Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.62 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NÔNG THỊ HUYỀN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NÔNG THỊ HUYỀN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. MAI ĐẮC BIÊN

Hà Nội - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu khoa học của
riêng tôi với sự hướng dẫn khoa học của TS. Mai Đắc Biên.
Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo khách
quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Tác giả luận văn

Nông Thị Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU.......................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi và ý nghĩa thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu..............6
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
trong điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu................................................. 21
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG................................. 30
2.1. Một số tình hình có ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trên địa bàn tỉnh
Cao Bằng..................................................................................................................................... 30
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ
án xâm phạm quyền sở hữu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.................................... 37

Chương 3: YÊU CẦU BẢO ĐẢM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN TỈNH
CAO BẰNG...................................................................................................................................... 49
3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.....................49
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu của VKSND tỉnh Cao Bằng 53
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 66


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS
BLTTHS

: Bộ luật hình sự
: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

NXB

:

Nhà xuất bản


ĐTV

:

Điều tra viên

KSV

:

Kiểm sát viên

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

THQCT

: Thực hành quyền công tố

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan
tâm vấn đề cải cách tư pháp. Bộ Chính trị đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị
quyết, trong đó có Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về “Một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, và Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Định hướng chỉ đạo trọng tâm là: cải cách một cách căn bản, toàn diện hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng,
chống và xử lý tội phạm; góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an tồn
xã hội, bảo vệ và tạo mơi trường đầu tư thuận lợi, phát triển kinh tế, đẩy mạnh
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống và xử lý tội phạm trong
tình hình mới, trong những năm qua tồn ngành kiểm sát đã triển khai nhiều
biện pháp để phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; tập trung
tổ chức, quán triệt và thực hiện nghiêm túc có hiệu quả chủ trương của Đảng
về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS trong tiến trình cải cách tư pháp,
các quy định của pháp luật liên quan đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ
của ngành. Chất lượng, hiệu quả các lĩnh vực hoạt động của thực hành quyền
cơng tố nói chung và cơng tác thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều
tra nói riêng có chuyển biến tích cực và đang từng bước được nâng cao, thực
hiện tốt cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm, đảm bảo việc truy cứu
trách nhiệm đúng người, đúng tội, hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội
phạm, và không làm oan người vô tội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn công tác
THQCT vẫn còn bộc lộ nhiều điểm tồn tại hạn chế, bất cập ở các giai đoạn tố
tụng, trong đó có giai đoạn điều tra, giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử
1


lý kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật; theo đó, việc làm tốt công tác này sẽ đảm bảo quyền lợi của công dân,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; không
để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền

cơng dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm một cách trái pháp luật. Đồng thời bảo đảm việc điều tra được khách
quan, tồn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; kịp thời phát hiện nhanh
chóng, khắc phục và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án.
Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, thời gian gần đây, tình hình tội phạm xâm
phạm quyền sở hữu tăng nhanh, diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội ngày
càng tinh vi, có tính chun nghiệp cao, đặc biệt nhiều vụ án xâm phạm sở
hữu với giá trị lớn liên quan đến yếu tố nước ngoài có tính nguy hiểm cao cho
xã hội. Các cơ quan tố tụng khi tiến hành xử lý nhóm tội phạm này cịn lúng
túng trong q trình áp dụng pháp luật đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác
thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra. Do đó, nghiên cứu làm sáng
tỏ các vấn đề trên khơng chỉ có giá trị về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa thực
tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả của cơng tác tư pháp nói chung, cơng tác
thực hành quyền cơng tố và kiểm sát nói riêng, hồn thành nhiệm vụ của
Đảng và Nhà nước giao phó, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp, đề xuất
một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này.
Xuất phát từ tầm quan trọng nêu tôi lựa chọn đề tài "Thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực
tiễn tỉnh Cao Bằng".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhiều nhà khoa học pháp lý cũng như những người làm công tác thực tiễn đã
quan tâm, nghiên cứu hoặc đề cập ở phạm vi khác nhau vấn đề thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra, và đã được thể hiện dưới các cơng trình sau:
2


- Sách chuyên khảo: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Do tác giả Lê Hữu Thể (chủ biên) xuất
bản năm 2005.

