Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn quận 7, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.56 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Tội phạm học và phịng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH XUÂN NAM

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC............................................................................................... 8
1.1.Khái niệm, đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác......................................................................... 8
1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác........................................................ 17
Chương 2. NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH................................................... 28
GIAI ĐOẠN 2014 – 2018...................................................................................... 28
2.1. Khái quát tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh...................................... 28
2.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh................32
Chương 3. DỰ BÁO NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VÀ MỘT SỐ GIẢI

PHÁP PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH................................................... 49
3.1. Dự báo về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian tới 49
3.2. Một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn.................................... 53
KẾT LUẬN............................................................................................................ 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐT

: Cơ quan điều tra

BLHS

: Bộ luật Hình sự

PLHS

: Pháp luật hình sự

TAND

: Tịa án nhân dân

TNHS


: Trách nhiệm hình sự

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 - Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2014 – 2018...........................................................28
Bảng 2.2- Cơ cấu tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn 2014 – 2018.....................................................................29
Bảng 2.3- Cơ cấu về chế tài áp dụng đối với người phạm tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014 - 2018...............31
Bảng 2.4- Diễn biến của tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2014 - 2018...............................................31
Bảng 2.5- Cơ cấu theo giới tính người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏecủa người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố

Hồ Chí Minh giai đoạn 2014- 2018................................................33
Bảng 2.6- Cơ cấu theo độ tuổi người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏecủa người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2014- 2018................................................34
Bảng 2.7- Cơ cấu theo trình độ học vấn người phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏecủa người khác trên địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014- 2018..............................35
Bảng 2.8- Cơ cấu theo nghề nghiệp người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏecủa người khác trên địa bàn Quận 7, Thành

phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014- 2018.........................................36
Bảng 2.9- Cơ cấu theo tiêu chí tái phạm của người phạm tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏecủa người khác trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014- 2018..............................37


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ công bằng và văn minh là mục
tiêu của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đại hội Đảng toàn
quốc lần VI, với chủ trương thực hiện đường lối đổi mới và phát triển theo
nền kinh tế thị trường, đến nay đã đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực
về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ... Tuy nhiên song song với những thành
tựu đạt được thì mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng tác động không nhỏ
tới đời sống xã hội trên tất cả các mặt. Tình hình tội phạm nói chung, mà đặc
biệt tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác
hiện nay đang có chiều hướng gia tăng đã tác động xấu đến sự phát triển của
nền kinh tế, gây tâm lý bất an, hoang mang, lo lắng trong nhân dân, ảnh
hưởng không nhỏ đến phát triển xã hội. Trong những năm qua, các cơ quan
bảo vệ pháp luật đã tích cực đấu tranh ngăn chặn các hành vi phạm tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và
các hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác
nói riêng, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Quận 7 được thành lập theo nội dung Nghị quyết số 03-CP ngày

06/01/1977 của Chính phủ Việt Nam về thành lập quận phường tại TP.HCM.
Đến tháng 4 năm 1977, Quận 7 chính thức được thành lập trên cơ sở tồn bộ
diện tích tự nhiên và dân số 337ha của các xã Tân Quy Đông, Tân Quy Tây,
Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Phú Mỹ và 6.636 nhân khẩu của thị trấn
Nhà Bè, huyện Nhà Bè. Quận 7 có vị trí chiến lược quan trọng, là trung tâm
kết nối các khu vực giao thương phía Nam Thành phố. Với những thuận lợi
về địa lý đó, Quận 7 có điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, cụ thể
khu chế xuất Tân Thuận trên địa bàn quận là một trong những khu chế xuất

1


lớn và hiệu quả nhất của thành phố. Các khu đô thị mới như khu đô thị Phú
Mỹ Hưng, khu đô thị Cityland Riverside, khu đô thị Nam Phú Villas, khu đô
thị Him Lam - Kênh Tẻ là các khu dân cư hiện đại bậc nhất của cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, xu hướng chuyển dịch lao động
đến các khu công nghiệp trên địa bàn Quận 7 dẫn đến tình hình an ninh trật tự
diễn biến phức tạp. Mặc dù CQĐT, VKSND và TAND đã đạt được nhiều
thành tựu trong công tác điều tra, truy tố, xét xử nhưng tình hình tội phạm về
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con người vẫn có chiều hướng gia tăng, đặc
biệt là tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ người khác.
Mặt khác, các đối tượng thực hiện loại tội phạm này trên địa bàn Quận 7 đến
từ những địa phương, vùng miền khác nhau.
Tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là loại tội phạm nghiêm trọng xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của
con người một cách trái pháp luật, hậu quả của nó khơng chỉ gây ra những
thiệt hại cho gia đình, người thân của người bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu
đến trật tự an toàn xã hội, gây sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Trong
những năm qua, tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn Quận 7 vẫn còn
phức tạp. Đặc biệt là tội phạm về trật tự xã hội, trong đó vấn đề cần quan tâm

