Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.49 KB, 24 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>HỒ XUÂN HƯƠNG I. Những khó khăn trong việc nghiên cứu Hồ Xuân hương Một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến sự chia rẽ ý kiến, không phải giữa những nhà nghiên cứu có quan điểm khác nhau, mà ngay trong những nhà nghiên cứu có cùng một quan điểm là vấn đề tư liệu về sáng tác cũng như tư liệu về cuộc đời của nhà thơ này, Thơ Xuân Hương còn lại đến nay đều do người đời sau ghi chép, không một tài liệu nào có thể tin cậy hoàn toàn, Không kể bản Lưu Hương ký ông Trần Thanh Mại mới tìm được và công bố trên tạp chí Văn học lăm 1964, góp nhặt đây đó số thơ thường được coi là của Hồ Xuân Hương có đến trên một trăm bài, Chắc chưa hết, Nhưng điều cần giải quyết trước tiên ở đây là số trên một trăm bài thơ ấy, có phải tất cả của Xuân Hương không? Bởi vì rất dễ hiểu là nếu đánh giá Xuân hương mà dựa vào những bài thơ không phải của bà thì làm sao đánh giá chính xác được? Khảo sát trên một trăm bài thơ lâu nay được coi là của Hồ Xuân Hương, thực tế ta thấy khoảng 40 bài phong cách rất thống nhất, Còn số bài còn lại thì có khía cạnh này, khía cạnh khác giống với những bài trên, nhưng nhìn chung không thuộc phong cách của những bài trên, mà rất hỗn tạp, Thực tế đó cho thấy chúng ta nghĩ trong số bợn mươi bài có phong cách thống nhất kia có nhiều khả năng là của một người sáng tác và đó là sáng tác của Xuân Hương, Còn những bài khác vì có khía cạnh này, khía cạnh nọ giống với sáng tác của Xuân Hương, nên người ta mới nhầm lẫn, cho là của Xuân Hương chứ không phải của bà, Căn cứ vào tính thống nhất của phong cách, chúng ta làm một sự đối chiếu so sánh để loại trừ, như thế có khả năng tìm ra những bài thơ của Xuân Hương, Tuy nhiên một vấn đề hoàn toàn có thể đặt ra là: phong cách của một nhà văn không phải đứng yên mà có thay đổi, Nghiên cứu phong cách trong tính thống nhất tĩnh tại, có khả năng bỏ sót một số bài của Xuân Hương, Và ngay trong những bài phong cách thống nhất chắc gì không có khả năng lẫn lộn? Đúng nhu vậy, Về trường hợp thứ nhất, cần nói thêm rằng phong cách của một nhà thơ có thể thay đổi, nhưng phổ biến là sự thay đổi ấy không phá vỡ tính thống nhất của nó, Riêng đối với những nhà văn sống trong xã hội phong kiến, cuộc sống không có những biến động lớn về xã hội, về thế giới quan và ý thức hệ thì khả năng thay đổi phong cách rất hạn chế, Do đó nếu căn cứ vào tiêu chuẩn tính thống nhất phong cách để xác định sáng tác của Hồ Xuân Hương, nếu ta có bỏ sót một số bài nào, thì chắc con số ấy không nhiều, không ảnh hưởng đáng kể đến sự đánh giá chung đối với nhà thơ, Có thể với cách xác định như thế, chúng ta chưa đánh giá triệt để Hồ Xuân Hương, nhưng tránh được khả năng đánh giá sai Hồ Xuân Hương,.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Còn trường hợp thứ hai, về sự nhầm lẫn trong những bài có phong cách thống nhất, Thực tế thơ Hồ Xuân Hương cho thấy có khả năng này, Bài Đánh đu ngày tết là một bài mang đầy đủ phong cách Xuân Hương theo tiêu chuẩn xác định trên thì chính nó lại thoát thai từ bài thơ Cây đánh đu trong Hồng Đức quốc âm thi tập, (1 ) Hai bài Động Hương Tích và Hang Cắc Cớ mang nhiều nét phong cách Xuân Hương, thì cả hai lại có nhiều câu rất giống nhau, Lẽ nào Xuân Hương bất lực đến nỗi phải tự lặp lại mình thô thiển đến thế, Đây quả là những trường hợp phức tạp, Dù sao cũng có thể khẳng định trường hợp nhầm lẫn này không nhiều, Bởi vì hiện tượng nhại phong cách trong văn học nói chung có thể phân biệt được, và Xuân Hương, một nhà thơ có cá tính độc đáo như thế không dễ gì nhại được hoàn toàn, Và lại do dù có đôi ba bài bắt chước phong cách Hồ Xuân Hương lẫn lộn trong số thơ của bà mà ta không có cách gì phân biệt, thì những bài ấy cũng không thể làm phá vỡ sự đánh giá chung về nhà thơ được, Tóm lại, theo chúng tôi vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận hàng đầu trong việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương chính là vấn đề xác định văn bản thơ Xuân Hương, Cái khó ở đây là phải xác định như thế nào cho chính xác, * *. *. Nhưng sự phức tạp về văn bản thơ Xuân Hương lại thêm một lần phức tạp nữa với sự xuất hiện của tập Lưu Hương ký, l xem Hồng Đức quốc âm thi tập, Phan Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú thích, NXB Văn hóa, Hà Nội 1962, Tháng 10 năm 1964, trên tạp chí Văn học, trong bài Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương, ông Trần Thanh Mại giới thiệu một bài tựa của Nham Giác Phu viết cho tập Lưu Hương ký vào tháng 3 năm 1814, Bài này ghi trong một tập thơ chép tay Du Hương Tích động ký, Theo bài tựa, Nham Giác Phu người họ Phan, cùng quận với Hồ Xuân Hương và Lưu hương ký là tập thơ của Hồ Xuân Hương, Kèm theo bài tựa có hơn ba mươi bài thơ toàn nói về mối tình của ông ta đối với Hồ Xuân Hương, Sau đó Trần Thanh Mại lại tìm được bản Lư hương ký do ông Nguyễn Văn Tú cử nhân Hán học, người xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Hà cung cấp, Ông Trần Thanh Mại giới thiệu tập Lưu hương ký này như sau: ''Có phần chắc bản chép tập Lưu hương ký mà ông Nguyễn Văn Tú đã trao cho chúng tôi là phần còn lại của tập thơ mà Nham Giác Phu đã đọc và đã đề tựa, hay ít nhất nó cũng thiếu nhiều tờ, Bản này chỉ có 22 trang giấy viết hàng tám, tổng cộng 30 đầu đề có 52 bài ,trong 52 bài này có 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ chữ Nôm, Trang đầu có đề rõ: Lưu hương ký - Hoan trung Cổ Nguyệt đường Xuân Hương nữ sử tập, Hoan Trung tức là tỉnh Nghệ An; Cổ Nguyệt đường là tên nhà ở của Xuân Hương , đồng thời là chiết tự chữ Hồ chỉ họ của tác giả''(l ),.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Nhìn chung, những bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong Lưu hương ký có nghệ thuật khá điêu luyện, Nhà thơ không viết về một đề tài nào khác ngoài tâm sự và mối tình của mình đối với những người bạn trai, Có khi đó là một tình bạn thắm thiết gần như một tình yêu, có khi đó là một tình yêu thật sự, Trong số những người quan hệ với Hồ Xuân Hương có ông Tốn Phong thị, ông hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần, ông Sơn Phủ, ông Thanh Liên, ông Chí Hiên, và đặc biệt có cả một ''ngưởi cũ'' là ông Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu tức Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều, Qua những bài thơ chép trong Lưu hương ký, thấy rõ tình cảm của nhà thơ đối với những người bạn trai của mình rất chân thành, và nhiều bài bên cái đằm thắm dịu dàng có thêm một chút ngậm ngùi của những mối tình không trọn vẹn, Chẳng hạn đây là bài Nhớ người cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu: Dặm khách muôn nghìn nỡi nhớ nhung, Mượn ai tới đấy gửi cho cùng, Chữ tình chốc đã ba năm vẹn, Giấc mộng rồi ra nửa khắc không, Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập, Phấn sơn càng tủi phận long đong Biết còn mảy chút sương sim mấy, Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong ! Trần Thanh Mại, Bản Lưu hương ký và lai lịch phát hiện nó, tạp chí Văn học số 11 - 1964, , Những bài chữ Hán cũng cùng một cảm hứng như thế, Nhà thơ không ngượng ngùng gì khi nói lên một cách công khai tình cảm yêu đương của mình, Điều đó đối với một phụ nữ sống trong xã hội phong kiến, phải nói là hết sức táo bạo, Bài Nguyệt dạ ca là một thí dụ, Nhà thơ viết: Lộ như châu hề nguyệt như sai (sa), Thúc vãng lai hề chiếu dư hoài, Uyển cô nhân hề thiên nhai, ái bất kiến hề tâm bồi hồi, Đài hoang thần nữ miếu, Vân tác Sở vương đài, Minh nguyệt quang như thử, Ngã tư chi nhân hề an tại tai!.