- Sách chuyên khảo: Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của
việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, do tác giải Lê
Hữu Thể, Nguyễn Thị Thủy, Đỗ Văn Đương, đồng chủ biên;
- Giáo trình: Thực hành quyền cơng tố và Kiểm sát xét xử vụ án hình sự
của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, TS. Mai Đắc Biên (Chủ biên), Nxb Tư
pháp, Hà Nội 2019;
- Sách chuyên khảo: Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu,
TS.Lê Đăng Doanh, NXB Tư Pháp, 2014;
- Luận án tiễn sỹ luật học năm 2006: Thực hành quyền công tố của tác
giả Lê Thị Tuyết Hoa;
- Luận án tiến sỹ luật học «Quyền hạn của Kiểm sát viên trong giai đoạn
điều tra theo quy định của BLTTHS Liên bang Nga và Việt Nam » của tác giả
Mai Đắc Biên, Trường đại học tổng hợp quốc gia Ku ban, Liên Bang Nga, 2012.

Ngồi ra, liên quan đến đề tài này cịn nhiều luận văn thạc sỹ, khóa luận
tốt nghiệp trình độ cử nhân đã được bảo vệ, tuy nhiên chưa có cơng trình nào
nghiên cứu sâu rộng, đầy đủ và tồn diện về THQCT trong giai đoạn điều tra
các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng để từ đó đưa ra
những giải pháp tăng cường và bảo đảm thực hiện tốt hơn quy định của pháp
luật về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu
nói chung và trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam
về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm
quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.

3



- Đánh giá những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực
tiễn tỉnh Cao Bằng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về mặt cơ sở lý luận công tác THQCT trong giai đoạn
điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu ;
- Nghiên cứu tình hình các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu từ thực
tiễn tỉnh Cao Bằng ;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác THQCT trong giai đoạn
điều tra, kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế đó ;
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm đảm bảo THQCT trong giai đoạn
điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, quy định của BLTTHS năm 2015 và
một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và thực trạng về công tác
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền
sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu về lý luận, quy định của Bộ luật TTHS năm
2015, (có một phần quy định của BLTTHS năm 2003) và một số văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan;
- Nghiên cứu thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân
hai cấp tỉnh Cao Bằng trong thời hạn 3 năm, từ năm 2016 đến năm 2018.
4



5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích: Sử dụng để hệ thống hóa những vấn đề lý
luận, phân tích, đánh giá thực tiễn công tác THQCT trong điều tra các vụ án
xâm phạm quyền sở hữu tại tỉnh Cao Bằng.
- Phương pháp thống kê, so sánh, khảo sát và tổng kết thực tiễn để giải
quyết nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận :
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm
phạm quyền sở hữu nói riêng .
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên trong ngành KSND nói chung và
VKSND hai cấp tỉnh Cao Bằng nói riêng, nâng cao chất lượng áp dụng pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Bên cạnh đó, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ
nghiên cứu, giảng dạy, các sinh viên học tập và nghiên cứu về thực hành
quyền cơng tố nói chung và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án xâm phạm quyền sở hữu nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết :
- Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu;
- Chương 2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án xâm phạm quyền sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng;


Chương 3: Yêu cầu bảo đảm và giải pháp tăng cường thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực
tiễn tỉnh Cao Bằng
5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
1.1. Khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi và ý nghĩa thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu 1.1.1.
Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án xâm phạm quyền sở hữu
Theo quy định của pháp luật nước ta, thực hành quyền công tố
(THQCT) được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014 ( Luật tổ chức VKSND năm 2014), Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015). Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy
định: Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp. Khoản 1 Điều 3, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy
định: “thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự”[78, tr1]. Điều 20, BLTTHS năm 2015 quy định: “Viện kiểm sát thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi
hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật
đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt

tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô
tội”[69, tr17]. Đồng thời, trong từng giai đoạn tố tụng hình sự, BLTTHS năm
2015 đều quy định nhiệm vụ, quyền hạn THQCT của VKSND, như tại các
điều 159, 161, 165, 236, 266 BLTTHS năm 2015.
6


