6
- Ngoài ra, luận văn còn tham khảo một số bài viết, bài nghiên cứu đăng trên
các báo và tạp chí, sử dụng các tư liệu điền dã liên quan đến đề tài luận văn.
4.2 . Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích của đề tài là nghiên cứu về “Huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn
(1975 - 2005)”. Trên cơ sở các nguồn tư liệu chúng tôi đã sử dụng các phương pháp

sau để nghiên cứu đề tài này:
Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc là phương pháp chủ yếu,
ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp thống kê, so
sánh, đối chiếu... để làm nổi bật quá trình phát triển kinh tế - xã hội, công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của
huyện Ba Bể trong 30 năm (1975 - 2005).
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn tái hiện lại một cách chân thực, hệ thống về sự phát triển kinh tế -
xã hội, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện đường lối đổi mới, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của huyện Ba Bể từ 1975 - 2005 và
những thắng lợi bước đầu trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của huyện Ba Bể từ
1997 - 2005. Từ kết quả nghiên cứu, luận văn còn nêu lên những mặt tồn tại về kinh
tế - xã hội của huyện Ba Bể, rút ra một số giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh hơn
nữa sự phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Ba Bể.
- Luận văn cũng góp phần bổ sung thêm nguồn tài liệu phục vụ cho nghiên cứu
lịch sử huyện Ba Bể, phục vụ giáo dục truyền thống và giảng dạy cũng như học tập
lịch sử địa phương của huyện Ba Bể.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung luận văn được chia thành 3 chương:
Chƣơng 1: Khái quát huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn trƣớc năm 1975.
Chƣơng 2: Huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn 1975 - 1985.
Chƣơng 3: Huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn trong thời kì đổi mới (1986 - 2005).


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7
PHẦN NỘI DUNG:


CHƢƠNG 1:
KHÁI QUÁT HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN TRƯỚC NĂM 1975

1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lí
“ Bắc Kạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh”
Ba Bể là một huyện miền núi vùng cao của tỉnh Bắc Kạn, trước khi tách khu
vực phía bắc thành lập huyện Pác Nặm (5/2003), huyện Ba Bể có diện tích tự nhiên
là 115.173 ha. Huyện nằm ở phía đông bắc của tỉnh, cách trung tâm tỉnh lị 62km,
phía đông giáp với huyện Ngân Sơn và huyện Nguyên Bình (tỉnh Cao Bằng), phía
tây giáp huyện Chợ Đồn và tỉnh Tuyên Quang, phía nam giáp huyện Bạch Thông,
phía bắc giáp huyện Bảo Lạc (Cao Bằng). Toàn huyện có 25 xã và 1 thị trấn (Chợ Rã),
293 thôn bản với tổng số hộ năm 2000 là 12.924 hộ, dân số 70.890 người, mật độ
62 người/km
2
.
Huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn sớm có một vị trí quan trọng trong tiến trình phát
triển của lịch sử. Địa phận huyện Ba Bể ngày nay, vào thời nhà Lí thuộc đất huyện
Vĩnh Thông, thời nhà Lê nằm ở châu Bạch Thông thuộc phủ Thông Hóa. Thị trấn
Chợ Rã thuộc huyện lị Ba Bể. Tên gọi Chợ Rã xuất hiện sớm trong lịch sử, được
nêu lên trong Dƣ địa chí của Nguyễn Trãi và sau đó nêu ở Đại Nam nhất thống chí.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), tỉnh Thái Nguyên được thành lập, địa bàn Chợ Rã
thuộc đất Thái Nguyên [12, tr.11-12].
Trong những năm từ 1884 - 1989, thực dân Pháp lần lượt đem quân đánh
chiếm các tỉnh ở Việt Bắc, trong đó có tỉnh Thái Nguyên. Sau khi hoàn thành công
cuộc chinh phục và bình định phong trào kháng chiến chống Pháp ở tỉnh Thái Nguyên,
để thống trị và bóc lột nhân dân các dân tộc miền núi, ngày 11-4-1900 Toàn quyền
Đông Dương đã ra nghị định tách một phần đất phía bắc của tỉnh Thái Nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8
thành lập tỉnh Bắc Kạn gồm các châu Bạch Thông, Chợ Rã, Thông Hoá (sau gọi là
Na Rì), Cảm Hoá (sau gọi là Ngân Sơn). Ngày 25-6-1901, thực dân Pháp sáp nhập
địa giới tổng Yên Đĩnh thuộc huyện Phú Lương (Thái Nguyên) vào châu Bạch
Thông (Bắc Kạn). Ngày 8-6-1916, Thống sứ Bắc Kỳ lại ra Nghị định tách một số
vùng đất thuộc phía tây bắc châu Bạch Thông, phía tây châu Chợ Rã và tổng An Biện
Thượng thuộc Định Hoá (Thái Nguyên) để thành lập châu Chợ Đồn gồm 3 tổng:
Đông Viên, Nhu Viễn và Nghĩa Tá. Như vậy, từ tháng 4-1900 đến tháng 6-1916 địa giới
hành chính của châu Chợ Rã ăn sang cả một số địa phương của châu Chợ Đồn, đó
là vùng đất thuộc tổng Nhu Viễn (Chợ Đồn) tiếp giáp với châu Chợ Rã [5, tr.9-10].
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ngày 21-4-1965
Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra quyết định số
103/NQ - TVQH hợp nhất hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái.
Tiếp đó, để có hậu phương cho tỉnh Cao Bằng, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc,
tại kì họp thứ 4, Quốc hội khóa VI, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(29/12/1978) quyết nghị tách hai huyện của tỉnh Bắc Thái là Ngân Sơn và Chợ Rã
nhập vào tỉnh Cao Bằng. Theo Quyết định số 144 - HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng
ngày 06-11-1984, huyện Chợ Rã được đổi tên thành huyện Ba Bể. Để đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng nước ta trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ngày 06-11-1996 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa IX kì họp thứ X đã quyết định phê chuẩn chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh
Thái Nguyên và Bắc Kạn, hai huyện Ngân Sơn và Ba Bể thuộc về tỉnh Bắc Kạn.
Ngày 28-5-2003, Thủ tướng Chính phủ kí Nghị định số 56/2003/NĐ - CP tách 10
xã phía bắc huyện Ba Bể thành lập huyện Pác Nặm.
Huyện Ba Bể hiện nay có 16 đơn vị hành chính gồm 15 xã (Thượng Giáo, Địa
Linh, Bành Trạch, Cao Trĩ, Khang Ninh, Quảng Khê, Đồng Phúc, Hoàng Trĩ, Nam
Mẫu, Cao Thượng, Yên Dương, Chu Hương, Mỹ Phương, Hà Hiệu, Phúc Lộc) và 1
thị trấn (Chợ Rã).