là tình trạng thanh niên tụ tập gây mâu thuẫn để đánh nhau, các mâu thuẫn
trong tranh chấp đất đai, xung đột gia đình ... dẫn đến việc cố ý xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe của người khác gây hậu quả rất lớn, tỉ lệ thương tích
gây ra cho người bị hại cũng rất cao, có những trường hợp dẫn đến chết
người. Phần lớn những người phạm tội thường liên kết thành các băng nhóm
hoặc lơi kéo thêm người khác vào cùng gây mâu thuẫn để tạo cớ đánh nhau
hay trẻ thù cá nhân. Đối tượng thường sử dụng các loại hung khí nguy hiểm
(dao, mã tấu,...) gây tâm lý hoang mang, lo lắng lan rộng trong nhân dân. Việc
có cơng trình nghiên cứu cụ thể nào đi sâu làm rõ các đặc điểm nhân

2


thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh là việc làm hết sức
cần thiết.
Chính vì thế, để phịng ngừa các tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ người khác hiệu quả hơn, đề tài :“Nhân thân người
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh” đã được tác giả lựa
chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu về tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác, tác giả thấy có những cơng trình nghiên cứu sau:

Bài viết: “Nhân thân người phạm tội; một số vấn đề lý luận cơ bản” của
tác giả GS.TS. Lê Cảm, Tạp chí Tịa án, số 10/2001, tr. 7 và số 11/2001, tr.5;
Luận án Tiễn sĩ Luật học: “Nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự
Việt Nam ” của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Trường ĐH Luật Hà Nội năm 2005;
Bài viết: “Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 11/2006, tr.32 - 37;
Bài viết: “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến
nhân thân người phạm tội ” của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Tịa án, số
13/2009, tr.23 - 27 và số 14, tr. 19-28;
Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội ” của tác giả
Nguyễn Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 01/2013, tr.52 - 57;
Trong các cơng trình trên, các tác giả đã đi sâu vào việc làm rõ lý luận về

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn là hướng tới sự hồn thiện
các giải pháp phịng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ người khác trên địa bàn nghiên cứu. Cụ thể hơn, mục đích nghiên
cứu của luận văn là nghiên cứu có hệ thống những vấn đề lý luận liên quan
đến nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ
nghiên cứu riêng biệt của Tội phạm học.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận
văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Một là, tìm, thu thập và nghiên cứu các tài liệu về tội phạm học, về pháp
luật hình sự và những tài liệu có liên quan đến đề tài luận văn làm cơ sở cho
việc nhận thức thống nhất, rõ ràng phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phù hợp; hệ thống hóa lý luận về
nhân thân người phạm tội làm nền tảng lý luận cho việc nhận thức, phân tích
nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
người khác trên địa bàn nghiên cứu.
Hai là, tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê

thường xuyên của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là số liệu thống kê
tội phạm hình sự cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người
khác đã bị đưa ra xét xử sơ thẩm tại TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Phân tích làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác trên địa bàn Quận 7 trong giai đoạn
2014 - 2018.
Tìm, thu thập các bản án hình sự sơ thẩm đã xét xử tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác của TAND Quận 7

4


trong giai đoạn 2014 - 2018 và xử lý, phân tích, so sánh theo các tiêu chí Tội
phạm học cần thiết từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Ba là, khái quát hóa những vấn đề lý luận chung về nhân thân người
phạm tội. Từ việc khái quát này, sẽ áp dụng lý luận đó vào việc làm rõ các đặc
điểm nhân thân của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh;
Kiến nghị hồn thiện giải pháp phịng ngừa tội phạm cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác trên địa bàn Quận 7, Thành
phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài thể hiện ở việc
làm rõ mối quan hệ phụ thuộc giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác với các hiện
tượng, quá trình kinh tế - xã hội khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí
Minh
- Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên
cứu nhân thân người phạm tội (những đặc điểm sinh học, đặc điểm xã hội học
điển hình của người phạm tội) cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khoẻ người khác dưới góc độ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài sử dụng khoảng thời gian nghiên cứu là
05 năm , từ năm 2014 đến năm 2018.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên nguyên lý của Chủ nghĩa

