Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

(Luận văn thạc sĩ) áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.78 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THÁI HÙNG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THÁI HÙNG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04.

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

Hà Nội, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được nêu trong Luận văn là trung thực, chưa từng được cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào tác giả Luận văn Phạm Thái Hùng./.
Ninh Thuận, ngày 26 tháng 02 năm 2019
Người cam đoan

Phạm Thái Hùng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI HIẾP DÂM VÀ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM.......................5
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm, phân biệt tội hiếp
dâm với các tội xâm hại tình dục khác.......................................................... 5
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tội hiếp dâm....................19
1.3. Định tội danh đối với tội hiếp dâm.......................................................24
1.4. Áp dụng hình phạt đối với tội hiếp dâm...............................................28
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI HIẾP DÂM TẠI TỈNH NINH THUẬN..............................................31
2.1. Khái quát thực trạng tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.........31
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội hiếp dâm....................................... 32
2.3. Những hạn chế trong định tội danh...................................................... 41
2.4. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội hiếp dâm................................44
2.5. Những hạn chế trong quyết định phạt...................................................49
2.6. Nguyên nhân những hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết
định hình phạt..............................................................................................50
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH
VÀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM


TẠI

TỈNH NINH THUẬN....................................................................................54
3.1. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự,
pháp luật tố tụng hình sự............................................................................. 54
3.2. Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội hiếp dâm................55
3.3. Tăng cường nhân lực; đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp đối với cán bộ, cơng chức, viên chức ngành Tịa án........56


3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết thực tiễn.............58
3.5. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.......................................59
3.6. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện-kỹ thuật.........................59
KẾT LUẬN....................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CBCC

: Cán bộ cơng chức


CTTP

: Cấu thành tội phạm

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TP

: Thẩm phán


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình giải quyết vụ án hình sự về tội hiếp dâm của Tịa án hai
cấp tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2013-2017......................................................................... 44
Bảng 2.2: Hình phạt được Tịa án hai cấp tỉnh Ninh Thuận áp dụng đối với bị
cáo phạm tội hiếp dâm.................................................................................................................. 45


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay, chúng ta đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên mọi lĩnh vực: kinh tế phát
triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao, tình hình an
ninh-chính trị, trật tự an tồn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề của xã hội phát sinh đáng lo
ngại như: tăng dân số, thiếu việc làm, các tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm nói
chung trong đó có tội hiếp dâm nói riêng ngày càng gia tăng, xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm, giá trị đạo đức thiêng liêng, cao quý nhất của con người
được pháp luật bảo vệ.
Khơng ai có quyền xâm phạm đến thân thể, danh dự, nhân phẩm, sức
khỏe hay tra tấn, bạo lực hay dùng nhục hình đối với thân thể người khác,
quyền bất khả xâm phạm của mọi người đã được pháp luật bảo hộ tại (Điều
20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013) về thân
thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Cũng theo tư tưởng Hiến pháp, bảo vệ
thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của con người là nhiệm vụ của toàn
xã hội. Thực tế cho thấy trong khi đa số người luôn ý thức, tôn trọng danh dự,
nhân phẩm của mình và của người khác, thì vẫn khơng ít người vì mục đích
khác nhau mà xem thường, thậm chí chà đạp lên danh dự, nhân phẩm của
người khác, cố ý thực hiện hành vi sai trái của mình nhằm thoả mãn dục vọng.
Vì vậy, trong thời gian qua việc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này
ngày càng được xã hội quan tâm và ngay trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận thì các
cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh cũng đã vào cuộc và đạt được những kết quả
nhất định; Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh phức tạp này, vẫn khơng tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót trong quá trình điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử tội
phạm nói chung và tội hiếp dâm nói riêng. Nguyên nhân của những hạn
1


chế thiếu sót này có cả nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan,

