Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Thơ nữ việt nam sau 1975 những tìm tòi và cách tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.71 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
________________________________________________

LÊ THÙY NHUNG

THƠ NỮ VIỆT NAM SAU 1975
NHỮNG TÌM TÒI VÀ CÁCH TÂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2021


Cơng trình được hồn thành tại:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƯỢNG
PGS. NGUYỄN VĂN LONG

Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn
Viện Văn học
Phản biện 2: PGS.TS Biện Minh Điền
Trường Đại học Vinh
Phản biện 3: TS. Trần Hạnh Mai
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án


cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm…

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Tìm tịi và cách tân trong văn học khơng chỉ là địi hỏi tinh thần của công
chúng, của thời đại trước những tác động, biến đổi của thời đại ấy, mà còn là nhu cầu
tự thân để nghệ thuật tồn tại, thoát khỏi lối mịn. Phát hiện ra những tìm tịi và cách
tân trong văn học là cần thiết, giúp chúng ta có được cái nhìn rõ nét hơn về đặc điểm
và sự vận động của văn học qua mỗi giai đoạn, đồng thời mở ra những hướng nghiên
cứu văn học mới.
1.2. Sau 1975, thơ nữ có những thay đổi lớn trong diện mạo và tạo nên những
cuộc tranh luận về đổi mới thơ khá sôi nổi. Đa số ý kiến cho rằng, vị thế của thơ nữ
đang dần được khẳng định với sự xuất hiện của đội ngũ thơ nữ đông đảo và những
thể nghiệm độc đáo, mới lạ. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến trái chiều, thậm chí xung
đột, phản ứng gay gắt trước một số hiện tượng thơ có đổi mới táo bạo. Từ những
tranh luận ấy, việc chỉ ra sự tìm tịi và cách tân cụ thể trong thơ nữ sau 75 sẽ góp
phần giúp người đọc, người nghiên cứu có cái nhìn đánh giá khách quan hơn về diện
mạo và đóng góp của thơ nữ cho sự phát triển của thơ Việt Nam đương đại.
1.3. Trong xu thế hội nhập của đời sống văn hóa tinh thần, sự phát triển của các
phong trào nữ quyền trên thế giới có tác động đáng kể tới sự phát triển của văn học
nghệ thuật nước ta. Đặc biệt với thơ nữ sau 75, sự tác động ấy càng đậm nét hơn khi
âm hưởng nữ quyền trở thành một trong những mạch nguồn cảm hứng chủ yếu, ảnh

hưởng mạnh mẽ tới sự đổi mới của cái tơi trữ tình và một số thể nghiệm hình thức
nghệ thuật. Nó góp phần tạo nên những quan niệm, xu hướng, diện mạo riêng của thơ
nữ sau 1975.
1.4. Đa số những cơng trình nghiên cứu thơ nữ Việt Nam sau 75 hiện nay thường
được nghiên cứu theo hướng tổng quát về đặc điểm thơ, hoặc nhận xét chung trong
những thay đổi của nền thơ, hoặc đi vào đặc điểm, phong cách của nhà thơ, nhóm nhà
thơ. Đã đến lúc chúng ta cần có những cơng trình nghiên cứu bao qt được những
tìm tịi và cách tân trong thơ nữ Việt Nam sau 75 để thấy được đổi mới cụ của thể bộ
phận thơ này trên con đường hiện đại hóa thơ Việt.
Cho đến khi thực hiện đề tài này, những tranh luận về thơ nữ sau 75 chưa phải đã
chấm dứt, đặc biệt ở những hiện tượng thơ mang tính thời sự. Chúng tơi mong muốn
kết quả nghiên cứu khơng chỉ góp thêm góc nhìn về những tìm tịi và cách tân của bộ


2

phận thơ nữ mà còn giúp nhận diện sâu sắc hơn sự chuyển mình, thành tựu nghệ thuật
và gợi thêm hướng nghiên cứu khác về bộ phận thơ này.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào những tìm tịi và cách tân của thơ nữ sau 1975 trên một số
phương diện nội dung (cảm hứng trữ tình, cái tơi trữ tình) và hình thức nghệ thuật
(cấu trúc, hình ảnh, ngơn ngữ, giọng điệu).
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận án tập trung khảo sát một số hiện tượng thơ nữ sau 75 tiêu biểu sau :
Thế hệ nhà thơ nữ trưởng thành từ kháng chiến: Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị
Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ.
Thế hệ nhà thơ nữ bắt đầu xuất hiện sau 75: Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Mây,
Nguyễn Thị Hồng Ngát, Đoàn Thị Lam Luyến, Dư Thị Hoàn, Lê Khánh Mai, Vũ Thị
Huyền.

Thế hệ nhà thơ nữ xuất hiện từ nửa cuối thập niên 90 đến nay: Phan Huyền Thư,
Nguyễn Phan Quế Mai, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Ngọc Tư, Từ Huy,
Ng.anhanh, Lữ Thị Mai, Như Quỳnh de Prelle, Nguyễn Thị Thúy Hạnh.
Cụ thể hơn, khi nghiên cứu những hiện tượng này, chúng tôi đi vào khảo sát một
số tác phẩm tiêu biểu (Danh mục tham khảo/ III. Các tác phẩm khảo sát)
Luận án cũng sử dụng một số tác phẩm giai đoạn trước 75 và một số tác phẩm của
các nhà thơ nam sau 75 để việc đối chiếu so sánh thuyết phục hơn.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nhận diện, lí giải những tìm tịi và cách tân của thơ nữ Việt Nam từ sau 1975 đến
nay trên một số phương diện của nội dung và nghệ thuật. Đánh giá ý nghĩa của sự đổi
mới thơ nữ sau 75 với sự phát triển của thơ Việt, đồng thời khẳng định vị trí và
những đóng góp của các nhà thơ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định quan niệm tìm tịi và cách tân trên cơ sở lí luận, đồng thời nhìn lại tình
hình nghiên cứu về những tìm tịi và cách tân trong thơ nữ sau 75 để có cơ sở tiếp cận
đối tượng nghiên cứu.
Nhận diện khái quát bức tranh diện mạo của thơ nữ Việt Nam sau 75 qua các
chặng đường nối tiếp, song hành giữa các thế hệ nhà thơ, những quan niệm thơ và
những xu hướng cách tân thơ.


3

Tập trung phân tích những tìm tịi, cách tân của thơ nữ sau 75 trên phương diện
cảm hứng và cái tơi trữ tình. Chỉ ra những tìm tịi và cách tân cụ thể trên các phương
diện cấu trúc, hình ảnh, ngơn ngữ, giọng điệu.
Những tìm tịi, cách tân của thơ nữ sau 75 được khảo sát và đối chiếu so sánh với thơ
Việt nói chung, thơ nữ nói riêng ở những giai đoạn trước 1975, với thơ nam giới cùng
thời để nhận ra sự tiếp nối, đổi mới riêng trong sáng tạo nghệ thuật của thơ nữ.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng
thể loại, phương pháp loại hình, phương pháp liên ngành, phương pháp so sánh đối
chiếu.
5. ĐÓNG GĨP CỦA LUẬN ÁN
(1) Luận án là cơng trình khoa học chuyên sâu về những đóng góp của thơ nữ
Việt Nam sau 1975. Từ những kết quả nghiên cứu về tìm tịi cách tân trong thơ nữ
sau 75 đã có, luận án góp thêm cái nhìn rõ nét hơn về sự đổi mới diện mạo thơ trên
tiến trình vận động, phát triển của thơ Việt Nam hiện đại.
(2) Luận án khái quát những đổi mới của thơ nữ sau 75 trên phương diện chuyển
đổi của cảm hứng, cái tôi trữ tình, lí giải những yếu tố tác động, thơi thúc sự tìm tịi,
cách tân ở các nhà thơ nữ. Từ sự nhận biết ảnh hưởng của ý thức nữ quyền, đề tài
nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm, vẻ đẹp riêng trong thơ nữ.
(3) Luận án chỉ ra những tìm tịi, cách tân hình thức của thơ nữ sau 75 ở cấu trúc,
hình ảnh, ngơn ngữ, giọng điệu. Từ đó giúp người đọc hiểu hơn về sự thay đổi tư duy
nghệ thuật và nỗ lực kiến tạo, đổi mới thơ của các nhà thơ nữ.
(4) Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm hướng tiếp cận, kiến giải về những
đóng góp của thơ nữ Việt Nam sau 75, đưa đến những đánh giá phù hợp về sự phát
triển đa chiều của thơ Việt trong đời sống hôm nay.
(5) Bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy một số tác phẩm thơ nữ
sau 75 trong nhà trường cũng như việc nghiên cứu thơ ca trữ tình sau 75.