5

Mác Lê


Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cùng các văn kiện của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và phịng,
chống các tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người
khác nói riêng
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp kế thừa, phương pháp hệ thống, thống kê, quy nạp, phân
tích, so sánh, logic, dự báo
Các phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, so sánh, bình luận…
Các phương pháp nghiên cứu phân tích, so sánh, bình luận, quy nạp,
thống kê, diễn dịch, suy luận logic,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đi sâu phân tích yếu tố nhân thân người
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Dựa trên cơ sở lý luận của tình hình tội phạm, luận văn đưa ra những dự báo
và luận giải từ những căn cứ khoa học để từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị có ý
nghĩa lý luận trong cơng tác phịng ngừa tình hình tội phạm cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác. Kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ góp phần bổ sung, hồn thiện lý luận đối với nhân thân người phạm tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác, nhân thân
người phạm tội cũng như Tội phạm học nói chung và lý luận phịng ngừa tội
phạm nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là căn cứ chính xác nhất, quan trọng
nhất giúp các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn Quận 7 nghiên
cứu và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa

6


tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác trên
địa bàn nghiên cứu và Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
Có thể dung kết quả nghiên cứu của luận văn phục vụ cho công tác giảng dạy
trong Nhà trường đào tạo về Luật hoặc cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo. Cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.
Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác và những yếu tố tác động đến quá
trình hình thành nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ người khác trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Hồn thiện các giải pháp phịng ngừa tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác từ đặc điểm nhân thân
người phạm tội.


7


Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC

KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1.Khái niệm, đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Trong Tội phạm học, nhân thân người phạm tội được hiểu là nhân thân
người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật
hình sự cấm đốn và trừng phạt [25, tr.155]. Nhân thân con người là tổng hợp
các đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người khi tham gia vào các
mối quan hệ xã hội.
Khi nói đến các đặc điểm, dấu hiệu cá nhân thuộc về người phạm tội, mà
dấu hiệu đặc trưng nhất để phân biệt với nhân thân con người nói chung thể
hiện ở hành vi mà họ tham gia vào các quan hệ xã hội (tốt, xấu, thiện, ác,
hành vi nguy hiểm hay không nguy hiểm cho xã hội …) tức là nói đến nhân
than người phạm tội. Nhân thân người phạm tội có thể được hiện thơng qua
các yếu tố về bẩm sinh, di truyền hoặjfnbc các đặc điểm về điều kiện, hồn
cảnh sống, mơi trường sống cụ thể tạo ra. Trong quá trình trưởng thành của
con người, họ gặp phải những điều kiện khơng thuận lợi thì dễ có khả năng
trở thành người phạm tội, khi mà họ hình thành nên những ý thức xấu, bắt
nguồn từ chính cuộc sống khơng tốt, từ đó hình thành các đặc điểm được coi
là các đặc điểm nhân thân xấu. Dưới tác động của các điều kiện xã hội thì ý
thức được hình thành. Nhưng khi hình thành thì ý thức có tác động rất tích

