Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Tài liệu Tiểu luận " Năng lực tư duy sáng tạo " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.22 KB, 38 trang )












TIỂU LUẬN
Đề tài " Năng lực tư duy sáng tạo "












Trang 1
MỤC LỤC
Nội dung Trang
A. Đặt vấn đề ......................................................................................................3
B. Nội dung nghiên cứu.......................................................................................5
I. CÁC NĂNG LỰC TƯ DUY SÁNG TẠO........................................................5


1. Khái niệm........................................................................................................5
2. Các trường phái tư duy sáng tạo trên thế giới...................................................5
3. Những rào cản của sự sáng tạo.........................................................................5
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÍ TUỆ VÀ NĂNG LỰC TƯ DUY ........................6
1 Lý thuyết đa trí tuệ ...........................................................................................6
2 Tổng quan về 8 năng lực tư duy........................................................................8
III. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC NĂNG LỰC TƯ DUY SÁNG
TẠO NỔI TRỘI ................................................................................................11
1 Năng lực tư duy sáng tạo qua Logic Toán học ................................................11
2 Năng lực tư duy qua ngôn ngữ........................................................................13
3 Năng lực tư duy qua Giao tiếp .......................................................................14
4 Năng lực tư duy qua nội tâm ..........................................................................16
5 Năng lực tư duy qua nhạc điệu .......................................................................19
6 Năng lực tư duy qua tự nhiên. ........................................................................21
7 Năng lực tư duy qua không gian. ...................................................................23
8 Năng lực tư duy qua vận động .......................................................................24
IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO CƠ BẢN............................................25
1 Phương pháp tư duy dịch chuyển ...................................................................25
2 Phương pháp lựa chọn đối tượng tiêu điểm ....................................................31
3. Các phương pháp thông dụng ........................................................................33
4. Các công cụ tư duy .......................................................................................36
D. KẾT LUẬN..................................................................................................40
Tài liệu tham khảo.............................................................................................42

Trang 2
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
“Tôi tư duy nghĩa là tôi đang tồn tại”, từ một thuật ngữ triết học của
Decarter đã trở thành thuật ngữ kinh điển, phổ biến trong nhiều lĩnh vực. Thuật
ngữ đó cũng nói lên tầm quan trọng bậc nhất của tư duy với sự tồn tại và phát
triển của con người trong mấy triệu năm qua. Con người chúng ta từ một sinh vật

yếu đuối về mặt sinh học đã trở thành kẻ thống trị thế giới cũng chính nhờ khả
năng tư duy của mình. Thế giới ngày nay đang trở lên “Phẳng” hơn bao giờ hết,
sự khác biệt về thông tin đã trở nên mong manh. Vũ khí cạnh tranh nhờ khả năng
nắm bắt thông tin đã nhường chỗ cho khả năng xử lý thông tin và học nhanh hơn
đối thủ của mỗi cá nhân và tổ chức.
Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh sinh tồn ngày nay, mỗi cá nhân cũng
như mỗi tổ chức không còn cách nào khác là phải nâng cao tốc độ tư duy cá
nhân, khai thác tối đa nguồn vốn trí tuệ của mình. Mọi thứ đều xuất phát từ tư
duy sáng tạo của mỗi cá nhân. Muốn nâng cao hiệu quả công việc, cải thiện chất
lượng cuộc sống, khai phá tối đa khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người, đòi hỏi
mỗi cá nhân và tổ chức cần nhận thức đúng về tầm quan trọng của tư duy, sự
sáng tạo và trang bị cho mình những công cụ tư duy hữu hiệu nhất.
Nâng cao hiệu quả tư duy và tính sáng tạo cá nhân, thay đổi nhận thức của
mỗi con người về công việc và sứ mệnh trước thời đại của dân tộc, kết nối và
phát huy sức mạnh trí tuệ tập thể là con đường tất yếu đảm bảo sự thành công của
các cá nhân, tổ chức và dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới. Nó nhằm
tìm ra các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để
tăng cường khả năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng đồng làm việc
chung về một vấn đề hay lĩnh vực. Ứng dụng chính của bộ môn này là giúp cá
nhân hay tập thể thực hành nó tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến
toàn bộ cho các vấn đề nan giải. Các vấn đề này không chỉ giới hạn trong các
ngành nghiên cứu về khoa học kỹ thuật mà nó có thể thuộc lĩnh vực khác như
chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ thuật... hoặc trong các phát minh, sáng chế. Một
Trang 3
danh từ khác được giáo sư Edward De Bono (1933 -) sử dụng để chỉ ngành
nghiên cứu này và được dùng rất phổ biến là Tư duy định hướng.
Ở các trường trung học của các nước phát triển, một số phương pháp quan
trọng như tập kích não, giản đồ ý cũng đã được áp dụng cho học sinh biết cách áp
dụng dưới dạng thô sơ; đồng thời cũng đã có nhiều cơ sở giáo dục tư thục giảng