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> (sương như hạt châu, trăng như ngọc sáng, Trăng qua qua lại lại chiếu rọi xuống tấm lòng tôi, ấm ức thay, người bạn cũ mãi còn ở ngoài ven trời, Yêu mà không thấy mặt, dạ bao xiết bồi hồi, Miếu nữ thần rêu đã phủ khắp, Đài vua Sở mây đã tan rồi, trăng sáng rực rỡ như kia, Mà con người mình nhớ nhung còn mãi nơi đâu,) Đánh giá chung Lưu hương ký, ông Trần Thanh Mại, người đầu tiên giới thiệu tập thơ này viết: ''Nhìn chung lại thơ chữ Hán và chữ Nôm của Hồ Xuân Hương như được ghi chép trong Lưu hương ký không trực tiếp nêu lên được những vấn đề xã hội lớn lao và cấp thiết, Dù thế nào mặc lòng, chúng ta vẫn có thể tìm thấy trong thơ này những giọng chân thành tha thiết để đấu tranh cho một tình yêu bình đẳng, Lưu hương ký là tiếng kêu thất vọng để có một tình yêu thành thực,chung thúy '' Như thế phải chăng ngoài những bài thơ Nôm của Xuân Hương mà lâu nay chúng ta biết, Xuân Hương còn là tác giả của tập Lưu hương ký này nữa? Trong tình hình tư liệu hiện nay, chúng tôi cho rằng một sự khẳng định nhu thế có lẽ chưa được thận trọng mà cần phải tiếp tục khảo sát thêm, Về nội dung, Lưu hương ký không phải không có chỗ giống với thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, Trong Lưu hương ký chúng ta thấy tác giả như Hồ Xuân Hương (hay chính là Hồ Xuân Hương) là một phụ nữ giầu nhiệt tình, yêu đời, bất chấp tất cả lễ giáo phong kiến, lúc nào cũng tha thiết muốn yêu và không bao giờ có được một tình yêu toại nguyện, Có lẽ vì thế mà Trần Thanh Mại nhận xét Lưu hương ký ''khá gần gũi với những bài trữ tình trong ''thơ Hồ Xuân Hương'' quen thuộc như Chiếc bách, Hờn duyên, Cái hồng nhan v,v,,, '', Nhưng đọc kỹ chúng tôi vẫn thấy có một khoảng cách giữa thơ Nôm của Hồ Xuân Hương với Lưu hương ký, chủ yếu là về phong cách biểu hiện, Trong Lưu hương ký có cả thơ chữ Hán, lẫn thơ chữ Nôm, Riêng phần thơ Nôm trong Lưu hương ký nếu so sánh với thơ Nôm lâu nay được coi là của Hồ Xuân Hương, thì hai bên vẫn khác nhau nhiều lắm, Thơ Nôm trong Lưu hương ký có rất nhiều từ Hán Việt, và từ Hán Việt được sử dụng với phong cách trang nhã, Giọng thơ lại hiền lành, chữ không góc cạnh, gân guốc như ở thơ Hồ Xuân Hương, Thơ Hồ Xuân Hương có bài trữ tình, có bài trào phúng, nhưng phong cách của nhà thơ vẫn thống nhất rõ nét qua cả hai thể loại; trong khi đó giữa thơ trữ tình của Hồ Xuân Hương với thơ trữ tình trong Lưu hương ký thì tuy cùng một loại, mà phong cách khác nhau rất nhiều, Vì những lý do như thế, để đảm bảo tính chất khoa học của vấn đề trong cuốn sách này chúng tôi sẽ không đề cập đến Lưu hương ký trong khi phân tích đánh giá.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Hồ Xuân Hương, Điều đó không có nghĩa chúng tôi phú nhận Lưu hương ký không phải của Hồ Xuân Hương, mà chỉ có nghĩa là trong khi chờ đợi một sự xác minh khoa học, Cách làm như thế là thận trọng hơn cả, Tư liệu về Hồ Xuân Hương có nhiều rắc rối mà tư liệu về cuộc đời của Hồ Xuân Hương cũng có nhiều rắc rối, không rõ ràng gì, Cho đến nay, không có một tài liệu gốc nào về cuộc đời của Xuân Hương còn giữ lại, Theo những tài liệu lưu truyền về tiểu sử Xuân Hương trước nay thì Hồ Xuân Hương quê ở làng Quýnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, Họ Hồ ở Quỳnh Lưu là một họ tương đối lớn, từng có người đậu đạt và làm quan, nhưng đến đời Hồ Phi Diễn thì họ này suy tàn, Hồ Phi Diễn, tương truyền là ông thân sinh của Hồ Xuân Hương sinh năm 1704 đậu tú tài năm hai mươi bốn tuổi dưới triều Lê Bảo Thái, Nhà nghèo, Hồ Phi Diễn không có tiền để tiếp tục học thêm, ông ra Bắc dạy học kiếm sống, Ông đồ Diễn thường dạy ở hai tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, về sau ông lấy một cô gái Bắc Ninh họ Hà làm vợ lẽ, Hồ Xuân Hương là kết quả của cuộc tình duyên ấy, Trước khi sinh Hồ Xuân Hương, gia đình ông đồ Diễn có một thời sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, gần hồ Tây, Thăng Long, Lúc Hồ Xuân Hương lớn lên, gia đình một dạo cũng dọn về thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư, Hà Nội), và khi trưởng thành, bà có làm một ngôi nhà ở gần hồ Tây, lấy tên là Cổ Nguyệt đường. Các bài thơ Chơi chùa Quán Sứ, Đề đền Sầm Nghi Đống... còn ghi lại dấu vết những ngày nhà thơ sống ở đế đô này, Không rõ vì lẽ gì từ bê Hồ Xuân Hương vẫn thường sống với mẹ. Xuân Hương có đi học, thông minh, nhưng không học được nhiều. Lúc lớn lên, cô gái ấy lại thích làm thơ, và trong cuộc đời thơ văn của mình, Xuân Hương có một người bạn trai rất đỗi tri âm là Chiêu Hổ. Nhiều người nói Chiêu Hổ chính là Phạm Đình Hổ, tác giả Vũ trung tuỳ bút và Đông Dã học ngôn thi ộâp., Chắc không đúng vì Chiêu Hổ của Hồ Xuân Hương nghịch ngợm không kém gì bà, còn Phạm Đình Hổ là một nhà thơ mực thước. Về cuộc đời riêng của Xuân Hương, có lẽ điều đau nhất còn dấu vết khắc sâu trong thơ văn là con đường tình duyên trắc trở của bà. Xuân Hương muộn chồng, đến khi lấy chồng cũng chẳng ra gì, Một lần bà lấy lẽ tổng Cóc và một lần lấy lẽ ông phú Vĩnh Tường. Trong số thơ Xuân Hương còn để lại, một nét khá nổi bật mà chúng ta biết được là nhà thơ đi rất nhiều, Lần theo dấu vết bàn chân của Xuân Hương khi ở Chùa Quán Sứ khi ở Động Hương Tích, ở núi ông Chồng bà Chồng, đèo Ba Dội v,v,,, chúng ta có thể hình dung ra cuộc du lãm của nhà thơ kéo dài qua nhiều tỉnh miền Bắc và miền, Trung, bao gồm cả đồng bằng lẫn miền núi: Hà Đông, Ninh Bình, Thanh Hóa, Tuyên Quang: Sơn La . Đấy là chưa kể Nghệ,An, quê cha và Bắc Ninh, quê mẹ, thế nào Xuân Hương lại chẳng đi về, Một con người đi nhiều, người ấy lại là phụ nữ. Điều đó quả là hiếm thấy trong xã hội phong kiến ngày trước, Tóm lại, về cuộc đời Hồ Xuân Hương, còn nhiều chi tiết cần xác minh lại, cần phải tìm tòi thêm (l ).
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Dù sao, một số vấn đề sơ bộ có thể kết luận được, Đó là nhà thơ có một cuộc đời hoàn toàn bất như ý,Xuân Hương sống vào một thời kỳ chế độ phong kiến đã mục rỗng,thối nát và bà là nạn nhân của cái chế độ ấy. Là người phụ nữ xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, cuộc sống đã đẩy Xuân Hương xuống tầng lớp tận cùng của xã hội. Quằn quại và đau đớn, lòng căm phẫn đối với xã hội bất công, một cái gì tha thiết của cuộc sống riêng tây và sự lăn lộn tiếp xúc với những người phụ nữ cùng bị áp bức trong xã hội, tất cả đã hun đúc nên con người và tài năng của Xuân Hương, thôi thúc Xuân Hương viết lên những vần thơ nhọn sắc và cháy bỏng, những vần thơ thông minh và tình tứ, những vần thơ rất quần chúng mà cũng rất độc đáo, rất Xuân Hương, II HỒ XUÂN HƯƠNG, NHÀ THƠ CỦA PHỤ NỮ Trong văn học Việt nam nửa cuối thế kỷ XVIII - lửa đầu thế kỷ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ bình thường, ngưởi phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống, Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy, những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay. Ai cũng biết cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phận riêng dành cho phụ nữ, Nhưng cái đau khổ của phụ nữ bao giờ cũng có khía cạnh Năm 1983 ông Hoàng Xuân Hãn ở Paris có cung cấp thêm một số tư liệu về Hồ Xuân Hương, Căn cứ vào tập Quốc sử đi biên của Phan Thúc Trực ôngHoàng Xuân Hãn nói Hồ Xuân Hương còn là vợ lẽ của Trần Phúc Hiển, quan Tham hiệp trấn Yên Quảng (tức Quảng yên sau này), Trần Phúc Hiển sau đó ăn hối lộ nên bi xử tử năm 1819, Thời gian ở Yên Quảng Hồ Xuân Hương có làm một số bài thơ vịnh cảnh đẹp ở Hạ Long, ông có dịch và giới thiệu 5 bài chép trong tập Đại nam dư địa chí ước biên, Cũng trong tài liệu này ông Hoàng Xuân Hãn phản bác lại ý kiến cho Hồ Xuân Hương lấy lẽ ông phủ Vĩnh Tường, Xem Hoàng Xuân Hãn, Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long và trong tập san khoa học xã hội bản tiếng Việt) số l0-n, tháng 12 năm 1983 ở p&ns, (Chú thích của lần tái bản, N,L).