4

Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tìm tịi và cách tân trong thơ
1.1.1. Quan niệm về tìm tịi và cách tân
Từ những định nghĩa về tìm tịi và cách tân trong Từ điển tiếng Việt, Từ điển tiếng
Pháp (Larousse.com), Từ điển tiếng Anh (Vdict.com) có thể hiểu:

Tìm tịi là sự khám phá, kiếm tìm ra giá trị mới, phá bỏ thế tĩnh tại của hiện hữu
sáng tạo. Nó phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan của người sáng tạo.
Cịn cách tân, theo nghĩa khái qt nó tương đồng với nghĩa của từ đổi mới. Về từ
loại, cách tân là từ Hán Việt nên có thể mang nét nghĩa khái quát cao hơn so với từ
đổi mới (từ thuần Việt). Nếu cách tân thường được dùng nhiều hơn trong lĩnh vực
văn học nghệ thuật thì đổi mới thường dùng bao trùm cho lĩnh vực, bình diện rộng
hơn. Nhiều ý kiến cho rằng cách tân nghiêng về thủ pháp nghệ thuật nhưng thực ra
thủ pháp nghệ thuật chỉ là một bình diện cịn cách tân bao hàm căn bản hơn về hệ tư
tưởng, quan niệm... Cách tân được biểu hiện ra ở nhiều mức độ, cấp độ, bình diện
khác nhau trong cùng một trào lưu, một phương pháp. Ở mức độ hẹp, cách tân có thể
làm thay đổi cơ bản một hệ hình văn học. Ở mức độ rộng, cách tân bao hàm sự thay
đổi căn bản các giai đoạn văn học.
Tìm tịi và cách tân là hai vấn đề khơng thể tách rời. Nếu tìm tịi là hành động tất
yếu của sự khám phá, đi tìm cái mới thì cách tân chính là kết quả khám phá, là cái
mới, cái chất lượng, mang đến những giá trị mới hơn cái cũ. Ngược lại, nếu cách tân
là hoạt động sáng tác tất yếu thì tìm tịi là một trong những điều kiện của cách tân, dù
không phải bất cứ sự tìm tịi nào cũng đem đến những cách tân bởi nó cũng có thể tạo
ra cái khác mà khơng phải cái mới. Chỉ khi nào sự tìm tịi tạo ra được giá trị nghệ
thuật mới, lúc đó văn học tất yếu có sự cách tân.
Mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học, sự tìm tịi và cách tân sẽ tạo ra những giá trị
mới đáp ứng đòi hỏi văn học phù hợp tâm thức thời đại, đồng thời sẽ đem đến những
kết tinh thành tựu của thời đại, giai đoạn đó.
1.1.2. Tìm tịi cách tân trong thơ và trong thơ Việt Nam hiện đại
Từ đặc trưng thể loại có thể thấy tìm tịi và cách tân trong thơ thường có sự thống
nhất, hài hịa giữa ba phương diện cơ bản: thứ nhất, thơ làm mới quan niệm về thơ,
chất thơ, từ đó vị thế nhà thơ được xác lập; thứ hai, thơ khai thác và khám phá các
cung bậc cảm xúc mới lạ và độc đáo, từ đó nhận ra những hình tượng nghệ thuật mới,
trong đó có cái tơi trữ tình; thứ ba, thơ ln có xu hướng tự tìm đến những hình thức
nghệ thuật mới làm cho liên tưởng, tưởng tượng trong thơ đổi khác.



5

Trong thơ Việt Nam hiện đại, sự tìm tịi và cách tân thể hiện qua 3 giai đoạn:
Đầu thế kỉ XX, thơ có sự chuyển đổi hệ hình từ thơ cổ điển sang thơ mới mà trung
tâm là thay đổi cái tơi trữ tình từ thời đại cái ta sang thời đại cái tôi. Cuộc canh tân
này đi vào lịch sử văn học với sự ra đời của phong trào Thơ Mới. Trong đó, đổi mới
căn bản nhất vẫn là ở cái tôi cá nhân với cảm xúc và cách thụ cảm thế giới mới. Thực
chất, đó là sự tự vận động, tự cách tân thành các xu hướng để đi xa hơn trên con
đường hiện đại và tiệm cận với khuynh hướng thơ tượng trưng siêu thực.
Giai đoạn 45-75, thơ chuyển đổi căn bản từ nội dung cái tôi trữ cá nhân sang cái
tôi công dân chiến sĩ với những tình cảm, cảm xúc về quê hương, đất nước. Tuy
nhiên, ở những chặng sau (45-75), một số nhà thơ đơ thị miền Nam sớm có những
tìm tịi và cách tân hướng vào thế giới bên trong, thế giới nhiều phức tạp, những cách
tân mặt hình thức thì có xu hướng đi theo hướng trào lưu hiện đại chủ nghĩa. Đó cũng
là sự thay đổi phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Sau 1975, tìm tịi và cách tân là cuộc chạy tiếp sức, là nỗ lực chung của nhà thơ. Ở
thế hệ nhà thơ trước cách mạng, họ vẫn tiếp tục có những tìm tịi âm thầm quyết liệt.
Sau nhiều năm âm thầm viết, đến cuối những năm 80, trong một hồn cảnh thuận lợi
họ có cơ hội trình bày những thể nghiệm đó một cách mạnh mẽ và tự tin trước cơng
chúng. Những người giữ vai trị quan trọng tạo nên những cú hích phải kể đến là Trần
Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm... Tiếp nối là thế hệ nhà thơ xuất hiện từ những năm 90 như
Nguyễn Quang Thiều, Dư Thị Hoàn, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc. Xu
hướng cách tân trở thành trào lưu mạnh mẽ trong sáng tác của họ mà nổi bật lên là
những cây bút nữ như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh Nguyễn Phan Quế Mai, Trang
Thanh, Ly Hoàng Ly, nguyễn Ngọc Tư... Họ góp phần làm cho trào lưu cách tân thơ
phát triển với nhiều thể nghiệm mới lạ, mở ra các hướng tìm tịi mặc dù khơng phải
khơng có những hiện tượng thơ có xu hướng đổi mới quá đà, cực đoan gây ra những
tranh cãi gay gắt.
1.2. Tình hình nghiên cứu về những tìm tịi và cách tân trong thơ nữ Việt

Nam sau 1975
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy số lượng bài viết nghiên về sự tìm tịi và cách
tân trong thơ nữ sau 75 khá phong phú, tập trung chủ yếu vào hai hướng: một là
những nghiên cứu chỉ ra đóng góp chung của bộ phận thơ nữ sau 75, hai là nghiên
cứu những đóng góp cụ thể qua những hiện tượng thơ ở một tác giả/ nhóm tác giả/
nhóm tác phẩm. Vậy, chúng ta cũng cần có thêm những nghiên cứu chun sâu và
tồn diện về tìm tòi, cách tân của thơ nữ từ sau 75 đến nay.


6

Chương 2. KHÁI QUÁT DIỆN MẠO THƠ NỮ VIỆT NAM SAU 1975
2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và văn học
Sự kiện 30/4/1975 là một bước ngoặt lịch sử tạo nên những thay đổi lớn cho nước
ta trên mọi lĩnh vực. Hịa chung khơng khí chiến thắng vang dội của đất nước, thơ
tiếp tục đi vào mạch cảm hứng sử thi, khẳng định con đường đi lên của cách mạng.
Song, do tác động từ bối cảnh của lịch sử, xã hội, nền văn học nói chung, thơ nói
riêng phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức mới. Văn học có chiều hướng
chững lại, nhiều cây bút cịn bị rơi vào trạng thái hẫng hụt, khơng có định hướng.
Những dấu hiệu đổi mới xuất hiện chưa thực sự trở thành phong trào rầm rộ, còn
nhiều hạn chế mặc dù văn học vẫn vận động theo quán tính. Mãi đến nửa đầu những
năm 80, khi nhu cầu đổi mới dần trở thành sự bức thiết của đời sống văn học thì thơ
có sự chuyển hướng mạnh mẽ từ cảm hứng sử thi sang đời tư thế sự.
Thành công của Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam mở ra cơng cuộc đổi
mới tồn diện cho đất nước. Tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng sự thật đươc phát
huy mạnh mẽ trong đời sống văn hóa xã hội. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên tinh
thần dân chủ đem lại những đổi mới quan trọng, căn bản trong văn học từ đề tài, chủ
đề, cái tôi đến các thể nghiệm hình thức nghệ thuật, giúp các nhà văn có cơ hội đi sâu
khám khá hiện thực nhiều chiều. Ở vị thế mới, con người cá nhân cũng khơng phải
nén lại hay hịa tan với cộng đồng mà được giải phóng và nhận thức lại đúng với ý

nghĩa, giá trị của mình.
Từ những năm 90 trở đi con đường đổi mới ấy có đơi lúc quanh co, chững lại
nhưng nó vẫn đang được tiếp tục theo xu hướng mới. Các nhà văn vẫn tiếp tục phát
huy sự nhạy bén và bắt kịp xu thế phát triển thời đại để đem đến sự đổi mới và tạo
nên diện mạo mới, luồng sinh khí mới cho văn học.
Sự xuất hiện đông đảo của đội ngũ thơ nữ một phần do ảnh hưởng của các phong
trào đấu tranh giải phóng con người, đấu tranh vì bình đẳng hay quyền lợi của phụ nữ
trong xã hội và một phần do ý thức phái tính, nữ quyền thúc đẩy. Sự tiếp nhận nền
văn hóa phương Tây, các trào lưu tư tưởng mới của văn học thế giới cũng đã kích
thích các trào lưu đổi mới của thơ Việt, mở ra tầm nhìn văn hóa cho người sáng tác
nữ và tạo nên chuyển biến trong cảm hứng, giọng điệu của thơ.
2.2. Nhìn chung về thơ nữ Việt Nam sau 1975
2.2.1. Thơ nữ sau 1975 - sự song hành, tiếp nối các thế hệ
Chặng đường đầu tiên, từ 1975 đến những năm 80, đội ngũ thơ nữ chủ yếu vẫn là
những gương mặt từng trưởng thành từ kháng chiến. Trong số đó, Ý Nhi vinh dự


7

nhận được giải thưởng Cikada vì những bài thơ mang bảo vệ cho tính bất khả xâm
phạm của đời sống. Xuân Quỳnh thì được đánh giá là người dự báo trước khuynh
hướng của những nhà thơ nữ đổi mới, là hiện tượng rất quan trọng của nền thơ chúng
ta. Còn Lâm Thị Mỹ Dạ với những vần thơ tình dịu ngọt nhà thơ không chỉ nhận
được những giải thưởng cao quý về thơ ca mà nhiều tác phẩm còn được dịch, xuất
bản ở Mỹ...
Chặng đường thứ hai, cuối những năm 80 đến những năm 90, bên cạnh nỗ lực đổi
mới của thế hệ nhà thơ trước, sự xuất hiện của thế hệ mới tạo nên sắc diện mới cho
thơ với nhiều phong cách lạ, độc đáo như: Vũ Thị Huyền khẳng định mình trong thi
đàn với sự lặng lẽ, ý vị và trầm lắng đến lạ; Dư Thị Hoàn gây chú ý với một hình
thức thơ là lạ, tồn những bài ngắn, câu ngắn, khước từ thể cách và rất nhiều vần

