Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đánh giá quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.4 KB, 20 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN: LUẬT HƠN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH
ĐỀ BÀI:08
HỌ VÀ TÊN

:

MSSV

:

LỚP

:

NHĨM

:

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng trong hệ thống
pháp luật hôn nhân và gia đình, theo đó quan hệ tài sản của vợ chồng được điều


chỉnh bằng pháp luật của nhà nước. Chế độ tài sản của vợ chồng phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống, văn hóa … của mỗi
quốc gia. Giữa các nước khác nhau thường có những quy định khác biệt về tài sản
của vợ chồng. Về cơ bản chế độ tài sản của vợ chồng dựa trên hai căn cứ: Sự thỏa
thuận bằng văn bản của vợ chồng và theo các quy định của pháp luật. Chế độ tài
sản vợ chồng là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và với người khác có liên quan đến
tài sản của vợ chồng, nhằm bảo vệ quyền lợi của vợ, chồng và người thứ ba liên
quan đến tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản theo thỏa thuận là một chế định
quan trọng trong Luật HNGĐ nói riêng, pháp luật Việt Nam nói chung, vì thể để
làm rõ vấn đề này, em xin được lựa chọn đề số 08 “ Đánh giá quy định về chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014” làm đề bài tập lớn của mình. Trong quá trình làm bài, do còn hạn chế về
mặt kiến thức nên sẽ khơng tránh khỏi những sai sót, em mong thầy cơ có thể bỏ
qua và cho em thêm lời khuyên để những bài tập sau được tốt hơn, em xin chân
thành cảm ơn!



NỘI DUNG.
I.

Một số vấn đề lý luận chế độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ và chồng.
1.1.
Khái niệm chế độ tài sản giữa vợ và chồng.

Có thể hiểu, chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ,
nguồn gốc xác lập tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản

chung của vợ. Chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản theo luật định
và chế độ tài sản theo thỏa thuận.
1.2.
Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận.
Theo quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ)
thì thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là việc vợ chồng thỏa thuận xác
định tài sản của vợ chồng sau khi kết hôn. Như vậy, chế độ tài sản theo thỏa thuận
là tập hợp các quy tắc do chính vợ, chồng xây dựng nên một cách hệ thống trên cơ
sở sự cho phép của pháp luật để thay thế cho chế độ tài sản luật định nhằm điều
chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, theo đó vợ chồng được tự thỏa thuận về căn
cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản cũng như
phương thức phân chia tài sản thông qua một văn bản được lập trước khi kết hôn.
1.3.
Đặc điểm chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận.
Đối với việc xác lập chế độ tài sản ở Việt Nam, Luật HNGĐ năm 2014 quy
định có hai chế độ tài sản của vợ và chồng và chế độ tài sản theo thỏa thuận là một
trong số đó nên nó có đầy đủ các đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng:
Thứ nhất, chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này phải có hơn
nhân hợp pháp.
Thứ hai, xuất phát từ vai trị của gia đình đối với sự phát triển của xã hội, pháp
luật quy định chế độ tài sản của vợ chồng luôn hướng đến mục tiêu đảm bảo
quyền lợi của gia đình trong đó có lợi ích cá nhân của vợ chồng.
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ tư, chế độ tài sản vợ chồng mang đặc thù riêng trong việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của chủ thể.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận cịn có những đặc điểm riêng sau:
4



Thứ nhất, chế độ tài sản theo thỏa thuận do hai bên tự do thỏa thuận một
cách tự nguyện, bình đẳng. Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản theo
thỏa thuận cho phép vợ chồng tự do bàn bạc và xác lập với nhau các quyền nghĩa
vụ liên quan đến quan hệ sở hữu của vợ chồng. Chính nhờ đặc điểm này, chế độ
tài sản theo thỏa thuận mang lại sự ưu việt hơn trong việc đảm bảo quyền tự định
đoạt tài sản theo ý chí của cá nhân vợ chồng. Trước khi bước vào hôn nhân, hai
bên vợ chồng thông qua hoạt động thỏa thuận thể hiện rõ phần nào ý chí cá nhân
với tài sản của mình khi nam nữ chưa xác lập quan hệ vợ chồng sẽ đảm bảo tính
tự nguyện bình đẳng cao hơn do chưa chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ gia
đình, quyền tự định đoạt tài sản của cá nhân do đó dễ dàng được đảm bảo hơn.
Thứ hai chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận phải được thành lập
thành văn bản trước khi kết hơn, tuy nhiên nó chỉ phát sinh hiệu lực trong thời kỳ
hôn nhân. Nếu như việc lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của
pháp luật hồn tồn khơng cần vợ chồng thể hiện bằng ý chí (mặc nhiên thừa nhận
nếu vợ chồng khơng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận) thì chế độ tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận chỉ được công nhận khi ý chí của các bên tham gia thỏa
thuận được thể hiện rõ ràng bằng văn bản. Như đã nêu trên, thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng phải được thực hiện trước khi kết hôn, do đó văn bản thể
hiện sự thỏa thuận này cũng cần phải được lập trước khi kết hôn. Chế độ tài sản
của vợ chồng tồn tại trong thời kỳ hôn nhân nên văn bản thỏa thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng chỉ có hiệu lực khi hơn nhân tồn tại.
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có phần đề cao quyền lợi
cá nhân của vợ chồng hơn so với chế độ tài sản vợ chồng theo luật định. Mặc dù
vẫn hướng tới việc đảm bảo quyền lợi chung của gia đình, song chế độ tài sản này
cho phép vợ chồng có thể tự do hơn trong việc thực hiện quyền sở hữu tài sản của
riêng mình. Đối với chế độ tài sản này, quyền tự định đoạt của cá nhân được đảm
bảo hơn, các quan hệ tài sản được thực hiện phù hợp hơn với điều kiện gia đình,
điều kiện kinh tế của vợ chồng.
Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có thể được sửa đổi bổ
sung trong thời kỳ hôn nhân, khác chế độ tài sản pháp định mang tính ổn định cao