<span class='text_page_counter'>(7)</span> chua xót, tái tê riêng của nó, Phụ nữ cũng là người làm lụng đầu tắt mặt tối, cũng đói cơm rách áo, cũng bị trăm nghìn thứ chà đạp như bất cử một người bị áp bức nào khác, Nhưng xã hội phong kiến còn dành cho họ nhiều sự bạc đãi: các qui chế nặng nề của đạo đức, của lễgiáo, của tập tục xã hội... mà cái đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt đau đớn hơn nhiều lần cái đau khổ về thể chất! Hồ Xuân Hương là nhà thơ phụ nữ, và nhà thơ của phụ nữ, bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung, và,kinh nghiệm của cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình, nhà thơ đứng về phía những người phụ nữ bị áp bức. Trong thơ mình, Xuân Hương không nói đến toàn bộ nổi khổ của phụ nữ. Xuân Hương hình như chỉ muốn nói đến nỗi đau khổ riêng có tính chất giới tính của mình, Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch không kém phần chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống vốn dĩ đã rập khuôn theo những chế ước nặng nề của lễ giáo, Hồ Xuân Hương viết về nỗi khổ của người phụ nữ ''lấy chồng chung'' hay nỗi khổ của người phụ nữ ''không chồng mà chửa'' v.v... Trong bài Cảnh chồng chung, nhà thơ vạch ra làm lẽ chẳng qua chỉ là một thứ làm mướn, thậm chí còn tệ hơn làm mướn nữa: đó là thứ làm mướn không công, Hồ Xuân Hương nêu lên được một nét điển hình nổi bật của chế độ hôn nhân phong kiến. Xã hội phong kiến bắt người phụ nữ phải chính chuyên một chồng trong khi cho phép đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp. Trừ trường hợp cá biệt, lấy vợ lẽ vì người vợ cả không có con trai ''nối dõi tông đường'', thông thường trong xã hội phong kiến lấy lẽ là để thỏa mãn cuộc sống dâm dật của bọn địa chủ, đồng thời để có thêm sức lao động. Đó là cách thuê nhân công mà không phải trả tiền công, ý nghĩa phê phán sâu sắc trong bài thơ của Hồ Xuân Hnơng là ở đó. Và ý nghĩa ấy được nhân lên rất nhiều, do chỗ người phụ nữ của Xuân Hương cố hết sức để chịu đựng: Năm thì mười họa hay chăng chớ, Một tháng đôi lần cỏ cũng không, Cố đấm ăn xôi ,xôi lại hẩm, cầm bằng làm mướn, mướn không công! và đã không chịu đựng nổi, đã thét lên: Chém cha cái kiếp lấy chồng chung! Hồ Xuân Hương nhận thức được cảnh bất công, ngang trái của việc lấy chồng chung, nhà thơ lên tiếng chửi mắng quyết liệt, nhưng điều kiện xã hội phong kiến vẫn cứ cho phép nó nghiễm nhiên tồn tại. Lịch sử hạn chế nhà thơ, Xuân Hương không tìm được lối thoát. Bài thơ kết thúc không mở ra bước ngoặt nào cả, mà đóng lại bằng một tiếng thở dài bất lực: Thân này ví biết dường này nhỉ, Thà trước thôi đành ở vậy xong !.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Nhà thơ không thể vuợt lên trên hoàn cảnh xã hội. Bất mãn với thực tại, Xuân Hương nghĩ giá gì ngày trước, dừng đi lấy chồng! Đó là một cách nói chứ không phải một giải pháp, và tiếng thở dài của Xuân Hương chỉ làm đậm thêm cái mỉa mai của thực tại, Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giở dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ luôn luôn có một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói đến với tất cả sự xúc động chân thành của mình, Khi giận dữ thì thét lên, mắng chửi; khi yêu thương thì đằm thắm, ngọt ngào. Nếu bài Cảnh chồng chung là tiếng nói phẫn uất chua xót đối với chế độ đa thê bất công mà người phụ nữ phải chịu đựng, thì bài Không chồng mà chửa lại là một bời nói rất mực khoan dung, độ lượng đối với cảnh ngộ không may của họ. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tai họa tầy đình, Thời Hổ Xuân Hương sống và sáng tác, bộ luật Gia Long ghi rõ: ''Nam nữ đã đính hôn với nhau, nhưng chưa cưới mà dã thông gian thì phải phạt một trăm trượng''. Và chú thêm: ''người đàn bà phạm tội gian dâm thì hết cả liêm sỉ, nên bắt cởi áo cánh, cho để mặc váy mà gia hình; còn tội khác, khi phạt cũng được mặc cả áo''. Đấy là ''tội'' của những người có đính hôn, nhưng chưa cưới xin đã ăn nằm với nhau.Chứ những người không có đính hôn, những phụ nữ ''không chồng mà chửa'' thì ''tội'' không thể hình dung được. Giai cấp phong kiến thống trị lấy việc lăng nhục nhân cách con người để trả thù cho cái mà chúng gọi ''phá hoại nhận cách'', là ''hết cả liêm sỉ'', Thật không có sự lệ thuộc nào bằng sự lệ thuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Pháp luật, lễ giáo, tập tục, những tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức đã hoàn toàn biến phụ nữ thành một thứ sở hữu của người gia trưởng, của đàn ông. Họ biết tước hết mọi quyền lợi, kể cả quyền được yêu, và quyền đối với con cái của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, quan hệ vợ chồng chưa chắc đã là quan hệ yêu đương, và việc ''không chồng mà chửa'' chưa hẳn là chuyện bừa bãi, trong bộc trên dâu, mà nhiều khi lại là kết qua của một tình yêu thật sự. Người phụ nữ ''không chồng mà chửa'' trong bài thơ của Xuân Hương là trường hợp ấy, Nàng nói với người tình của mình nửa như trách móc, nửa như tâm sự: cả nể cho nên hóa dở dang, Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng ! không coi việc làm của nàng là tội lỗi. Đó chỉ là chuyện ''cả nể'' đối với người tình, và vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy. Lễ giáo, luật pháp phong kiến khắc nghiệt làm cho người tình không dám nhìn nhận kết quả tình yêu của chàng. Chỗ nhút nhát ấy của bạn tình, nguời phụ nữ của Xuân Hương cũng rất độ lượng: Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng ! nàng chỉ yêu cầu một điều là phải nhìn nhận sự việc cho đúng đắn. Đây là chuyện tình, chuyện nghĩa chứ không phải chuyện bướm ong trong chốc lát: ''Cái nghĩa.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> trăm năm chàng nhớ chửa''. Còn kết quả của nó, bạn tình không dám nhận, nàng xin đảm đương tất cả: ''Mảnh tình một khối thiếp xin mang'', Cuối cùng nguời phụ nữ của Xuân Hương thấy không thể sống khuất phục được, nàng đã ngẩng cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, bằng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép: Quản bao miệng thế lời chênh lệch, không có, nhưng mà có, mới ngoan, Thái độ của, Xuân Hương bắt gặp thái độ của quần chúng nhân dân trong ca dao: Không chồng mà chửa mới ngoan, Có chăng mà chửa thế gian sự thường, Cố nhiên, quần chúng nhân dân cũng như Hồ Xuân Huơng không phải bênh vực cho quan hệ bừa bãi giữa nam nữ, mà ở đây là cách nói ''ăn miếng trả mếng'' có tính cách đốp chát trong lối đối thoại của nhân dân với giai cấp phong kiến thống trị, Xuân Hương là nhà thơ yêu con nguời, yêu cuộc uống, Tình cảm chân thành làm cho thơ Xuân Hương dường như lúc nào cũng che dấu bên trong một nụ cười. Đối với Xuân Hương, nụ cười có ý nghĩa nhiều hơn nhũng giọt nước mắt. Tất nhiên nói thế chẳng phải nước mắt không có ý nghĩa. Nhất là đối với những giọt nước mắt hết sức chân thành và thông cảm như của một Nguyễn Du chẳng hạn, thì đó vẫn là niềm an ủi lớn đối với con người, đó vẫn là một bằng chứng rằng con người không phải tất cả là láng sói, mà còn có những tấm lòng. Song dù sao cũng phải nhận rằng, cuộc sống cũ nước mắt đã đọng lại thành sông, thành biển, khóc thêm vài giọt nữa phỏng có ích gì? Xuân Hương không muốn khóc, Xuân Hương không muốn phủ một màu đen lên cuộc đời vốn đã đen ngòm của những con người đau khổ, mà muốn đem đến cho họ một nụ cười, giúp họ có nghị lực để sống và chống chọi với cuộc sống. Nhà thơ sẽ bảo một bà lang khóc chồng: Văng vẳng tai ghe tiếng khóc gì, Thương chồng nên nỗi khóc tì ti, sẽ bảo một cô gái chồng chết: Nín đi kẻo thẹn với non sông, Ai về nhắn nhủ đàn em bé... sẽ đem đến chút ánh sáng của lòng tin vào một lẽ phải công bằng và nhân đạo hơn để cho những cô gái không chồng mà chửa có thể tiếp tục sống, làm mẹ và làm người: Không có, nhưng mà có, mới ngoan!.