cực đến các hoạt động của con người, quyết định việc lựa chọn cách xử sự

8


của con người trong hồn cảnh cụ thể. Chính vì vậy mà trong cùng một điều
kiện, hoàn cảnh giống nhau nhưng con người lại có những hành động khác
nhau, thậm chí hồn tồn trái ngược nhau, nếu con người có các đặc điểm
nhân thân xấu mà gặp những tình huống khách quan thuận lợi tác động sẽ làm
phát sinh hành vi phạm tội.
Khái niệm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ người khác dưới góc độ tội phạm học cần phải được hiểu
một cách “Cơng cụ hóa”, tức là có thể nghiên cứu được trên thực tế như sau:
Thứ nhất, nhân thân của một người nào đó là hình ảnh có thể nhận thức
được thông qua tổng thể các đặc điểm về mặt tự nhiên, xã hội và hành vi xã
hội của chủ thể đã thực hiện hành vi đó ở một địa bàn và thời gian nhất định;
Thứ hai, nhân thân người phạm tội là hình ảnh có thể nhận thức được
thông qua tổng thể các đặc điểm về tự nhiên, xã hội và hành vi phạm tội của
chủ thể đã thực hiện hành vi đó trên một địa bàn và thời gian nhất định, tức là
những đặc điểm chứa đựng những thông tin về nguyên nhân và điều kiện của
sự phạm tội;
Thứ ba, nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác là hình ảnh có thể nhận thức được thông qua
tổng thể các đặc điểm về tự nhiên, xã hội và hành vi phạm tội của chủ thể đã
thực hiện hành vi đó, tức là những đặc điểm chứa đựng những thông tin về
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm này.
Như vậy, vấn đề biện chứng và hàm chứa giá trị khả thi của khái niệm
nhân thân nói chung và nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng chính là mối quan hệ giữa
hình ảnh và đặc điểm. Hình ảnh càng rõ khi những đặc điểm càng được mô tả

đầy đủ và chuyên biệt theo nhân thân cần nghiên cứu.

9


1.1.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.2.1. Các đặc điểm tự nhiên
Khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội chúng ta phải xem xét tới
những đặc điểm thuộc về người phạm tội. Những đặc điểm này phần lớn phản
ánh bản chất của người phạm tội. Sự hình thành và phát triển của nhân thân
người phạm tội không phải là những biểu hiện thuần túy, giản đơn bên ngoài
Trong lý luận tội phạm học, các đặc điểm nhân thân người phạm tội được chia
thành bốn nhóm: Nhóm đặc điểm sinh học, nhóm đặc điểm tâm lý và nhóm
đặc điểm xã hội, nhóm đặc điểm pháp lý hình sự [25, tr.103]. Sau đây, chúng
ta sẽ làm rõ các nhóm đặc điểm nhân thân người phạm tội.
1.1.2.2.Nhóm đặc điểm sinh học
Nhóm đặc điểm sinh học bao gồm giới tính, tuổi và một số đặc điểm thể
chất khác. Với các dấu hiệu này không thể khám phá những cơ chế của hành
vi phạm tội, không phân biệt người phạm tội với những người không phạm
tội. Các dấu hiệu này chỉ thể hiện mức trội lên về thống kê của loại người nhất
định trong những người phạm tội.
Nghiên cứu sự tác động qua lại giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
trong con người là để thấy được những hạn chế trong các quan niệm cực đoan
về cái sinh học, cái xã hội trong con người của một số trường phái triết học.
Thực tế cho thấy rằng, những quy luật sinh học chi phối mặt sinh học, cịn q
trình con người gia nhập xã hội sẽ quyết định mặt xã hội trong con người.
Điều này thể hiện rõ nhất ở những đứa trẻ sinh ra từ cùng một trứng. Những
đứa trẻ này giống nhau về mặt di truyền. Điều đó có nghĩa là, trong q trình
phát triển, chúng có thể mắc một số bệnh giống nhau, như bệnh về mắt hay

nội tiết, tức là ở đây, mặt sinh học đóng vai trị khơng nhỏ. Điều này có nghĩa

10


là, con người vừa chịu sự tác động của quy luật sinh học, vừa chịu sự tác động
của xã hội (nhưng cũng cần phải thấy được rằng, sự tác động của yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội không phải là ngang nhau, như nhau trong mỗi cuộc đời
con người). Dĩ nhiên, cũng cần phải thấy rằng với những mục đích nghiên
cứu khác nhau, có thể các nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới mặt sinh học hoặc
mặt xã hội của con người (và chỉ nhấn mạnh, chứ không phải tuyệt đối hoá
như chủ nghĩa tự nhiên, thuyết sinh học xã hội hay trường phái xã hội đã
làm). Việc tuyệt đối hố vai trị của yếu tố sinh học, di truyền trong con người
sẽ dẫn đến tình trạng, các tệ nạn xã hội được giải thích bằng những nguyên
nhân tự nhiên và do đó người ta cho rằng, khơng thể khắc phục được những tệ
nạn xã hội. Điều đó cịn đưa đến một quan niệm về "giống thượng lưu”, về sự
phân biệt chủng tộc. Quan điểm này cho rằng, lịch sử loài người được tạo ra
bởi một số người tiêu biểu, được chọn lọc và do đó dù muốn hay khơng, con
người phải chủ động kiểm sốt việc tái sản xuất ra giống người, thực hiện sự
"tuyển chọn" vì "lợi ích" loài người. Ngược lại, việc quá đề cao yếu tố xã hội
trong con người lại đưa đến một quan niệm khác -. quan niệm cho rằng, mọi
tệ nạn xã hội đều bắt nguồn từ khuyết điểm chính trị.
1.1.2.3.Nhóm đặc điểm tâm lý
Gắn với mỗi loại hành vi phạm tội có thể có nhóm đặc điểm tâm lí nhất
định. Ví dụ: Đối với người phạm tội có tính vụ lợi có thể nêu ra ở đây các đặc
điêm như thái độ lao động lười nhác- nhu cầu vật chất không chính đáng; tu
tưởng ích kỉ làm ít hưởng nhiều; tư tưởng làm giàu khơng chính đáng, thích
tích lũy tiền của và báu vật, dùng tiền để đáp ứng nhu cầu khơng chính đang
(ma túy, mại dâm, cờ bạc)...
Ở đây, cũng cần đề cập ý thức pháp luật của người phạm tội. Thực tế cho