điệu; thơ nữ hải ngoại, có trường hợp đi rất xa, gây tranh cãi như Nguyễn Thị Hoàng
Bắc với tinh thần phản kháng mạnh mẽ... Họ góp phần đưa đến cho thơ tiếng nói
mới, tiếng nói của ý thức nữ quyền, địi hỏi được giải phóng, địi quyền thể hiện tiếng
nói của phái mình.
Chặng đường thứ ba, từ cuối năm 90 đến nay, thơ nổi bật là sự xuất hiện của thế
hệ nhà thơ nữ trẻ. Họ là những người có nhiều cơ hội tiếp xúc với các luồng tư tưởng
văn học thế giới, có điều kiện thuận lợi để thể nghiệm sáng tạo nên tìm tịi và cách
tân thơ nữ chặng này cũng được đẩy xa hơn, nhanh hơn và độc đáo hơn. Từ cách viết,
cách đặt tên tập thơ đến cách đưa tác phẩm đến công chúng bạn đọc cũng rất mới, lạ
như: trình diễn thơ ở nước ngoài, in thơ song ngữ, viết bài quảng bá thơ... Tiêu biểu
như Vi Thùy Linh, nhà thơ trẻ được Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp mời thực
hiện đêm thơ riêng tại Paris; Nhóm Ngựa trời làm poster quảng bá thơ; Ly Hồng Ly
trình diễn thơ ở Pháp với những tấm hình xếp như tổ ong màu xám... Với bản lĩnh tự
tin, sự chủ động táo bạo các nhà thơ đã khám phá nhiều thể nghiệm mới lạ. Bởi thế,
nhiều người xem Vi Thùy Linh là người chuyển động bánh xe ý thức tính nữ trong
thơ Việt sau đổi mới; Phan Huyền Thư là hiện tượng thơ có biểu tượng thơ độc đáo
“nối dài sự sống cho chữ”; Ly Hoàng Ly là người mang nhiều hơi thở đương đại với
thể nghiệm nghệ thuật trình diễn (performance), sắp đặt (installation)...
Thơ ca miền Nam cũng trở nên sôi động hơn với những tên tuổi mới, thể nghiệm
mới như Thanh Xuân, Phương Lan, Lynh Bacardi, Khương Hà… và đem đến cho
diện mạo thơ Việt sự đa dạng, độc đáo.


8

2.2.2. Những quan niệm thơ
Trong thơ ca truyền thống, thơ vẫn là tiếng nói của trái tim, khởi nguồn từ cảm
xúc trong sáng và chân thành nhất của tâm hồn trước những biến thiên của cuộc sống.
Sau này các nhà thơ nữ (sau 75) khẳng định thêm: “thơ không phải là một tồn tại mà
là lũy thừa của một tồn tại”(Nguyễn Thị Thúy Hạnh), là nhu cầu không thể thiếu

trong cuộc sống, nhất là khi tâm hồn chai sạn, dần vô cảm theo những chiều hướng
tiêu cực của lối sống hiện đại. Thơ cần như bệ đỡ để nhà thơ nương tựa.
Thơ có thân phận và bổn phận riêng, đem lại ý nghĩa giải thoát khỏi những mặc
cảm về bổn phận, thân phận từng ăn sâu trong tiềm thức con người, đem lại sự sẻ
chia, giãi bày, thức dậy trong người đọc tình yêu và khát vọng vươn lên trước hố
thẳm khổ đau cuộc đời.
Thơ không đơn thuần là sự giải tỏa tâm trạng mà còn là giải tỏa những ẩn ức,
không bị vây bủa bởi giới hạn nào giống như “Khơng viết thì phí mất” (Xn
Quỳnh), viết như “Giải thốt một món nợ truyền kiếp” (Hồng Kim Dung), “viết là
nỗi sống buồn”(Phan Huyền Thư), “Tôi làm thơ để giải tỏa những mong đợi” (Vi
Thùy Linh).
Làm thơ là công việc lao động nghệ thuật nghiêm túc để tìm tịi và thể hiện một
mỹ học mới, giúp các nhà thơ nữ thốt khỏi trạng thái mịn cũ, xơ cứng. Ở đó, họ tự
do thể nghiệm và thể hiện cá tính. Và quan trọng là sau quan niệm ấy họ thể hiện ý
thức sâu sắc về giá trị và tiếng nói khẳng định quyền của phái mình.
2.2.3. Những xu hướng cách tân thơ
2.2.3.1. Xu hướng cách tân trên nền truyền thống
Số đông những tác giả theo xu hướng này là những người từng trưởng thành
trong kháng chiến chống Mĩ như Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Đoàn Thị
Lam Luyến, Phan Thị Thanh Nhàn... Đến thời kì đổi mới họ có sự thay đổi, thậm chí
quyết liệt về tư tưởng, nội dung cảm xúc nhưng vẫn kế tục cái cũ, cái đã thành cơng,
khá định hình phong cách sáng tác ở giai đoạn trước.
Sự lựa chọn xu hướng này còn cả những cây bút mới xuất hiện sau 75 như Vũ
Thị Huyền, Phạm Vân Anh, Đường Hải Yến, Lê Mỹ Ý, Chu Thị Minh Huệ, Nguyễn
Thanh Vân, Trang Thanh, Lê Ngân Hằng, Ngô Thị Hạnh... Họ là những thế hệ trẻ có
điều kiện tiếp xúc dễ dàng với cái hiện đại hơn nhưng cách thụ cảm đời sống, cái nhìn
con người khơng xa rời dịng mạch thơ trước. Phương thức xây dựng hình ảnh, giọng
điệu, ngơn ngữ về cơ bản khơng đối lập, cắt đứt truyền thống. Điều đó giúp cho



9

người đọc có thể dễ dàng tiếp nhận, cảm thụ nghệ thuật và nhà thơ cũng có nền tảng
vững chắc hơn để tìm lối đi mới, kênh thẩm mỹ mới.
2.2.3.2. Xu hướng cách tân theo hướng hiện đại
Từ sau thời kì đổi mới nhiều nhà thơ nữ mà phần đơng là lớp trẻ ít có sự liên hệ,
ràng buộc bởi quá khứ như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn
Ngọc Tư, Từ Huy, Khương Hà Bùi, Thanh Xuân, Ng.anhanh, Phương Uy, Trần Lê
Sơn Ý, Trần Hạ Vy... Họ tạo ra được sự đột phá táo bạo. Họ không ngần ngại bày tỏ
khát vọng, hay động chạm tới những vấn đề một thời từng cấm kị trong văn học. Một
số nhà thơ đi vào hướng hiện đại chủ nghĩa, tìm tịi cách tân nhiều về mặt hình thức.
Họ cũng thích tìm đến lối thơ tự do phóng khống và có nhiều thể nghiệm hình
thức thơ mới hơn dù đôi lúc cũng không tránh khỏi những mảng màu trừu tượng hay
đối mặt với khơng ít rào cản từ những chuẩn mực, nguyên tắc trong đời sống.
Chương 3. NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ CẢM HỨNG VÀ CÁI TƠI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ NỮ VIỆT NAM SAU 1975
3.1. Những đổi mới về cảm hứng trữ tình
3.1.1. Cảm hứng về đời thường
Sau 75, dù cảm hứng sử thi, chất hùng tráng nhường chỗ cho cảm hứng đời
thường, song những nhà thơ từng trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ vẫn có
xu hướng tiếp tục khám phá đề tài về chiến tranh với sự tác động của nó tới số phận
cá nhân trong đời sống hôm nay. Cảm hứng tự hào, ngợi ca, tôn vinh thưở trước được
thay bằng sự suy tư, lắng đọng. Nó đem tới cảm nhận và cái nhìn sâu sắc về bức tranh
hiện thực, nơi con người đang phải đối diện với hậu quả của sự tàn phá, sự tàn khốc
của chiến tranh, thậm chí sự hủy diệt. Qua đó các nhà thơ nữ khẳng định mạnh mẽ
hơn ý chí, nghị lực của con người, đặc biệt nhấn mạnh sâu hơn nỗi suy tư, trăn trở
trước cuộc đời đầy bi kịch của những người mẹ, người chị, người vợ, người con
(Không chết - Ý Nhi, Thương vương đường cũ - Thúy Bắc, Thiếu phụ chờ chồng - Lê
Thị Mây, Bức tường chiến tranh Việt Nam - Nguyễn Phan Quế Mai...).
Thực tế, nhiều nhà thơ nam cũng đi vào những số phận cá nhân của người mẹ,

người chị sau chiến tranh (Hữu Thỉnh, Vương Trọng) nhưng đa phần viết từ sự cảm
thông, từ góc nhìn của người tái hiện (bên ngồi) và từ những điều mang tầm vóc vĩ
mơ. Ngịi bút nữ giới nghiêng về thế giới bên trong làm cho hình ảnh trở thành những
biểu tượng gần gũi với thế giới tâm hồn nữ.