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Nhưng đối với phụ nữ, Xuân Hương không phải chỉ có thông cảm và bênh vực. Đặc biệt hơn nữa là nhà thơ còn hết sức đề cao và ca ngợi họ. Xuân Hương tìm thấy vẻ đẹp thật sự chân chính của họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh hẩm hiu của người phụ nữ như chiếc bánh trôi '' bảy nổi ba chìm với nước non''; con ốc nhồi ''đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi'', hay quả mít ''da nó sù sì” v.v... nhà thơ chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít da sù sì, nhưng ''múi nó dày'', Chiếc bánh trôi bảy nổi ba chìm và ''rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn'', nhưng ''vẫn giữ tấm lòng son''... Trong bài thơ Đề tranh tố nữ, Xuân Hương ca ngợi người phụ nữ ,ở một khía cạnh khác: ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong của các cô gái đang xoan: chị cũng xinh mà em cũng xinh, Đôi lứa như in tờ giấy trắng, , Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh,,, Và trong bài Thiếu nữ, ngòi bút của nhà thơ lại đi vào một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ về cái đẹp của họ: cái đẹp trong cơ thể. Bài thơ là một bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động: Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, , Thiếu nữ nằm chơi quá giấc,nồng, Lược trúc biếng cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long, Đôi gò bồng đảo hương còn ngậm, Một lạch đào nguyên suối chửa thông, Quân tử dùng dằng đi chẳng đứt, Đi thì cũng dở ở không xong, Không phải bằng đường loét và màu sắc, mà bằng một thứ ngôn ngữ trang trọng, bức tranh khỏa thân của Xuân Hương mới sinh động biết bao! Có người cho đây là một cách nhảm nhí của nhà thơ, một thứ ''dâm hay tục'', Nhưng bài thơ có gì là nhảm nhí, có gì là dâm, là tục? Ở đây người đọc chỉ thấy một thân hình cân đối mĩ lệ của người thiếu nữ, một quang cảnh nên thơ với những bồng đảo, đào nguyên... Bức tranh không hề khiêu gợi một sự thèm khát nào của dục vọng thấp hèn, mà chỉ đem đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ thanh cao, III HỒ XUÂN HƯƠNG, NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG Trước kia Xuân Hương thường bị giai cặp phong kiến thống trị coi là người đàn bà lăng loàn, đĩ thõa. Họ căm ghét Xuân Hương, bởi vì Xuân Hương dám nói.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> những điều bọn mũ cao áo dài không dám nói đến. Đó mới là một phần, Một phần nữa điều này họ không dám nói ra nhưng là cái chú yếu nhất khiến họ căm ghét Xuân Hương , bởi vì nhà thơ phụ nữ, này dám thẳng tay đánh tát vào mặt cả một duộc bọn phong kiến thống trị suốt từ trên xuống dưới, chẳng có sợ hãi, chẳng có nể nang ai một chút nào. Nhà thơ xé toạc hết các bộ mặt nạ giả dối, lột trần hết những chiếc áo đạo đức cũn cỡn để chúng lộ nguyên hình là một lũ bịp bợm, dối đời và dốt nát. Hiền nhân quân tử là mẫu người lý tưởng của xã hội phong kiến, thực ra cũng chẳng ''hiền nhân quân tử'' gì. Họ cũng có lắm khát khao phàm tục. Thấy một cô gái ngú hớ hênh, quân tử cũng ''dùng dằng đi chẳng dứt'', Hay trước cảnh đèo Ba Dội - mà hiển nhiên aicũng có thể hiểu được ý ngầm trong cách miêu tả của nhà thơ – thì hiền nhân ''mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo''... ý nghĩa phê phán của bài thơ không phải ở chỗ nhà thơ nói đến cái khát khao phàm tục mà ở chỗ nhà, thơ vạch trần tính mâu thuẫn đầy tính chất khôi hài của một nội dung rất phàm tục lại được che đậy bằng một lớp vỏ đạo đức giả dối. Trong xã hội phong kiến, giai cấp thống trị cố dùng những từ ngữ đẹp đẽ để trang điểm cho cái địa vị vô thượng của chúng. Nào những 'thiên tử'', những ''minh quân'', ''lương tướng'', những ''thế thiên hành đạo''... Xuân Hương phủ nhận, và nói ngược lại tất cả. Bài thơ Vịnh cái quạt, Xuân Hương mượn cớ tả cái quạt dể ám chỉ cái khác, rồi bà nói to lên với mọi người: Chúa dấu vua yêu một cái này! Vua chúa chỉ yêu ''cái này'' thôi và không yêu cái gì khác nữa ! Đả kích vua chúa đến như thế, đương thời chỉ có ca dao với chuyệnTrạng Quỳnh. Xuân Hương cũng chẳng tha bọn văn nhân tài tử, dốt nát mà khoe chữ nghĩa là chuyện lố lăng, bà chửi thẳng vào mặt: Ai về nhắn bảo phường lòi tói, Muốn sống đem vôi quét trả đền, Hay: ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc đậu thưa, Nhà thơ cũng không ngần ngại kéo lên sân khấu cười cợt cả bộ mặt thẩn thờ của những tên quan thị,(quan hoạn ) hám danh vọng đã làm cái việc trái lẽ thường; cả cái đầu trọc của những nhà sư ''miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”, Hồ Xuân Hương tỏ ra khó chịu nhất là dối với bọn nầy. Trước Xuân Hương cũng như cùng thời với- bà có nhiều nhà thơ đả kích bọn chúng. Xã hội rối ren, nhà chùa không còn là nơi tu hành trang nghiêm, Nhiều kẻ lợi dụng cảnh chùa để làm điều bậy bạ. Một con người khao khát cuộc sống hồn nhiên, khao khát được hưởng lạc thú của tình yêu như Xuân Hương, tất không thể chịu được lối tu hành giả dối đó. Y như rằng mỗi lần nói đến sư mô là thơ Xuân Hương lại quất chiếc roi đánh đét vào bọn chúng:.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> Nào mũ tu lờ, nào áo thâm, Đi đâu không đội để ong châm Đầu sư há phải gì... bà cốt, Bá ngọ con ong bé cái nhầm, Hay: Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta, Đầu thì trọc lốc, áo không tà, Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm, Vãi núp sau lưng sáu bảy bà, Khi cảnh, khi tiêu, khi- chũm chọe, Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha,,, Xuân Hương căm ghét bọn tu hành giả dối, nhà thơ cũng chẳng ưa gì lối tu hành. Cảnh đẹp của chùa chiền không gây được một xúc động nào đối với bà. Đứng trước cảnh chùa Quán Sứ, chùa Thầy hay chùa Hương Tích, Xuân Hương không tìm vẻ đẹp của thiên nhiên, mà bà cái chú ý đến cảnh ngược đời của bọn người sùng đạo: Người quen cõi Phật chen chân xọc, Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt đòm, Trong con mắt của nhà thơ, sinh hoạt ở chùa Quán Sứ lười biếng và vô nghĩa: Chày kình tiểu để suông không đấm, Tràng hạt vải lần đếm lại đeo, Sáng banh không kẻ khua tang mít, Trưa trật nào ai móc kẻ rêu, còn chùa Hương được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động'', cũng phô ra hớ hênh, xấu xí: Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm, Nứt ra một lỗ hõm hòm hom, Có người đọc những bài thơ viết về cảnh chùa chiền của Xuân Hương, thấy nhà thơ miêu tả cái gì cũng trơ trẽn: thô lỗ, vội vàng lên án nhà thơ là đem cái “dâm đãng” bôi nhọ cảnh đẹp của đất nước. Nhưng đối với Xuân Hương, có bao giờ bà gọi các nơi này là cảnh đẹp? Xuân Hương không thể ca ngợi nó như bất cứ một nhà thơ nhàn tản nào, Bởi vì bao giở Xuân Hương cũng đứng chắc chắn trên lập trường nhân sinh để nhìn cảnh vật. Nhà thơ không thể chịu được bất cứ cái gì có liên quan đến sự tha hóa con người, làm cho con người thoát ly bản tính hồn.