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Ba Bể là huyện nằm ở thượng nguồn sông Năng, có nhiều đồi núi cao thấp
khác nhau, độ cao trung bình so với mặt nước biển là 700m. Phía bắc có dãy Phja
Dạ đỉnh cao nhất gần 1000m, vùng trung tâm có dãy Phja Bjoóc chạy dài theo
hướng đông - nam, ngoài ra còn có nhiều dãy núi chạy theo nhiều hướng thấp dần
từ bắc sang đông nam chia cắt địa hình huyện thành nhiều thung lũng có địa hình
phức tạp. Về tổng quan có thể chia thành hai vùng địa hình rõ rệt: vùng núi cao và
vùng núi thấp. Vùng núi cao chủ yếu nằm ở hướng đông bắc và tây - tây bắc, vùng
này rải rác có những dãy núi đá cao, độ dốc lớn, có các khu ruộng bậc thang xen kẽ.
Đất canh tác chủ yếu là nương rẫy thích hợp cho việc trồng cây lương thực cạn, cây
đặc sản, cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi đại gia súc. Vùng núi thấp xen kẽ
đồng ruộng tương đối bằng và thấp trũng tập trung ở khu trung tâm và hướng nam,
thích hợp cho trồng các loại cây lương thực như: lúa nước, ngô, đậu đỗ các loại, cây
ăn quả, cây đặc sản và chăn nuôi tiểu gia súc, gia cầm.
Huyện Ba Bể nằm ở khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đủ nhiệt độ, nắng
mưa được chia làm 2 mùa chính: Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung
bình từ 22 - 28 độ C, thường xảy ra mưa to gió lốc, gây lũ lụt; mùa lạnh từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình từ 14 - 19 độ C (lạnh nhất là tháng 1)
thường có mưa phùn, gió rét hoặc sương muối ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của
động thực vật và sinh hoạt của con người.
Trên địa bàn các xã đều có suối, một số xã có sông Năng chảy qua rất thuận lợi
cho sản xuất nông nghiệp nhưng hàng năm, từ tháng 6 đến tháng 10 thường có các
trận mưa lũ lớn, các suối nhỏ thường gây lũ quét tại các xã vùng cao nên cũng gây
ảnh hưởng không nhỏ đến năng xuất và sản lượng cây trồng.
Huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn là một huyện miền núi có nguồn tài nguyên động
thực vật quý hiếm nhưng do nạn chặt phá rừng làm nương rẫy và săn bắt bừa bãi

nên tài nguyên rừng cạn kiệt, các loại động vật quý hiếm không còn nhiều. Hiện nay
chỉ còn khu vực vườn quốc gia Ba Bể là rừng nguyên sinh với diện tích 23.340 ha.
Vườn quốc gia Ba Bể ngày nay là một di sản thiên nhiên quý giá với hệ thống rừng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10
nguyên sinh trên núi đá vôi có tới 417 loài thực vật trong đó có nhiều gỗ quý như:
đinh, lim, sến, nghiến, lát…ngoài các loại thực vật thân gỗ còn có hàng trăm loài
hoa phong lan, địa lan, trúc dây cùng nhiều cây dược liệu quý hiếm và 299 loài
động vật có xương sống. Nhiều loài động vật quý vẫn còn lưu giữ được như phượng
hoàng đất, gà lôi, vọc mũi hếch. Trong hồ Ba Bể vẫn còn 49 loài cá nước ngọt trong
đó có một số loài quý hiếm như cá chép kính, các rầm xanh, cá chiên... [12, tr.14].
Thượng nguồn sông Năng nằm trên địa bàn hai xã: Bằng Thành và An Thắng
còn có vàng sa khoáng mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể cho nhân dân các dân tộc
huyện Ba Bể. Gắn liền về phía tây - nam của hồ Ba Bể là thác Đầu Đảng có độ dốc
cao, lưu lượng nước lớn, tạo ra khả năng thuỷ điện có công xuất cao cho huyện Ba Bể.
Huyện Ba Bể được thiên nhiên ưu đãi có một danh lam thắng cảnh nổi tiếng là
Hồ Ba Bể rộng gần 500 ha. Hồ là nơi đổ vào của các con sông, suối, đó là sông
Năng ở phía đông, suối Tả Han ở phía bắc và suối Nam Cường ở phía tây bắc. Độ
sâu trung bình của hồ là 20 - 35 mét, dung tích 90 triệu m3 nước. Do sự biến đổi
của địa hình caxtơ đã tạo thành một hồ trên núi đá vôi với các cảnh quan thiên nhiên
hùng vĩ. Hồ gồm 3 bể lớn theo tên địa phương là Pé Lầm, Pé Lù, Pé Lèng, có lẽ vì
thế mới có tên gọi là hồ Ba Bể. Phía bắc hồ có một đảo nhỏ nằm ở giữa hồ đó là đảo
Pò Giả Mải (đảo bà góa). Ba Bể còn có Ao tiên với huyền thoại đầy tính nhân văn,
có sông Năng với động Puông và thác Đầu Đảng kì vĩ gắn liền với hồ Ba Bể trở
thành khu danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta [46,
tr.6]. Quần thể hồ và các dòng sông, con suối, núi rừng, hang động gắn liền với hệ
động thực vật phong phú cùng với các truyền thuyết, phong tục, văn hóa, lễ hội
trong vùng đã tạo nên một trong những vùng di sản thiên nhiên vật thể và phi vật