dạy các chuyên đề về phương pháp tư duy sáng tạo cho học viên mọi lứa tuổi.
Việc nghiên cứu có hệ thống và trình bày lại một cách đầy đủ cho từng
phương pháp thì mãi đến đầu thế kỷ thứ 20 mới xuất hiện. Đặc biệt là sau việc
chính thức phát minh ra phương pháp Tập kích não vào năm 1941 của Alex
Osborn thì các phương pháp tư duy sáng tạo mới thực sự được các nhà nghiên
cứu nhất là các nhà tâm lý học chú ý tới. Kể từ đó, rất nhiều phương pháp tư duy
sáng tạo đã ra đời.
Hiện nay, một số khuynh hướng chung là tìm ra các phương pháp để sử
dụng kết hợp khả năng tư duy của các cá nhân vào trong một đề tài lớn cùng với
sự hỗ trợ của ngành tin học.
Trong tương lai, khi mà thành tựu của việc liên lạc trực tiếp các tín hiệu
của các con chip điện tử với não người được hoàn thiện hơn thì chắc chắn nó sẽ
tạo ra một cuộc cách mạng mới về các phương pháp tư duy sáng tạo. Lúc đó,
việc khó khăn là làm sao cho bộ não của từng cá nhân điều khiển và tận dụng
được mọi khả năng của các hệ thống máy tính, cũng như làm sao quản lý việc nối
các hoạt động tư duy cá nhân thành một mạng tư duy khổng lồ với thời gian truy
cập thông tin là thời gian thực.
Với những nội dung đã nêu trên cũng chính là lí do để tôi chọn vấn đề “”
làm vấn đề nghiên cứu.
B. NỘI DUNG
I. CÁC NĂNG LỰC TƯ DUY SÁNG TẠO
1 Khái niệm
Tư duy sáng tạo là một bộ môn khoa học nghiên cứu các phương pháp tạo
nên những sự đột phá trong tư duy và ý tưởng của con người. Tư duy sáng tạo là
Trang 4
khả năng tạo ra những ý tưởng, những sản phẩm có tính chất độc đáo, khác biệt
và mang tính ứng dụng vào thực tế cao trong một không gian và thời gian nhất
định. Tư duy sáng tạo phải có ít nhất 2 đặc tính: tính độc đáo, mới lạ và tính ứng
dụng thực tiễn mang lại giá trị cho cộng đồng.
2 Các trường phái tư duy sáng tạo trên thế giới.