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> nhiên tươi trẻ của mình. Với Xuân Hương, tất cả những gì là con người, của con người đều gần gũi, thân thiết, và rất xa lạ đối với nhà thơ những gì xa lạ con người, đối lập vớí con người. Nói cho công bằng, cảnh chùa chiền thường là những thắng cảnh, ngày nay chúng ta, những người duy vật chủ nghĩa không ,bị một giáo lý nào ràng buộc, đi du ngoạn cảnh chùa để thưởng thức vẻ đẹp của thiên thiên và những công trình văn hóa của cha ông, nhưng ngày xưa có mấy nhà thơ nói đến vẻ đẹp của chùa chiền mà không gắn nó với cái ''thú mầu'' của đạo Phật, không tán dương triết lý hư vô của Phật giáo? Biết như vậy, chúng ta mới hiểu cách miêu tả của Xuân Hương, Hồ Xuân Hương phê phán bao giờ cũng gay gắt, Với bà, không, thể có thái độ khoan dung, nửa vời, mà phải đánh một cái ngã gục ngay tức khắc, Thiếu sót của bà là chưa thấy hết bản chất xấu xa nhiều mặt của giai cấp phong kiến thống trị. Xuân Hương nói nhiều đến tính chất giả dối, dốt nát của giai cấp thống trị và coi nó như là bản chất của chúng, mà không thấy, cũng ghê tởm không kém sự giả dối và dốt nát là những thủ đoạn bóc lột, bòn xương rút tuỷ nông dân của chúng, Xuân Hương dường như vẫn thiên về lập trường phụ nữ trong khi nhìn nhận cái xấu của giai cấp thống tri, hơn là lập trường của người bị áp bức bóc lột. Và có thể là do ảnh hưởng của cuộc đời riêng bất hạnh của mình. Xuân Hương chú ý nhiều đến mặt xã hội phong kiến kìm hãm cuộc sống bản năng của phụ nữ, của ái ân trai gái mà chưa chú trọng đúng mức đến các mặt khác. Xuân Hương là một nhà thơ phiến diện, phiến diện cả trong vũ khí đả kích của bà - hầu như Xuân Hương chỉ dùng mỗi cái tục để đả kích, ở đây nảy ra một vấn đề tranh luận sôi nổi, mà cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Đó là thơ Xuân Hương có dâm có tục hay không? Tại sao có những yếu tố ấy , và nên đánh giá nó như thế nào? * *. *. Một điều không ai chối cãi được là thơ Xuân Hương có một cái gì khác thường. Nhà thơ thật có cái nhìn kỳ lạ đối với mọi hiện tượng xung quanh, trong thiên nhiên cũng như trong xã hội, Từ quả mít, con ốc nhồi, chiếc quạt đến cái đầu trọc của nhà sư; từ cảnh dệt cửi ban đêm, cảnh đánh đu ngày tết, cảnh tát nước, đến bòn đá Ông Chồng Bà Chồng, đèo Ba Dội v,v,,, Xuân Hương như muốn nói đếnnhững chuyện khác nữa, chuyện của đàn bà, và chuyện riêng trong buồng kín của vợ chồng. Chúng ta biết Hồ Xuân Hương là một con người tài hoa, yêu đời và giàu sức sống mà cuộc đời luôn luôn bị chèn ép, câu thúc – không phải chỉ chèn ép câu thúc về tinh thần, về tình cảm, mà cả về đời sống bản năng, về hạnh phúc ái ân của trai gái. Điêù đó có làm chonhà thơ căm phẫn và khao khát, rạo rực một cái gì... Nhiều phụ nữ khác cùng cảnh ngộ với Xuân Hương chắng phải không khác khao như bà, có điều lễ giáo phong kiến và tập tục hàng nghìn, đời, đã dồn ép những tâm sự ấy xuống tận đáy sâu của suy nghĩ, của tiềm thức, và họ chỉ còn lờ mờ một cảm giác bi quan nhẫn nhục chịu đựng, và xót thương cho số kiếp của họ. Phải có can đảm và lạc quan như người lao động trong văn học dân gian mới có thể nói lên cái khát khao cháy bỏng ấy:.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Bao giờ lão mới chầu trời, Thì em lại kiếm một người trai tơ, Xuân Hương rất gần gũi với chú nghĩa lạc quan của người lao động; nhưng cá tính sắc cạnh của nhà thơ không cho phép Xuân Hương ao ước một cách hiền lành như câu ca dao trên, mà bà viết về ''đá Ông Chồng Bà Chồng'', về ''đánh đu'', về ''dệt cửi'': Hai chân đạp xuống năng năng nhắc, Một suốt đâm ngang thích thích mau.. Nhà thơ nói đến hạnh phúc ái ân đâu phải là dâm đãng? Xã hội phong kiến chú trương tiêu diệt cá tính, cái gì ''là mình'', ''của mình'' đều bí coi là xấu xa, đê tiện, và ''thanh cao'' là huỷ diệt mọi nhu cầu cá nhân để tôn thờ giai cấp thống trị, thì sao một kẻ dám ''là mình'', dám nói lên khát vọng chân thành của mình lại không được ngợi khen mà bị chà là dâm đãng? Tiếng thơ của Xuân Hương có quá quắt, nhu cầu ái ân của Xuân Hương có da diết, táo tợn, nhưng xét cho công bằng, đâu phải lỗi tại nhà thơ? Đó là tiếng kêu, tiếng thét, là sự phản ứng quyết liệt của một khát vọng chính đáng bị xã hội phong kiến dìm xuống không cho thực hiện được. Nghệ thuật ''dâm đãng'' là nghệ thuật khêu gợi thú tính của con người, lấy việc thỏa mãn nhục dục trần truồng làm mục đích. Đó là thứ nghệ thuật không có lý trí, giết chết mọi quan niệm về cái đẹp, một nghệ thuật kiểu nhà xăm, không hơn không kém. Thơ Xuân Hương đâu phải như vậy. Đọc Xuân Hương bao giờ người ta cũng thấy một đầu óc tỉnh táo, một lý trí lành mạnh, Nhà thơ bao giờ cũng đứng cao hơn hiện tượng mình miêu tả để miêu tả, Xuân Hương thích chọn những đề tài mập mờ, ẩn hiện để người đọc có thể liên tưởng đến những sinh hoạt ái ân của trai gái và nhà thơ miêu tả một cách say sưa, nhưng bà là một nghệ sĩ chân chính nên Xuân Hương vẫn bình tĩnh phát hiện ra cái đẹp của nó. Những câu thơ viết về ''đá Ông Chồng bà Chồng'' của bà là những câu thơ đẹp, rộng lớn: Từng trên tuyết điểm phơ đầu bạc, Thớt dưới sương pha đượm má hồng, Gan nghĩa giải ra cùng nhật nguyệt, , Khôí tình cọ mãi với non sông, , Bài thơ tả chiếc giếng thơi là một bức tranh lụa mịn màng: Cầu trắng phau phau đôi ván ghép, Nước trong leo lẻo một dòng thông, cỏ gà lún phún leo quanh mép, Cá điếc le te lách giữa dòng....
<span class='text_page_counter'>(15)</span> cảnh đánh đu ngày tết được ghi lại với nhiều màu sắc sinh động: Trai du gối hạc khom khom cật, Giá uốn lưng cong ngửa ngửa lòng, Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Đôi hàng chân ngọc duỗi song song, Chắc chắn đọc những bài thơ như thế nếu người nào không muốn nghĩ đến cái ''nghĩa phô ra'' của nó, mà chỉ nghĩ đến ''nghĩa ngầm''(l ) thì cũng không thể gợi dậy trong tâm trí họ những ý nghĩ xấu xa được. Có một thói quen ở nhiều người hễ nghe nói đến chuyện ái ân trai gái thì vội vàng bịt tai nhắm mắt cho là dâm đãng. Đó là thái độ hình thức chú nghĩa, có tính chất phong kiến. Chúng ta phải xét vấn đề trong thực chất của nó, nghĩa là phải chú ý đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể làm bối cảnh cho bài thơ lúc ra đời, và nhất là phải chú ý đến thái độ thẩm mỹ của nhà thơ trong khi miêu tả, Ăng-ghen, nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác hết lời ca ngợi Oét-tơ ''nhà thơ đầu tiên của giai cấp vô sản Đức'', một nhà thơ mà ông cho là ''trở thành bậc thầy'' trong văn học Đức, chỉ thua Gớt-tơ ở chỗ Oét-tơ đã biểu hiện được ''một dục vọng thể xác lành mạnh và khỏe khoắn''... Trái lại Ăng-ghen hết sức chế giễu Phơ-rây-ligơ-rát và ''cái tính cả thẹn giả dối của giai cấp tiểu tư sản''. Bởi vì theo ông nó ''chỉ nhằm che đậy những dâm đãng kín đáo, Ăng-ghen viết: ''Khi đọc thơ của Phơ-râyli-gơ-rát chẳng hạn, thì người ta có thể tưởng rằng con người không có bộ phận sinh dục nữa, ấy thế nhưng không ai thích những chuyện tiếu lâm kể một cách vụng trộm bằng Phơ-rây-li-gơ-rát, vốn là tác giả của những bài thơ hết sức cả thẹn'' v.v...