Để hiểu một cách sâu sắc và toàn diện về thực hành quyền cơng tố
trong tố tụng hình sự nói chung và trong điều tra các vụ án hình sự nói chung
và về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, chúng ta cần hiểu rõ về quyền công
tố trong khoa học pháp lý hình sự. Cơng tố là một từ ghép Hán - Việt được
hình thành bởi hai từ đơn “công” và “tố”. Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà
xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 tại các trang 200, 204, 973 thì:
“tố” có nghĩa là nói cơng khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm pháp
của người khác, cịn “cơng” có nghĩa là thuộc về Nhà nước chung cho mọi
người, khác với “tư”; “công tố” là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và
phát biểu ý kiến trước tịa án”. “Cơng tố” theo Từ điển tiếng Việt là một khái
niệm bao gồm bốn nội dung: điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát
biểu trước tịa án. Quyền cơng tố là quyền của Nhà nước để điều tra, truy tố,
buộc tội và phát biểu trước tòa án về tội phạm và người phạm tội.
Quyền công tố trong pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta cũng đã có
những bước hoàn thiện cả trong xây dựng pháp luật và nhận thức về mặt lý
luận. Trong những năm trước đây, dựa vào những quy định của Hiến pháp
năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981
thì quyền cơng tố được hiểu là một trong những nội dung của kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND. Theo cách hiểu này, quyền công tố không
phải là một quyền năng pháp lý độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là một
nhiệm vụ thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và nằm trong
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Do vậy, mặc dù
trong Hiến pháp năm 1980, 1992 đã xuất hiện thuật ngữ “thực hành quyền

công tố” trong các điều quy định về Viện kiểm sát nhân dân, nhưng trong Luật
tổ chức VKSND 1981, 1992 vẫn chưa quy định thực hành quyền công tố là
một chức năng riêng biệt. Những nội dung thuộc về thực hành quyền công tố
như phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định của CQĐT vẫn nằm
trong nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát điều tra. Đến Luật tổ chức
7


VKSND năm 2002 thì tại Điều 13 đã quy định THQCT là một chức năng độc
lập, tách biệt với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Từ
đó đến nay, về mặt lý luận đều thống nhất nhận thức rằng: quyền cơng tố là
quyền tư pháp hình sự mà Nhà Nước dùng để đấu tranh chống tội phạm,
quyền công tố được Nhà Nước giao cho VKSND thực hiện trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, do vậy, quyền cơng tố
chính là một trong những quyền năng pháp lý quan trọng của VKS, bảo đảm
cho VKS có đủ thẩm quyền để đấu tranh chống mọi hành vi phạm tội, chống
mọi oan sai và bỏ lọt tội phạm trong tố tụng hình sự. Thực hành quyền cơng
tố là một trong hai chức năng của VKSND, là việc VKSND đại diện Nhà
Nước thực hiện quyền cơng tố trong tố tụng hình sự bằng việc truy cứu trách
nhiệm hình sự, truy tố bị can ra trước tòa án và buộc tội trong quá trình tố
tụng hình sự. Chức năng thực hành quyền cơng tố ln đi đơi và gắn bó chặt
chẽ, khơng thể tách rời với chức năng kiểm sát hoạt động tu pháp trong tố
tụng hình sự của VKS.
Do đó, THQCT chính là việc chủ thể của quyền công tố - VKSND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình đối với các đối tượng là tội phạm và
người phạm tội để đạt được mục tiêu đã xác định là thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự, buộc tội người phạm tội. Theo quy định tại Điều 107
Hiến pháp năm 2013, Điều 3, Luật tổ chức VKSND năm 2014, các Điều 20,
159, 161, 165, 236, 266 BLTTHS năm 2015 thì Viện kiểm sát THQCT để thực
hiện việc phát hiện tội phạm, truy cứu TNHS, truy tố và buộc tội người phạm
tội, pháp nhân phạm tội trước Tòa án. Đồng thời, trong từng giai đoạn tố tụng