thấy những ai có ý thức pháp luật tốt thi có thói quen xử sự tuân theo pháp

11


luật. Trái lại, ở những người phạm tội thường có ý thức pháp luật kém, họ
hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc có thái độ tiêu cực đối với các chuẩn
mực pháp luật, thở ơ với sự trừng phạt, khơng sợ bị trùng phạt vì cho rằng
hành vi phạm tội khó bị phát hiện hoặc có sự bao che v.v.. Kết quả nghiên cứu
còn cho thấy một bộ phận người phạm tội khi bị kết án có tâm lí phủ nhận lỗi
của mình và tìm cớ cho rằng phạm tội là bắt buộc.
Trình độ học vấn và sự phát triển của trí tuệ có ảnh hưởng đến nhu cầu
và lợi ích, đến cách sử dụng thời gian và cách xử sự của con người nói chung
và hành vi phạm tội nói riêng. Nghiên cứu dấu hiệu này cho thấy trình độ học
vấn của người phạm tội nhìn chung thấp hơn so với những người không phạm
tội ở cùng độ tuổi. Tuy nhiên, những người phạm tội ở các loại tội phạm khác
nhau thì có trình độ học vấn cũng khác nhau. Chẳng hạn những người phạm
tội tham nhũng có trình độ học vấn cao hơn những người phạm tội khác.
1.1.2.4.Các đặc điểm xã hội
Nhân thân người phạm tội xét dưới góc độ đặc điểm xã hội thì gồm các
yếu tố như:
Hồn cảnh gia đình tác động rất lớn đến sự hình thành các đặc điểm nhân
thân của người phạm tội. Khiếm khuyết của gia đình như cha mẹ ly dị, tình
trạng độc thân, bạo lực gia đình, thành phần giai cấp, hồn cảnh kinh tế khó
khăn… trong mối quan hệ với các yếu tố khác tác động đến việc hình thành
các đặc điểm nhân thân xấu của con người và trong những điều kiện, tình
huống thuận lợi sẽ dễ dàng phát sinh hành vi phạm tội. Nghiên cứu các khiếm
khuyết trong gia đình vì thế có ý nghĩa rất quan trọng việc xác định các
nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm
tội.Tội phạm học nghiên cứu trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác ở bốn cấp