thể đẹp vào bậc nhất ở phía bắc nước ta.
1.2. Dân tộc và truyền thống đấu tranh cách mạng
Ba Bể là huyện miền núi của tỉnh Bắc Kạn, là nơi hội tụ, sinh sống của 7 dân
tộc anh em bao gồm: Tày, Nùng, Dao, Kinh, H’Mông, Hoa, Sán Chí. Theo thống kê
dân số của huyện Ba Bể năm 2000, dân tộc Tày chiếm tỉ lệ đông nhất (57,6%), sống
tập trung thành làng bản trong các thung lũng, lòng chảo, lòng máng hoặc theo hai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

11
bên bờ sông, suối. Đồng bào Tày làm ruộng lúa nước là chủ yếu, ngoài ra còn trồng
thêm ngô, lạc, đỗ ở các soi bãi.
Dân tộc Dao có số dân đứng thứ hai sau dân tộc Tày (chiếm 18%). Dân tộc
Nùng chiếm tỉ lệ 8% dân số, sống rải rác ở các thung lũng, soi bãi hoặc xen kẽ trong
các làng bản của người Tày. Đồng bào Nùng cũng trồng lúa nước và trồng ngô cùng
các loại hoa màu khác như đồng bào Tày.
Dân tộc H’Mông chiếm tỉ lệ khoảng 9%, bằng nửa số dân người Dao. Dân tộc
Dao và H’Mông sinh sống chủ yếu ở các vùng núi cao, làng bản thưa thớt, nhà cửa
đơn sơ. Địa bàn sinh sống tập trung của đồng bào là quanh chân núi Phja Bjoóc.
Dân tộc Sán Chí chiếm tỉ lệ 1,3% tổng số dân trong huyện, họ sống trong các thung
lũng, sườn đồi, làm nghề nông như đồng bào các dân tộc Tày, Nùng [12, tr.17-18].
Dân tộc Kinh và Hoa chiếm khoảng 6,1% dân số, sống tập trung chủ yếu ở thị
trấn, số đông làm nghề buôn bán. Trước đây nền kinh tế tự nhiên giữ vai trò khá
quan trọng, đồng bào tiến hành săn bắt, hái lượm các sản vật tự nhiên bổ sung các
sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi làm nên bữa ăn hàng ngày.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, các dân tộc đã xây dựng nên mối quan hệ
gắn bó cộng đồng, việc làng, việc nước có nhau, từ việc nhà cửa tới việc ma chay,
cưới xin, đắp đập, khơi mương, cấy lúa, làm cốm...Đồng bào sồng thuần phác, chân
thành, hào hiệp, mến khách, kính già, yêu trẻ, có tinh thần tương thân, tương ái,
thăm hỏi, giúp đỡ những người họ hàng hay làng xóm gặp hoàn cảnh khó khăn, đau

ốm, bệnh tật... Dân tộc nào cũng hăng hái tham gia các sinh hoạt cộng đồng, hay kết
bạn, giữ mãi tình anh em, họ hàng đến 5, 7 đời.
Nhân dân các dân tộc huyện Ba Bể có truyền thống lao động cần cù, khai phá
núi đồi làm ruộng, xây dựng bản làng và đấu tranh chống ngoại xâm oanh liệt.
Trong nhân dân còn lưu truyền các truyền thuyết lịch sử: Về Pú Lương Quân là
người khởi đầu công cuộc khơi sông phá núi làm ruộng; về hoạt động của Nùng Trí
Cao trong cuộc đấu tranh chống Tống; về đảo An Mã (hồ Ba Bể) có mộ của 7 tướng
quân nhà Mạc xưa kia từng lập căn cứ ở đây. Trong những năm 1833 - 1835, Ba Bể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12
còn là căn cứ và là bàn đạp tiến công của quân khởi nghĩa Nùng Văn Vân đã lôi
cuốn đông đảo nhân dân tham gia chống ách thống trị của nhà Nguyễn [12, tr.16].
Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám, để chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Ba Bể là một địa bàn chiến lược quan trọng
trên con đường “Nam tiến” đánh thông căn cứ địa Cao Bằng với phong trào cách
mạng Thái Nguyên và dưới xuôi theo chủ trương của Hồ Chí Minh. Do yêu cầu của
cách mạng, Ba Bể đã trở thành một trong những huyện có cơ sở, phong trào cách
mạng sớm từ cuối năm 1941 đầu năm 1942. Với truyền thống yêu nước, nhân dân
các dân tộc huyện Ba Bể đã hăng hái tham gia Mặt trận Việt Minh và các lực lượng
vũ trang ở địa phương, bất chấp mọi sự khủng bố của kẻ thù.
Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt,
đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể đã tiến lên đánh đổ ách thống trị của đế quốc và
phong kiến tay sai, thành lập được chính quyền cách mạng của nhân dân
(30/3/1945), là huyện có chính quyền cách mạng sớm nhất của tỉnh Bắc Kạn.
Dưới sự lãnh đạo của cán bộ, đảng viên và chính quyền cách mạng, quân và
dân huyện Ba Bể đã đập tan cuộc tiến công lớn nhất của phát xít Nhật (5/1945), bảo
vệ vững chắc vùng giải phóng, bảo đảm an toàn cho cuộc hành trình của lãnh tụ Hồ
Chí Minh từ căn cứ địa Cao Bằng qua Ba Bể về Tân Trào (Sơn Dương - Tuyên