hình sự, BLTTHS năm 2015 đều quy định nhiệm vụ quyền hạn thực hành
quyền công tố của VKSND, như tại các điều 159, 161, 165, 236, 266
BLTTHS năm 2015.
Để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội người bị buộc tội
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự thì Viện kiểm sát được Nhà Nước
8


trao cho nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng quan trọng thuộc nội dung thực hành
quyền công tố như: (1) Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra (sau đây gọi chung là CQĐT) khởi tố hoặc
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; (2) Phê chuẩn
hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can khơng có căn cứ và trái pháp luật; (3) Khởi tố, thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tốbị can trong các trường hợp do BLTTHS
quy định; (4) Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, khơng phê chuẩn các quyết định
tố tụng khác khơng có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ
luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng khơng có căn cứ và trái pháp luật của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định khơng phê chuẩn
hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do; (5) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của BLTTHS; (6) Đề ra yêu
cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội;
yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt; (7) Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm

tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc
trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà
Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bảnhưng không được khắc phục hoặc trường
hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố; (8) Khởi
tố
9


vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự
khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu
hiệu tội phạm; (9) Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm
giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án; (10) Thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố theo quy định
của BLTTHS.
Như vậy, chúng ta thấy, những hoạt động hoặc quyết định của VKS làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện pháp lý hình sự, hướng đến
việc phát hiện tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự, truy tố, buộc tội là
thuộc nội dung thực hành quyền công tố của VKS. Những quyền năng pháp lý
mà Viện kiểm sát sử dụng để phát hiện vi phạm và yêu cầu xử lý vi phạm
pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng là những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật (kiểm sát hoạt động tư pháp). Cụ thể, các hoạt động như: Kiểm
sát việc khởi tố vụ án hình sự, kiểm sát hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ
án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;
giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu CQĐT khắc phục vi

phạm trong hoạt động điều tra… là những hoạt động thuộc chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật. Tuy nhiên giữa THQCT và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra là
hai chức năng có mối quan hệ đặc biệt, chặt chẽ, máu thịt, không thể tách rời,
hỗ trợ cho nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là việc Viện kiểm sát sử dụng
10


các biện pháp do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc
tội đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội, bảo đảm phát
hiện và xử lý mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và khơng làm oan
người vơ tội.
Để có thể đưa ra khái niệm về THQCT trong giai đoạn điều tra đối với
các vụ án xâm phạm quyền sở hữu, chúng ta cần tìm hiểu về nhóm tội xâm
phạm quyền sở hữu tài sản. Các tội xâm phạm quyền sở hữu được quy định
tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”, bao gồm 13 tội, từ Điều 133 đến
Điều 145 của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Bộ luật hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) quy định
nhóm tội này tại chương XVI “Các tội xâm phạm sở hữu” gồm 13 tội sau đây:
Điều 168. Tội cướp tài sản; Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản;
Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản; Điều 171. Tội cướp giật tài sản; Điều 172.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản; Điều 173. Tội trộm cắp tài sản; Điều 174.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản; Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản; Điều 177. Tội sử dụng trái
phép tài sản; Điều 178. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Điều 179.
Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp; Điều 180. Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản. Theo quy định của BLHS năm 2015, pháp nhân thương mại không phải

chịu TNHS đối với các tội xâm phạm sở hữu nêu trên. Như vậy, chỉ người
phạm tội (cá nhân) chịu TNHS về các tội xâm phạm sở hữu.
Đặc điểm chung về cấu thành tội phạm của nhóm tội xâm phạm quyền
sở hữu:
- Khách thể của tội phạm: là quyền sở hữu tài sản được Nhà nước bảo
hộ và bị tội phạm xâm hại. Tài sản có quan hệ sở hữu là tài sản của Nhà nước,
của cơ quan, tổ chức hoặc của cá nhân.