10

Sự trở về đời thường trong cảm hứng sáng tác đưa ngòi bút thơ nữ nghiêng về
những vấn đề của đời sống hiện tại nhiều hơn. Mạch cảm xúc chủ đạo là tự sự. Ở đó
ta có thể bắt gặp niềm vui trước sự đổi thay của đời sống mới, về tình yêu quê hương,
thiên nhiên đất nước, về những mảng của đời sống riêng tư (Vũ Thị Huyền, Đoàn Thị
Lam Luyến, Nồng Nàn Phố…). Ở những nhà thơ trẻ như Vi Thùy Linh, Phan Huyền
Thư, Ng.anhanh, Nguyễn Phan Quế Mai... nguồn cảm hứng đời thường cịn có những
phát hiện mang tính thời sự, thường chú ý tới cách hành xử của con người trong xã
hội hiện đại.
Nguồn cảm hứng đời thường có sự xuất hiện trở lại trong thơ Nguyễn Duy ở các
tác phẩm Mẹ và em, Bụi nhưng chủ yếu chỉ đề cập tới những vấn đề nhạy cảm, trớ
trêu của cuộc đời. Trong thơ nữ, có lẽ do cái nhìn của người phụ nữ thường dễ cảm
thơng, với số phận người phụ nữ hơn nên khi đề cập tới những vấn đề của đời
thường, họ thể hiện sự ý thức hơn về giá trị đời sống qua những góc nhìn, cảm nhận
rất riêng, đậm tính nữ. Họ thường dừng lại sự khám phá cảm xúc đời thường ở những
mảng tối, mảng còn khuất lấp trong tâm tư của người nữ. Qua đó thấy được bản lĩnh,
dám chấp nhận để vượt lên hiện thực trớ trêu, thấy được sự thức tỉnh của các nhà thơ
nữ về cuộc sống thường nhật. Họ đã giúp ta hiểu hơn giá trị cuộc sống, khoảnh khắc
hạnh phúc hiện tại.
3.1.2. Cảm hứng về phận vị người nữ
Cảm hứng về thân phận, vị thế của người nữ là một trong những nguồn cảm hứng
lớn trong thơ ca truyền thống gắn liền với ý thức về thực thể cá nhân của người nữ.
Sự trở lại nguồn cảm hứng này trong thơ nữ sau 75 đưa người nữ vượt ra khỏi cái

nhìn trong tư cách cá nhân, số phận khơng hịa tan vào cái chung, khẳng định giá trị,
vị thế của mình, góp phần tạo nên những chuyển động mới trong cảm hứng sáng tạo.
Thơ nữ tiếp tục khám phá nỗi éo le của thân phận và “là lời tự sự của/ về một
thân phận” (Nguyễn Thị Thúy Hạnh) trước sự chìm nổi cuộc đời. Theo đó, các nhà
thơ đặt chữ phận lên trên hết (Chồng chị chồng em - Đoàn Thị Lam Luyến). Phận ở
đây là bổn phận, là trách nhiệm, là cái cố hữu một thời nhưng nay khơng thể “tính
được dài lâu với đời”. Phận có thể thay đổi nên họ cũng có những lựa chọn, chủ động
hơn trong cuộc đời của mình.
Trong thơ trung đại, thân phận đã được các nhà thơ nữ sau 75 nhận thức như một
thực thể hoàn chỉnh của sự sống, có nhu cầu tồn tại độc lập, có khao khát được thoả
mãn, được hưởng thụ, nhưng cách thể hiện chưa thực sự quyết liệt. Đến thơ giai đoạn
1945 - 1975, vấn đề thân phận không được các nhà thơ đặt ra.


11

Sau 1975, các nhà thơ nữ đã đi gần tới ý thức về quyền nữ, ý thức hơn về vị thế
của mình. Thơ nữ xuất hiện nhiều bài thơ ngợi ca vẻ đẹp tính nữ, vẻ đẹp bên trong
của người phụ nữ (Thơ viết cho mình và những người con gái khác - Xuân Quỳnh,
Bài hát của những người nội trợ - Lê Thị Mây, Điều anh không biết - Vi Thùy
Linh…). Thân xác thì được họ miêu tả như đối tượng để chiêm ngưỡng (Mở nút đêm
- Ly Hoàng Ly, Nơi ánh sáng, Vũ trụ trong tay - Vi Thùy Linh…). Nó khác với cái
nhìn ở nam giới ở chỗ chỉ quan tâm tới những vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong
cái nhìn mang tính chất khách quan, cảm tính. Thơ nữ hơm nay đi vào chiều sâu,
mang tính hướng nội. Nó gắn với ý thức giải phóng thân phận, giúp cho nữ giới hiểu
hơn chính mình.
Thơ nữ sau 75 đề cao những giá trị tự thân chứ khơng phải tịng thuộc. Theo đó,
“phận” có thể éo le, trớ trêu không may mắn nhưng họ chấp nhận, thậm chí thách
thức với định kiến xã hội. Vấn đề của thơ nữ sau 75 cũng không phải là đổi phận mà
là khẳng định giá trị riêng, vị thế riêng, quyền làm chủ của người nữ. Nếu thế hệ

Xuân Quỳnh cịn khiêm tốn thì thế hệ sau, sự khẳng định sức mạnh, giá trị riêng cũng
đã có quyết liệt hơn.
3.1.3. Cảm hứng về tình yêu
3.1.3.1. Tình yêu và những khát khao
Khát khao tình u hạnh phúc, thơ nữ thường có xu hướng khẳng định và tìm tới
sự bình yên. Tuy nhiên, nếu trước 1975 nó chỉ là khát vọng xa vời thì sau 1975, khát
vọng đó thực hơn, đời hơn. Họ tìm đến sự mê đắm, cuồng nhiệt ở nhiều tầng bậc
trạng thái cảm xúc mang đậm phái tính (Mưa Sài Gịn - Dư Thị Hồn, Tập làm thơ
lục bát - Ý Nhi, Đêm là của chúng mình - Ly Hồng Ly…)
Khám phá nỗi khát vọng hạnh phúc trong tình yêu, thơ nữ sau 75 đem đến sự tận
hưởng trên nhiều phương diện như nhục cảm, giao hòa thân thể (Đêm của những giọt
sương - Phạm Thị Ngọc Liên, Chân dung - Vi Thùy Linh, không đặt tên - Như
Quỳnh de Prelle…). Trước đây, nếu phần nhục thể trong thơ được xem là tầm thường
và bị tránh nói đến trực tiếp, thì giờ đây chúng được xem là một phương diện của vẻ
đẹp tình u. Trong thơ nữ, nó mang tới quan niệm mới về sự giải phóng tồn vẹn cả
ở đời sống thực thể, tìm tới tình yêu tuyệt đích.
Cái nhìn về người tình của các nhà thơ nữ sau 75 cũng thay đổi. Người tình
khơng đơn thuần chỉ là đối tượng ngợi ca, giúp “em” bộc lộ những vẻ đẹp thủy
chung, niềm tin, hồi vọng... mà được tơn xưng “người vĩ đại” (Xn Quỳnh), người
tình lí tưởng, là món q vơ giá cuộc đời trao tặng để hịa nhập cuộc đời trong giấc


12

mơ (Ý Nhi), “Anh là Chúa trong em mãi mãi” (Vi Thuỳ Linh). Cảm hứng ngợi ca
người tình trở nên mãnh liệt hơn và được nói ra một cách trực tiếp.
3.1.3.2. Tình yêu và những âu lo
Sau 75, ý thức về cái bất định, mong manh, ý thức sự không bền vững, khơng bền
chặt, sự biến suy của tình u đem đến cho thơ nữ nhiều hơn nỗi lo âu. Đó vẫn là
những dự cảm đắng đót khi tình u lụi tàn (Phan Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh…)

nhưng bao hàm trong nó cịn là sự đa cảm, đa đoan đậm tính nữ. Những nỗi lo âu ấy
bao giờ cũng được đặt lên trên trước để bắt gặp nỗi niềm trăn trở, băn khoăn. Cảm
xúc của nhân vật trữ tình đã thốt khỏi tính “ngun phiến” sử thi hào hùng. Các nhà
thơ đã chỉ ra được những biến động phức tạp nhưng rất chân thật trong tâm hồn thơ
nữ, chỉ ra nguyên nhân xuất phát, sự mâu thuẫn giữa hoài vọng và hồi nghi về sự tồn
tại của tình u bền vững.
Chúng ta cũng gặp những dự cảm âu lo trong rất nhiều bài thơ của những tác giả
nam cùng thời. Trước sự biến đổi thời gian, khơng gian tình u, cảm xúc ấy trong
thơ nam giới chỉ thoáng qua, vụt hiện trong giây phút. Trong thơ nữ hơm nay, nó lại
như thuộc tính tất yếu, làm nên nét đẹp riêng cho thơ nữ (Chiến tranh - Đoàn Thị
Lam Luyến, Viên mãn - Dư Thị Hồn, Khơng chắc chắn - Phan Thị Thanh Nhàn,
Nhớ bão - Phan Huyền Thư…).
Khát khao tận hưởng hạnh phúc viên mãn của tình yêu trong sự hịa hợp cả thể
xác lẫn tâm hồn làm cho đơi khi bản thể nhân vật trữ tình lo âu, rơi vào hụt hẫng,
trống vắng, cô đơn do sự không thể trở về với chính mình và day dứt trong những
cảm xúc mơ hồ khó hiểu. Từ những cảm xúc ấy, cái nhìn về người tình trong thơ nữ
có thêm sự mở rộng khi nhận thức ra “anh” cũng chính là người gây nên nỗi đau,
người mang phiền muộn đến cho em, là người ích kỷ, “gieo vào em sự đơn độc” (Vi
Thùy Linh). Cách viết như thế không phải để các nhà thơ hạ bệ người tình mà thực tế
họ vẫn ln có ý thức tơn vinh, xem người tình là đối tượng giãi bày nỗi suy tư trăn
trở âu lo của mình về tình yêu hạnh phúc.
Viết về nỗi lo âu trong tình yêu dễ thấy thơ nữ tồn tại hai thái độ đó là: vừa bày tỏ
sự thất vọng trước sự bền chặt vĩnh viễn, sự hòa nhập tuyệt đối trong tình u chỉ là lí
tưởng (dù khơng phải cái chủ đạo), vừa bộc lộ nhận thức sâu sắc, tỉnh táo và thực tế
hơn về những giá trị và giây phút hạnh phúc. Các nhà thơ nữ có vai trò lớn trong việc
đánh thức người đọc với cảm thức mang tính hiện sinh và giúp ta có cái nhìn tích cực
hơn, hiểu biết hơn về giá trị cuộc sống, biết quý sự sống trong sự phong phú, phức
tạp của nó. Đây chính là tìm tịi, đổi mới khác biệt mà những nhà thơ nữ sau 75 đem
đến cho nguồn cảm hứng về tình yêu.