Quang), góp phần quan trọng vào thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám.
Đảng bộ huyện Ba Bể được thành lập từ cuối năm 1946, trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946 - 1954), Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc
trong huyện thực hiện thắng lợi công cuộc kháng chiến kiến quốc của Đảng ở địa
phương; bảo vệ và giải phóng quê hương (từ 16/10 đến 17/11/1947) đóng góp sức
người, sức của trong chiến dịch giải phóng tỉnh Bắc Kạn (8/1949). Là hậu phương
kháng chiến, các cấp uỷ, chính quyền huyện Ba Bể đã lãnh đạo nhân dân các dân
tộc tiến hành cuộc vận động tiễu phỉ, củng cố chính quyền, đẩy mạnh sản xuất, phát
triển văn hóa - giáo dục. Đồng thời huyện ra sức làm tròn nhiệm vụ hậu phương,
đáp ứng hậu cần tại chỗ cho lực lượng vũ trang, cho một số cơ quan Trung ương
như Đài Tiếng nói Việt Nam đóng ở xã Khang Ninh (1947 - 1953), Toà soạn báo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

13
Cứu quốc ở Bản Hậu (xã Mỹ Phương) và một số cơ quan của tỉnh Bắc Kạn đóng ở
xã Đồng Phúc. Trong Chiến dịch biên giới (1950), Chiến cuộc đông - xuân 1953 -1954
và Chiến dịch Điện Biên Phủ, đều có những đóng góp đáng kể về lương thực, thực
phẩm của nhân dân các dân tộc Ba Bể nhằm góp phần đưa cuộc kháng chiến của
dân tộc đi đến thắng lợi. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, huyện Ba Bể đã huy
động 10.000 dân công phục vụ tiền tuyến, riêng năm 1953 có 2.333 dân công làm
nhiệm vụ bảo đảm giao thông, vận chuyển vũ khí, lương thực thực phẩm cho chiến
trường [1, tr.155]. Từ năm 1946 - 1954, huyện Ba Bể đã tiễn đưa 1300 thanh niên
lên đường nhập ngũ (chưa kể 2.333 thanh niên xung phong), trong đó ngoài số
thương bệnh binh, 82 cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh [1, tr.332]. Với thành tích
đóng góp to lớn sức người sức của cho kháng chiến chống Pháp, huyện Ba Bể đã
vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân cho huyện Ba Bể và 6 xã, đó là các xã Khang Ninh, Thượng Giáo,
Cao Thượng, Mỹ Phương, Đồng Phúc, Nam Mẫu.
Phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng trong cách mạng tháng Tám và

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
huyện Ba Bể đã ra sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, góp phần xứng
đáng của mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Trong kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, đồng bào các dân tộc đã ra sức thực hiện nhiệm vụ kháng
chiến, bảo đảm “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Trong 4
năm (1965-1968), nhiều xã thực hiện nghĩa vụ lương thực vượt mức kế hoạch và
năm sau tăng hơn năm trước. Xã Hà Hiệu tính trong 3 năm (1966-1968) nộp kho
Nhà nước trên 79 tấn lương thực. Xã Đồng Phúc năm 1968 đạt nghĩa vụ lương thực
48,7 tấn. Mức đóng góp lương thực bình quân trong 4 năm (1965-1968) đối với xã
Mỹ Phương mỗi năm thực hiện 50 tấn và xã Chu Hương là 53 tấn. Toàn huyện năm
1967 và đầu năm 1968 thực hiện nghĩa vụ lương thực 534 tấn. Ngoài lương thực,
đồng bào còn thực hiện nghĩa vụ về thực phẩm, bảo đảm yêu cầu, chỉ tiêu giao cho
của tỉnh [13, tr.105]. Trong những năm 1969-1975, đồng bào tiếp tục ra sức đóng
góp hàng ngàn tấn lương thực. Tính riêng một số năm như năm 1972 thực hiện 800 tấn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

14
bằng 80% kế hoạch, năm 1973 đạt 98,9% kế hoạch và 9 tháng đầu năm 1974 thực
hiện 312 tấn bằng 105% kế hoạch [13, tr.130].
Liên tục trong những năm chống Mĩ cứu nước (từ 1954 - 1975), hơn 2000 con
em các dân tộc huyện Ba Bể đã lên đường nhập ngũ, trong đó ngoài số thương bệnh
binh, 312 cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Cả huyện có 10 thanh niên đi làm
nhiệm vụ thanh niên xung phong, riêng cuộc chiến đấu bảo vệ hàng hoá, tài sản tại
ga Lưu Xá - Thái Nguyên (22/12/1972) có 9 thanh niên xung phong là con em các
dân tộc huyện Ba Bể đã hy sinh anh dũng [1, tr.332]. Những đóng góp hy sinh của
đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể đã góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.3. Tình hình kinh tế - xã hội trước năm 1975
1.3.1. Về kinh tế

Trước đây, nền kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc tồn tại bền bỉ, giữ vai trò quan
trọng trong cuộc sống của các đồng bào dân tộc huyện Ba Bể nói riêng và trong xã
hội miền núi nói chung.
Ngoài trồng lúa, ngô, nhân dân các dân tộc huyện Ba Bể còn trồng khoai, sắn,
bầu, bí, đỗ, lạc...Nhà nào cũng có một vườn chuối và một số cây ăn quả như cam,
quýt, mận, hồng... Chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, ngựa, gà vịt, ngan,
ngỗng... khá phát triển. Trước kia, đồng bào còn nuôi chim cốc để bắt cá trên sông,
trên hồ, nuôi chó để săn bắt thú, phổ biến là nuôi mèo để bắt chuột để bảo vệ mùa màng.
Nghề thả các ruộng nay bị mai một, một số gia đình hiện nay chủ yếu nuôi cá ở ao.
Các nghề thủ công gia đình khá phổ biến, phát triển nhất là dệt vải khổ hẹp và
dệt thổ cẩm. Phụ nữ các dân tộc huyện Ba Bể có nhiều kinh nghiệm trong việc trồng
bông, kéo sợi, dệt vải... Nam giới giỏi các nghề mộc, đan lát, nghề rèn phục vụ cho
sinh hoạt và sản xuất. Nam giới trong các dân tộc còn biết chế tạo và sử dụng thông
thạo cả cung nỏ, súng kíp...
Ba Bể là huyện sớm hình thành các nghề: làm gạch, ngói, nung vôi. Ngày nay
còn để lại tên gọi cả một nghề là làng Thạch Ngõa và Nà Ngõa (ruộng ngói) ở xã
Mỹ Phương chính là nơi lấy đất làm gạch, ngói.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