11


- Mặt khách quan của tội phạm: là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm
hại đến quyền sở hữu tài sản, bao gồm: 1) hành vi chiếm đoạt tài sản (trong
các tội Cướp tài sản; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Tội cưỡng đoạt tài
sản; Tội cướp giật tài sản; Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản; Tội trộm cắp tài
sản; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản); 2) hành vi chiếm giữ trái phép tài sản (trong Tội chiếm giữ trái phép tài
sản); 3) hành vi sử dụng trái phép tài sản (trong Tội sử dụng trái phép tài
sản); 4) Hành vi làm hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản ( trong tội cố ý làm hư
hỏng hoặc hủy hoại tài sản); 5) hành vi thiếu trách nhiệm và vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng tài sản (trong các tội: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài
sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; Tội vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản).
- Mặt chủ quan của tội phạm: Các tội phạm thuộc nhóm tội này chủ yếu
được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Có một số tội, như các tội: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của
Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản được thực hiện với lỗi vô ý.
- Chủ thể của tội phạm. Các tội xâm phạm sở hữu có chủ thể bình

thường, thỏa mãn các điều kiện chung của chủ thể tội phạm. Tội thiếu trách
nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
có chủ thể đặc biệt, đó là người có trách nhiệm quản lý tài sản.
Với chức năng THQCT trong lĩnh vực hình sự thì tội phạm và người
phạm tội trong các tội phạm hình sự nói chung và trong các tội xâm phạm
quyền sở hữu nói riêng là đối tượng thực hành quyền công tố của VKS.
THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các tội xâm phạm quyền sở hữu là
việc VKS đại diện Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình
được pháp luật quy định để truy cứu TNHS, buộc tội người phạm tội xâm
12


phạm quyền sở hữu. VKS thực hiện chức năng THQCT trong giai đoạn điều
tra bằng việc đề ra yêu cầu điều tra đối với cơ quan điều tra, ban hành quyết
định để phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của CQĐT,
trực tiếp ra các quyết định tố tụng, thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác
theo quy định tại Điều 165 BLTTHS năm 2015 để giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu. THQCT của VKS hướng đến mục
đích điều tra nhanh chóng tội phạm, truy cứu TNHS, buộc tội, xử lý nghiêm
minh người phạm tội xâm phạm quyền sở hữu, không bỏ lọt tội phạm và
không làm oan người vơ tội.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ
án xâm phạm quyền sở hữu như sau: Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là việc Viện kiểm sát sử
dụng nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm
hình sự, buộc tội đối với người phạm tội xâm phạm quyền sở hữu, bảo đảm
phát hiện nhanh chóng và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ
lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
1.1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
vụ án xâm phạm quyền sở hữu

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm
quyền sở hữu có những đặc điểm chung của THQCT đối với các vụ án hình
sự, đồng thời có những đặc điểm riêng của nhóm tội này. Nghiên cứu cho
thấy, THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu có
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, THQCT trong điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là
việc thực hiện quyền lực Nhà nước
Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định chức năng, nhiệm vụ
của Viện kiểm sát nhân dân, theo đó: “1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan

13


thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước để bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Điều 5 BLTTHS năm 2015 quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc đấu tranh phịng, chống tội phạm, trong đó, khoản 4,
khoản 6 quy định: “Cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm
thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ”.
THQCT trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm
phạm quyền sở hữu nói riêng là quyền lực của Nhà nước, được Nhà nước trao
cho VKSND thực hiện theo quy định của pháp luật để đấu tranh phòng chống

tội phạm, bảo vệ Nhà nước, xã hội và con người. Những quyết định, hoạt
động của VKSND trong THQCT trong điều tra các vụ án hình sự thể hiện tính
quyền lực Nhà nước, có tính bắt buộc thực hiện đối với người phạm tội và các
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội
người phạm tội để bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Theo quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2015, Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự,
quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành
vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải
được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,
14


truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.