chúng xuất phát từ quy định của pháp luật và từ thực tiễn áp dụng pháp luật
trong xử lý tội phạm. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu các giải pháp nhằm đảm
bảo trong quá trình điều tra, xét xử đối với tội hiếp dâm theo quy định của
pháp luật.
- Với lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật hình sự đối
với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” làm luận văn tốt nghiệp với
mong muốn được góp phần hồn thiện những quy định của pháp luật cũng
như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, đấu tranh phòng, chống làm giảm
loại tội phạm này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Tham khảo, nghiên cứu một số cơng trình về tội hiếp dâm ở nhiều góc
độ khác nhau: Ở cấp độ luận văn thạc sĩ tại Học viện Khoa học Xã hội đã
được cơng bố, có: Nguyễn Minh Nhật (2008): Đấu tranh phòng chống tội hiếp
dâm trẻ em trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; Lê Văn Hùng (2012): Tội
hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh; Trần Thủy Quỳnh Trang (2012): Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Lâm Thị Bé Ba
(2013): Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Trà Vinh; Phạm Thị Ngoan (2013): Đấu tranh phịng, chống tội hiếp dâm trên
địa bàn tỉnh Sóc Trăng; Chung Văn Kết (2013): Tội hiếp dâm theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau; Lê Thị Kiều Diễm (2014): Tội
giao cấu với trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau;
Nguyễn Vi Dũng (2015): Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Cao Xuân Cường
(2016): Áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em
từ thực tiễn Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh ...;
2


- Các luận văn này trực tiếp hoặc gián tiếp phân tích cấu thành tội phạm

của tội hiếp dâm, cơng tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm này ở các địa bàn
khác nhau. Tuy nhiên, dù có khá nhiều các cơng trình nghiên cứu khoa học về
tội hiếp dâm nhưng chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về “Áp dụng
pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận”. Chính vì
vậy, xét từ khía cạnh thực tiễn thì đây là một đề tài mới, lần đầu tiên được
nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của đề tài là làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự khi xét xử tội hiếp dâm; chỉ ra những bất cập, hạn chế,
trong thực tiễn áp dụng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
+ Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội hiếp
dâm.
+ Thứ hai, phát hiện những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận.
+ Thứ ba, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả định tội
danh và quyết định áp dụng hình phạt trong thực tiễn xét xử tội hiếp dâm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề về lý luận và quy định của
pháp luật về tội hiếp dâm; thực tiễn áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố,
xét xử tội phạm này tại tỉnh Ninh Thuận.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu thực tiễn áp dụng
pháp luật về tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn từ năm

3


2013 đến năm 2017 và Điều 141 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) quy định về tội hiếp dâm.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Mác-Lê Nin; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về tội phạm và hình phạt,
các tri thức của khoa học luật hình sự, tội phạm học, tâm lý học và khoa học
điều tra tội phạm. Trong q trình thực hiện đề tài tác giả cịn sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, tổng kết kinh nghiệm…để giải quyết các
vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội hiếp dâm, phân tích tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội hiếp dâm tại tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn năm 2013
đến năm 2017.
- Về thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, học tập đối với sinh viên tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật và có
thể tham khảo để hồn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm có những nội dung:
Phần mở đầu;
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm và áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội hiếp dâm
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm tại
tỉnh Ninh Thuận
Chương 3: Giải pháp đảm bảo hoạt động định tội danh, áp dụng hình
phạt đúng đối với tội hiếp dâm tại tỉnh Ninh Thuận
Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
4


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI HIẾP DÂM VÀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm, phân biệt tội
hiếp dâm với các tội xâm hại tình dục khác
1.1.1. Khái niệm tội hiếp dâm
- Hiếp dâm được hiểu theo Từ điển bách khoa Công an nhân Việt Nam
là hành vi dùng sức mạnh cưỡng bức người khác để thỏa mãn nhu cầu tình
dục của mình. Trong Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp
dâm của Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra khái niệm tội hiếp dâm như sau:
“Hiếp dâm là hành động bắt buộc người phụ nữ phải chịu sự giao cấu trái ý
muốn hoặc khơng có ý muốn của người đó bằng cách dùng bạo lực về thể
chất, hay là uy hiếp về tinh thần, hay là lợi dụng hoặc gây ra tình trạng khơng
thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của người đó” Mặc dù, BLHS Việt Nam năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng chưa quy định cụ thể về khái niệm hiếp
dâm nhưng đã bổ sung bên cạnh hành vi “giao cấu” là hành vi quan hệ tình
dục khác, kế thừa các quan điểm nêu trên có thể khái quát khái niệm hiếp dâm
như sau: Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của họ.
- Về mặt pháp luật, khái niệm của tội hiếp dâm được quy định tại Điều
141 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), như sau: “Người nào dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của
nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác trái với ý muốn của nạn nhân”
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm
- Có thể khẳng định rằng, phụ nữ đóng góp rất lớn cho xã hội trên
nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, chính trị và là người có vài trị quan
5