15
Trước sự phát triển của khoa học, công nghệ và vật liệu mới, nhiều nghề thủ
công ngày nay đã bị mai một chỉ còn nghề làm gạch, ngói vẫn phát triển, một số địa
phương còn trồng bông dệt vải, nhuộm chàm, sản phẩm làm ra được nhiều người ưa
chuộng. Ngoài ra, đồng bào các dân tộc còn có nhiều kinh nghiệm trong việc trồng
mía và ép mía lấy mật làm bánh, kẹo; bắc máng dẫn nước làm ruộng và phục vụ
sinh hoạt; làm cọn nước và cối giã gạo bằng sức nước…
Nền kinh tế tự cấp, tự túc giữ vai trò khá quan trọng, tồn tại bền bỉ trong xã hội
miền núi đã căn bản khép kín quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng, ngăn cản sự phát
triển của nền kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, trong cách mạng và trong kháng chiến

nền kinh tế tự cấp, tự túc đã đáp ứng được yêu cầu hậu cần tại chỗ cho lực lượng vũ
trang cách mạng. Nói đến nền kinh tế tự cung tự cấp không có nghĩa là không có
trao đổi hàng hoá, nhất là những mặt hàng cần thiết phục vụ cho sản xuất và đời
sống của đồng bào các dân tộc. Trước cách mạng tháng 8 -1945, chợ phiên đã được
họp ở các xã Hà Hiệu (chợ Hà Hiệu), Chu Hương (chợ Pù Mắt), Bằng Thành (chợ
Pác Nặm) và chợ Slo ở huyện lỵ Chợ Rã (Ba Bể) nên còn gọi là Chợ Rã. Chợ phiên
ở huyện Ba Bể không chỉ là nơi trao đổi hàng hoá mà đó còn là nơi sinh hoạt văn
hoá của cộng đồng các dân tộc trong và ngoài huyện. Trong các chợ, có chợ Pác
Nặm xưa kia là đầu mối các đường dây buôn lậu thuốc phiện, nơi bán nhiều trâu,
bò, động vật hoang dã để đưa về xuôi hoặc mang sang Trung Quốc. Chợ Slo là chợ
lớn nhất trong vùng, có từ lâu đời đến nay vẫn thu hút nhiều đồng bào trong tỉnh
Bắc Kạn và các tỉnh lân cận (Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang) tới họp chợ

[12, tr.82-83].
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương của Đảng: Đẩy
mạnh tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự cấp tự túc, vừa kháng chiến vừa kiến
quốc nhân dân các dân tộc huyện Ba Bể đã ra sức phát triển kinh tế nông nghiệp,
chú trọng sản xuất lương thực nhằm đáp ứng nhu cầu của địa phương và góp phần
cho kháng chiến. Ngoài trồng lúa, các soi bãi ven sông Năng thuộc các xã Thượng
Giáo, Cao Thượng, Mẫu Ninh và Quảng Khê đất đai màu mỡ được nhân dân tận
dụng trồng ngô gồm vụ mùa và vụ chiêm. Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16
túc, diện tích trồng ngô qua từng năm đều tăng, năm 1950 tăng 15% so với năm
1949 [12, tr.117]. Ba Bể trong những năm kháng chiến được Tỉnh ủy đánh giá là
một trong ba huyện (Chợ Đồn, Bạch Thông, Chợ Rã) có phong trào thi đua lao
động sôi nổi nhất tỉnh [12, tr.118]. Về lúa nước, từ sản xuất một vụ, năm 1952
phong trào làm chiêm được triển khai, chuyển biến mạnh, nhất là trong vụ sản xuất

đông - xuân năm 1953. Cùng với sản xuất lương thực, đồng bào còn thực hiện kinh
tế tự túc trên các mặt như lập tổ rèn sản xuất nông cụ, trồng cói, dệt chiếu và đặc
biệt là phát triển nghề trồng bông dệt vải. Năm 1952, Ba Bể trồng được 1.726.120
ống hạt bông giống, thu hoạch được 274.300 kg bông có hạt, đứng đầu các huyện
trong tỉnh và tăng hơn năm 1951 là 730 kg [12, tr.120].

Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, từ năm 1955 - 1957,
huyện Ba Bể thực hiện kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá. Trong
phong trào đẩy mạnh sản xuất lương thực, vụ đông-xuân 1955 - 1956, phong trào
trồng lúa chiêm và lúa Nam Ninh phát triển rộng trong 19 xã, đạt sản lượng 811.700 kg
[13, tr.19]. Do đẩy mạnh khai hoang mở rộng diện tích canh tác, làm thuỷ lợi, bón
phân, sản lượng thóc hai vụ năm 1956 đạt 6.200 tấn, năm 1957 tăng 6,4% so với
năm 1956. Kết quả sản xuất nông nghiệp đã chấm dứt tình trạng thiếu ăn kinh niên
của một số hộ, nhất là trong các dân tộc ít người ở vùng cao [13, tr.20]. Trong khôi
phục kinh tế, ngoài sản xuất lương thực, huyện Ba Bể còn phát huy thế mạnh miền
núi đẩy mạnh chăn nuôi, nhất là chăn nuôi đại gia súc. Cuối năm 1956 đầu năm
1957, Ba Bể có hơn 6.790 con trâu, 670 con bò và 196 con ngựa [13, tr.21]. Ngoài
trồng trọt và chăn nuôi, đồng bào các dân tộc còn tìm cách khai thác các nguồn lâm
thổ sản như gỗ, trúc, vầu, nấm hương, mộc nhĩ… phục vụ nhu cầu địa phương, đời
sống gia đình và góp phần cho xuất khẩu.
Trong những năm 1958 - 1960, huyện Ba Bể thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội
chủ nghĩa. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Bắc Kạn, Huyện uỷ Ba Bể xác định nhiệm
vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với Ba Bể chủ yếu là thực hiện cuộc vận động hợp
tác hoá nông nghiệp đối với nông dân. Từ 2 hợp tác xã thí điểm ở Đồng Phúc, đến
cuối năm 1960, Ba Bể đã có 102 hợp tác xã với 2.412 hộ, đạt tỷ lệ 66,37%, trong đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17
ở vùng thấp có 11 xã đạt tỷ lệ từ 73,45% đến 93,35% số hộ tham gia [13, tr.37].

Nhờ đó, sản xuất nông nghiệp của huyện Ba Bể có nhiều chuyển biến mới. Dựa vào
sức mạnh tập thể, nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng, bảo đảm nước tưới;
tổng sản lượng lương thực cả hai vụ (chiêm và mùa), lúa ruộng và lúa rẫy đạt trên
7.618 tấn [13, tr.40]. Cùng với những tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi
cũng có sự tăng trưởng đáng kể. Đàn trâu năm 1958 là 7.176 con, đến năm 1960
tăng 4,56%; đàn bò từ chỗ 930 con (1958) đến năm 1960 tăng 20,43%; đàn lợn từ
10.994 con (1958) đến năm 1960 tăng 18% [13, tr.41].
Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), chủ trương của
Đảng bộ huyện Ba Bể là tiếp tục củng cố, phát triển phong trào hợp tác hoá nông
nghiệp, coi sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ chính của kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất. Để tăng sản lượng lương thực, Huyện uỷ lãnh đạo nhân dân thực hiện thâm
canh tăng vụ, phấn đấu đạt ba chỉ tiêu về diện tích, năng suất và sản lượng. Năm
1962, toàn huyện đạt tổng sản lượng lương thực trên 7.651 tấn, bình quân nhân
khẩu đạt 357 kg/người/năm. Từ năm 1963 đến năm 1965, nhìn chung năng suất và
sản lượng lương thực đạt xấp xỉ chỉ tiêu trên giao, đời sống nhân dân được ổn định,
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ lương thực và thực phẩm đối với nhà nước. Chăn
nuôi đại gia súc, gia cầm trong kế hoạch 5 năm (1961-1965) chủ yếu vẫn là các hộ
gia đình. Chăn nuôi trâu phát triển mạnh, không ngừng tăng lên từ 2.906 con (1963)
đến năm 1965 đạt trên 9.800 con, vượt 15% kế hoạch [13, tr.61-62]. Trải qua 5 năm
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế (1961-1965), huyện Ba Bể đã đạt được nhiều
thành tích trên các mặt sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Năng suất, sản lượng
lương thực và hoa màu, hiệu quả chăn nuôi năm sau tăng hơn năm trước, đời sống
nhân dân các dân tộc được cải thiện. Phát huy thế mạnh của huyện miền núi, huyện
Ba Bể đã đẩy mạnh công tác trồng rừng. Từ năm 1961 - 1965, trung bình mỗi năm
huyện Ba Bể thu mua hơn 18 vạn cây trúc dùng làm cần câu và sào nhảy dùng để
xuất khẩu.
Từ năm 1965 - 1975, trong điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế
quốc Mỹ lần thứ nhất và lần thứ hai diễn ra ác liệt, nhân dân các dân tộc huyện Ba

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


18
Bể cùng với đồng bào cả nước vẫn ra sức đẩy mạnh phát triển kinh tế, làm tròn
trách nhiệm của hậu phương.
Phong trào hợp tác xã tiếp tục được củng cố. Tại thời điểm năm 1967, trên 25
xã và thị trấn vẫn duy trì 96 hợp tác xã với 3600 hộ, chiếm tỷ lệ 81,91% số hộ trong
toàn huyện. Để phát triển sản xuất, các hợp tác xã đã đẩy mạnh công tác làm thuỷ
lợi, tính riêng năm 1967, toàn huyện huy động 561.534 công đào đắp 63.650 m
3
đất,
đá, nhờ đó mở rộng được diện tích ruộng hai vụ [13, tr.105].
Với phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm đang” của phụ nữ,
phong trào làm phân xanh, thu gom phân chuồng, áp dụng các biện pháp khoa học
kĩ thuật trong sản xuất diễn ra sôi nổi.
Nhờ phong trào thi đua yêu nước trên mặt trận sản xuất, năng suất, sản lượng
lương lương thực qua các năm căn bản vẫn được giữ vững trên 6000 tấn, riêng năm
1967 là năm chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ diễn ra ác liệt nhất đối với tỉnh Bắc
Thái, huyện Ba Bể vẫn đảm bảo tổng sản lượng lúa nước cả hai vụ đạt gần 6.040
tấn. Năm 1972, với tinh thần “vụ mùa kiên cường thắng Mỹ”, huyện Ba Bể đã cấy
đạt 90,7% kế hoạch. Nhờ bảo đảm nước tưới, chăm sóc tốt đồng ruộng, tổng sản
lượng lương thực (lúa nước, lúa rẫy và ngô) vẫn đạt trên 7000 tấn [13, tr.123].
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, tổng đàn trâu, bò từ 12.555 con (1968) đến năm
1969 đạt trên 14.000 con; đàn lợn từ 19.533 con (1968) đến năm 1969 đạt 20.728
con [13, tr.118].
Nghề rừng tiếp tục được củng cố, phát triển, khai thác gỗ năm 1971 đạt
1.932,54 m
3
, bằng 96,62% kế hoạch. Nạn chặt phá rừng giảm đi nhiều so với những
năm trước.
Nhờ củng cố được phong trào hợp tác xã, giữ vững được sản xuất nên đời sống