Cùng với các bộ môn khoa học khác, khoa học về tư duy sáng tạo có từ rất
sớm nhưng để tổng hợp thành lý luận khoa học thì bộ môn này mới chỉ thực sự
hình thành cách đây vài trăm năm và hoàn thiện nhất trong những thập niên cuối
của thế kỷ XX. Nhưng từ đó đến nay, người ta đã được chứng kiến rất nhiều các
phương pháp sáng tạo xuất hiện và đi vào đời sống sản xuất, kinh doanh. Các
phương pháp đó cụ thể như: Phương pháp tập kích não của Alex OsBorn ra đời
năm 1938, Phương pháp 9 câu hỏi và 6 mũ tư duy của Edward De Bono những
thập niên 80, Phương pháp sáng tạo Kaizen của Nhật Bản, đặc biệt là trường
pháp Phương pháp luận sáng tạo TRIZ của Alsuler với 40 thuận sáng tạo…
3 Những rào cản của sáng tạo
Các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học chứng minh rằng, tiềm năng
sáng tạo của con người là vô hạn. Tuy nhiên sự sáng tạo lại không bình đẳng với
tất cả mọi người. Thực tế trong cuộc sống và công việc có rất ít người sử dụng
được khả năng sáng tạo của mình. Vậy đâu là nguyên nhân tạo nên những rào
cản sáng tạo đó.
Cản trở quá trình sáng tạo của con người có cả nguyên nhân chủ quan và
khách quan nhưng đa phần chúng ta là kẻ thù cho chính sự sáng tạo của mình.
Willis Harman, trong một cuốn sách của mình đã từng viết “Tiền năng sáng tạo
của con người là vô hạn, chỉ có chúng ta bằng những suy nghĩ của mình làm cho
chúng bị thui chột mà thôi”. Lâu nay chúng ta thường tự bó hẹp mình trong tư
duy 9 điểm. Chúng ta thường nghĩ rằng mình không có khả năng sáng tạo hay
sáng tạo là một việc rất vĩ đại và việc đó không phải của mình.
Sức ỳ tâm lý chính là kẻ thù số một của tư duy sáng tạo. Tâm lý sợ sai của
người Việt và đôi khi chính những kinh nghiệm sách vở mà chúng ta được học
Trang 5
trong nhà trường lại trở thành kẻ thù của tư duy sáng tạo, tư duy đổi mới. Có một
nghịch lý mà chúng ta thấy rất rõ là, trong khi các nhà khoa học, các viện nghiên
cứu hàng năm được nhà nước đầu tư hàng ngàn tỷ đồng nhưng lại rất ít những
công trình khoa học mang lại giá trị cho xã hội. Trong khi đó những bác nông
dân như Hai Lúa, Lũy Thần đèn mặc dù không được học hành nhiều nhưng vẫn

tạo ra những sản phẩm, phát minh thực sự hữu dụng phục vụ cho cuộc sống và
sản xuất. Vậy đâu là sự khác biệt? Sáng tạo phải xuất phát từ nhu cầu thực sự của
thực tế. Mọi sáng tạo chỉ dựa trên những kinh nghiệm sách vở lại trở thành rào
cản và sự vô dụng.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÍ TUỆ VÀ NĂNG LỰC TƯ DUY
1 Lý thuyết đa trí tuệ
Nếu câu hỏi chúng ta thông minh cỡ nào được đặt ra thì nhiều khả năng
câu trả lời của nhiều người trong tình huống này chỉ căn cứ vào các bài kiểm tra
và điểm số trong các trường học. Nhưng tất cả điều đó chỉ chứng minh phần nào
khả năng học tập của chúng ta tại trường còn trong cuộc sống chúng ta có thể
thành công hay không vẫn là một dấu hỏi. Những khái niệm về trí thông minh, về
chỉ số thông minh IQ đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy và nhận thức của
nhiều hế hệ người Việt. Nhận thức đó đã phần nào làm thui chột nhiều tài năng
trong các lĩnh vực khác. Và thực tế thế giới đã chứng minh hàng năm vẫn có 30%
số người có chỉ số thông minh IQ dưới trung bình vẫn gặt hái được những thành
công vượt trội. Để trả lời cho những băn khoăn đó, sau nhiều năm nghiên cứu
năm 1988, GS. Howard Gardner và nhóm cộng sự đã đặt ra lý thuyết về “ đa
thông minh” (The theory of mutil – ple intelligences), ban đầu trí thông minh
được chia làm 7 loại. Đến năm 1999, Gardner chia trí thông minh thành 9 loại,
theo đó mỗi người bình thường đều thông minh tới một mức độ nào đó tại một
hay nhiều miền sau đây: năng lực tư duy qua logic - lý luận toán học, Năng lực tư
duy qua ngôn ngữ, Năng lực tư duy qua nhạc điệu, Năng lực tư duy qua không
gian, Năng lực tư duy qua vận động cơ thể, Năng lực tư duy qua giao tiếp cá
nhân, Năng lực tư duy qua nội tâm, Năng lực tư duy qua tự nhiên, Năng lực tư
duy qua hiện sinh.
Trang 6
Ba nhân tố cơ bản của quá trình học là: nền tảng, thu nhận kiến thức và
nghĩa thực sự, nghĩa sâu xa. Việc tiếp theo là phải để cho người khác biết là mình
biết. Học tập là một quá trình đa nhiệm. Khi chúng ta nhận được một hệ thống
kiến thức mới, chúng ta phải sắp xếp và tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Để thực