13

3.2. Những đổi mới về cái tơi trữ tình
3.2.1. Từ cái tôi công dân đến cái tôi cá thể
Kháng chiến thắng lợi, cái tôi công dân trở thành cái tôi cá thể. Cái tơi ý thức về
mình là một sự sống, vũ trụ riêng, ý thức được mối quan hệ giữa cá nhân này với cá
nhân khác. Cái tôi ấy đối lập với cái ta và được hiểu như là một số phận, vũ trụ, cá
tính. Nó được nhấn mạnh hơn ở bản ngã và giá trị riêng, tự thân của người nữ. Nó đi
sâu vào ý thức cá nhân, cao hơn là ý thức nữ quyền với vị thế mới của người nữ. Sự
xuất hiện của cái tôi cá thể giúp thơ nữ nói lên được nhu cầu về giải phóng tình cảm,
bản ngã và tự do.
Cái tơi cá thể ý thức về mình như tơi là tơi, là cá thể riêng với bản ngã cá tính và
những giá trị riêng. Xu hướng cơ bản của nó là trở về với đời sống cá nhân, với bản
thể chính mình. Ở Thơ Mới, ý thức mình như cá thể riêng với tiếng nói riêng khơng
có gì xa lạ nhưng nó có nhiều biểu hiện khơng hồn tồn đồng nhất và chưa thực sự
phát triển. Ở thơ sau 75, sự thức tỉnh ý thức cá nhân làm cái tôi trở thành tiếng nói
khát tìm bản thể, ý nghĩa sự sống hay truy vấn tinh thần. Nhiều khi cái tơi cịn tự vấn,
phản tỉnh về các giá trị đời sống, về sự hiện hữu của bản thể trong một thế giới có q
nhiều thay đổi. Cuộc truy đuổi, tìm kiếm chính mình trong vơ thức của nó là hành
trình khơng có kết thúc nhưng nhờ đó tác giả cũng hóa giải được bản thể trong những
trạng thái phức tạp (Về Thái Nguyên - Ý Nhi, Ngày sau - Lê Khánh Mai, Gió bắc gió
nam - Xn Quỳnh…)
Cái tơi cá thể trong thơ nữ sau 75 được trực tiếp gọi bằng tên và có xu hướng tạo
ra tính cá nhân trong tên tập thơ hay cách sắp xếp bằng tên riêng (ViLi in love, Linh,
Lô lô…). Trước đây, trong thơ trung đại từng có một Hồ Xn Hương ngang tàng tự
viết tên mình, giờ đây hiện tượng như Hồ Xn Hương khơng cịn xa lạ nữa. Cái tên
ở đây không đơn thuần là kí hiệu ngơn ngữ mà sâu xa muốn khẳng định cá tính, sự
khác biệt.
Nếu cái tơi cơng dân trong thơ nữ giai đoạn kháng chiến (45-75) là cái tơi có ý

thức về quê hương, con người thời đại thì nay cái tôi cá thể trong thơ nữ sau 75
nghiêng về ý thức tìm kiếm những giá trị bên trong bản ngã của người nữ. Ở những
thế hệ chặng đầu sau 75, ý thức ấy cịn ít nhiều dè dặt nhưng đến thế hệ trẻ như Vi
Thùy Linh, Ly Hoàng Ly thì thể hiện có sự táo bạo hơn. Ý thức đi tìm cái tơi trong
tơi đã trở thành tiếng nói để xác quyết sự hiện hữu của giới nữ.
3.2.2. Từ cái tơi tịng thuộc đến cái tơi tự chủ
Tịng thuộc, hiểu theo nghĩa khái quát là sự đi theo quyết định của người khác,
tuân theo những quy tắc, luật lệ, những mẫu hình xã hội từng trở thành chuẩn mực.


14

Các quan niệm kiểu như phụ nữ phải nữ tính là quan niệm cái nhìn từ bên ngồi, cái
nhìn của nam giới áp đặt lên. Người nữ sẽ không được tự chủ, tự quyết định cuộc đời,
số phận của mình.
Sự chuyển đổi cái tơi trữ tình từ cái tơi tịng thuộc đến cái tôi tự chủ trong thơ nữ
sau 75 báo hiệu bước chuyển mới trong tư duy thơ. Cái tôi đã tự ý thức, tự lựa chọn,
làm chủ hành vi cũng như cảm xúc, cảm giác, cách ứng xử với chính mình và những
người xung quanh. Ở thế hệ Phan Huyền Thư, cái tôi không ngần ngại đối đầu, gây
hấn, vượt lên những định kiến, ràng buộc để được trở về với nhu cầu khát vọng của
chính mình. So với các nhà thơ nữ lớp trước, tiếng nói của cái tơi tự chủ của những
nhà thơ này có phần quyết liệt hơn ở đòi hỏi được yêu thương, được làm chủ cuộc
đời. Ý thức bình đẳng đã làm nền cho phong thái chủ động và khống đạt trong tình
u, mở ra quan niệm mới về giải phóng phụ nữ. Cái nhìn ấy thể hiện sự thức tỉnh đời
sống riêng tư, thức tỉnh khát vọng cá nhân và trỗi dậy bản năng của nữ giới. Thơ nữ
đang từng bước xóa bỏ tính tịng thuộc trở thành biểu tượng chống lại ý thức cũ và
khai mở hệ ý thức mới. Điều đó dẫn đến sự dấn thân, phản biện xã hội, kêu gọi phái
tính thể hiện thành thực khát vọng nhục cảm, điều mà trước kia văn học truyền thống
từng cấm kị.
Chủ động kiếm tìm hạnh phúc, chủ động trong cuộc đời, cái tôi trong thơ Vũ Thị

Huyền, Nồng Nàn Phố, Nguyễn Phan Quế Mai... cịn thể hiện phong thái bình tĩnh,
chấp nhận để vượt thốt cảnh ngộ khó khăn, bi kịch cuộc đời, đơi lúc cái tơi ấy cịn
bất chấp, sẵn sàng phóng thích hết tất cả những bức bối đang bủa vây, giam hãm. Các
nhà thơ ý thức rất rõ về tính độc lập, cá nhân của người nữ. Qua đó, họ cất tiếng nói
địi sự giải phóng, địi quyền tự do và bình đẳng. Đó khơng phải là đòi được quyền
ngang bằng với nam giới, như nam giới mà là quyền của người nữ đáng được hưởng
để được là chính mình.
3.2.3. Từ cái tơi đơn nhất đến cái tơi đa ngã
Cái tơi đa ngã là cái tơi có nhiều cái tơi, có sự trình hiện con người trong con
người. Cái tôi ấy chứa nhiều mảnh ghép đan chồng phức tạp, có cả cái tơi vơ thức tiềm thức, cái tôi đã biết - cái tôi chưa biết, cái tôi đã là - cái tôi đang là, cái tôi khơng
cịn tự tơn mà hồi nghi về chính mình vì nhận ra sự bất tồn, vơ thường của cuộc
đời, con người.
Trong tư duy hậu hiện đại, khi thế giới không được nhìn với sự hợp lí, cấu trúc
khơng chặt chẽ tất sẽ đi đến sự phức tạp, giải cấu trúc. Con người được nhìn trong sự
phân tách, khơng đồng nhất. Cái tơi trữ tình phân thân thành nhiều cái tơi, đôi khi phủ
định đến mức vênh lệch. Nhưng nếu cái tôi chỉ bao gồm những trạng thái, những mặt


15

đối lập song song, chưa thể trở thành bản thể khác nhau thì chưa là cái tơi đa ngã. Sau
này, đa số nhà thơ nam cũng thường nói đến cái tôi ấy với các mặt mâu thuẫn trong ý
thức và thái độ với đời sống nhưng thường có mặt nổi trội. Cái tôi ấy được các nhà
thơ nữ sau 75 nhìn trong sự phức tạp hơn khi thế giới được giải cấu trúc, giải tự sự.
Họ cũng đi đến đối lập các mặt nhưng không phải để triệt tiêu trạng thái nào, bình
diện nào mà để thức nhận ra đó là cuộc đời (thấy rõ trong thơ Ý Nhi, Dư Thị Hồn).
Cái tơi đa ngã có sự đan chồng phức tạp giữa mặt tiềm thức, vô thức - một trong
những khuynh hướng đi sâu vào vùng mờ tâm linh, đậm chất tượng trưng, siêu thực.
Khuynh hướng này đã manh nha ở một số tác giả Thơ Mới, Xuân Thu nhã tập, Dạ
Đài. Đến với các nhà thơ nữ trẻ đương đại, thế giới vô thức của con người là vô hạn.