trọng trong giai đình. Tuy nhiên, cũng là người dễ bị xâm hại, tổn thương nhất
về thể chất lẫn tinh thần. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật ban hành nhằm bảo vệ
phụ nữ, trong đó có BLHS. BLHS năm 1985, Nhà nước ta đã xác định phụ nữ
là một trong những khách thể quan trọng cần quan tâm đặc biệt để bảo vệ
trong quyền tự do về tình dục, nhân phẩm…Vì vậy, mức hình phạt cao nhất
đối với tội hiếp dâm được quy định trong BLHS năm 1985 với khung hình
phạt là tù chung thân hoặc tử hình nhằm răng đe, giáo dục. Theo khoa học
hình sự Việt Nam, tội phạm được hợp thành bởi bốn yếu tố, đó là: khách thể,
mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan (về mặt cấu trúc). Nghiên cứu các yếu
tố này giúp xác định rõ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, đồng thời giúp phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác cũng
như làm sáng tỏ bản chất pháp lý của tội hiếp dâm. Từ đó làm tiền đề cho việc
định tội danh, cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như cho việc áp
dụng hình phạt.
- Khách thể của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, cũng giống như các hoạt động khác của con
người, hoạt động phạm tội cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại
ngoài ý thức, độc lập với ý thức của chủ thể. Những khách thể như: Độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa cần được bảo vệ được quy tại Khoản 1 Điều 8 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Qua đó, cho thấy “quan hệ nhân thân
mà nội dung là quyền tự do tình dục của con người” đây là khách thể của tội
phạm hiếp dâm. Hành vi phạm tội xâm hại đến quan hệ xã hội được bảo vệ là
6



quyền bất khả xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, thậm
chí có thể xâm hại đến tính mạng của con người. Một bộ phận của khách thể
của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ chính là đối
tượng tác động của tội phạm. Dù ở hình thức cụ thể nào, sự gây thiệt hại cho
khách thể cũng luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình
trạng của các đối tượng tác động đến các bộ phận cấu thành của quan hệ xã
hội. Trong tội hiếp dâm thì đối tượng tác động của tội phạm chính là con
người (Điều 141 BLHS năm 2015). Trong nhận thức chung từ thực tiễn thì chỉ
người có giới tính nữ giới mới là đối tượng bị xâm, mặc dù trong các quy định
của Luật hình sự khơng quy định cụ thể về giới tính. Về lý luận cũng như thực
tiễn, trong một số trường hợp đặc biệt, nữ giới vẫn có thể thực hiện hành vi
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nam
giới. Trường hợp nữ giới lợi dụng đối tượng (nam giới) đang ở trong tình
trạng khơng có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn (như chịu tác động ở mức độ
cao của thuốc kích dục) và trong trường hợp nữ giới lợi dụng nam giới để
thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trong
tình trạng khơng có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn (chịu sự tác động của
rượu, bia hoạc thuốc kích dục). Trong trường hợp này, nữ giới cũng có thể trở
thành chủ thể của tội hiếp dâm. Chính vì vậy, từ chỗ Điều 111 BLHS năm
1999, quy định chỉ có nam giới mới có thể là nạn nhân của tội hiếp dâm, đồng
nghĩa với chỉ có nam giới mới là chủ thể của tội phạm hiếp dâm, đến Bộ luật
hình sự năm 2015 (Điều 141) thì khơng chỉ là nam giới mà nữ giới cũng có
thể là chủ thể của tội phạm này. Tuổi của nạn nhân có ý nghĩa quan trọng
trong việc định tội hiếp dâm (Khoản 4 Điều 141 BLHS). Định tội hiếp dâm
trẻ em trong mọi trường hợp nếu thực hiện hành vi giao cấu với trẻ em dưới
13 tuổi hoặc nếu nạn nhân nữ từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi. Chỉ
7