(2 ) Chúng tôi nghĩ có thể gọi Xuân Hương là nhà thơ đã thể hiện được ''một dục vọng thể xác lành mạnh và khỏe khoẳn như cách Ăng-ghen nói về Oét-tơ, chứ không thể coi bà như một nhà thơ dâm đãng được, Tuy vậy cũng cần nói thêm rằng, một trong số bài thơ của Xuân Hương quả có yếu tố tục. Điều này cũng không ai chối cãi được, Từ của Xuân Diệu 2 F, Engels, Chant du compagnon de Georges Weerth (1846), Xem Marx, Engels, Sui la litteratúre, Ed, Soclales, Pan, 1965, tr, 343, Trong văn học dân gian, nhất là trong loại truyện Tiếu lâm, truyện Trạng Quỳnh chúng ta từng thấy nhân dân lao động dùng cái tục làm phương tiện để đả kích giai cấp thống trị, những kẻ sống rất tụcmà làm ra vẻ sợ cái tục, Hồ Xuân Hương đã học tập phương pháp đó của văn học dâu gian. Nhà thơ không thích tục tĩu, nhưng nhiều lúc bà dùng cái tục một cách trắng trợn là nhằm mục đích đả kích kẻ Thù. Đọc những bài thơ có yết tố tục này sẽ thấy rõ dụng ý đả kích của bà..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Nói cho đúng, cái tục, bản thân nó trái với lý tưởng thẩm mỹ cũng như lý tưởng đạo đức, nó không phải là một phương tiện tốt để dùng trong văn học, nhất là ngày nay, khi nhân dân đã làm chủ đất nước, việc giáo dục thẩm mỹ cho quần chúng trở thành một trong những nội dung giáo dục cơ bản của chế độ xã hội chú nghĩa thì càng không nên dùng cái tục dù với bất cứ một mục đích nào. Nhưng trong xã hộiphong kiến, nhân dân bị áp bức không có một tấc vũ khí trong tay thì họ đánh được kẻ thù bằng bất cứ phương tiện nào cũng đều có ý nghĩa và đều có thể thông cảm được, IV. HỒ XUÂN HƯƠNG, NHÀ THƠ TRỮ TÌNH YÊU ĐỜI Xuân Hương là một nhà thơ trào phúng, đả kích, Nhiều người nghĩ như vậy, Nhưng bảo Xuân Hương chỉ là nhà thơ trào phúng, đả kích thì quả chưa hiểu hết cái phong phú đa dạng của tâm hồn nhà thơ này. Con người cười nhiều và cười sâu chẳng bao giờ là người bộc tuệch, trống rỗng, ruột để ngoài da; mà là người có nhiều suy nghĩ, nhiều cảm xúc. Trữ tình và trào phúng không đối lập nhau cũng như cảm xúc và trí tuệ; trí tuệ càng sáng suốt thì cảm xúc càng khỏe khoắn, càng phong phú. Và ở những nhà văn, nhà thơ lớn, hai mặt đó vẫn thường thống nhất với nhau để nói lên tính chất đa diện của cuộc sống cũng như của tâm hồn tác giả, Trường hợp Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ ở giai đoạn này và trường hợp của Tú Xương, Nguyễn Khuyến ở giai đoạn kế tiếp là như thế. Hồ Xuân Hương, nhà thơ trữ tình biểu hiện trước hết ở lòng yêu mến thiên thiên của bà. Ở trên có nói Hồ Xuân Hương ghét cay ghét đắng cảnh chùa chiền và ở đây chúng tôi nói Xuân Hương rất mực yêu mến thiên nhiên, điều đó không có gì mâu thuẫn cả. Cảnh thiên nhiên nhà thơ yêu mến là những cảnh bình thường mà cao rộng, có hình khối, có cây, có gió, có âm thanh, sắc màu... nghĩa là một thiên nhiên trữ tình trong bài thơ dài của tạo hóa, thiên nhiên làm đẹp cuộc sống của con người. Và trước một thiên nhiên như vậy thì rõ ràng là nhà thơ say mê. Tấm lòng hồn nhiên, yêu đời của Xuân Hương mang đến cho thiên nhiên chất sống ngồn ngộn như nhựa mùa xuân. Thiên nhiên trong thơ Xuân Hương lúc thì bừng lên những nét sinh động dị thường: Lắt lẻo cành thông cơn gió lốc, Đầm đìa lá liễu giọt sương treo, Lúc lại hùng vĩ mà tươi vui: Gió giật sườn non kêu lắc cắc, Sóng dồn mặt nước vỗ bong bong, Trăng mùa thu trong con mắt Xuân Hương trông cũng ngon lành như một trái chín đỏ: Một trái trăng thu chín mõm mòm, và cũngnhư nhà thơ, nó mới duyên dáng tình tứ làm sao:.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Năm canh lơ lửng chờ ai đó, Hay có tình riêng với nước non, Cảnh của Xuân Hương thường là vậy, Nó không có cái màu phơn phớt nhàn nhạt của tranh thủy mạc. Nó không ưa những nét buồn buồn của một buổi chiều tà bóng xế, nó không thích những chiếc lá vàng rơi trước gió, hay con nai ngơ ngác trong rừng già,,, Cảnh nào cũng cựa quậy, cũng cử động, cũng sống, cũng vui. Đó là đặc điểm của thiên nhiên trong sáng tác của Xuân Hương, Trước thiên nhiên bao la rộng lớn, nhà thơ thấy lòng mình hể hả như chắp cánh bay lên. Cảm hứng trữ tình trong những bài thơ viết về thiên nhiên của Xuân Hương là một xúc cảm lãng mạn hết sức tươi sáng. Nhưng khi quay lại cuộc đời riêng nhiều ngang trái của mình thì cảmhứng của Xuân Hương lắng lại, chất lãng mạn bay bổng tan đi, vàthay thế vào đó là những suy nghĩ chua chát: Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, Này của Xuân Hương mới quệt rồi, Có phải duyên nhau thì tham lại, Đừng xanh như lá bạc như vôi, Những bài thơ trữ tình viết về thân phận mình của Xuân, Hương thường đượm một màu buồn, Xuân Hương không úy mị khóc lóc cái buồn trong thơ Xuân Hương bình tĩnh mà thắm thía, kín đáo, nó toát lên từ đáy lòng của nhà thơ. Có thể nói ba bài tự tình của Xuân Hương tiêu biểu hơn cả cho thơ trữ tình của bà. Bài thứ nhất có lẽ Xuân Hương làm vào lúc tuổi đã nhiều, nhưng đường tình duyên chưa tắt hết hy vọng. Bài thơ có bực tức, oán trách mà vẫn còn thừa tin tưởng: Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom, Oán hận trông ra khắp mọi chòm, Mõ thảm không khua mà cũng cốc, Chuông sầu không đánh cớ sao om, Trước nghe những tiếng thêm rên rĩ, Sau giận vì duyên để mõm mòm, Tài tử văn nhân ai đó tá, Thân này đâu phải chịu gà tom! Sau đó khá lâu, Xuân Hương làm tiếp bài thơ tự tình thứ hai trong một hoàn cảnh đã hoàn toàn đổi khác. Nhà thơ chắc đã đem thân đi làm lẽ. Cuộc đời làm lẽ của người đàn bà có thích thú nỗi gì, cho nên giữa một đêm khuya - ở đây lại cũng một đêm khuya! Dưới một vầng trăng ,sáng và bên một cốc rượu đầy, Xuân.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> Hương ngẫm lại cuộc đời mình. Bài thơ tan dần cái bực tức, chỉ còn lại một nỗi buồn cô đơn, quạnh vắng: Canh khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan, với nước non, Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn, Xiên ngang mặt đất rêu từng đám, Đâm toạc chân mây đá mấy hòn,, Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, , Mảnh tình san sẻ tý con con: Bài tự tình thứ ba có thể Xuân Hương làm ra quãng giữa hai đời chồng. Cuộc đời ngang trái diễn ra trước mắt làm cho Xuân Hương từ một người thách thức với cuộc sống, trở thành một người bàng hoàng trước cuộc sống. Nhà thơ phân vân, bài thơ tự tình cũng lưỡng lự phân vân. Xuân Hương ví mình như chiếc bánh trôi nổi lênh đênh giữa dòng nước cả. Những vần thơ hình ảnh và nhạc điệu, gợi lên một cảm giác bấp bênh, chới với: Chiếc bách buồn về phận nổi nênh Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh, Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng, Nửa mạn phong ba luống bập bềnh, Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến, Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh, Ấy ai thăm ván cam lòng vậy Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh ! Con người viết những dòng thơ chua chát ấy vốn là một người rất tin ở mình: ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu! Vốn là một con người rất mực lạc quan cởi mở. Dễ có vế câu đối tết nào độc đáo, sắc sảo như về câu đối tết sau đây của Xuân Hương: Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra, cho thiếu nữ đón xuân vào! Mùa xuân và thiếu nữ! Đó là một biểu tượng cho đến ngày nay người ta vẫn còn dùng để nói về vẻ đẹp, về cái đáng yêu trong cuộc sống. Một tâm hồn tha thiết yêu đời là thế, cuối cùng đã buông tiếng thở dài ! Cái buồn của Xuân Hương làm quặn lòng người đọc. Đó là cái buồn của một kiếp người thông qua một con người,.