Cái tơi bị chìm đắm trong giấc mơ, đi đến tận cùng khao khát, mở ra những bất ngờ
về hiện thực được cảm thấy qua thế giới quan nữ và thể hiện cái nhìn thấu đáo về
hiện thực (Vi Thùy Linh, Ng.anhanh...)
Xen lẫn cái tơi suy tư, triết lí, dấn thân, tin tưởng có cả cái tơi hồi nghi, khơng
tin chắc vào chân lí (Dư Thị Hồn có nhiều bài thơ như thế: Lối nhỏ, Bức tranh chưa
vẽ, Đừng giận em, Anh đấy ư?, Liệu có nghe thấy khơng...). Nó là lời biện giải cho
câu hỏi: nữ giới có thái độ như thế nào với thực tại? Phải chẳng cái tôi thơ nữ muốn
vượt ra khỏi sự mất mát niềm tin, sự lệch lạc trong tư tưởng, định kiến tìm đến sự tự
tin như một giá trị cốt lõi..
Sự chuyển đổi từ cái tôi đơn nhất đến cái tôi đa ngã trong thơ nữ, một mặt là tính
quy luật, sự vận động phát triển của cái tôi bản thể, cá thể; mặt khác là ảnh hưởng của
đời sống tinh thần thời kì hội nhập. Nó biểu hiện chất suy tư, triết lí độc đáo, sự truy
vấn tinh thần của nhà thơ. Nó tách khỏi chủ thể để soi chiếu, khám phá ra chính mình
ở những mặt khơng ngờ nhất, gợi ra những suy ngẫm về cách nhìn nhận hiện thực
cuộc đời, về tình yêu, về phận vị dưới cái nhìn phóng chiếu tâm trạng thật đa dạng,
phức tạp của nữ giới.


16

Chương 4. NHỮNG CÁCH TÂN VỀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NỮ SAU 1975
4.1. Cấu trúc thơ
4.1.1. Tự do hóa cấu trúc
Khi thơ khơng bị gị ép trong khn mẫu định sẵn cũng như những quy luật của
lý trí thì thơ có xu hướng tự do hóa cấu trúc.
Về hình thức, các nhà thơ nữ ưu tiên lựa chọn câu thơ tự do, đuổi dài như kiểu
văn xuôi, không viết hoa đầu dịng theo thể thức thơ thơng thường. Mỗi bài thơ là sự
tổ chức những câu thơ ngắn dài đan xen tạo sự chia cắt, ngắt khoảng mạch cảm xúc
rất đặc biệt. Giữa các dịng thơ cũng có sự liên kết của vần nhưng rất ít, thường nằm

ở những đoạn, câu thơ cách xa nhau, bởi thế sự xuất hiện ngẫu nhiên của âm điệu mới
chính là sự nối kết chặt chẽ giữa chúng. Những cấu trúc phi tuyến tính, câu chữ xơ
bồ, tự do bay nhảy, cấu trúc bất định được thể hiện qua các câu chữ vắt dịng như bậc
thang. Nếu trước đó, một số nhà Thơ Mới (30-45) cũng có ý thức sử dụng cấu trúc tự
do nhưng chưa phổ biến thì sau những năm 86, các nhà thơ, đặc biệt các nhà thơ nữ
tích cục sử dụng để tự do biểu đạt cảm xúc, suy nghĩ, làm liên tưởng rộng ra. Họ
thường sử dụng khi giãi bày và giải tỏa tâm trạng, ẩn ức (Bóc một lớp vỏ - Nguyễn
Thị Thúy Hạnh, nuối tóc – Nguyễn Ngọc Tư, Chuyến bay - Phan Huyền Thư và thơ
Từ Huy...)
Về nội dung, cấu trúc có sự tự do hóa cấu trúc bên trong. Nó phá vỡ những liên
kết giữa hình ảnh, ý tưởng, cảm xúc theo logic lí tính để xuất hiện một cách ngẫu
hứng, ngẫu nhiên, đơi khi tất cả còn vụt hiện theo ý tưởng, chứ không theo cấu trúc,
logic thông thường. Đây không là kiểu cấu trúc mới trong thơ nữ mà nhiều nhà thơ
nam sáng tác sau 75 cũng có sự phá vỡ cấu trúc nội dung này. Tuy nhiên, sự thể
nghiệm cấu trúc của thơ nữ có những màu sắc khác, thể hiện tinh thần sáng tạo và
tiếp nhận những cái mới của văn học (có thể thấy rõ hơn qua thơ Lê Khánh Mai, Ly
Hoàng Ly, Phan Huyền Thư, Nguyễn Thị Khánh Minh...). Quan trọng nhất là ở bề
sâu bên trong cấu trúc, cảm xúc chuyển động, được nối kết rất độc đáo bằng liên
tưởng, bằng nhạc điệu riêng của tâm hồn. Có khi xơ đẩy, có khi dãn ra như nỗi lịng
khắc khoải của nhân vật trữ tình. Nó xuất phát từ đòi hỏi của nghệ thuật bám sát hiện
thực, phản ánh cuộc sống mới, thể hiện cách nhìn nghệ thuật mới.
4.1.2. Một số thể nghiệm cấu trúc
Cấu trúc hội thoại: Ở dạng cấu trúc này, chất tự sự được dung hợp, hịa lẫn chất
trữ tình, nhà thơ dễ dàng đi tới những triết lí nhân sinh thế sự. Chẳng hạn như Dư Thị


17

Hồn, người có nhiều tác phẩm được tổ chức theo cấu trúc này: Quo Vadis, Khóc hoa
quỳnh, Giờ này thiên đường, Bản Xơ-nat…, Cá tính, Đi lễ chùa, Thơn quả phụ). Việc

lắp ghép hội thoại vào cấu trúc thơ giúp họ có thể đối thoại với các chủ thể khác nhau
hay để đi sâu vào bản thể cũng như cảm xúc bên trong đời sống tâm hồn của nữ giới
đem đến màu sắc mới cho cấu trúc thơ.
Cấu trúc gián đoạn: Bản chất của thơ trữ tình là cơ đọng, hàm súc, nhưng cô đọng
tiết chế ngôn ngữ đến mức câu thơ như bị hủy từ, xóa từ thì xuất hiện phổ biến trong
thơ nữ sau 75 (thơ Nguyễn Ngọc Tư, Phan Huyền Thư). Sắp đặt cấu trúc bài thơ, các
quan hệ từ bị rỗng (bị xóa) tạo ra khoảng trống, gián đoạn trong dòng thơ câu thơ,
làm cho tất cả những câu thơ, đoạn thơ, hình ảnh thơ như những mảnh vỡ, rời rạc.
Thơ thị giác là sự kết hợp của nghệ thuật sắp đặt (Installation art) và nghệ thuật
trình diễn (Performance art) để thực hiện khát vọng giải phóng cho thơ. Thơ khơng
chỉ là nghệ thuật ngơn từ mà thơ cịn là nghệ thuật khơng gian (spacial art). Yếu tố
nhịp điệu, cảm xúc, tác động trực tiếp vào tình cảm người đọc là quan trọng trong thơ
nhưng ở đây nó đã bắt nhịp với các chất liệu ngồi ngơn ngữ để kích thích tư duy
sáng tạo nghệ thuật (thấy nhiều trong thơ Ly Hoàng Ly)
Ngoài những dạng cấu trúc trên, thơ nữ có tìm tịi, thể nghiệm với những cấu trúc
thơ đồng hiện, lập thể, tỉnh lược...
4.2. Ngôn ngữ thơ
4.2.1. Ngơn ngữ lạ hóa
Lạ hóa là một thuật ngữ của V.Shklovski, theo đó ngơn ngữ lạ hóa là ngôn ngữ
vượt ra khỏi cái quen thuộc, được diễn đạt một cách xa lạ, thậm chí kì quặc. Mạnh
dạn phá đi những khuôn khổ, quy phạm theo logic thông thường, một số nhà thơ Trần
Dần, Lê Đạt, Dương Tường đem tới hiệu quả tích cực là tạo ra kênh thẩm mỹ riêng,
nhấn mạnh hơn cảm giác bị kìm nén, dồn đẩy, bức bối, tình cảnh bế tắc của con
người. Đối với những nhà thơ nữ sau 75, lạ hóa ngơn ngữ cũng đem đến những thể
nghiệm cách tân mới mẻ. Vi Thùy Linh, Ng.anhanh là ví dụ.
Lạ hóa ngơn ngữ thường được các nhà thơ nữ sử dụng qua các từ lạ, biệt ngữ, các
từ trong lĩnh vực chuyên biệt xa lạ với văn chương, thậm chí họ cịn dùng nhiều từ
lóng, từ nước ngồi. Sự chọn lọc nhiều ngơn ngữ của đời thường, thơ nhám như giẻ
lau, quả bóng đá, hội thảo X… được các nhà thơ tích cực sử dụng trong những cách
kết hợp từ mới, lạ tạo ấn tượng trong tư duy ngôn ngữ thơ.