trong suốt thời kỳ hơn nhân. Điều này phù hợp với tinh thần đề cao sự tự do cá
nhân, tự nguyện hòa thuận của vợ chồng. Tuy nhiên việc sửa đổi này không thể
thực hiện một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những quy định của pháp luật.
5


II.

Quy định của pháp luật HNGĐ năm 2014 về chế độ tài sản theo thỏa
thuận của vợ chồng.
II.1.
Nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ và
chồng.

Luật HNGĐ 2014 đã quy định những nguyên tắc chung áp dụng chế độ tài sản
giữa vợ chồng, vì vậy chế độ tài sản theo thỏa thuận cũng cần tuân thủ nguyên tắc
sau:
II.1.1. Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng.
Trong đời sống chung, ngoài yếu tố tình cảm gắn bó giữa vợ chồng thì yếu tố
tài sản giúp duy trì đời sống hơn nhân. Do vợ chồng cùng chung sức tạo lập và
duy trì khối tài sản nên rất khó phân định tài sản giữa hai người, nên “vợ chồng có
quyền, nghĩa vụ nngang nhau trong hưởng thụ, sử dụng và định đoạt tài sản
chung”, “khơng phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu
nhập”(khoản 1 Điều 29 Luật HNGĐ). Điều này cho thấy "lao động trong gia
đình" (cơng việc nội trợ chăm sóc con cái...) hầu hết đều do người vợ thực hiện đã
được pháp luật ghi nhận công bằng, bình đẳng với lao động tạo ra thu nhập
thường do người chồng thực hiện. Quy định này có ý nghĩa rất lớn, nhất là trong
trường hợp người vợ, chồng thực hiện chế độ tài sản riêng thì khi chấm dứt chế độ
tài sản, người vợ, chồng làm công việc nội trợ có quyền u cầu bên kia thanh
tốn cho mình cần tài sản tương đương với phần cơng sức đóng góp. Ngun tắc

này hồn tồn phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội Việt Nam cũng như thế
giới trong bối cảnh bình đẳng giới đang là vấn đề luôn được quan tâm đặt ra trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong gia đình.
II.1.2. Nguyên tắc bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình.
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình hạnh phúc thì xã hội mới ổn định, văn
minh. Vì vậy, trách nhiệm đảm bảo cuộc sống gia đình, chăm sóc lẫn nhau, ni
dưỡng, giáo dục con là trách nhiệm chung của vợ chồng đối với gia đình và xã
hội. Khoản 2 Điều 29, Điều 30 Luật HNGĐ 2014 quy định “Vợ, chồng có nghĩa
vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”, “Vợ, chồng có
quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình”, “Trong trường hợp vợ chồng khơng có tài sản chung hoặc tài sản chung
6


không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ
đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên”. Theo đó, dù vợ chồng
lựa chọn áp dụng chế độ tài sản nào, có tài sản chung hay khơng thì việc đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình vẫn là trách nhiệm của cả hai bên vợ chồng.
Nhu càu thiết yếu của gia đình được quy định tại Điều 3 khoản 20 Luật HNGĐ
năm 2014, “là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh,
chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống
của mỗi người, mỗi gia đình”. Tùy theo khả năng kinh tế của mình mà vợ chồng
có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ, đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình mình
khác nhau. Đối với gia đình, chỗ ở ln là vấn đề quan trọng và đòi hỏi sự ổn
định. Điều 31 Luật HNGĐ năm 2014 quy định đối với tài sản đặc biệt là nhà ở nơi ở duy nhất của vợ chồng thì việc định đoạt tài sản này phải có sự thỏa thuận
của hai bên vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng lại
là tài sản riêng của cá nhân vợ, chồng thì cá nhân vợ chồng có quyền tự định đoạt
tài sản đó, song quyền định luật này lại bị hạn chế bằng việc chủ sở hữu tài sản
riêng đó khi định đoạt tài sản của mình vẫn phải bảo đảm quyền lợi cho người
khác (quyền có chỗ ở). Nói cách khác trường hợp nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ

chồng dù là tài sản chung hay tài sản riêng thì việc định đoạt tài sản đó vẫn phải
bảo đảm nhu cầu thiết yếu về chỗ ở của vợ chồng.
II.1.3. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, thành viên
khác trong gia đình và người khác.
Khoản 3 Điều 29 Luật HNGĐ năm 2014 quy định “Việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường”. Theo đó, quyền lợi
ích hợp pháp của vợ chồng, gia đình và của người khác được Pháp luật bảo vệ và
thực hiện. Để đảm bảo an toàn cho bên thứ ba khi thực hiện giao dịch với vợ,
chồng, Điều 32 Luật HNGĐ năm 2014 quy định vấn đề giao dịch với người thứ ba
ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản
khác mà quy định của pháp luật không cần đăng ký quyền sử dụng. Hiện nay
trong nền kinh tế thị trường, việc lập tài khoản ngân hàng hay tài khoản chứng
khoán cũng hết sức dễ dàng. Trong ngành Tài chính ngân hàng chỉ yêu cầu chủ tài
khoản có quyền thực hiện các giao dịch liên quan đến tài khoản mà không yêu cầu
xác minh tình trạng hơn nhân của người đó. Căn cứ vào đó đối với tài sản là tài
7


khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán chỉ đứng tên một người sẽ thuận tiện
hơn cho vợ chồng khi thực hiện các giao dịch có liên quan. Quy định này khơng
chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người thứ ba mà cịn mang lại lợi ích cho vợ
chồng do người thứ ba khơng cần thiết phải tìm hiểu về tình trạng hơn nhân cũng
như chế độ tài sản của người ký kết vào giao dịch với mình. Vợ chồng có thể thực
hiện giao dịch một cách dễ dàng mà không cần phải đưa ra các tài liệu chứng
minh về quyền đối với tài sản được sử dụng. Tương tự đối với tài sản là động sản
mà pháp luật không quy định đăng ký quyền sở hữu thì người đang trực tiếp
chiếm hữu động sản có quyền xác lập thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.
Quy định này thể hiện một bên vợ chồng có thể chủ động thực hiện các giao dịch
mà không phải chứng minh về quyền sở hữu hoặc về sự đồng ý của vợ chồng

mình trong quan hệ giữa vợ chồng. Người thực hiện giao dịch liên quan đến tài
sản chung phải chịu trách nhiệm trước vợ chồng mình, nếu xâm phạm đến quyền
lợi ích hợp pháp của vợ chồng thì phải bồi thường. Do đó các quy định này hồn
tồn khơng mâu thuẫn với quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng. Như
vậy dù vợ chồng có lựa chọn chế độ tài sản nào thì quyền lợi ích hợp pháp của vợ
chồng và bên thứ ba đều được pháp luật bảo vệ.
II.2.
Xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận.
II.2.1. Điều kiện về hình thức.
Điều 47 Luật HNGĐ năm 2014 quy định thỏa thuận xác lập chế độ tài sản
cần “Phải được lập trước khi kết hơn, bằng hình thức văn bản có cơng chứng
hoặc chứng thực”. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng thể hiện ý chí,
nguyện vọng, quyền lợi, trách nhiệm của vợ, chồng về vấn đề tài sản. Do đó, thỏa
thuận này phải được lập thành văn bản, được công chứng hoặc chứng thực. Chế
độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký
kết hôn và tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. Nếu khơng thực hiện thủ tục đăng ký
kết hơn thì chế độ tài sản theo thỏa thuận sẽ bị vô hiệu, khơng có giá trị áp dụng.
Điều kiện về nội dung.
Pháp luật cho phép vợ chồng có quyền tự do thỏa thuận về chế độ tài sản
giữa vợ chồng nhưng cần tuân thủ quy định về nội dung để đảm bảo thỏa thuận
này khơng xâm phạm lợi ích chung của gia đình, của người thứ ba khi thực hiện
giao dịch với vợ chồng. Nếu vi phạm những nội dung này, Tịa án có thẩm quyền
II.2.2.

8


sẽ tun vơ hiệu khi có u cầu của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Theo đó, khoản 1 Điều 50 Luật HNGĐ 2014 quy định Thỏa thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp:

Thứ nhất: Vi phạm quy định tại Điều 29, 30, 31, 32 về các nguyên tắc
chung chế độ tài sản giữa vợ chồng. Theo đó, nếu vi phạm các nguyên tắc chung
áp dụng chế độ tài sản giữa vợ chồng; vi phạm quy định quyền, nghĩa vụ vợ chồng
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; quy định về giao dịch liên quan đến nhà ở
là nơi ở duy nhất của vợ chồng; quy định về giao dịch với người thứ ba liên quan
đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy
định của pháp luật không cần đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì thỏa thuận
giữa vợ chồng về chế độ tài sản đó sẽ bị vơ hiệu.
Thứ hai, nội dung thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp
dưỡng; quyền được thừa kế; quyền, lợi ịch hợp pháp khác của cha, mẹ, con và các
thành viên khác của gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng khơng thể thay thế bằng nghĩa
vụ khác và không chuyển giao cho người khác. Quy định này góp phần ngăn chặn
thỏa thuận nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với người khác. Ví dụ, một người
sau ly hơn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, nhưng đã lấy vợ khác và có thỏa thuận
tồn bộ tài sản của mình sẽ thuộc về người vợ mới, do đó khơng cịn tài sản để cấp
dưỡng cho con. Trường hợp này thỏa thuận tài sản giữa hai người sẽ bị vô hiệu.
Thứ ba, không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định
tại Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS) và các luật khác có liên quan. Điều 117
BLDS 2015 quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, theo đó vợ,
chồng phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Điều đó có
nghĩa họ phải có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi trong xác lập, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình.
Vợ chồng phải tự nguyện các lập giao dịch, mục đích của giao dịch dân sự là các
quyền, lợi ích hợp pháp mà các bên muốn đạt được, không vi phạm điều cấm của
luật, trái đạo đức xã hội. Thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng sẽ khơng có hiệu
lực nếu việc kết hơn khơng tn thủ các điều kiện kết hôn theo Điều 8 Luật
HNGĐ 2014 (nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, tự nguyện, người kết
hơn cùng giới tính…) thì giữa nam và nữ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp
pháp… Như vậy, giữa chủ thể không tồn tại quan hệ vợ chồng hợp pháp thì chế độ
tài sản theo thỏa thuận cũng không phát sinh hiệu lực.