Do vậy những quyết định, hoạt động của VKSND trong THQCT trong
điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là thể hiện quyền lực Nhà nước,
các quyết định và hoạt động đó phải được các cơ quan Nhà Nước, các cơ quan
tiến hành tố tụng, mọi tổ chức xã hội và công dân chấp hành nghiêm chỉnh.
Thứ hai, THQCT trong điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng có của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức
năng THQCT trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm
hạm quyền sở hữu tài sản nói riêng. Thơng qua việc thực hiện chức năng này,
VKSND góp phần thực hiện quyền lực Nhà nước, trực tiếp thực hiện quyền
cơng tố góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. THQCT bảo đảm mọi tội

phạm, mọi hành vi phạm tội phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước trao quyền công tố một cách độc
lập, có nhiệm vụ quyền hạn truy cứu TNHS, buộc tội trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, thể hiện bằng việc phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của
CQĐT, yêu cầu CQĐT thực hiện hoạt động điều tra, xử lý nghiêm minh các
vi phạm pháp luật. Đồng thời, VKS có nhiệm vụ quyền hạn trực tiếp ban hành
các quyết định tố tụng để truy cứu TNHS, buộc tội như quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can, các quyết định tố tụng khác và trực tiếp tiến hành một số
hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Việc truy cứu TNHS như khởi
tố vụ án có thể có nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện như CQĐT, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án nhưng
việc phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật
của CQĐT, yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động tố tụng là thẩm
15


quyền riêng có của VKSND, chỉ có VKSND mới có quyền thực hiện. Do vậy,
THQCT của VKSND trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và trong các
vụ án xâm phạm quyền sở hữu tài sản là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
riêng có của Viện kiểm sát nhân dân.
Thứ ba, THQCT của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra các vụ án
xâm phạm quyền sở hữu luôn tuân thủ chặt chẽ những quy định của pháp luật
về trình tự, thủ tục tố tụng.
THQCT trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và trong các vụ án
xâm phạm quyền sở hữu nói riêng là một trong tồn bộ q trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Đây là những hoạt động tố tụng rất quan
trọng có tính quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, làm cơ
sở, tiền đề cho những hoạt động tố tụng tiếp theo trong giai đoạn truy tố và
xét xử vụ án hình sự. Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 165
BLTTHS năm 2015 đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn THQCT của VKSND

trong điều tra các vụ án hình sự, bao gồm cả các tội xâm phạm quyền sở hữu.
Đồng thời, do tính chất của tố tụng hình sự là những hoạt động có tác động rất
lớn đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân, quyền con người, quyền công dân nên pháp luật tố tụng hình sự cũng
quy định rất nghiêm ngặt trình tự, thủ tục tố tụng hình sự, buộc các chủ thể
tham gia tố tụng phải chấp hành. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng nói chung và VKSND, Kiểm sát viên nói riêng phải tuân thủ
nghiêm ngặt, chặt chẽ các quy định của pháp luật, đặc biệt là BLTTHS về
trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố tụng. Ngồi ra, VKS cịn phải thực hiện nhiệm
vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự, bảo đảm
việc điều tra của cơ quan, người tiến hành tố tụng và hoạt động của người
tham gia tố tụng phải đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành chặt chẽ
quy định của pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm cho VKS thực hiện đúng đắn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, qua đó bảo đảm phát hiện nhanh
16


chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh mọi tội phạm, người phạm tội, bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Thứ tư, THQCT của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra các vụ án
xâm phạm quyền sở hữu là hoạt động mang tính khẩn trương, kịp thời, bám
sát các hoạt động điều tra
Tội phạm là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, xâm hại đến lợi ích
hợp pháp của Nhà Nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân, luôn gây ra những hậu quả nguy hại cho xã hội, con người. Một số tội
trong nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu là những loại tội phạm rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng, như Tội cướp tài sản, Tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản. Nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản không chỉ gây thiệt hại
về tài sản mà còn gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của ngyoiwf bị hại,
đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy, tội phạm nói