Ngôn ngữ lạ hóa trong thơ nữ sau 75 cịn được thể hiện qua sự kết hợp từ ngữ
thuộc những trường nghĩa rất mới, độc đáo, phát huy tính tự do tuyệt đối trong sáng


18

tạo. Nhiều từ ngữ khi kết hợp với nhau lại không cùng trường nghĩa hoặc đối lập trên
các phương diện đem đến cho thơ đa sinh tầng ý nghĩa (phổ biến trong thơ Lữ Thị
Mai, Nguyễn Thị Thúy Hạnh).
Cách các nhà thơ đặt tên cho tập thơ cũng rất khác: Lơ lơ (Ly Hồng Ly), Rỗng
ngực (Phan Huyền Thư), Vili in love, KhÁt (Vi Thùy Linh). Nhiều bài thơ được đặt
tên ấn tượng như trong Lơ lơ của Ly Hồng Ly có đêm chảy lên trời, mỏng mịng
mong, mobiphone, performance hăm bơ gơ…
Ngồi ra lạ hóa trong ngơn ngữ cịn được các nhà thơ sử dụng bằng cách biến
những từ ngữ mang tính chất thơng tục hóa thành những từ có cách diễn đạt mới. Nếu
ở một số tác giả như Nguyễn Quốc Chánh, Lý Đợi, Bùi Chá thiên về sự thơng tục
giễu nhại thì ở một số nhà thơ nữ sau 75, đặc biệt một số nhà thơ nữ trẻ, tính thơng
tục trong ngơn ngữ lạ hóa được nhấn mạnh hơn ở biểu cảm, biểu nghĩa, thể hiện qua
những động từ, tính từ ở mức độ mạnh. Nó đem đến những giá trị mới, khái niệm
mới, diễn đạt một cách thẳng thắn, mạnh mẽ cái tôi chủ động, táo bạo.
Sự lạ hóa ngơn ngữ trong thơ nữ sau 75 đã phóng thích ngơn ngữ ra khỏi những
giới hạn chật hẹp góp phần tạo ra những nét nghĩa mới lạ, độc đáo, đồng thời thể hiện
sự tự do hóa trong ý thức cá nhân, là cái rất hữu ích cho cái tơi trữ tình phát triển cảm
xúc và dễ gây ấn tượng cho người đọc. Tuy nhiên, có một số trường hợp nó lại như là
biểu hiện bế tắc của tư duy thơ.
4.2.2. Ngơn ngữ đậm màu sắc phái tính
Sau 75, sự phát triển mạnh mẽ của ý thức cá nhân, gần nhất là xu hướng phát
triển của ý thức nữ quyền đã đem tới màu sắc phái tính cho ngơn ngữ thơ nữ. Đó là
thứ ngơn ngữ nhấn mạnh hơn đến sự tự ý thức về giá trị của người nữ trong cả những
cảnh ngộ éo le, thiệt thòi. Nó được thể hiện khá đậm nét qua hệ thống ngơn từ giàu

tính nữ, biểu hiện các mối quan hệ và gắn với cái nhìn đầy duy cảm của nhà thơ nữ
về thế giới. Nó đưa người đọc đến nhiều cung bậc cảm xúc đằm thắm với những suy
tư, trăn trở đầy nữ tính.
Khác với ngơn ngữ trong thơ nam giới, ngôn ngữ thơ nữ nghiêng về hướng nội,
hướng vào đời sống bên trong của nữ giới, bộc lộ cái nhìn tinh tế nhạy cảm của người
nữ về mình và thế giới xung quanh. Nó thể hiện cái nhìn từ chủ thể, từ vị thế người
nữ chứ không phải cái nhìn khách quan, mang lại cái tình cảm nồng ấm, dịu dàng, tơ
đậm hơn những tâm tư tình cảm, những vẻ đẹp riêng của nữ giới.


19

Ngơn ngữ phái tính cịn thể hiện qua cách đặt tên cho tác phẩm: Lỡ một thì con
gái, Giấc mơ thiếu phụ (Lê Thị Mây); Hát ru chồng những đêm khó ngủ (Xuân
Quỳnh); Van anh (Nguyễn Thị Hồng Ngát)…
Tần số ngôn ngữ bộc lộ nỗi niềm, thân phận và khát vọng của phụ nữ xuất hiện
khá nhiều trong thơ nữ giai đoạn này nhưng được biểu đạt táo bạo hơn, mới mẻ hơn,
tô đậm hơn sự chủ động của cái tơi trữ tình qua ngơn ngữ cá tính, dục tính. Trước
hiện tượng này, nhiều người từng nghi ngại sự ảnh hưởng của chủ nghĩa nữ quyền
hoặc vì mặc cảm từ thế hệ bản lề nên bạo dạn thể hiện lên giấy. Tuy nhiên, chính
quan điểm dân chủ hóa trong thơ sau 75 nói chung đã cho phép ngơn ngữ thơ khơng
cịn bị khu biệt theo khn mẫu. Mọi ngơn từ đều có thể được khám phá và sử dụng
bình đẳng. Ở phương diện tích cực, ngơn ngữ đã giúp họ thể hiện cá tính một cách
mạnh mẽ, thể hiện được mong muốn thốt ra tiếng nói chung của cộng đồng để tạo ra
tiếng nói riêng, từ đó sáng tạo cá nhân được phát huy, đưa đến những thông điệp
ngôn ngữ mới.
Theo đó, cách xưng hơ thường thấy trong thơ nữ sau 75 cũng là tôi, là em. Nhiều
người cho rằng bởi vì thơ nữ chưa thốt khỏi mặc cảm nữ nhi thường tình, nhưng
ngược lại trong cái tơi, cái em đó nó có sắc thái mới mẻ hơn thể hiện những nỗ lực
bứt phá, thốt khỏi tịng thuộc, khẳng định vai trị, vị thế của phái mình.

4.3. Hình ảnh thơ
4.3.1. Làm mới những hình ảnh quen thuộc
Nhiều hình ảnh tưởng chừng rất quen thuộc trong thơ nữ, nhất là những hình ảnh
giới hóa gợi nỗi niềm thân phận và tình yêu như trái tim, bàn tay, đêm, trăng... giờ
đây mới lạ và độc đáo hơn vì chúng có thêm những nét nghĩa biểu trưng mới, những
cách kiến tạo mới, thể hiện sâu sắc hơn những vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn của nữ
giới, chẳng hạn như:
Hình ảnh trái tim: Với Xuân Quỳnh, trái tim vẫn luôn ở trạng thái động, là biểu
tượng cho sự sống, tình cảm dạt dào. Trong tập Hái tuổi em đầy tay của Lâm Thị Mỹ
Dạ trái tim là biểu tượng kiên tâm sau những buồn đau, có hình khối, biểu hiện cảm
thức nhân sinh của con người... Đa số những hình ảnh trái tim trong thơ nữ thường
được kết hợp với tính từ, động từ đem đến sức gợi.
Hình ảnh đêm: Trong thơ Ly Hồng Ly, đêm có thêm nhiều biến thể: Đêm chảy
lên trời, Đêm là của chúng mình, Song đêm, Đêm và anh, Ngoặc đơn trong đêm, Đêm
về đi sáng, Nửa đêm... Cách kết hợp từ ngữ độc đáo tạo ra những hình ảnh ám gợi
như “hút đêm”, “đêm tỏa sóng của đêm”, “căng đêm” (Vi Thùy Linh), phá vỡ cái


20

nhìn qn tính với sự vật, mở ra kênh liên tưởng khác đến một hiện thực khác với
hiện thực được cảm thấy.
Hình ảnh trăng hóa thân trở thành người phụ nữ có số phận lênh đênh, nghiêng
về phái tính. Cảm hứng đời thường đã mang đến cho trăng trong thơ Lê Thị Mây
những thêm cả nỗi niềm riêng tư, sự chênh vênh khắc khoải ngày thường. Với
Nguyễn Thị Hồng Ngát, trăng gợi niềm khao khát hạnh phúc, viên mãn trọn vẹn. Với
Vi Thùy Linh, trăng ln trịn đầy nhưng đằng sau trăng bao giờ cũng là nỗi niềm đau
đớn, tuyệt vọng của cuộc đời người phụ nữ nhiều trắc trở. Đặc biệt, Trăng thường đi
với hình ảnh “đêm”,“nước” để gợi nỗi niềm, tâm trạng...
Hình ảnh bàn tay có sức ám gợi sâu sắc đến thân phận tình yêu trong thơ nữ sau

75. Đó là bàn tay ghi lại những trải nghiệm đau thương, trắc trở trong cuộc đời (Với
bàn tay ấy - Xuân Quỳnh). Ngược lại bàn tay cũng là biểu tượng cho hạnh phúc ngọt
ngào, bình yên (Và vườn trong phố - Ý Nhi), là bàn tay của sự ân cần chăm sóc u
thương (Tình u khơng có tận cùng - Nguyễn Thị Hồng Ngát). Bàn tay biểu tượng
cho phận nữ đa đoan (Vi Thùy Linh) với nỗi đau vá víu (Nguyễn Ngọc Tư)...
Ở một số cây bút nam giới, hình ảnh thế giới được khám phá trong cảm nhận gắn
liền với nữ không phải là hiếm. Lê Đạt từng có hình ảnh “má bờ đê con gái”, “gió bồ
kết”, “cầu mày” nhưng ở nữ giới những hình ảnh này ám gợi sâu sắc về thân phận với
nỗi đau, hạnh phúc, là sự biểu đạt của thế giới vô thức, tâm linh, gắn liền với cảm
thức hiện sinh về cuộc sống hiện đại trong cách nhìn nữ giới.
4.3.2. Sáng tạo những biểu tượng mới
Khơng cịn kiểu xây dựng khơng gian vũ trụ rộng lớn như “sơng”, “bể”, “sóng”,
hay những hình ảnh tính ước lệ tượng trưng hình ảnh trong thơ nữ sau 75 có thiên
hướng thu nhỏ thế giới đời tư, vào những khơng gian nhỏ của “căn phịng”, “cái
giường”, “chiếu”, “chăn màn”… trong thế giới cảm quan riêng tư như “khuy áo”,
“mắc áo”, “nếp nhăn”, “mái tóc”...
Trong thơ của một số nhà thơ nam giới, những hình ảnh này ít xuất hiện, nếu có
cũng chỉ khơng gian đơn thuần. Trong thơ nữ những hình ảnh này sử dụng nhiều hơn,
diễn đạt về những ám ảnh tan vỡ, suy tư, chiêm nghiệm liên quan tới đời sống nữ. Nó
phá vỡ những khn thước trong quan niệm truyền thống. Đó là biểu hiện của tinh
thần dân chủ hóa trong quan niệm về hình ảnh và tinh thần nhận thức lại, giải thiêng
những giá trị, tín điều đã cũ. Đó cũng là cách nhà thơ làm sống dậy những khát khao
và giải phóng chính mình.