hiện được điều này người ta cần sử dụng các năng lực tư duy của mình. Mọi
người thường cho rằng chỉ có người thông minh thì mới có những năng lực tư
duy nhưng thực ra thì tât cả chúng ta đều có năng lực tư duy vì nếu xét về định
nghĩa, 1 người thông minh là người có khả năng hiểu rõ được thông tin, biết đánh
giá xem xét các sự kiện và tìm sự nối kết các kiến thức. Howard Gardner, một
chuyên gia rất nổi tiếng trong lĩnh vực năng lực tư duy cho rằng có 9 năng lực tư
duy sẵn có trong mỗi chúng ta. Đó là:
NLTD qua toán học, qua lôgíc
NLTD qua ngôn ngữ
NLTD qua giao tiếp
NLTD trong nội tâm
NLTD qua nhạc điệu
NLTD qua tự nhiên
NLTD qua không gian, thị giác
NLTD qua ngôn ngữ cơ thể
NLTD qua hiện sinh – Tâm linh
Ai cũng có đầy đủ các năng lực tư duy. Song điều quan trọng là mỗi người
phải xác định được nhóm năng lực của mình sau đó khai quật tiềm năng và đánh
thức người khổng lồ trong chính chúng ta. Những NLTD này sẽ thay đổi khi môi
trường học thay đổi. Chúng có thể mất đi hay được nâng cấp.
2 Tổng quan về 8 năng lực tư duy
NLTD qua lôgic: hay còn gọi là NLTD qua toán học, nó sử dụng những
phân tích trình tự để rút ra 1 kết luận nào đó. Nhà khoa học, kế toán, hay nhà
kinh tế tập trung vào NL này.
NLTD qua ngôn ngữ: là trí thông minh mang tính chất phổ quát nhất trong
8 năng lực tư duy được đề cập. Trí thông minh ngôn ngữ là kĩ năng sử dụng từ
Trang 7
ngữ. Nhà văn hay những nhà giới thiệu chương trình chuyên nghiệp nhấn mạnh
vào những NL này. Điểm mấu chốt làm căn cứ cao nhất để đánh giá về loại trí
thông minh này là các bài kiểm tra về chỉ số IQ của chúng ta. Những bài kiểm tra

này đều được xây dựng dựa trên những thành phần có tính chất thiên về ngôn
ngữ và từ vựng. Trí thông minh về ngôn ngữ bao gồm nhiều thành phần như âm
tiết, cú pháp, ngữ nghĩa và tính ứng dụng của nó. Những cá nhân có khả năng tư
duy qua ngôn ngữ tốt thường có khá năng nhạy cảm sắc bén với âm thanh hoặc
âm tiết của từ ngữ, thường vận dụng sự chơi chữ, sự dụng giai điệu, cách uốn
lưỡi, dùng điệp âm, cấu tạo từ tượng thanh và những âm thanh đan xen khác
nhau để trêu đùa, nghịch ngợm. Một ví dụ điển hình là James Joyce, ông đã sáng
tạo ra hàng ngàn trò chơi chữ với những thứ tiếng khác nhau.
Những người giỏi về tư duy qua ngôn ngữ cũng thường tinh thông và
thành thạo các kỹ năng vận dụng cấu trúc hoặc cú pháp của các câu và cụm từ.
Những thiên tài về ngôn ngữ có thể cho chúng ta thấy sự nhạy cảm ngôn ngữ cưa
họ thông qua độ chính xác rất cao về nội dung và ngữ nghĩa của từ. Nhưng có lẽ
thành phần quan trọng nhất của năng lực tư duy qua ngôn ngữ là năng lực sử
dụng từ ngữ để đạt được các mục tiêu trong cuộc sống và công việc. Ví dụ như
Herbert W Amstrong trong việc truyền giáo, Winson Churchill trong vận động
khích lệ và truyền cảm hứng…
NLTD qua giao tiếp: khả năng giao tiếp hiệu quả và quan sát những kí
hiệu không lời là nền tảng của NL này. Mặc dù NL này ít khi được sử dụng,
nhưng giáo viên và nhà cố vấn là những người rất hay sử dụng NL này.
NLTD trong nội tâm: sự tự phản ánh tạo nên tính cách cho người sử dụng
NL này nhiều nhất. Chìa khoá ở đây là khả năng xác định và tự điều chỉnh những
mục tiêu dựa trên những kinh nghiệm trong quá khứ. Nhà hoạch định chiến lược
hay những nhà nghiên cứu có khuynh hướng sử dụng NL này.
NLTD qua nhạc điệu: sáng tạo và phân loại những âm thanh phức tạp là đặc tính
của những người có NL này. 1 nhạc sĩ hay 1 nhà thiết kế âm thanh có thể là
những ví dụ tiêu biểu.
Trang 8
NLTD qua tự nhiên: là khả năng quan sát, hiểu rõ và có thể sắp xếp những
mô hình hay nhân tố trong môi trường tự nhiên. NL này thuộc về những nhà sinh
học nghiên cứu về phân tử hay những nhà khoa học nghiên cứu giám định pháp