định tội hiếp dâm đối với người phạm tội khi nạn nhân từ đủ 16 tuổi trở lên.
Để phân biệt tội hiếp dâm với tội danh khác cũng như xác định khung hình
phạt và quyết định hình phạt thi ta phải xem xét đến đối tượng tác động là
những dấu hiệu gì được quy định tại Điều 141 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017).
- Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm bao gồm các dấu hiệu sau đây: Hành vi, việc giao cấu hoặc thực hiện
quan hệ tình dục khác, hậu quả và các dấu hiệu khách quan khác
- Hành vi khách quan: Người phạm tội có thể dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực, lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân, dùng thủ đoạn
khác giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn
nhân. Để làm rõ mặt khách quan của tội phạm này ta cần nghiên cứu từng
hành vi cụ thể như sau:
+ Hành vi dùng vũ lực giao cấu trái ý muốn của nạn nhân: Trong tội
hiếp dâm cũng tương tự với hành vi dùng vũ lực ở một số tội phạm khác mà
người phạm tội có dùng vũ lực, nhưng ở tội hiếp dâm, hành vi dùng vũ lực là
nhằm giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác với người bị tấn cơng.
Trường hợp này, là dùng sức mạnh làm nạn nhân không đủ sức chống cự như:
đánh đấm, giữ chân tay, bịp mồm, bóp cổ, ... để thực hiện được việc giao cấu
hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác. Người phạm tội cịn phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội giết người, ngoài tội hiếp dâm trong trường hợp
nếu sau khi người phạm tội đã thỏa mãn dục vọng, người bị hiếp đã chết.
+ Một người sử dụng lời nói hoặc hành động uy hiếp tinh thần của
người khác, làm cho người bị đe dọa sợ hãi như dọa giết, đánh, bắn... nên
không dám chống cự buộc phải để người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện
quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của mình. Trong trường hợp này được
gọi hành vi đe dọa dùng vũ lực giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác
8



trái với ý muốn của nạn nhân. Điều luật không có quy định đe dọa dùng vũ
lực ngay tức khắc hoạc thơng thường, người phạm tội có thể khống chế được
ý chí của người bị tấn cơng bằng lời đe dọa.
+ Hành vi lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân: là
trường hợp nạn nhân rơi vào tình trạng khơng thể tự vệ do những lý do khách
quan để thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái
với ý muốn của nạn nhân. Tình trạng này có thể do chính người phạm tội tạo
ra cho nạn nhân, ví dụ cho nạn nhân uống rượu say hoặc dùng thuốc mê làm
cho nạn nhân rơi vào tình trạng khơng thể tự vệ được hoặc lợi dụng tình trạng
nạn nhân đang lâm bệnh nặng, hôn mê để thực hiện việc giao cấu hoặc thực
hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.
+ Hành vi dùng thủ đoạn khác ngoài những hành vi đã được quy định
trong cấu thành. Ví dụ trường hợp lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nữ giới là
người dân tộc thiểu số, người bệnh tâm thần… để thực hiện hành vi giao cấu
hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Tuy
nhiên, khi xác định hành vi dùng thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn của
nạn nhân cần chú ý một số vấn đề sau: Những thủ đoạn mà người phạm tội
thực hiện hoặc lợi dụng phải là những thủ đoạn nhằm đưa người bị hại lâm
vào tình trạng khơng cịn khả năng làm chủ bản thân để người phạm tội giao
cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ như: nạn
nhân bị mê man bất tỉnh (do bị tật động kinh, bị say thuốc lào, bị gây mê, tiêm
thuốc bị dị ứng...) ngủ mê tưởng nhầm can phạm là chồng nên không kháng
cự hoặc một số trường hợp ngủ mê khác như bị say rượu nặng; bị ốm đau liệt
nhược; bị lên cơn điên dại; ở trong tình trạng cơ đơn yếu đuối ở nơi hẻo lánh
hoặc trong mọi tình trạng không thể chống cự khác...để mặc người phạm tội
thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý
muốn của nạn nhân.
9