21

Bên cạnh đó những hình ảnh thân thể: “lưỡi”, “mơi”, “lồng ngực”, “làn da”...,
những hình ảnh đậm tính dục: “hơn”, “cài khuy áo”, “khỏa thân”, “gối lên đùi”, “gác
chân lên bồn tắm”... cũng xuất hiện thường xuyên trong thơ nữ sau 75 mang ý nghĩa

độc đáo. Đó là sự ghi dấu bản thể nữ trong thơ ca chứ không đơn thuần chỉ khẳng
định cái tôi cá nhân. Nếu ở thế hệ đầu những hình ảnh dục tính xuất hiện trong thơ
còn khá dè dặt, mang nét nghĩa biểu trưng cho bản năng, của khát vọng chân thành,
nhẹ nhàng, kín đáo thì đến thế hệ sau, họ đi sâu hơn vào vùng cấm kỵ với cách miêu
tả rất chân thực. Những hình ảnh này ít nhiều mang đến cho người đọc sự cảm nhận
khao khát vồ vập, đam mê cháy bỏng sau sự kiếm tìm tình u viên mãn có sự giao
thoa giữa thể xác và tâm hồn.
Nhiều cây bút nam giới cũng từng sử dụng những hình ảnh liên quan tới tính dục
như đối tượng thẩm mĩ, tuy nhiên họ thường dựa trên bút pháp tả thực và đứng ở vị
thế chủ thể ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, mang đến sự tơn vinh, hưởng thụ trong tình
u. Cịn với những cây bút nữ, những hình ảnh trên ghi lại những trải nghiệm thực
tế, được tơ đậm bởi thiên tính nữ, gắn với sự tự ý thức về phái tính, địi hỏi sự nhìn
nhận cơng bằng đối với phần tự nhiên trong con người. Tất nhiên, chúng đều là một
phần giá trị của cái đẹp, của nhu cầu tự nhiên, là một phần của nhân tính, mặc dù sự
bạo dạn phơ bày và thắng thắn nhiều khi khó tránh sự quá đà trở thành những hiện
tượng lộ liễu tác động tiêu cực tới người đọc, khiến họ phải e dè, khó chịu trước
những hình ảnh “sống sượng” ấy.
4.4. Giọng điệu thơ
4.4.1. Giọng trầm tư sâu lắng
Giọng điệu trầm tư thường xuất hiện qua những câu thơ được gợi cảm hứng từ
những vấn đề nhân sinh thế sự, về đời sống riêng tư của con người. Với thơ nữ, giọng
trầm tư giúp cho những trang viết đằm sâu trí tuệ, thiết tha nồng nàn. Ở một số nhà
thơ nữ trung đại như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm giọng
trầm tư ít nhiều được thể hiện trực tiếp qua những câu thơ bày tỏ nỗi niềm về thân
phận người phụ nữ. Sự quay trở lại và trở nên phổ biến của giọng điệu này ở thơ nữ
kể từ sau 75 báo hiệu sự thay đổi, tìm tịi và khám phá mới. Ở một số tác giả nữ,
giọng điệu này thường gắn với cái nhìn về phận vị người nữ, với những vấn đề cá
nhân, tình yêu nhưng ở một số tác giả khác giọng trầm tư mở ra, hướng ra những vấn
đề rộng lớn hơn về nhân sinh, thế sự.



22

Trước những trăn trở về tình người, sự sống và cái chết, thường hằng và vô
thường, suy tưởng về quá khứ và hiện tại, giọng điệu trầm tư hiện lên trầm lắng hơn,
suy tư triết lí hơn, sâu lắng hơn (Lê Khánh Mai).
Nếu khi chiêm nghiệm, suy tư về vấn đề của đời sống, Thanh Thảo, Nguyễn Duy
cũng như một số nhà thơ nam giới cùng thời thường gắn giọng điệu thơ với những
triết luận về sự vô hạn và hữu hạn, sự hiện hữu và hư vô của kiếp nhân sinh thì thơ nữ
thường gắn với chất suy tư, trầm lắng trong sự phân tích biện giải. Chẳng hạn, trước
địi hỏi của cái tơi về sự viên mãn trong tình yêu hạnh phúc, giọng điệu trầm tư của
nhiều nhà thơ nữ thấm đẫm sự biện giải về sự thảm hại của tình yêu để thấy cái nhìn
tỉnh táo của lý trí (Viên Mãn – Dư Thị Hồn).
Tất cả những trăn trở, nhức nhối, phản kháng hay hoài nghi thực chất cũng là
nghịch lí, là nỗi đau mà con người chưa tìm lời giải đáp thỏa đáng. Tưởng rằng các
nhà thơ nữ đang lặp lại điều suy tưởng này của ai đó nhưng thực ra sau đó là suy
nghiệm, trầm tư từ ý thức của cái tôi hết sức đời thường, rất gần gũi, quen thuộc
nhưng luôn hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn.
4.4.2. Giọng giễu nhại
Đối với thơ nữ sau 75, giọng điệu giễu nhại có những nét mới hơn ở một số nhà
thơ như Phạm Thị Ngọc Liên, Dư Thị Hoàn, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh. Ở
nghĩa thuần túy, giọng giễu nhại có thể là sự bắt chước để cười, có chút mỉa mai
châm biếm, thể hiện qua cách sử dụng một số từ, cụm từ giải ngữ như “bao giờ
chẳng”, “thì”… Cịn ở phương diện ngữ nghĩa, giọng điệu giễu nhại thể hiện qua thái
độ, giễu cợt, khinh bạc, thậm chí thách thức. Họ đã phá đi quan niệm bền chặt, cố
hữu, phá đi cái logic lý luận đã có của xã hội, làm tăng tính chất mỉa trước những giá
trị cổ hủ, những thứ lai căng của xã hội được tạo nên bởi những cặp tương phản,
nghịch lý. Sự tương phản này được biểu hiện ở nhiều lớp, không chỉ ở bản thân đối
tượng mà cịn ở hồn cảnh, thời đại.
Tuy nhiên khơng phải đến giai đoạn này, giọng điệu giễu nhại mới xuất hiện

trong thơ nữ, nhưng nay sự nhại giọng có trong thơ nữ để phản tỉnh lại những hình
tượng, những giá trị truyền thống trong đời sống hiện đại. Họ thường đưa vào trong
thơ những hình tượng trong dân gian như Thị Mầu, Thị Kính... Ở đó hiện lên thái độ
có chút hoang tàng, có cả sự bất cần. Đó là giọng điệu riêng thể hiện bản sắc nữ, đấu
tranh cho sự giải phóng người nữ.
Giễu nhại khơng chỉ là dạng thức của phản biện xã hội mang tính cá nhân mà còn
là giải pháp để phản biện, thể hiện thái độ cởi mở giữa cái mang tính truyền thống và


23

hiện đại. Trong thơ nữ sau 75, giọng điệu giễu nhại đem đến những hiệu quả thẩm mỹ
làm tăng tính bất ngờ, triết lý và suy tưởng. Nó là cơ sở để hình thành nên cái tơi hồi
nghi thường thấy trong thơ nữ sau 75.
4.4.3. Giọng đối thoại tỉnh táo
Sau 75, một số nhà thơ nữ tìm đến giọng điệu đối thoại khơng chỉ để nhìn xa hơn,
rõ hơn những vấn đề đang nảy sinh, tồn tại trong mỗi con người mà cịn làm nổi bật
lên cái nhìn về những tâm trạng phức tạp đa chiều, sự thức tỉnh về mình, vượt lên
những cái giản đơn, hồn nhiên ngây thơ của một thời.
Trước hết, để nhận thức sâu hơn, toàn vẹn hơn những mặt khác nhau của cuộc
đời và những tính cách phức tạp của chính mình, một số nhà thơ nữ đi sâu vào độc
thoại nội tâm. Ở đó, nhân vật trữ tình tự hóa thân thành nhân vật thứ hai để giãi bày,
tranh luận. Độc thoại như là phương tiện, là cái cớ để giải tỏa ẩn ức, kí thác những
tâm trạng, nhận ra những suy biến của cuộc đời, con người. Đó là lúc cái tơi được tự
do phơi trải cảm xúc trong tâm hồn mình để mà tìm thấy khoảng trắng cịn thiếu xót.
Giọng điệu gia tăng tính tự sự, tuy nhiên cịn có thêm những băn khoăn, trăn trở, sự
truy vấn tinh thần (ví dụ Độc thoại trắng – Phạm Thị Ngọc Liên, Sáng chủ nhật –
Nguyễn Ngọc Tư...)
Khơng chỉ đối thoại với mình, thơ nữ sau 75 còn hướng tới đối tượng thứ hai, đã
được khách thể hóa, là người được nhà thơ tưởng tượng để hướng tới mục đích khác,

để đối diện với sự thực cuộc đời. Giọng điệu thơ nữ có sự hơ ứng để tìm sự tri âm,
đồng cảm, tự giải tỏa nỗi lòng nhưng cuối cùng nhận ra là nỗi xót xa bởi sự cơ độc
trước cuộc đời giơng bão.
Giọng điệu đối thoại cũng giúp ta nhận ra là lời nói bên trong của nhân vật đang
bày tỏ khao khát mãnh liệt về quyền tối thượng của người phụ nữ, là khát vọng được
trở về với cội nguồn tính nữ (chủ yếu trong thơ Dư Thị Hoàn, Lâm Thị Mỹ Dạ...)
Ngoài ra, khi đối tượng đối thoại chưa được khách thể hóa, nghĩa là tiếng nói thứ
hai của ai đó chưa thực rõ ràng, cho rõ ai đang lắng nghe, hướng về ai. Giọng điệu
đối thoại đã đem đến cảm xúc chân thành, giản dị và sau đó là những bài học triết lí
nhân sinh, bài học thái độ ứng xử của con người.


×