y.
NLTD qua không gian: khả năng quan sát là một nhân tố quan trọng trong NL
này. Ví dụ như 1 nhà điêu khắc có thể thấy 1 tảng đá như 1 tác phẩm tuyệt diệu.
Kiến trúc sư hay kĩ sư cũng rất coi trọng NL này.
NLTD qua ngôn ngữ cơ thể: NL về thể chất được thể hiện rõ ở những
người khéo tay hay những người có tài năng bẩm sinh về vận động. Những người
làm phẫu thuật, cơ khí hay những vũ công chuyên nghiệp có xu hướng sử dụng
tối ưu NL này.
III. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC NĂNG LỰC TƯ
DUY SÁNG TẠO NỔI TRỘI
1 Năng lực tư duy sáng tạo qua Logic Toán học
Như chúng ta đã nói, học tập là một quá trình đa nhiệm. Không những thế,
nó còn rất đa dạng, thể hiện ở những phương pháp học khác nhau. Người học cần
và thường thích những cách khác nhau để khám phá 1 vấn đề nào đó. Khi chỉ có
1 phương pháp học học sinh sẽ bị gò bó trong một giới hạn nào đó và sẽ rất khó
khăn để tiếp thu kiến thức. Biết cách tiếp nhận thông tin, sắp xếp và liên kết
chúng rồi sử dụng những NLTD sẽ giúp người học tạo ra 1 mạng lưới kiến thức
chặt chẽ. Thông tin sẽ được lưu trữ 1 cách hiệu quả hơn ở những phần khác nhau
của bộ não và kết quả là ta sẽ gợi lại thông tin dễ dàng hơn và áp dụng chúng 1
cách có trình tự.
Điều quan trọng bây giờ là làm sao để sử dụng được NLTD này. Trước
hết ta cần đánh số và sắp xếp những kiến thức đã học. Việc này đòi hỏi chúng ta
phải xem xét rất cẩn thận những gì đang học. Sẽ rất khó để sắp xếp chúng mà
không so sánh những điểm giống và khác. Và cũng sẽ rất khó để so sánh mà
không xem xét ý nghĩa thực sự của những thông tin mà mình vừa thu nhận.
Trang 9
Tiếp theo là phải phân tích cụ thể những gì đang học. Không bao giờ chấp
nhận những thông tin ở giá trị bề ngoài. Khi chúng ta sử dụng 1 hệ thống phân
tích hợp lí chúng ta sẽ nâng cao được NLTD qua lôgíc của mình.
Sau đây là hệ thống A.E.I.O.U._những câu hỏi mà chúng ta cần luôn đặt