12


bậc: không biết chữ và tiểu học; trung học cơ sở, trung học phổ thông và cao
đẳng, đại học.
Thuộc về nhóm đặc điểm xã hội của người phạm tội có thể kể đến các
đặc điểm về việc làm, nghề nghiệp, thành phần xã hội, về hoàn cảnh gia đinh,
hoàn cảnh kinh tế., và các đặc điểm về môi trường, quá trình được giáo dục,
đào tạo...
Nghề nghiệp và thành phần xã hội của người phạm tội (cơng nhân, nơng
dân, trí thức, học sinh, hưu trí...) được thống kê cho thấy những người thực
hiện tội phạm không cỏ việc làm chiêm tỉ lệ khá cao, đặc biệt ở trường hợp tái
phạm. Đặc điểm này có liên quan chặt chẽ với đặc điểm về trình độ văn hố
thấp và đặc điểm có những sờ thích khơng đúng đắn. Đổi với những trường
hợp có nghề nghiệp thì phần lớn là người lao động phổ thông, không qua đào
tạo nghề như làm nông nghiệp, lao động tự do, buôn bán nhỏ.
Nghiên cứu đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng vì cho phép kết luận tội
phạm nào thường xảy ra ở lĩnh vực nào của đời sống xã hội và trong lĩnh vực
sản xuất, ngành nào thuộc nền kinh tế quốc dân.
Hồn cảnh gia đình và sự thay đổi của nó có tác động lên sự hình thành
nhân cách của con người và ảnh hưởng đến khuynh hưởng và sự kiên định
thực hiện tội phạm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy những người có gia đình phạm tội ít hơn
những người chưa có gia đình. Việc hình thành định hướng xấu trong con
người thường xuất phát từ những gia đình có kinh tế khó khăn, gia đình có vợ
chồng ly hơn, gia đình có cuộc sống khơng hồ thuận hoặc gia đình có thành
viên sổng khơng có trách nhiệm với gia đình, thậm chí có quan điểm, quan
niệm, xử sự trái đạo đức, trái pháp luật v.v

Ngoài ra các dấu hiệu xã hội khác như nơi cư trú (thành phố hay nông

13


thơn), sự di cư, hồn cảnh kinh tế cũng cố ý nghĩa quan trọng khi nghiên cứu
nhân thân người phạm tội.
Tóm lại, nghiên cứu nhân thân người phạm tội là để nắm bắt được nội
dung cần thiết trong con người phạm tội, xác định được những yếu tố, điều
kiện, môi trường hình thành nhân thân người phạm tội. Bởi vậy, khi nghiên
cứu nó chúng ta cần phải lưu ý là mỗi nhân thân người phạm tội cụ thể đều có
những đặc điểm chung trong từng nhóm người phạm tội hay trong tất cả
người phạm tội và nó cịn cố những đặc điểm đặc thù của nhân thân người
phạm tội đỏ. Trong phạm vi chương này chúng ta chỉ xem xét những đặc điểm
nhân thân người phạm nói chung.
1.1.2.5.Các đặc điểm pháp lý hình sự
Các đặc điểm pháp lý hình sự là các đặc điểm chỉ có ở nhân thân người
phạm tội mà khơng có ở các loại cấu thành khác. Tội phạm học nghiên cứu
đặc điểm này nhằm tìm ra các quy luật tồn tại, phát triển của tội phạm đồng
thời góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội
phạm từ đó đề ra các biện pháp phòng, chống tội phạm. Các đặc điểm pháp lý
hình sự trong nhân thân người phạm tội bao gồm:
- Tính chất, mức độ lỗi: Lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội là dấu
hiệu quan trọng nhất, tiêu chí chính xác nhất nói lên tính chất nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm. Dựa vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Như vậy
ngay tại nội hàm của điều luật đã thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm với lỗi tương ứng. Đặc biệt đối với lỗi cố ý, người phạm tội nhận
thức rõ được hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả nguy
hiểm nhưng có ý thức mong muốn cho hậu quả xảy ra (hoặc không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra); nếu tội phạm được thực

hiện thì hậu quả gây ra cho xã hội là rất nguy hiểm hoặc đặc biệt nguy hiểm

14


cho xã hội tùy thuộc vào tội phạm người phạm tội định phạm.
Mặt khác dựa vào tính chất, mức độ lỗi chúng ta đánh giá chính xác
được động cơ, mục đích của người phạm tội, xác định đúng phạm tội lần đầu
hay tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm từ đó có căn cứ cho việc áp dụng các
tình tiết tặng nặng định khung, tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự thú, đầu thú…
- Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của của hành vi phạm tội:
Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được nhà làm luật cân
nhắc và thể hiện khi quy định là một tội phạm, quy định chế tài và khung chế
tài đối với tội phạm tương ứng. Từ đó dựa vào tính chất phương pháp, thủ
đoạn, cơng cụ và phương tiện thực hiện hành vi; vào nội dung của thiệt hại do
hành vi gây ra; vào nội dung của động cơ, mục đích của tội phạm; đặc điểm
nhân thân người thực hiện hành vi và hồn cảnh chính trị xã hội, thời gian địa
điểm thực hiện hành vi… mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được
quyết định bởi giá trị của thiệt hại; bởi mức độ lỗi; bởi động cơ, mục đích
cũng như quyết tâm phạm tội… chúng ta đánh giá được tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể, giúp cho việc cá thể hóa
hình phạt. Điều 9 của Bộ luật hình sự chia tội phạm thành 4 loại: Tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Nghiên cứu loại tội phạm mà người phạm tội đã thực
hiện khơng chỉ cho ta thấy rõ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội của họ mà cịn có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục, phịng ngừa, điều tra,
xử lý người phạm tội.
- Hình thức gây án: Tội phạm thường được thực hiện dưới một trong hai
hình thức phạm tội là: Đơn lẻ và đồng phạm. Hình thức gây án đơn lẻ là