Ví dụ: Khoảng 20h ngày 5/10/2013, đối tượng Chamaléa B (27 tuổi, trú
tại xã Phước T, huyện B, tỉnh Ninh Thuận), nhìn thấy chị Katơ A (24 tuổi) ở
cùng xã (Chamaléa B và Katơ A là bạn) đang đi bộ trên đường liên xã nên B
mời A lên xe cho B chở đi, A đồng ý. Trên đường đi, đối tượng B nói chuyện,
rủ A đi ăn tại Phước T. Ban đầu A chỉ định ăn xong rồi về, nhưng sau đó B
tiếp tục mời A đi hát Karaoke, trong q trình hát, B mời A uống bia, sau đó A
bị say và đòi về. Trên đường đưa A về nhà khi đi ngang qua khu vực vắng vẻ
bên đường (rừng) B nổi cơn thú tính giở trị đồi bại đối với A, mặc dù nạn
nhân A muốn kháng cự nhưng vì thể trạng yếu (say) nên đành bất lực. Khi
đang chuẩn bị thực hiện hành vi của mình, may mắn cho A là vào thời điểm
đó, anh C đi ngang qua nghe thấy tiếng kêu cứu nên chạy vào xem thử. Thấy
anh C, B tìm cách bỏ chạy nhưng đã bị anh C bắt giữ và giao cho Công an xã
Phước T, Công an huyện. Ngày 13/10/2013, Đội điều tra về trật tự phịng
chống tệ nạn xã hội, Cơng an huyện B đã khởi tố bị can và bắt tạm giam
Cham ma léa B (27 tuổi) để điều tra làm rõ hành vi về tội hiếp dâm.
- Qua ví dụ trên ta thấy rằng hành vi khách quan của Chamaléa B là
dùng thủ đoạn khác, cụ thể là chuốc cho A say khơng cịn khả năng chống cự
rồi thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân. Để làm rõ hành vi
này, cần tìm hiểu nội dung sau:
+ Thứ nhất, có nhiều tội danh quy định giao cấu là hành vi khách quan
như: Tội hiếp dâm (Điều 141); Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 142), Tội cưỡng
dâm trẻ em (Điều 143); Tội giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác
(Điều 145) BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về nội hàm của
khái niệm giao cấu có thể xác định chung cho những tội này; Bản tổng kết của
Tòa án nhân dân tối cao số 329/HS2 ngày 11/5/1967 đề cập như sau: “Giao
cấu: chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người
phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong vì khi đó danh
10



dự, nhân phẩm của người phụ nữ đã bị chà đạp mà không kể sự xâm nhập của
dương vật là sâu hay cạn, có xuất tinh hay khơng vì khi đó tội hiếp dâm được
coi là hồn thành. Vì vậy, khái niệm “giao cấu” nêu trên khơng cịn phù hợp
thực tiễn. Mặc khác, hành vi tình dục của con người rất đa dạng, khơng chỉ
nhằm mục đích sinh sản mà cịn đem lại khối cảm, nó khơng chỉ diễn ra ở bộ
phận sinh dục mà cịn có thể ở những bộ phận khác trên cơ thể, và như vậy,
khái niệm “giao cấu” sẽ khơng cịn bao hàm hết các hành vi tình dục này. Từ
phân tích nêu trên, khái niệm “giao cấu” cần được mở rộng theo hướng “là
việc đưa bộ phận sinh dục của người này chủ động tác động vào bất cứ bộ
phận nào trên cơ thể người kia, không phân biệt đồng giới hay khác giới”.
Bên cạnh khái niệm “giao cấu” mang tính truyền thống thì các nhà làm luật đã
bổ sung khái niệm “hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác” là hồn
tồn chính xác (Khoản 1 Điều 141 BLHS năm 2015).
+ Thứ hai, yếu tố trái với ý muốn của nạn nhân: hành vi giao cấu hoặc
thực hiện quan hệ tình dục khác chỉ bị coi là phạm tội hiếp dâm khi nó được
thực hiện trái với ý muốn của nạn nhân, khi nạn nhân không chấp nhận sự
giao cấu hoặc hành vi thực hiện quan hệ tình dục khác kể cả khi họ đang trong
tình trạng khơng thể biểu lộ được ý chí. Trên thực tế, biểu hiện của thái độ trái
ý muốn là nạn nhân được thể hiện ra bên ngoài, có thể nhìn thấy được như
chống cự, khóc lóc, van xin,…Tùy theo tình huống cụ thể mà diễn biến tâm lý
của nạn nhân lúc thì trái ý muốn, lúc thì không tái ý muốn. Cho nên cơ quan
tiến hành tố tụng cần phải thận trọng trong công tác đánh giá, tránh tình trạng
làm oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
- Hậu quả của hành vi hiếp dâm gây ra không chỉ thiệt hại về thể chất,
ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội đồng thời còn gây hạn đến quyền
nhân thân của nạn nhân được pháp luật hình sự bảo vệ.