ra cho mình khi tiếp cận 1 vấn đề.
A(Assumption)
: Việc ngầm định này được tạo nên như thế nào?
Đây có phải là ý kiến duy nhất không? Còn có cái gì chưa được đề cập
đến không? Những trường hợp cá biệt đã được nói đến để có cái nhìn tổng thể
chưa?
E(Evidence)
: Bằng chứng cho vấn đề này là gì?
Thông tin mình nhận được có phù hợp với lập luận và các nhận định trước
đó không? Nếu nó là nhận định thì người đưa ra nhận định đó có đáng tin cậy
không? Còn nếu là lập luận thì đâu là cơ sở cho nó? Có còn cách nào khác để giải
thích cho nó nữa không?
I(Ilustration)
: Có thể tìm cách nào để minh hoạ cho vấn đề này không?
Những kiến thức của mình có thể liên kết với thông tin này không? Dựa
vào thông tin của bản thân mình thì có thể tìm được điều gì liên quan không? Nó
có phù hợp không, có ý nghĩa không?
O(Opinion)
: Từ vấn đề này ta có thể rút ra kết luận hay ý kiến nào không?
Có ai có cùng quan điểm như ta không? Những quan điểm đó có lí không,
có căn cứ nào không?
U(Unique): Vấn đề này có gì độc đáo không?
Có gì khác biệt và nổi trội về vấn đề này không?
Các phương pháp khác để phát triển năng lực tư duy sáng tạo qua
logic.
Chơi các trò chơi liên quan đến logic và toán học.
Học cách sử dụng bàn tính, máy tính.
Trang 10
Giải các câu đố lo gic và các vấn đề liên quan đến trí não.
Luôn có một chiếc máy tính điện tử bên mình để tính toán các vấn đề liên

quan đến toán học.
Học vác ngôn ngữ máy tính như JAVA, TUBO, LOGO, PASCAL,
BASIC…
Mua các dụng cụ khoa học để thực hiện các cuộc thí nghiệm của bản thân.
Thảo luận cùng những người xung quanh về các chủ đề liên quan đến toán
học, logic học.
Thực hành các tính toán đơn giản bằng cách tính nhẩm.
Tìm hiểu các khái niệm về kinh doanh về tài chính trên các sách báo.
Thăm các bảo tàng về khoa học và tìm hiểu các phát minh khoa học loài
người mà chúng ta có thể.
Xem các phim tài liệu, các sách báo khoa học.
Đánh dấu các khái niệm khoa học mà chúng ta không quen thuộc hoặc
không hiểu nó rõ ràng.
Tự chúng ta ghi lại những lời nói kể lại chuyện làm cách nào để chúng ta
giải được một bài toán khó.
Thường xuyên làm các bài trắc nghiệm mới về IQ.
Hãy sự dụng cái đầu và bộ óc của chúng ta trong việc học về các khái
niệm toán học mới.
Hãy dạy toán học hoặc các khái niệm khoa học khác cho chúng ta bè hoặc
người khác để chúng ta hiểu sâu sắc hơn về những khái niệm này.
2 Năng lực tư duy qua ngôn ngữ
Cách sử dụng NL này rất đơn giản, chúng ta hãy viết lại những thông tin
mà chúng ta có được theo ý mình. Có 1 điều mà chúng ta dễ dàng nhận ra là rất
khó để đọc những thứ mà người khác viết. Khi những kiến thức chúng ta cần tiếp
thu được viết bởi chữ của người khác chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc hiểu
Trang 11
được chúng. Khi chúng ta chuyển những kiến thức chúng ta nghe hay đọc thành
ngôn ngữ của riêng chúng ta, chúng ta buộc phải hiểu nó. (EXPLAIN)
Những cách để chúng ta phát triển trí thông minh qua ngôn ngữ
Hãy động não từ những thứ mà chúng ta đã học, những cái mà chúng ta