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> chứ không phải cái buồn cá nhân, cô độc. Nó không có ý nghĩa tiêu cực. Công thức ''buồn - tiêu cực'' là một công thức quá giản đơn, không phù hợp với thực tế vô cùng phức tạp của cuộc sống. Tất nhiên có cái buồntiêu cực suy đồi như tiếng khóc nỉ non của những kẻ nào đó trước một thực tại đã bị lịch sử lên án, hay tiếng kêu than của những phần tử thống trị bị tước hết quyền lợi, Nhưng nói chung, cuộc đời cũ, nhất là vào giai đoạn này, hết sức tàn bạo và bất công, mà con người lại không thấy phải thay đổi nó bằng cách nào, thì những ai tha thiết với cuộc sống, với vận mệnh của con người làm sao không buồn cho được! Cái buồn ở đây, vì vậy mà có ý nghĩa tố cáo nhất định của nó, V. PHONG CÁCH THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG sáng tác thơ Nôm của Xuân Hương chắc chắn đã thất lạc đi nhiều, nhưng qua mấy chục bài còn lại, Xuân Hương vẫn có thể liệt vào những nhà thơ Nôm xuất sắc nhất và có cá tính độc đáo nhất trong văn học dân tộc. Khác với nhiều nhà thơ đương thời, Xuân Hương !à một người không phải xuất thân từ tầng lớp quý tộc, Nhà thơ lặn lội nhiều trong cuộc sống của quần chúng ở nông thôn cũng như ở thành thị. Xuân Hương không bị ràng buộc nhiều của luân lý lễ giáo phong kiến. Cuộc đời riêng của bà lại có nhiều chuyện éo le ngang trái về đường tình duyên... Tất cả những điều đó để lại dấu ấn rõ nét trong thơ bà, và cũng là những nhân tố làm cho thơ bà có phong cách rõ Nét. Với Xuân Hương, cuộc sống bao giờ cũng được phản ánh vào tác phẩm theo con mắt nhìn riêng, theo cái góc độ riêng của tâm hồn mình, Xuân Hương không chịu rập khuôn theo cái cũ, Xuân Hương sáng tác bằng thể thơ Đường luật, là một thể thơ được dùng phổ biến trong văn học bác học chứ không phải trong văn học bình dân, nhưng phong cách thơ của Xuân Hương trước hết lại thuộc dòng phong cách bình dân chứ không phải dòng phong cách quý tộc (l ). Một số nhà nghiên cứu trước đây cảm thấy sợ xuất hiện của Xuân Hương có cái gì khó hiểu, bởi họ đặt Xuân Hương vào truyền thống của văn học bác học mà không đặt nhà thơ vào truyền thống của văn học bình dân, văn học dân gian. Thực ra Xuân Hương sẽ rất dễ hiểu nếu chúng ta chú ý trong văn học dân gian giai đoạn này đã ra đời rất nhiều những câu ca dao trữ tình và trào phúng, những câu đố tục giảng thanh, và đố thanh giảng tục, những truyện Trạng Quỳnh, truyện tiếu lâm cười đến chảy nước mắt. Trong nghệ thuật dân gian giai đoạn này và một phần của giai đoạn trước cũng có rất nhiều tác phẩm đề tài không khác gì,đề tài trong thơ của Xuân Hương cả, Xuân Hương thuộc dòng phong cách bình dân, nhưng nhà thơ không tan biến trong phong cách chung ấy, mà sắc thái cá nhân hết sức đậm nét. Văn học bác học nói chung viết về cuộc sống của tầng lớp trên.Trong một số bài thơ khẩu khí xuất hiện dưới thời Lê Thánh Tông có nói đến một vài nhân vật thuộc tầng lớp dưới, một số đồ vật trong đời sống hàng ngày của người lao động, ...nhưng nhà thơ không nhằm nói về những dối tượng ấy, mà chỉ mượn nhũng đối tượng ấy để nói về vai trò, nhiệm vụ của những con người thuộc tầng lớp trên, của bọn quan lại. Xuân Hương không làm thơ về đời sống quý tộc, không viết theo kiểu thơ khẩu khí, mà viết về những đề tài lấy trong sinh hoạt của người.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> lao động, giống như trong văn học dân gian. Nhưng nếu như trong văn học dân gian, cuộc sống, sinh hoạt của người lao động được phản ánh với tất cả cái phong phú đa dạng của nó, thì với Xuân Hương, trong cuộc sống ấy bà chỉ viết về những hiện tượng nào gắn liền với,sinh hoạt của phụ nữ, hoặc có khả năng lồng vào đó một ''nghĩa ngầm'' gửi gắm vào đó cái khao khát về cuộc sống bản năng, về cuộc sống ái ân của trai gái. Xuân Hương sẽ không viết về bất cứ hiện tượng nào, mà viết về cảnh chồng chung, cảnh không chồng mà chửa, cảnh chồng chết, hay cảnh dệt cửi, đánh đu, hòn đá Ông Chồng bà Chồng... Về ngôn ngữ, có thể nói trong văn học cổ không ai giản dị, dễ hiểu và mộc mạc như Xuân Hương. Ngôn ngữ của Xuân Hương không khác gì ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ. Thỉnh thoảng trong thơ bà có một đôi từ Hán Việt, thì hầu hết đã được Việt hóa, đã đi vào kho từ vựng phổ biến của tiếng Việt. Cá biệt như trong bài Bỡn bà lang khóc chồng, nhà thơ dùng nhiều từ Háu Việt, thì đó là một dụng ý. Bởi vì đây là một bài thơ ''bỡn'', Xuân Hương cố ý dùng rất nhiều tên thuốc bắc, mà tên thuốc bắc thì cho đến bây giờ chúng ta vẫn còn gọi bằng từ Hán Việt như thế. Nhìn chung, có thể nói ngôn ngữ trong thơ Xuân Hương là một ngôn ngữ thuần tuý Việt Nam. Xuân Hương có tài khai thác vốn ngôn ngữ súc tích, cô đọng của ca dao tục ngữ. Trong kiến trúc chung của câu thơ Xuân Hương, những yếu tố ca dao tục ngữ được đặt đúng chỗ nên rất tự nhiên, nó nhuyễn vào những từ, những câu khác của Xuân Hương làm thành một thể hữu cơ, thống nhất: Ca dao viết: Không chồng mà chửa mới ngoan, Có chồng mà chửa thế gian sự thường, từng ấy ý, Xuân Hương đã dọn lại thành cũng một câu sắc gọn hết sức có cá tính để làm câu kết cho một bài thơ, nghe dứt khoát và rắn rỏi: Không có, nhưng mà có, mới ngoan, Hình ảnh ''quả cau'' và ''miếng trầu'' thường thấy trong ca dao cũng được Xuân Hương dùng lại trong câu mở đầu của bài thơ Mời trầu: Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, Này của Xuân Hương, mới quệt rồi,,, Xuân Hương còn có tài khai thác, phát triển nội dung cú thành ngữ tục ngữ làm cho nó có sức tác động mạnh. Những thành ngữ, tục ngữ như ''cố đấm ăn xôi'', ''làm mướn không công'' trong bài Cảnh chồng chung được nhà thơ láy lại để xoáy sâu hơn tính chất bi kịch của cảnh ngộ người đàn bà làm lẽ: Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm, Cầm bằng làm mướn, mướn không công,.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Có thể nói ở một số bài Xuân Hương đã suy nghĩ và diễn đạt theo cách của thành ngữ, tục ngữ, Xuân Hương vận dụng ngôn ngữ không câu nệ ở hình thức, Xuân Hương không giống những nhà thơ bác học có xu hướng muốn dùng ngôn ngữ đài các, quý phái, thích chất đống những từ Hán-Việt, những điển cố trong tác phẩm, Xuân Hương đưa vào thơ một loạt từ ngữ ''đầu đường xó chợ'', miễn là các từ ngữ ấy nói đúng được cái chất thực của đời sống, của tình cảm. Nhà thơ không ngần ngại viết những câu? Rúc rích thây ma con chuột nhắt, Vo ve mặc mẹ cái ong bầu, Hay: - Chém cha cái kiếp lấy chồng chung, - Năm thì mười họa hay chăng chớ, Hay: Cha kiếp đường tu sao lắt lẻo, Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo. Qua thực tiễn, sáng tác của Xuân Hương, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ của đời sống được sử dụng một cách có nghệ thuật. Con đường của Xuân Hương cũng là con đường của Nguyễn Du, của nhiều nhà thơ dân tộc khác. Kho từ ngữ của Xuân Hương thường chứa đựng nhiều từ ngữ động, nhiều hình thức lấp láy có tác dụng khêu gợi cảm giác mạnh,nhiều từ nói lái nghịch ngợm. Với Xuân Hương, màu sắc phải là ''trắng phau phau'', ''trong leo lẻo'', 'tối om om'', ''chín mõm mòm'', ''đỏ lòm lòm'', ''đỏ loét'', ''xanh rì'' ...cử động phải là ''khua lắc cắc ''vỗ “bong bong”, “năng năng nhắc'', 'thích thích mau''. Hoặc nếu không ,”xiên ngang mặt đất'', ''đâm toạc chân mây'', thì cũng phải “mõ thảm không khua mà cũng cốc, Chuông sầu không đánh cớ sao om''... chẳng có cái gì là đứng yên, là chết lặng cả, Xuân Hương không thích dùng những vần oái oăm khó gieo thi pháp cổ gọi là những ''tử vận'', những vần chết, nhưng dùng thành công thì bài thơ lại có dáng dấp rất độc đáo, Chẳng hạn vần ênh trong bài Chiếc bách (nổi nênh, lênh đênh, gập ghềnh ạ tấp tênh) tạo ra cảm giác bất định, mong manh, dễ tan vỡ; vần om trong bài Trăngthu (chín mõm mõm, đỏ lòm lòm,,,) tạo ra cảm giác sung mãn, tràn đầy; vần eo trong bài Quán khách như vẽ ra cảnh rừng núỉ cheo leo hiểm trở,,, Đặc biệt trong bài sau cùng, dường như nhà thơ chỉ dùng vần để tạo hình: Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo, Đường đi thiên thẹo đá cheo leo, Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác Xỏ kẽ kèo tre đốt ngẳng ngheo,.