11



- Dùng thủ đoạn, thời gian, phương tiện, công cụ, hoàn cảnh phạm
tội,... là dấu hiệu khách quan tiếp theo. Tuy những dấu hiệu này không phải là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định những dấu
hiệu này cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án, vì góp phần xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi hiếp dâm, đồng thời cũng thơng qua đó xác định những
ngun nhân và điều kiện phạm tội để từ đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho
cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm này.
- Theo quy định của luật hình sự Việt Nam thì người có năng lực trách
nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể
được gọi là chủ thể của tội phạm. Chỉ có thể là con người cụ thể đang sống,
bởi chỉ khi đó, họ mới có thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới là
chủ thể của tội hiếp dâm. Đương nhiên, một người cụ thể đang sống, khơng kể
nam hay nữ, người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt đến một độ tuổi theo
luật định cũng không phải là chủ thể của tội hiếp dâm nếu họ không thực hiện
hành vi được mô tả trong Điều 141 BLHS năm 2015.
- BLHS năm 2015, quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên theo quy định
của BLHS năm 2015 thì phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng
dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản khi người đó từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
theo quy định BLHS năm 2015 (Điều 12).
- BLHS năm 2015 quy định về một số tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng tại Điều 143, 150, 151, 170, 171, 173, 178, 248,
249, 250, 251, 252, 265, 266, 285, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và Điều 304,
12



cụ thể như sau: Tội cưỡng dâm; Tội mua bán người; Tội mua bán người dưới
16 tuổi; Tội cưỡng đoạt tài sản; Tội cướp giật tài sản; Tội trộm cắp tài sản; Tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Tội sản xuất trái phép chất ma túy;
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Tội vận chuyển trái phép chất ma túy; Tội
mua bán trái phép chất ma túy; Tội chiếm đoạt chất ma túy; Tội tổ chức đua
xe trái phép; Tội đua xe trái phép; Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng
cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật; Tội
phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng
viễn thơng, phương tiện điện tử; Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của
mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử; Tội xâm nhập trái phép
vào mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc phương tiện điện tử của người
khác; Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; Tội khủng bố; Tội phá hủy cơng trình, cơ sở,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia và Tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự.
Như vậy, tại Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều 141 BLHS quy định
người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm
hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm khi nguời từ đủ 16
tuổi trở lên. Những dấu hiệu pháp lý bắt buộc chính là năng lực trách nhiệm
hình sự và độ tuổi của chủ thể của tội hiếp dâm. Thực tế cho thấy, người hiểu
rõ hành vi của mình là đúng hay sai, chỉ những người có năng lực trách nhiệm
hình sự đầy đủ khi đó họ mới điều khiển được, tự chủ được hành vi của mình.
Cịn những người mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình thì khơng thể là chủ thể của tội phạm hiếp dâm. Tuy nhiên, người
trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình do dùng chất kích thích, bia, rượu mà phạm tội hiếp dâm thì vẫn
13



phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 13 BLHS). Điều này có nghĩa là những
người này có thể khơng tự chủ được hành vi của mình, song do dùng chất
kích thích trước đó nên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Tóm lại, chủ thể
của tội hiếp dâm là bất kì ai đủ năng lực trách nhiệm hình sự (bao gồm cả
những người quy định tại Điều 13) và là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Hoạt động của con người là hoạt động có
ý thức, do vậy có sự thống nhất giữa ý thức bên trong và biểu hiện hành động
bên ngoài. Hai mặt này luôn luôn thống nhất với nhau. Ta không thể thấy
được nếu như nó khơng thể hiện ra bên ngồi bằng hành vi nguy hiểm cho xã
hội, bằng hậu quả tác hại, bằng thời gian, địa điểm, phương pháp, phương
tiện, công cụ thực hiện tội phạm. Nếu những biểu hiện bên ngoài của tội phạm
được gọi là mặt khách quan thì các hoạt động tâm lý bên trong của tội phạm
bao lỗi, mục đích và động cơ phạm tội gọi là mặt chủ quan của tội phạm.
- Thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra được gọi là Lỗi. Lỗi được biểu hiện
dưới hình thức là lỗi vơ ý hoặc biểu hiện dưới hình thức là lỗi cố ý. Khi thực
hiện một hành vi mà người đó nhận thức và điều khiển được hành vi của mình
thì hành vi đó được coi là lỗi, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp
của người phạm tội.
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra gọi là
lỗi cố ý trực tiếp (Khoản 1 Điều 10 BLHS năm 2015);
+ Người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể
xảy ra, tuy khơng mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
gọi là lỗi cố ý gián tiếp (Khoản 2 Điều 10 BLHS năm 2015).
14



- Mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm, là kết
quả trong nhận thức mà người phạm tội muốn đạt được mục đích giao cấu
hoặc thực hiện hành vi tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.
- Động cơ phạm tội được hiểu là động lực thúc đẩy người phạm tội
thực hiện hành vi phạm tội cố ý nhằm thỏa mãn nhục dục, mà còn chứng tỏ
quyền lực, quyền điều khiển người khác…
1.1.3. Phân biệt tội hiếp dâm với các tội xâm phạm tình dục khác
Tội phạm xâm hại tình dục được chia thành các tội danh khác nhau có
thể liên hệ bảng so sánh đưới đây để thấy rõ các dấu hiệu cấu thành tội phạm
hiếp dâm với một số tội phạm khác.
* Phân biệt tội hiếp dâm với tội cưỡng dâm
- Giống nhau:
+ Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp.
+ Độ tuổi người phạm tội, người bị hại.
- Khác nhau:
Trong các tội danh được áp dụng cho loại tội phạm này, tội hiếp dâm và
cưỡng dâm rất khó để phân biệt. Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141
BLHS, tội cưỡng dâm được quy định tại Điều 143 BLHS.
+ Về khái niệm tội hiếp dâm: Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ
đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý
muốn của nạn nhân (Điều 141). Đối với khái nhiệm về tội cưỡng dâm là
Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác gọi là tội cưỡng dâm (Điều 143).
+ Hành vi của tội hiếp dâm là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm
mục đích áp đảo ý trí làm cho nạn nhân khơng thể chống cự hay lợi dụng tình
15



trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, dùng thủ đoạn khác khiến người lệ
thuộc vào mình như sử dụng lệ thuộc vật chất (ni dưỡng, chăm sóc,...) về
quan hệ công tác (cấp trên cấp dưới, nhân viên với lãnh đạo,...), về quan hệ xã
hội (giáo viên với học sinh, bác sĩ với bệnh nhân,...). Người trong tình trạng
quẫn bách (đang gặp khó khăn về tài chính, sức khỏe, bệnh tật,...) để ép buộc
sự đồng ý miễn cưỡng của nạn nhân, từ đó ép buộc nạn nhân đồng ý thực hiện
hành vi giao cấu hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn
cưỡng giao cấu giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác để giao
cấu trái ý muốn của nạn nhân. Đối với hành vi của tội cưỡng dâm là không
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm mục đích áp đảo ý trí làm cho nạn
nhân khơng thể chống cự mà dùng mọi thủ đoạn khiến nạn nhân miễn cưỡng
giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý
muốn của nạn nhân.
+ Mặt chủ quan thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp. Mức hình phạt đối với tội hiếp dâm thấp nhất là hai năm tù, mức
hình phạt tù chung thân đối với người phạm tội thuộc một trong các trường
hợp như: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên hoặc làm nạn nhân
chết hoặc tự sát (Điều 141) và mức hình phạt tử hình đối với người phạm tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi thuộc một trong các trường hợp như: phạm tội có
tổ chức; nhiều người hiếp một người; phạm tội đối với người dưới 10 tuổi;
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân
46% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội hoặc làm nạn nhân
chết hoặc tự sát (Điều 142). Mức hình phạt thấp nhất đối với tội cưỡng dâm là
một năm tù. Mức hình phạt cao nhất là tù chung thân đối với người phạm tội
16