nhớ được, viết lại chúng và nếu có thể, hãy ghi âm.
Đọc lướt qua những trang sách mà chúng ta đã học và thêm vào những ý
nghĩ chợt đến. Nhớ là hãy viết theo cách của riêng chúng ta.
Trong lúc đọc, dừng lại khi đọc xong 1 phần chính, suy nghĩ và ghi vào
đầu những ý chính bằng ngôn ngữ của chính chúng ta.
Hãy ghi chép bằng cách riêng của chúng ta, kèm theo những câu hỏi phát
sinh từ những vấn đề đó.
Hãy tham gia những hội thảo về sách hay mà chúng ta có cơ hội.
Tổ chức các buổi liên hoan và sinh hoạt nghề nghiệp với các chủ đề chúng
ta chọn.
Tự ghi âm lời nói của chúng ta và bật lại nghe.
Tham gia vào một câu lạc bộ viết sách.
Học cách sử dụng bộ vi xử lý từ ngữ.
Nghe băng đĩa của các diễn giả nổi tiếng, các nhà thơ và những người có
năng khiếu kể chuyện khác.
Hãy đọc một tuần một quyển sách và tự xây dựng lấy một thư viện cá
nhân của mình.
Chơi các trò chơi ngôn từ.
Mỗi ngày hãy sử dụng thêm một từ mới.
Hàng ngày luôn giữ một cuốn nhật ký bên mình và viết khoảng 250 từ về
một ngày về bất cứ thứ gì chúng ta muốn.
Dành thời gian kể chuyện thường xuyên với gia đình và chúng ta bè.
Ghi nhớ và học thuộc tất cả những bài thơ hoặc đoạn văn xuôi nổi tiếng.
Trang 12
Đánh dấu, khoăng tròn những từ ngữ lạ trong quá trình chúng ta đọc sách
và cố gằng hiểu về ý nghĩa của nó.
Hãy quan tâm và chú ý đến kiểu nói của người khác về âm lượng, âm
điệu, cách thức sử dụng từ ngữ…
3 Năng lực tư duy qua Giao tiếp
Giao tiếp là việc chúng ta làm hàng ngày, song không phải ai cũng phát

triển NLTD này. Vậy làm sao để ta có thể sử dụng tối ưu NL này?
Dạy những cái chúng ta đã học là 1 cách hiệu quả để phát triển NLTD qua
ngôn ngữ. Đây cũng là cách học có tác dụng rất lớn vì khi dạy cho người khác,
chúng ta tìm ra được là mình biết gì và còn gì mình chưa biết. Việc này cũng làm
cho kiến thức của chúng ta tăng một cách đáng kể vì học sinh của chúng ta sẽ yêu
cầu chúng ta áp dụng những cái mà chúng ta vừa dạy.
Việc dạy học đòi hỏi chúng ta phải thu thập thông tin, sắp xếp ý nghĩ theo
1 trình tự có tính lôgíc và sử dụng ngôn ngữ của chính mình để diễn đạt ý nghĩ
đó.
Một lợi ích nữa của việc dạy lại này là sự giao thoa. Khi chúng ta chia sẻ
thông tin với 1 người khác, họ có thể có những thông tin chúng ta cần để lấp chỗ
hổng. Phần này có thể có trong bài của chúng ta hoặc có thể không. Đó chính là
phần thưởng dành cho chúng ta.
Một cách khác nữa để sử dụng NL này là việc so sánh những ghi chép.
Hành động đơn giản của việc so sánh những ghi chép với 1 người chúng ta sau
giờ học hay với sách là 1 cách để việc cùng dạy nhau diễn ra. Chúng ta của
chúng ta có thể nhớ những cái mà chúng ta không nhớ và ngược lại. Lí do của
việc này rất đơn giản, vì cách tiếp nhận thông tin, tổ chức và tạo mạng lưới kiến
thức của họ khác với của chúng ta.
Ứng dụng của việc sử dụng NLTD này là tổ chức học theo vòng tròn. Hãy
chọn 1 nhóm học sinh với những môn chuyên khác nhau, có thể là toán, khoa
học, lịch sử, sư phạm, quản lí,... tầm 5 đến 7 người là đủ.
Trang 13
Chọn thời gian cụ thể trong tuần để tổ chức họp nhóm. Mỗi tuần sẽ có 1
chủ đề khác nhau để thảo luận. Ta sẽ có những ý kiến từ những quan điểm khác
nhau nhưng hãy để chúng tự phát triển. Khi có ai đó thách thức niềm tin của
chúng ta, đừng quá bảo thủ nhưng cũng đừng thờ ơ hay vội vã chấp nhận ý kiến
của họ. áp dụng cách học này, chúng ta không chỉ học được cách mới để tiếp cận
thông tin mà còn cả cách lắng nghe và tìm hiểu vấn đề. 1 khi chúng ta đã rút ra
được kết luận sau mỗi nghiên cứu thì các thông tin sẽ được tiếp nhận vào bộ nhớ