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> Ba chạc cây xanh hình uốn éo, Một dòng nước biếc cảnh leo teo, Thú vui quên cả niềm lo cũ, Kìa cái diều ai nó lộn lèo! Xuân Hương còn thích cái lối nói lấp lửng có hai nghĩa. Về phương diện này nhà thơ cũng tiếp thu truyền thống của câu đối dân gian chứ không phải lối thơ có tính chất biểu tượng như thơ ngụ ngôn hay thơ khẩu khí. Trong những bài thơ còn lại, chúng ta thấy Xuân Hương chỉ làm thơ thất ngôn bát cú và tứ tuyệt. Đây là hai thể thơ rất phổ biến trong văn học phong kiến. Thơ Đường luật là thể thơ được dùng trong thi cử và các nhà thơ quý tộc thường dùng thể tài này để ngâm vịnh. Với niêm, luật chặt chẽ của nó, thơ Đường luật có một hình thức đường bệ, và thường chứa đựng một nội dung cũng đường bệ thư thế. Nhà thơ rất tiêu biểu cho thể thơ này là bà huyện Thanh Quan. Những sáng tác của bà huyện Thanh Quan đọc lên nghe ''như có con hầu đi theo sau'',(l )(chữ của Xuân Diệu) Đối lập với bà huyện Thanh Quan - và cũng đối lập với quan niệm phổ biến về thơ Đường luật của nhiều nhà thơ quý tộc khác, Xuân Hương đem đến cho thể thơ này một nội dung hết sức thông tục. Chẳng có cái gì là kiêng ky đối với thơ Đường luật cũ, Xuân Hương thực tế đã ''cải tạo'' thể thơ Đường luật. Một sự thay đổi về nội dung tất phải đưa đất một sự thay đổi về hình thức tương ứng: trong khuôn khổ mà thể thơ cho phép, dưới ngòi bút của Xuân Hương, nhữug bài thơ Đường luật hồn nhiên, tươi trẻ không khác gì cô gái Xuân Hương, cô gái Việt Nam: Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình, Chị cũng xinh mà em cũng xinh, Đôi lứa như in tờ giấy trắng, Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh, và khi cần bốp chát, đanh dá thì cũng có thể bốp, chát, đanh đá không kém: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ Lại đây cho chị dạy làm thơ Ong non ngứa nọc,châm hoa rữa, Dê cỏn buông sừng húc dậu thưa... Cũng chỉ với Xuân Hương, câu thơ Đường luật mới có cái nhịp điệu đầy sức sống này : Khi cảnh, khi tiêu, khi chũm chọe, Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha,.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> Hay: Không có, nhưng mà có, mới ngoan, Thể thơ ngắn và bó rọ trong niêm luật, rất hạn chế khả năng biểu hiện, Nhà thơ phải nắm vững đặc trưng của nó, phải khéo léo mới sử dụng có hiệu quả. Xuân Hương thích dùng nó, bởi vì trong tay bà, cái kết cấu ngắn gọn và chặt chẽ kia có khả năng giúp nhà thơ bắt chộp ngay được cuộc sống một cách tức khắc để trào phúng, đả kích, và dĩ nhiên, có lúc để tâm tình nữa. Nhược điểm trong thơ Đường luật qua Xuân Hương đã trở thành một ưu điểm. Giống như người lính xung kích lăm lăm mũi lê trên đầu súng, Xuân Hương dùng thơ Đường luật chú yếu ,là để đánh giáp lá cà với giai cấp phong kiến thống trị. Các sáng tạo trong việc vận dụng thơ Đường luật của Xuân Hương đến giai đoạn sau được hai nhà thơ xuất sắc là Nguyễn Khuyến và Tú Xương kế thừa và phát triển, KẾT LUẬN Thơ Xuân Hương là một thể thống nhất giữa nội dung và nghệ thuật. Nhà thơ dù nói đến lòng xót thương người phụ nữ hay, đả kích giai cấp phong kiến thống trị, dù bộc bạch nỗi niềm riêng tây hay ngâm ngợi cảnh đẹp thiên nhiên rộng lớn, dù làm thơ trào phúng hay làm thơ trữ tình đều chịu sự chi phối của một tư tưởng thống nhất. Đó là chú nghĩa nhân đạo của nhà thơ. Đặc điểm chủ nghĩa nhân đạo của Xuân Hương là một tình cảm yêu đời tha thiết, hồn nhiên và mộc mạc. Nhà thơ lớn tiếng đòi cho con người phải có một cuộc sống đầy đủ phải được hưởng tất cả lạc thú của tình yêu, phải tôn trọng phụ nữ, và đấu tranh chống lại những gì phản tự nhiên, giả dối và bất công trong xã hội. Chú nghĩa nhân đạo của Xuân Hương góp phần làm phong phú trào lưu văn học nhân đạo chú nghĩa nửa cuối thế ký XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX: và có khuynh hướng nghiêng về văn học dân gian, nghĩa là nó gần với chủ nghĩa nhân đạo của người bình dân. Hiện tượng Xuân Hương hoàn toàn có tính chất lịch sử và xã hội, và tất nhiên có thể cắt nghĩa được bằng những điều kiện lịch sử xã lội cụ thể của thời đại tác giả. Có thể nói thơ Xuân Hương, là sản phẩm của một thời đại mà phong trào đất tranh của quần chúng nổi lên như vũ bão chống lại ách thống tri Phong kiến thối nát, là kết tinh của truyền thống phụ nữ trên lĩnh vực xã hội và văn học, đặc biệt là truyền thống của người phụ nữ bình dân, và, tất cả những cái đó được thể hiện thông qua tài năng độc đáo có một không hai của nhà thơ. Vấn đề Xuân Hương trong hoàn cảnh tư liệu hiện nay chưa thể giải quyết dứt khoát được. Tuy vậy, với tất cả sự thận trọng cần thiết, chúng ta vẫn cần phải khẳng đanh vị trí của nhà thơ trong lịch sử văn học dân tộc. Xuân Hương còn thiếu cái phong phú nhiều mặt của những tác giả lớn. Trong tác phẩm của Xuân Hương, nhà thơ chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chua có cái tầm nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con nguời, ngoài cái đau khổ và khát vọng của riêng mình, hay những người cùng cảnh ngộ với mình. Còn một quãng đường xa nữa Xuân Hương mới vươn đến tầm rộng lớn và sâu sắc của Nguyễn Du. Về phương diện nghệ thuật, việc vận dụng cái tục quá nhiều cũng là một hạn chế. Song dù vậy, phần đóng góp của Xuân Hương vẫn hết sức độc đáo . Với Xuân Hương, người phụ nữ bình dân.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> dược đưa vào văn học thành văn. Đó là những con người có cuộc đời riêng nhiều đau khổ, nhiều chua xót, nhưng tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, Họ yêu đời tha thiết, có tài năng và phẩm chất trong sạch, Cuộc đời cũ là những ngày buồn dài, đau khổ kết tụ lại thành mây mù đè nặng trên bầu trời ngày trước, Tiếng cười to, cười vang của Xuân Hương có tác dụng làm cho mây mù tan đi, trả lại một chút màu xanh cho bầu trời cao rộng. Về phương diện nghệ thuật, Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngày để sáng tác thơ, và có những cống hiến quan trọng trong việc cải tạo thể thơ Đường luật. Thành công của Xuân Hương là một đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của nền văn học chữ Nôm của dân tộc. Ngày nay tiếp thu di sản văn học của Xuân Hương, chúng ta giữ lại những gì có ý nghĩa đối với cuộc sống hiện tại cũng như những gì giúp cho con người ngày nay hiểu sâu hơn quá khứ, và gạt bỏ đi tất cả những phần hạn chế do hoàn cảnh lịch sử và cá nhân của tác giả, gây nên. TÀI LIỆU THAM KHẢO l Hòang Xuân Hãn, Hồ, Xuân Hương với vịnh Hạ Long, Xem Hoàng ,Xuân Hãn, Thiên tình sử Hồ Xuân Hương, NXB Văn học, 1995 , 2, Đào Thái Tâm: Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, NXB Giáo dục, 1995.
<span class='text_page_counter'>(25)</span>