thuộc một trong các trường hợp như: Nhiều người cưỡng dâm một người; gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở
lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội hoặc làm nạn nhân chết hoặc tự
sát.
+ Như vậy, so với tội cưỡng dâm, hành vi khách quan của tội hiếp dâm
nguy hiểm hơn so với hành vi khách quan của tội cưỡng dâm. Hành vi hiếp
dâm ngồi việc xâm phạm về tình dục cịn xâm phạm cả đến tính mạng, sức
khỏe của nạn nhân. Tuy cả hai đều là lỗi cố ý trực tiếp nhưng hành vi của tội
hiếp dâm mãnh liệt hơn so với tội cưỡng dâm. Do đó, mức hình phạt khởi
điểm của khung hình phạt thấp nhất của tội hiếp dâm là hai năm tù, cao hơn
so với tội cưỡng dâm là một năm tù. Mức hình phạt cao nhất của tội hiếp dâm
là tử hình cịn của tội cưỡng dâm là tù chung thân. Điều đó thể hiện chính
sách pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá chính xác về tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội hiếp dâm, từ đó nghiêm khắc trừng
trị đối với loại tội phạm này.
* Phân biệt tội hiếp dâm với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
- Giống nhau:
+ Đều xâm phạm đến quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của
của trẻ em.
+ Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp
- Khác nhau:
Trong các tội danh được áp dụng cho loại tội phạm này, tội hiếp dâm và
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi rất khó để phân biệt. Tội hiếp dâm được quy
định tại Điều 141 BLHS, tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định
tại Điều 146 BLHS.

17



+ Về khái niệm tội dâm ô đối với trẻ em được hiểu là hành vi của người
đã thành niên dùng mọi thủ đoạn có tính chất dâm dục đối với người dưới 16
tuổi nhằm thoả mãn dục vọng của mình nhưng khơng có ý định giao cấu với
nạn nhân (Điều 146).
+ Khách thể của tội dâm ô người dưới 16 tuổi là các mối quan hệ nhân
thân, quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Khơng ai có
quyền xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người phụ nữ,
danh dự, nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về tình dục; sức khỏe của
người phụ nữ, trật tự an toàn xã hội; sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em.
+ Chủ thể của tội dâm ơ người dưới 16 tuổi có thể là nam hoặc nữ,
nhưng chủ yếu là nam và nhất thiết phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, và có
năng lực trách nhiệm hình sự cịn đối với chủ thể của tội hiếp dâm là bất kỳ
người nào có năng lực trách nhiệm hình sự (có thể là nam nhưng cũng có thể
là nữ). Thơng thường, người phạm tội là nam, tuy nhiên phụ nữ cũng có thể là
đồng phạm hiếp dâm với vai trò tổ chức, giúp sức hoặc xúi giục.
+ Mặt khách quan của tội dâm ơ người dưới 16 tuổi là có hành vi kích
dục đối với trẻ em như sờ, bóp, hoặc dùng các bộ phận nhạy cảm về tình dục
(như dương vật) cọ sát vào cơ thể hoặc bộ phận sinh dục của trẻ em; Có hành
vi buộc trẻ em sờ, bóp, cọ xát…vào những bộ phận kích thích tình dục hoặc
bộ phận sinh dục của người phạm tội hoặc của người khác.
+ Mặt chủ quan thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp. Mức hình phạt thấp nhất đối với tội dâm ơ người dưới 16 tuổi là sáu
tháng tù. Mức hình phạt cao nhất là mười hai năm tù đối với người phạm tội
thuộc một trong các trường hợp như: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của
nạn nhân 46% trở lên hoặc làm nạn nhân tự sát.

18



×