9


Pháp luật không quy định cụ thể chỉ một trong các thỏa thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng bị vơ hiệu thì những thỏa thuận khác của chế độ tài sản vợ
chồng có bị vơ hiệu hay khơng. Trong trường hợp này có thể giải quyết trường
hợp giao dịch vô hiệu một phần.
II.3.
Nội dung chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
II.3.1. Xác định tài sản vợ chồng.
Luật HNGĐ năm 2014 quy định nội dung chế độ tài sản của vợ chồng gồm các
vấn đề tài sản của vợ chồng, trong đó, xác định tài sản nào là tài sản chung, tài sản
nào là tài sản riêng; quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 48 Nghị định
126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật HNGĐ
2014, theo đó, việc xác định tài sản vợ chồng theo một trong số hướng sau:
Thứ nhất: tài sản giữa vợ và chồng gồm tài sản chung và tài sản riêng, việc
xác định căn cứ xác lập tài sản chung, riêng hoàn toàn do vợ chồng thỏa thuận.
Các bên có thể thỏa thuận tài sản của vợ chồng giống như quy định về xác định tài
sản chung tại Điều 33 hay xác định tài sản riêng theo Điều 43 Luật HNGĐ 2014
đối với tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng có
được từ trước khi kết hơn hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng…
Thứ hai, vợ chồng khơng có tài sản riêng, tất cả tài sản có được trước khi kết
hơn, trong thời kỳ hơn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Việc thỏa thuận
như vậy tạo ưu điểm dễ dàng xác định tính chất của tài sản, quyền định đoạt tài
sản giữa vợ chồng cũng như các khoản nợ và mang đậm tính cộng đồng gia đình.
Nó phù hợp với các gia đình truyền thống đặt lợi ích gia đình lợi ích của các con
lên hàng đầu. Tuy nhiên, việc thỏa thuận giữa vợ chồng khơng có tài sản riêng
khơng đảm bảo tính cơng bằng giữa vợ và chồng (người có cơng sức đóng góp ít
hơn cũng hưởng quyền lợi như người có cơng sức đóng góp nhiều hơn), khơng
bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng về tài sản của các bên và giảm sự chủ động

khi tham gia các giao dịch dân sự, dễ nảy sinh quan hệ hôn nhân với mục đích
chiếm hữu tài sản của bên kia...
Thứ ba, vợ chồng khơng có tài sản chung mà tất cả tài sản có trước khi kết
hơn, trong thời kỳ hơn nhân đều được xác định là tài sản riêng của người có được
tài sản đó. Thỏa thuận này làm cho hai vợ chồng khơng có tài sản chung. Vợ,
chồng có tồn quyền quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình, đảm bảo quyền lợi cho vợ, chồng khi đầu tư kinh doanh cá nhân riêng, chủ
10


động tham gia giao dịch dân sự với tư cách là chủ thể độc lập với điều kiện tài sản
của mỗi bên vẫn đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tuy nhiên nó có thể
khơng mang lại sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình bởi sau khi kết hôn
trở thành vợ chồng cùng chung sống với nhau địi hỏi phải có những khoản chi
chung cho yêu cầu cần thiết của gia đình. Luật phải dữ liệu quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với phần nghĩa vụ chung của gia đình. Đối với những cặp vợ chồng
chỉ có một bên tham gia đầu tư kinh doanh riêng không nên lựa chọn chế độ tài
sản này bởi sẽ ảnh hưởng khi chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận chấm dứt.
Ngoài ra. tài sản của vợ chồng có thể được xác định theo các thỏa thuận khác
của vợ chồng, theo đó vợ, chồng có thể đưa ra căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt
quyền sở hữu tài sản sao cho phù hợp với điều kiện và nguyện vọng của vợ,
chồng, miễn sao không trái pháp luật đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình và
khơng ảnh hưởng đến quyền lợi bên thứ ba.
II.3.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản.
Khoản 1 Điều 48 Luật HNGĐ 2014 quy định nội dung cơ bản thỏa thuận về
chế độ tài sản “b. Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản
riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia
đình”. Theo đó vợ chồng có quyền thỏa thuận về việc quản lý, sử dụng, định đoạt
đối với tài sản chung, tài sản riêng, nghĩa vụ riêng nghĩa vụ chung của vợ chồng
mà hai bên phải gánh chịu và những nhu cầu thiết yếu của gia đình được bảo đảm

bằng tài sản chung hay tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với giao
dịch với bên thứ ba. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nào thêm về vấn
đề này, tuy nhiên có thể thấy pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng
vợ chồng được tự do thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung, tài sản riêng theo ý chí của hai bên theo nhu cầu hồn cảnh kinh tế của gia
đình; vợ chồng cũng có thể thỏa thuận tương tự một phần hoặc toàn bộ nội dung
của chế độ tài sản theo luật định. Vợ chồng được tự do thỏa thuận về quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng theo ý chí của hai bên,
theo nhu cầu hồn cảnh kinh tế của gia đình. Vợ, chồng cũng có thể thỏa thuận
tương tự một phần hoặc tồn bộ nội dung của chế độ tài sản theo pháp luật bởi
luật HNGĐ 2014 quy định tương đối cụ thể đối với tài sản chung và tài sản riêng
tại các điều 35, 36, 37, 44, 45. Việc thỏa thuận này phải đảm bảo quyền lợi của gia
đình và lợi ích của bên thứ ba khi thực hiện giao dịch.
11


II.3.3.

Phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản.

Điểm c khoản 1 Điều 48 Luật HNGĐ 2014 có quy định nội dung cơ bản
của thỏa thuận chế độ tài sản giữa vợ chồng thì vợ chồng có quyền thỏa thuận về
“điều kiện, thủ tục, nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản”
theo đó, việc chấm dứt chế độ tài sản tuân theo văn bản thỏa thuận của vợ chồng.
Việc chấm dứt chế độ tài sản không được pháp luật quy định thời gian cụ thể nên
vợ chồng có thể chấm dứt bất cứ lúc nào trong thời kỳ hôn nhân hoặc khi hôn
nhân chấm dứt (sự kiện ly hôn, một bên vợ chồng chết..). Khoản 1 Điều 59 luật
HNGĐ 2014 có quy định nguyên tắc giải quyết tài sản vợ chồng khi ly hôn
“Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết
tài sản khi ly hơn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận khơng đầy đủ,

rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại
các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết”. Căn cứ vào đó, việc
phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận cũng
thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng. Vợ chồng hồn tồn
có thể thỏa thuận phân chia tài sản theo những nguyên tắc riêng được thống nhất
bởi hai bên. Thỏa thuận về nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài
sản giúp tòa án giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng một cách nhanh
chóng và dễ dàng hơn khi tranh chấp xảy ra. Căn cứ vào các thỏa thuận đã được
các bên thống nhất tịa án có thể dễ dàng xác định đâu là khối tài sản chung, đâu là
tài sản riêng của vợ chồng, cách thức phân chia cụ thể các khối tài sản này. Chỉ
khi vợ chồng thỏa thuận khơng đầy đủ hoặc có thỏa thuận nhưng khơng rõ ràng
thì mới áp dụng tương ứng các nguyên tắc phân chia tài sản của chế độ tài sản
pháp định được quy định cụ thể trong luật HNGĐ 2014.
II.3.4. Sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ,
chồng.
Điều 49 Luật HNGĐ 2014 cho phép vợ chồng có thể sửa đổi bổ sung nội dung
đã thỏa thuận về chế độ tài sản giữa vợ chồng “1.Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ
sung thỏa thuận về chế độ tài sản. 2. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của
thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận được áp dụng theo quy định tại Điều
47 của Luật này”. Căn cứ vào quy định trên, mặc dù văn bản thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng phải được lập trước khi kết hôn nhưng trong thời kỳ hôn
12


nhân, vợ chồng vẫn có quyền sửa đổi bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản này.
Quy định như vậy dựa trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng
về chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Việc sửa đổi bổ sung thỏa thuận về chế
độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng cũng phải được lập thành văn bản có cơng
chứng, chứng thực giống như văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
bắt đầu. Theo pháp luật về cơng chứng thì việc sửa đổi bổ sung thỏa thuận về chế

độ tài sản của vợ chồng phải được thực hiện tại nơi vợ chồng đã công chứng thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn. Điều 18 Nghị định
126/2014/NĐ-CP hướng dẫn sửa đổi, bổ sung văn bản thỏa thuận quy định “Thỏa
thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực từ
ngày được cơng chứng hoặc chứng thực. Vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho
người thứ ba biết về những thông tin liên quan theo quy định tại Điều 16 của
Nghị định này. 2. Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm việc sửa
đổi, bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Ngồi sửa đổi bổ sung một phần nội
dung chế độ tài sản đã thỏa thuận vợ chồng có thể sửa đổi tồn bộ nội dung hay
chính là lập một thỏa thuận mới trong thời kỳ hơn nhân. Vợ chồng cịn có thể thỏa
thuận áp dụng các quy định của pháp luật về chế độ tài sản pháp định, thỏa thuận
này không làm thay đổi loại chế độ tài sản mà vợ chồng đã lựa chọn là chế độ tài
sản theo thỏa thuận. Sửa đổi bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của thỏa
thuận về chế độ tài sản vợ chồng không làm chấm dứt thỏa thuận chế độ tài sản
mà chỉ làm thay đổi một số nội dung đã thỏa thuận trước đó.
III.
Đánh giá chế độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ chồng.
III.1.
Ưu điểm chế độ tái sản theo thỏa thuận.
Trong hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước ta từ năm 1945 đến
trước khi ban hành Luật HNGĐ năm 2014 đều không quy định chế độ tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận mà chỉ ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định. Do đó, Luật HNGĐ năm 2014 đã bổ sung quy định chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận, có thể coi đây là bước phát triển mới của pháp luật về hơn
nhân và gia đình về quan hệ sở hữu của vợ chồng, phù hợp với thực tiễn phát triển
kinh tế - xã hội nước ta, nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt về tài sản của vợ chồng
và bảo đảm sự tương thích giữa pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam với pháp
luật quốc tế. Chế độ tài sản theo thỏa thuận có những ưu điểm nổi trội sau:
13