nhân dân các dân tộc ổn định, tạo điều kiện cho đồng bào đóng góp sức người, sức
của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi.
Trải qua 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)
huyện Ba Bể đã lập được nhiều thành tích vẻ vang, góp phần viết nên trang sử vàng
của dân tộc. Những thành tích đó đã thúc đẩy cho nhân dân các dân tộc huyện Ba

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19
Bể tiếp tục tiến lên giành nhiều thắng lợi mới trong sự nhgiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
1.3.2. Về văn hoá, xã hội
Dưới thời thuộc Pháp, để dễ bề bóc lột nhân dân các dân tộc, thực dân Pháp ra
sức kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Ba Bể. Cả huyện không có đến
một cơ sở khám chữa bệnh cho nhân dân ngoài một phòng phát thuốc, một trạm
điện tín đặt ở huyện lị để phục vụ cho nền thống trị của chúng. Trường học không
được mở mang, cả huyện chỉ có một trường học từ lớp 1 đến lớp 3, đa số nhân dân
sống trong tình trạng mù chữ. Thực dân Pháp cố tình duy trì các tập tục lạc hậu như
nạn tảo hôn, thách cưới nặng nề cùng với các tệ nạn xã hội khác như cờ bạc, nghiện
hút làm suy kiệt giống nòi của dân tộc ta.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), sự nghiệp
văn hóa giáo dục của huyện Ba Bể không ngừng được mở mang. Thời gian đầu của
cuộc kháng chiến, việc tổ chức và duy trì các trường lớp còn gặp nhiều khó khăn.
Số học sinh ở độ tuổi đi học từ vỡ lòng đến hết cấp 1 còn ít. Đến năm 1952, hầu hết
ở các xã đã có các lớp vỡ lòng, lớp 1 và lớp 2, có một số trường phổ thông cấp 1
hoàn chỉnh (từ lớp 1 đến lớp 4). Năm 1952 là năm đầu tiên ở huyện Ba Bể có một
lớp 5 (lớp đầu phổ thông cấp 2 hồi đó) ở huyện lỵ với gần 40 em học sinh đã mở ra
bước phát triển mới trong sự nghiệp giáo dục ở huyện Ba Bể. Năm 1953 được coi là
năm đánh dấu sự chuyển biến của nền giáo dục phổ thông ở huyện Ba Bể. Toàn
huyện có 55 lớp với tổng số 1.330 học sinh. Tháng 8.1953, Đảng bộ Ba Bể quyết

định mở thêm một số lớp học cho con em đồng bào Dao, H’Mông... ở Cao Thượng,
Bành Trạch, Giáo Hiệu [12, tr.122-123].
Do địa bàn rộng, dân cư thưa thớt nên các trường lớp quy mô đều nhỏ. ở vùng
sâu và vùng cao mỗi trường thường chỉ có từ 1 đến 2 lớp đầu cấp một. Mặc dù
trường lớp còn sơ sài song nhà trường đã thể hiện bản chất của một chế độ giáo dục
mới, dân chủ nhân dân, theo chương trình mới, giáo dục toàn diện: đức, trí, thể, mĩ
nhằm đào tào đạo cho địa phương và đất nước những cán bộ có đức có tài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

20
Đồng thời với sự phát triển giáo dục phổ thông, phong trào bình dân học vụ
cũng được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo xây dựng các trường lớp tại các làng bản để
xóa mù chữ trong nhân dân và nâng cao trình độ hiểu biết cho cán bộ. Tháng 9.1953
phong trào Bình dân học vụ đã được phát triển ở các xã với nhiều lớp học được xây
dựng cho đồng bào các dân tộc của huyện như ở Quảng Khê đã xây dựng được 15 lớp
trong đó có 8 lớp chủ yếu là học viên người Tày, 7 lớp dành cho người Dao.
Ở Thượng Giáo cũng tổ chực được 3 lớp cho đồng bào Tày [12, tr.124].
Về văn hóa xã hội, các cấp, các ngành luôn chú ý quan tâm vận động nhân dân
thực hiện nếp sống có văn hóa, văn minh tiến bộ như vận động uống nước đã đun
sôi, nằm ngủ mắc màn, làm chuồng trâu xa nhà... Phong trào chống dịch bảo vệ sức
khỏe, mùa màng như diệt sâu, chuột, quét dọn làng bản... đã diễn ra sôi nổi trong
các làng bản và trường học ở Mẫu Ninh, Yến Linh, Chu Hương...[12, tr.124]. Thực
hiện chủ trương xây dựng đời sống mới của Đảng bộ, hầu hết các xã đã lập được xã
ước quy định tổ chức theo đời sống mới về ma chay, cưới xin, xóa bỏ các hủ tục lạc
hậu, các tệ nạn xã hội.
Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, Đảng bộ và chính quyền địa phương đã ra sức tuyên truyền chủ trương, chính
sách đúng đắn của Đảng; tăng cường đoàn kết dân tộc, khắc phục những hậu quả
của chính sách chia rẽ dân tộc của thực dân Pháp; thực hiện bình đẳng và giúp đỡ

lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc. Trong những năm 1947-1954, Đảng bộ và
nhân dân huyện Ba Bể đã từng bước làm thất bại âm mưu của thực dân Pháp nuôi
dưỡng lực lượng thổ phỉ ở các xã phía bắc huyện Ba Bể để phá hoại hậu phương
kháng chiến của ta, củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc.
Trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, quán triệt phương châm giáo dục của Đảng, Đảng bộ huyện Ba Bể
đã đẩy mạnh các hoạt động giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mĩ, động viên phong
trào thi đua học tốt và dạy tốt nhằm nâng cao chất lượng giáo dục lên một bước.
Quy mô trường lớp được mở rộng, số lượng học sinh các cấp tăng lên nhanh chóng
qua các năm, năm học 1969 - 1970 học sinh phổ thông các cấp là 4.487 em, đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21
năm học 1972 - 1973 tổng số học sinh 3 cấp (cấp I, cấp II, cấp III) là 6.274 em
[13, tr.135]. Sau hiệp định Pari lập lại hòa bình ở Việt Nam, các trường đã dời địa
điểm sơ tán về cơ sở cũ ở trung tâm xã và huyện lỵ. Năm học 1975 - 1976 toàn
huyện có 8.881 học sinh. Hầu hết các trường lớp được xây dựng vững chắc, có đủ
bàn ghế và sách vở phục vụ cho học tập của học sinh, tiêu biểu là các trường ở Mỹ
Phương, Chu Hương, Hà Hiệu, Yến Dương và Địa Linh, đội ngũ giáo viên được bồi
dưỡng nghiệp vụ, chất lượng giáo dục nhờ đó được nâng lên.
Công tác vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đạt được nhiều
kết quả. Năm 1971 toàn huyện có 22 trạm xá đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản khám
chữa bệnh cho nhân dân. Ngành y tế vừa phục vụ khám tuyển quân, chữa bệnh cho
nhân dân, vừa kết hợp các ngành, các giới tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây
dựng và phát triển phong trào “ba dứt điểm” là giếng nước, nhà tắm, nhà vệ sinh
nhằm nâng cao một bước chất lượng cuộc sống [13, tr.136].
Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy, phong trào văn hóa văn nghệ, xây
dựng nếp sống mới có nhiều chuyển biến tốt, nhất là việc giảm nhẹ ma chay, cưới
xin. Một số sinh hoạt văn hoá xã hội cổ truyền vẫn được bảo tồn, ngoài thờ cúng tổ

tiên, đối với đồng bào còn có các ngày lễ tết (âm lịch) trong năm (tết tháng giêng,
mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5 và tết rằm tháng 7…). Một số phong tục tập quán
còn lưu lại ít nhiều trong nhân dân như lễ tục trong đám cưới, lễ đầy tháng trẻ sơ
sinh; các trò chơi dân gian trong lễ hội lồng tồng của người Tày, Nùng vào đầu
tháng giêng như ném còn, đánh đu, kéo co… vẫn tiếp tục được duy trì tạo nên
những nét đặc sắc, văn hoá của đồng bào.
Tiểu kết chƣơng 1.
Ba Bể là một huyện miền núi vùng cao của tỉnh Bắc Kạn, mảnh đất thiên nhiên
vừa ưu ái, vừa khắc nghiệt, lại kề sát vùng biên cương của Tổ quốc. Là nơi sinh
sống của nhiều dân tộc anh em, là huyện có truyền thống đấu tranh cách mạng
chống ngoại xâm oanh liệt, đoàn kết, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Ba Bể đã tự hào về
những trang sử truyền thống của mình trong Cách mạng tháng Tám, trong kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

22
chiến chống thực dân Pháp xâm lược và trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Với đặc điểm kinh tế là nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, đã đáp ứng được
yêu cầu hậu cần tại chỗ cho quân và dân các dân tộc huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), huyện Ba Bể đã vượt qua mọi
khó khăn gian khổ, giành được nhiều thắng lợi trên lĩnh vực kinh tế góp phần xứng
đáng của mình vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Trong thời kì 1954 - 1975, huyện
Ba Bể đã tiến hành khôi phục kinh tế, tiến lên thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải tạo
xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961 - 1965). Từ 1965 - 1975, huyện Ba Bể đã ra sức đẩy mạnh công
cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, dốc sức chi viện cho cuộc đấu
tranh của đồng bào miền Nam, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Về đặc điểm xã hội, sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, dưới chế độ
xã hội mới, huyện Ba Bể đã có nhiều đổi mới, có sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện
Ba Bể, kinh tế - xã hội của địa phương không ngừng phát triển, đời sống nhân dân
ổn định và từng bước được nâng cao. Trong kháng chiến chống Pháp, sự nghiệp văn
hoá - giáo dục của huyện Ba Bể không ngừng được mở mang, hệ thống giáo dục
phổ thông hình thành và phát triển. Về văn hoá xã hội, được các cấp, các ngành
luôn chú ý, quan tâm, vận động nhân dân thực hiện nếp sống có văn hoá, văn minh
tiến bộ, xoá bỏ các hủ tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội cũ. Trong những năm 1954 - 1975,
huyện Ba Bể ra sức phát triển văn hoá giáo dục, đẩy mạnh các hoạt động giáo dục
toàn diện về đức, trí, thể, mĩ, động viên phong trào thi đua học tốt và dạy tốt nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục lên một bước. Phong trào văn hoá văn nghệ, xây dựng
nếp sống mới có nhiều chuyển biến tốt, công tác vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức
khoẻ cho nhân dân đạt nhiều kết quả.
Tuy nhiên, cho đến năm 1975, kinh tế - xã hội huyện Ba Bể còn chậm phát
triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chậm, tốc độ phát triển kinh tế chưa cao, cơ sở
vật chất còn lạc hậu, các vấn đề xã hội còn nhiều tồn tại, đời sống nhân dân các dân
tộc còn gặp nhiều khó khăn. Đó cũng chính là những vấn đề đặt ra đối với huyện Ba
Bể trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở các giai đoạn lịch sử tiếp theo.

×