trường hợp tội phạm được thực hiện bởi một người. Hình thức gây án đồng

15


phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm
(khoản 1 Điều 17 của BLHS). Khi đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội thì
hình thức đồng phạm bao giờ cũng nguy hiểm hơn so với tội phạm do một
người thực hiện bởi vì những người thực hiện tội phạm đã hành động trong sự
liên hệ phối hợp và tác động lẫn nhau từ trước, trong và sau khi thực hiện tội
phạm, có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn và gây nhiều khó khăn cho
cơng tác phát hiện, xử lý tội phạm. Các vụ phạm tội dưới hình thức đồng
phạm trong những năm qua có xu hướng gia tăng, việc phân tích hình thức
gây án sẽ giúp việc phịng ngừa tội phạm đạt hiệu quả.
- Phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm: Sự khác nhau về số
lần phạm tội nói lên tính chất nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội khác
nhau, cho nên trách nhiệm hình sự mà họ phải chịu cũng khác nhau. Người
phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm bao giờ cũng có tính chất
nguy hiểm cho xã hội cao hơn nhiều so với người mới phạm tội lần đầu, họ đã
có kinh nghiệm trong việc thực hiện tội phạm cũng như đối phó với hoạt động
điều tra, xử lý của các cơ quan bảo vệ pháp luật, có khả năng thực hiện tội
phạm nghiêm trọng hơn. Vì vậy, phịng ngừa tái phạm tội là một trong những
mục tiêu cấp bách trước mắt của hoạt động phòng ngừa tội phạm, nhất là
trong tình hình hiện nay, khi mà tỷ lệ tái phạm tội còn tương đối cao.
* Về địa bàn phạm tội: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn Quận 7 là cơ sở để
xác định mức độ và diễn biến của tội phạm được thực hiện ở từng địa điểm cụ
thể (từng phường, từng đường, từng hẻm), thơng qua đó, tham mưu các giải
pháp phòng ngừa phù hợp, ngăn chặn kịp thời tội phạm xảy ra.
- Chế tài áp dụng: Mục đích áp dụng chế tài xử lý khơng những thể hiện

được tính nghiêm minh của pháp luật mà cịn phải hướng đến tính giáo dục,

16


cải tạo những phạm tội thành người có ích cho xã hội.
Tóm lại, khi nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội phải
nghiên cứu tổng thể các nhóm đặc điểm nêu trên tạo thành một thể thống nhất
không thể tách rời, bởi vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc
nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các dấu hiệu nhân thân người phạm tội sẽ cho
chúng ta thấy được các đặc điểm đặc trưng ảnh hưởng trực tiếp đến quyết
định thực hiện tội phạm của người phạm tội. Từ đó chúng ta có thể đưa ra các
kết luận về dự báo tình hình tội phạm, xây dựng phương án phòng ngừa tội
phạm cũng như việc áp dụng pháp luật đối với họ
1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Nhân thân người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu bao gồm
những đặc điểm đặc trưng điển hình phản ánh bản chất xã hội của người
phạm tội và những đặc điểm này có vai trị quan trọng trong cơ chế của hành
vi phạm tội và góp phần phát sinh 1 tội phạm cụ thể ( hòan cảnh gia đình,
trình độ học vấn,…).Những đặc điểm nhân thân người phạm tội được tội
phạm học nghiên cứu ở các khía cạnh: Sinh học (giới tính, khí chất … ); tâm
lý (Ý thức, thói quen giải trí … ); xã hội (nghề nghiệp, nơi cư trú … );pháp lý
hình sự (thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội:
phạm tội lần đầu, tái phạm, nhiều lần, chuyên nghiệp … )
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội nhằm làm sáng tỏ
mối quan hệ và sự tác động qua lại của các đặc điểm sinh học, xã hội trong
nhân thân người phạm tội. Từ đó xác định vai trị của từng nhóm đặc điểm
này trong cơ chế của hành vi phạm tội biện pháp phòng ngừa tội phạm phù
hợp việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng được tiến hành ở 3 cấp

độ: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội nói chung; nghiên cứu nhân thân

17


người phạm tội theo từng nhóm tội; nghiên cứu nhân thân người phạm tội cụ thể.