Thứ nhất, có thể thấy chế độ tài sản đã được các nhà làm luật dữ liệu tương
đối hợp lí chặt chẽ về hình thức linh hoạt và nội dung, thuận lợi cho việc áp dụng
lại chế độ tài sản này trong thực tiễn. Việt Nam thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa
thuận là xu hướng tất yếu để pháp luật nói chung, pháp luật về HNGĐ nói riêng
phù hợp, tương thích hơn với luật nước ngồi trong bối cảnh hầu hết các nước trên
thế giới đều chấp nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về quan hệ sở hữu tài sản, cho
phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ hai, bảo đảm sự hài hòa và đa dạng trong quyền về sở hữu và giao dịch,
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của gia đình và kinh tế của bản thân; giữ sự ổn
định, phát triển của gia đình, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình được thực hiện và bảo vệ, đặc biệt là quyền của phụ nữ
và trẻ em; kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của gia đình
Việt Nam trong thực hiện quyền tài sản, phù hợp với nguyên tắc cơ bản đã được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự về quyền được tự do thỏa
thuận, tự do định đoạt và tự chịu trách nhiệm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về tinh
thần và vật chất của gia đình cũng như của các thành viên khác trong gia đình.
Thứ ba, chế độ tài sản theo thỏa thuận cho phép vợ chồng tự quyết định quyền
sở hữu trong gia đình, tạo ra khả năng đơi bên có thể tự giác thực hiện các nghĩa
vụ và quyền đã theo thỏa thuận, giúp họ giảm thiểu các rủi ro trong kinh doanh,
do đó tránh được tình trạng gia đình bấp bênh khi cả hai vợ chồng cùng tham gia
các hoạt động kinh doanh có rủi ro cao. Đặc biệt, sự thỏa thuận về chế độ tài sản
giữa vợ chồng góp phần đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Khi vợ chồng thỏa thuận rõ ràng về tài sản giữa vợ chồng thì người thứ ba có thể
đánh giá mức độ rủi do khi tiến hành các giao dịch mua, bán, tặng, cho… với vợ
hoặc chồng bởi việc thỏa thuận rõ ràng về vấn đề tài sản vợ chồng giúp bên thứ ba
xác định được nghĩa vụ chung hay riêng của vợ chồng.
Thứ tư, góp phần giảm chi phí khi ly hơn và giúp Tịa án xác định được tài sản
riêng, tài sản chung nhanh chóng và dễ dàng hơn. Điển hình như vụ ly hơn tốn

nhiều giấy mực giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ (chủ tịch hội đồng quản trị Tập
đoàn Trung Nguyên) và bà Lê Hoàng Diệp Thảo. Do khơng có sự thỏa thuận trước
về chế độ tài sản của hai người nên khi có sự tranh chấp tài sàn ly hôn đã tốn
nhiều thời gian và tiền bạc để giải quyết, phải trải qua một thời gian rất lâu, được
thụ lý từ tháng 11 năm 2015 đến cuối năm 2019 trải qua 2 phiên sơ thẩm và phúc
14


thẩm, vụ ly hơn nghìn tỷ của vợ chồng vua cà phê Trung Nguyên mới kết thúc với
phán quyết ông Vũ và bà Thảo ly hôn. Hay vụ án ly hơn đình đám, tốn kém giữa
ơng Trần Văn Mười - Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Tập đoàn quốc tế Năm sao
và bà Phạm Thị Hương Giang - Phó giám đốc Công ty cổ phần giám định Đại Tây
Dương với khối tài sản trị giá hàng nghìn tỷ đồng, hàng chục người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan, thời gian từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa gần 4 năm.
Nếu các cặp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì để giải quyết
tranh chấp về tài sản sẽ thuận lợi hơn khi li hôn, bởi văn bản thỏa thuận tài sản của
vợ chồng sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ chồng đối với tài sản
chung tài sản riêng đảm bảo được quyền lợi chính đáng của các bên của người thứ
ba khi thực hiện giao dịch với vợ chồng đã làm rõ nguồn gốc tài sản ngay từ đầu,
rút ngắn thời gian Tố tụng tại tòa án giải quyết ly hôn, thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế đặc biệt đối với các gia đình có kinh tế một bên vợ hoặc chồng tạo ra.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận giúp giảm thiểu xung đột và tiết kiệm án phí tranh
tụng. Trong trường hợp ly hơn, nhiều trường hợp tài sản trong thời kỳ hôn nhân
hầu như chỉ có một người tạo dựng nhưng khi ly hơn lại được chia đôi tạo nên sự
bất công bằng đối với người đã bỏ ra nhiều công thức tạo lập nên khối tài sản, đặc
biệt là đối với những gia đình chỉ một bên vợ chồng có khả năng tạo ra nhiều thời
gian. Hay nhiều người vợ ở nhà làm nội trợ nuôi con, phần tài sản riêng đã dùng
nhiều vào cho gia đình nên thiệt thịi khi chia tài sản. Như vậy chế độ tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận không chỉ mang lại sự công bằng đối với người đã bỏ ra
công sức tạo lập khối tài sản chung, mặt khác cũng có thể bảo vệ quyền lợi của