1 cách có hiệu quả hơn.
Các phương pháp phát triển trí thông minh giao tiếp.
Mua một cuốn sổ nhò và ghi lại vào đó những cá nhân và đối tượng mà
chúng ta thường xuyên giao tiếp với họ.
Mỗi ngày chúng ta thực hiện tiếp xúc mọt người mới.
Tham gia các hoạt động xã hội hoặc học các lớp về kỹ năng giao tiếp để
có cơ hội và điều kiện tiếp xúc với những người khác.
Dành 15 phút hàng ngày thực hành kỹ năng lắng nghe chủ động, lắng
nghe đồng cảm với những người chúng ta hoặc người thân của mình.
Tổ chức các bữa tiệc và mời những người chúng ta của mình tham dự.
Thường xuyên tham gia vào các buổi trị liệu tâm lý theo nhóm hoặc gia
đình.
Giữ vai trog lãnh đạo trong một nhóm hoạc một tập thể mà chúng ta quan
tâm.
Thực hiện các hoạt động đòi hỏi sự hợp tác ủa nhiều người.
Có những buổi gặp gỡ với gia đình và chúng ta bè thường xuyên.
Tổ chức các buổi đóng góp ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm tại nơi làm việc
vủa chúng ta.
Làm quen, tiếp xúc với những người thuộc các nền văn hóa, các vùng
miến khác mà chúng ta có thể.
Làm gia sư hoặc hướng dẫn viên du lịch.
Trang 14
Dùng 15 phút hàng ngày quan sát cách mọi người xung quanh chúng ta
giao tiếp và tương tác với nhau như thế nào.
Học tập những kinh nghiệm của những người có khả năng giao tiếp tốt.
4 Năng lực tư duy qua nội tâm
Trước khi sử dụng NLTD này, chúng ta phải biết được những điểm mạnh,
niềm đam mê của mình. Khi ta thích thú, say sưa với 1 đề tài nào đó thì ta sẽ có
động cơ để học. Các nhà nghiên cứu đã làm 1 thí nghiệm kiểm tra trí nhớ của học
sinh bằng 1 bức tranh. 1 số người chỉ nhìn tranh, số còn lại được đưa những

thông tin về bức tranh và người hoạ sĩ. Kết quả là nhóm thứ 2 nhớ gấp 2 lần so
với nhóm thứ nhất.
Một khi ta tìm ra sự hứng thú của mình thì niềm đam mê thực sự sẽ đến.
Lúc đó ta sẽ tìm thêm được những sự khác biệt, những mối liên kết bất ngờ, tạo
nên sự hấp dẫn cho vấn đề đó.
Ngoài ra chúng ta cũng phải tìm hiểu những thông tin cơ bản về vấn đề
mình đang nghiên cứu. Nếu đề tài đó là hội hoạ thì người nghệ sĩ đã định hình gì
trong đầu khi sáng tác nên tác phẩm? Anh ta đã có những gì đổi mới so với
những người tiền nhiệm? Có kĩ năng mới nào được sử dụng không?
Một điều quan trọng nữa mà chúng ta cũng phải chú ý, đó là phải dành
thời gian để xem xét lại vấn đề. Hãy từ từ nhìn lại vấn đề đó. Thông tin này có
phù hợp với những thứ chúng ta đã biết hay không? Lợi ích của chúng trong
tương lai là gì? Thông tin mà chúng ta có được càng xác thực bao nhiêu thì cơ
hội để chúng ta tiếp nhận lượng thông tin đó 1 cách có hiệu quả càng lớn bấy
nhiêu.
Các phương pháp phát triển năng lực tư duy qua nội tâm
Nhờ các chuyên gia tư vần giúp tư vân the cá nhân hoạc vật lý trị liệu.
Tìm hiểu kỹ về yếu tố bản ngã trong Triết học phương Đông và phương
Tây.
Học cách thiền định.

×