Trong Từ điển Tiếng Việt 2010 của Viện Ngơn ngữ học có giải thích: “Ý
nghĩa là giá trị, tác dụng”.Ý nghĩa của nhân thân người phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác được đề cập , được
xem xét có tính giá trị và tác dụng thể hiện trên hai phương diện lý luận và
thực tế trong phạm vi chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa sau:
Giúp cho việc định tội danh và quyết định khung hình phạt cho các
đối tượng phạm tội được chính xác và khách quan hơn.
Tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Từ việc tìm ra nguyên nhân và điều kiện ấy, sẽ đề ra những giải pháp
phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác một cách hữu hiệu nhất.
1.3.Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm
nhân thân tiêu cực ở người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
1.3.1.Các yếu tố khách quan: Gia đình, nhà trường, xã hội ( coi trọng
đồng tiền, tệ nạn, yếu kém trong quản lý văn hóa
- Các yếu tố tiêu cực thuộc mơi trường gia đình: Gia đình là mơi trường
quan trọng để hình thành, ni dưỡng và giáo dục nhân cách con người; bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội; tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước. Một mơi trường gia

đình lành mạnh sẽ có lợi cho sự phát triển của con cái và hình thành nên ở trẻ

18


những hành vi cũng như những nhân cách mà xã hội u cầu. Và ngược lại,
nếu mơi trường gia đình không tốt sẽ tạo nên những ảnh hưởng xấu cho trẻ,
hình thành nên những phẩm chất đạo đức khơng tốt, thậm chí hình thành nên
những nhân cách đi ngược lại với u cầu của xã hội.Có những gia đình do
quan hệ của hai bố mẹ mâu thuẫn, li thân hoặc ly hơn, trong gia đình ln xảy
ra cãi lộn, mắng chửi, thậm chí là xảy ra xơ xát, bạo lực. Sống trong mơi
trường gia đình như thế con cái ngày ngày phải nghe, phải chứng kiến, thậm
chí con là người chịu địn, dần dần các em sẽ hình thành những nhận thức sai
lệch, và thật tệ hại khi trẻ cho rằng bạo lực chính là một cách để giải quyết
mâu thuẫn.Có những gia đình mà cha hoặc mẹ hay người thân mắc những
chứng bệnh hiểm nghèo hoặc gia đình vừa trải qua những biến cố lớn nếu
khơng có sự chuẩn bị tâm lý tốt sẽ hình thành nên tâm lý tự ti ở trẻ, và khi bị
bạn bè trêu trọc, bàn tán lâu ngày rất có thể trẻ sẽ khơng kiềm chế được bản
thân mà gây ra những hành vi bạo lực.
Trong mỗi gia đình, tùy theo điều kiện sống, nghề nghiệp, nhóm xã hội,
trình độ học vấn, lứa tuổi, giới tính, ý thức đạo đức, định hướng giá trị... nói
cách khác là tùy theo nếp sống riêng của mỗi gia đình mà các bậc cha mẹ sẽ
chú trọng những phẩm chất đạo đức khác nhau của con cái và có biện pháp
giáo dục khác nhau.Các gia đình bố mẹ có học vấn cao rất chú trọng dùng lời
lẽ lý giải cho con cái hiểu yêu cầu về những phẩm chất đạo đức nào đó. Trong
khi những gia đình bố mẹ có học vấn thấp ít khi chú ý giảng giải, nêu nguyên
nhân vì sao cần một số phẩm chất nhất định. Tương tự, khi rèn con vào khuôn
phép, cha mẹ có học vấn cao thường có khuynh hướng kiên nhẫn giảng giải
và khoan dung với những kích động và cơn giận bột phát của trẻ con hơn
những gia đình có học vấn thấp.

Sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ, ân cần chỉ bảo của gia đình rất quan
trọng trong việc hình thành nề nếp đạo đức, lối sống cho con cái, từ việc nhỏ

19


×