người chỉ thực hiện các công việc trong gia đình trong trường hợp vợ chồng
khơng có nhiều tài sản chung khi ly hôn.
III.2.
Hạn chế của chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Mặc chế độ tài sản theo thỏa thuận mang lại nhiều ưu điểm, tuy nhiên ta vẫn
phải nhận thấy rằng chế độ này vẫn còn một số những tồn tại bất cập sau:
Thứ nhất, hiện nay nhiều người còn e dè với việc lựa chọn chế độ tài sản này
do nó chưa tương đồng, phù hợp với phong tục, tập quán của người Việt, khi dân
ta chủ yếu với nếp sống tình cảm, cho rằng vợ chồng sống với nhau một đời son
sắt, chung thủy, sống bên nhau suốt đời. Việc phân chia tài sản giữa vợ chồng rất
hiếm gặp do họ luôn quan niệm cùng làm, cùng sử dụng, họ ít quan tâm đến vấn
đề tài sản giữa hai bên, nếu có chỉ quan tâm vấn đề môn đăng hộ đối hay không
15


thì việc phân định rạch rịi tài sản trước khi kết hôn dễ làm cho một hoặc hai bên
cảm thấy mặc cảm, tự ti, khơng an tồn, khơng tin tưởng vào nhau dẫn đến ảnh
hưởng đến hạnh phúc của hôn nhân. Do đó, có nên thỏa thuận chế độ tài sản của
vợ chồng trước hơn nhân hay khơng cịn tùy thuộc vào ý chí tự nguyện của vợ
chồng, khơng chịu sự ràng buộc của người khác, vì hạnh phúc của gia đình ngồi
vấn đề tài sản nó cịn được quyết định bởi tình cảm của hai người.
Thứ hai, về hình thức của văn bản thỏa thuận chế độ tài sản. Khoản 2 Điều
117 BLDS 2015 quy định khi giao dịch vi phạm về hình thức, tịa án tun bố vơ
hiệu giao dịch nếu pháp luật có quy định "hình thức của giao dịch là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch". Điều 47 Luật HNGĐ 2014 quy định trong trường hợp hai
bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được
lập trước khi kết hơn bằng hình thức văn bản có cơng chứng chứng thực. Tuy
nhiên quy định này khơng nói rằng được lập thành văn bản có cơng chứng chứng
thực là điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận chế độ tài sản vợ chồng. Khi áp dụng
các quy định hiện hành, tịa án khơng có căn cứ để tun bố thỏa thuận chế độ tài

sản vợ chồng bị vô hiệu. Cần quy định rõ yêu cầu về hình thức đối với chế độ tài
sản theo thỏa thuận là một trong những điều kiện có hiệu lực của chế độ tài sản
theo thỏa thuận, nó đóng vai trị quan trọng trong đời sống vợ chồng và quyền lợi
của bên thứ ba để thực hiện giao dịch với vợ chồng.
Thứ ba, về nội dung cụ thể của chế độ tài sản theo thỏa thuận. Thời điểm lập
văn bản thỏa thuận chế độ tài sản được quy định tại điều 47 Luật HNGĐ, vợ
chồng có quyền lập văn bản thỏa thuận về tài sản trước khi kết hôn. Tuy nhiên,
quy định này chưa phù hợp với thực tiễn bởi việc lập văn bản thỏa thuận chế độ
tài sản của vợ chồng trước hay sau khi kết hôn không ảnh hưởng đến quyền lợi ích
của các bên. Theo Khoản 2 Điều 30 quy định về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình và quy định tại Điểm c Khoản 1
Điều 15 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, thì vợ chồng khơng có tài sản chung, tất cả
tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hơn và trong thời kỳ kết hôn đều thuộc
sở hữu riêng của người có được tài sản đó. Có thể thấy, quy định như vậy chưa
thực sự phù hợp với truyền thống HNGĐ Việt Nam cũng như bảo đảm việc thực
thi áp dụng trong thực tiễn bởi nếu trong cuộc sống gia đình chỉ có tài sản riêng
mà khơng có tài sản chung của vợ chồng thì cuộc sống chung của vợ chồng về
tinh thần, tình cảm vật chất và ni dạy con cái sẽ khó giải quyết. Mặt khác, theo
16


khoản 2 Điều 19 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, vợ chồng phải thực hiện
nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu
của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và lý do chính đáng khác. Quy định như vậy dường như quá đề cao
quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng và không bảo đảm quyền lợi của gia đình.
Bởi vì, trong thời kỳ hơn nhân, vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tiền, tài sản cho
đời sống chung của gia đình, nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con cái tùy theo năng
lực, khả năng kinh tế của mỗi bên.
Thứ tư, về nghĩa vụ vợ chồng phải cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ

chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba. Chế độ tài sản của vợ
chồng luôn ảnh hưởng và liên quan đến quyền lợi của người thứ ba khi ký kết các
giao dịch liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, theo quy định tại
Điều 16 Nghị định 126/2014/NĐ-CP thì khi chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận được áp dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ
cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan, nếu vợ chồng vi
phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền
lợi theo quy định của BLDS 2015. Quy định như vậy chưa đầy đủ và hợp lý bởi
theo quy định này thì mỗi lần ký kết giao dịch liên quan đến chế độ tài sản của vợ
chồng, dù giá trị của tài sản không lớn và nhằm mục đích bảo đảm nhu cầu thiết
yếu của gia đình (chẳng hạn: ăn, mặc, học hành, khám chữa bệnh,…) thì vợ chồng
cũng phải thơng báo thơng tin về chế độ tài sản của vợ chồng cho người thứ ba
biết. Trong thực tế, điều này dễ dẫn đến phiền hà và khó thực hiện được chức năng
điều chỉnh của pháp luật liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.
Thứ năm, việc thành lập văn bản thỏa thuận chế độ tài sản trước khi kết hôn sẽ
tốn thời gian và chi phí thực hiện. Hiện nay pháp luật cũng chưa có quy định về
chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận mà chỉ quy định về căn cứ xác lập chế độ
tài sản theo thỏa thuận và việc sửa đổi, bổ sung văn bản đó.
III.3.
Hồn thiện quy định của pháp luật về chế độ tài sản theo thỏa
thuận giữa vợ chồng.
Thứ nhất, về hình thức của văn bản chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thực chất là một giao dịch dân
sự, liên quan đến vợ, chồng và người thứ ba. Vì vậy, pháp luật về hơn nhân và gia
đình cần bổ sung quy định hình thức thỏa thuận là điều kiện có hiệu lực của thỏa
17


thuận chế độ tài sản của vợ chồng để tăng tính chặt chẽ, tạo thuận lợi trong q
trình áp dụng quy định vào thực tiễn cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của vợ, chồng và người thứ ba.
Thứ hai, về điều kiện có hiệu lực của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận. Luật cần sửa đổi sao cho phù hợp, có thể cho phép vợ chồng thỏa thuận
trước hay sau khi kết hôn và thỏa thuận phải có nội dung hình thức phù hợp quy
định của pháp luật. Nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba trong tiếp cận thông
tin liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng, cùng với quy định bắt buộc về thời
điểm xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận nên xem xét trong giấy
chứng nhận kết hôn bổ sung thêm thông tin: Vợ chồng kết hôn trên cơ sở chế độ
tài sản theo thỏa thuận (nếu có). Đây cũng là cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý nhà
nước bảo vệ tốt hơn quyền lợi của công dân trong các giao dịch dân sự.
Thứ ba, về nội dung của văn bản chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận.
Cần hoàn thiện quy định này theo hướng cụ thể, rõ ràng hơn nhằm bảo đảm sự
thống nhất trong pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và phù
hợp với truyền thống hôn nhân và gia đình Việt Nam, cụ thể: bên cạnh việc đề cao
quyền tự định đoạt tài sản cần quy định hài hòa hơn trong việc bảo vệ quyền lợi
của gia đình, về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong đóng góp tiền, tài sản,
nghĩa vụ chăm sóc con cái cho đời sống của gia đình. Vì vậy, ngồi ngun tắc
chung nhất của nội dung văn bản thỏa thuận cần quy định nội dung này phù hợp
hơn nhằm bảo đảm thuận lợi trong thực tiễn áp dụng.
Thứ tư, về nghĩa vụ của vợ chồng phải cung cấp thông tin về chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba. Luật HNGĐ năm
2014 quy định khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp
cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan. Tuy nhiên trong thực tế, quy
định như vậy dễ gây phiền hà và khó thực hiện được chức năng điều chỉnh của
pháp luật liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Vì vậy, cần
quy định chỉ với những tài sản chung là bất động sản (như nhà ở, quyền sử dụng
đất …) hoặc những tài sản riêng của vợ chồng là nhà ở là nơi ở duy nhất, hay hoa
lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ, chồng là nguồn sống duy nhất của gia
đình thì khi ký kết giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng, vợ chồng mới
phải có nghĩa vụ thơng báo, cung cấp thông tin cho người thứ ba biết về chế độ tài

sản của vợ chồng.
18


KẾT LUẬN.
Lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật về hơn nhân gia đình của nhà nước Việt
Nam đã thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, song song với chế
độ tài sản pháp định chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận đã được thừa nhận ở
rất nhiều nước trên thế giới. Việc thừa nhận chế độ tài sản này là khuynh hướng
tất yếu về pháp luật nói chung, pháp luật về hơn nhân và gia đình của Việt Nam
nói riêng, phù hợp tương thích với pháp luật nước ngồi và đảm quyền tự định
đoạt của công dân về sở hữu tài sản giữa vợ chồng, chủ động trong hoạt động kinh
doanh, hạn chế rủi ro về tài sản và đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ
ba, giúp tòa án giải quyết về phân chia tài sản của vợ chồng khi có u cầu một
cách cơng bằng và nhanh chóng. Để có thể đảm bảo hiệu quả pháp luật về chế độ
tài sản theo thỏa thuận một cách tối ưu nhất, Nhà nước ta cần hoàn thiện quy định
pháp luật, tăng cường biện pháp tuyên truyền giáo dục để mọi người biết quyền
lợi, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời người dân phải tự mình chủ động nắm
bắt quy định pháp luật, tự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách tốt
nhất.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.
2.
3.
4.

5.

6.


Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình. NXB Cơng an nhân dân,2009.
Nguyễn Văn Cừ (2015) Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong
pháp luật hôn nhân và gia đình, Tạp chí Luật học số 4/2015, tr. 3-10.
Quốc hội (2014), Luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam, Hà Nội.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật Hơn nhân và gia
đình năm 2014 ở Việt Nam hiện nay. Luận văn Thạc sỹ Luật Kinh tế Hoàng Thị Ngân.HN.2018.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và thực tiễn áp dụng tại Việt
Nam: luận văn thạc sĩ Luật học /Nguyễn Thị Thúy Hồng; TS. Bùi Thị
Mừng hướng dẫn. Hà Nội 2018.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2014:luận văn thạc sĩ luật học /Nguyễn Thị Thu Thủy ;
TS. Bùi Minh Hồng hướng dẫn. Hà Nội 2015.
19


7.

/>
8. />9. />
20



×