chung và một số loại tội phạm xâm phạm quyền sở hữu tài sản nói riêng cần
nhanh chóng được phát hiện, kịp thời ngăn chặn và xử lý triệt để. Đồng thời,
việc phát hiện, xử lý tội phạm phải bảo đảm chính xác, đúng đắn theo đúng
quy định của pháp luật. Với nhiệm vụ, quyền hạn của mình, VKSND THQCT
trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và các tội xâm phạm quyền sở hữu
tài sản nói riêng thơng qua việc phê chuẩn, khơng phê chuẩn hoặc hủy bỏ các
quyết định của CQĐT, yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra để làm
sáng tỏ nội dung vụ án. Đồng thời, VKSND trực tiếp ban hành các quyết định
tố tụng như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, trực tiếp tiến hành một số
hoạt động điều tra để giải quyết vụ án nhưng chỉ trong những trường hợp đặc
biệt, do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Để bảo đảm việc điều tra tội phạm
xâm phạm quyền sở hữu được thực hiện nhanh chóng thì THQCT của
VKSND trong điều tra các tội phạm này phải được tiến hành khẩn trương, kịp
thời và luôn bám sát hoạt động điều tra, yêu cầu điều tra không chậm trễ. Việc
khẩn trương, kịp thời được thể hiện là ngay
17


sau khi tội phạm xảy ra, CQĐT ra các quyết định tố tụng cũng như tiến hành
các hoạt động tố tụng hình sự để làm sáng tỏ nội dung vụ án thì VKSND phải
khẩn trương, kịp thời nắm bắt, thu thập thông tin, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu,
đánh giá chứng cứ chứng minh tội phạm để quyết định việc phê chuẩn các
quyết định của CQĐT, đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp ban hành các quyết
định tố tụng để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong thời hạn do
BLTTHS quy định, KSV phải nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời nghiên cứu
hồ sơ tài liệu, xác định đúng đắn tội danh, người phạm tội để báo cáo, đề xuất
lãnh đạo VKS đồng ý hay không đồng ý với quyết định khởi tố vụ án, phê
chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, đề ra yêu cầu điều tra và một số hoạt động
khác. Để bảo đảm việc điều tra nhanh chóng, chính xác, THQCT của VKS

phải luôn bám sát chặt chẽ hoạt động điều tra, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra,
yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật trong điều tra, kịp thời phê chuẩn hoặc hủy
bỏ các quyết định tố tụng của CQĐT. Do tính chất quan trọng của đặc điểm
này nên Viện trưởng VKSNDTC đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày
06/12/2013 về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm”. Khẩn trương, kịp thời, bám sát hoạt động điều tra chính là một đặc
điểm, một yếu tố quyết định đến hiệu quả THQCT của VKSND trong điều tra
các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm quyền sở hữu tài sản nói
riêng.
Thứ năm, THQCT của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra các vụ án
xâm phạm quyền sở hữu luôn gắn với một số quyết định đặc thù của VKS
Do BLHS năm 2015 quy định về định lượng tài sản bị xâm hại là yếu tố
quan trọng, quyết định đến việc xác định hành vi của người bị buộc tội là
hành vi phạm tội hay không phạm tội, như Tội Trộm cắp tài sản, Tội Lam
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn một số
18


tội khác tuy không phải là yếu tố cấu thành tội phạm nhưng là yếu tố định
khung nên việc xác định giá trị tài sản bị thiệt hại là vô cùng quan trọng trong
nhóm tội này. Để xác định đúng đắn, kịp thời và chính xác giá trị tài sản bị
thiệt hại thì khi THQCT trong tất cả các tội thuộc nhóm tội này, VKS đều phải
đề ra yêu cầu định giá tài sản bị thiệt hại để CQĐT thực hiện. Trong một số
trường hợp, nếu CQĐT không tiến hành định giá hoặc cần định giá lại, định
giá bổ sung thì VKS phải tự mình ra quyết định trưng cầu định giá tài sản. Do
vậy, “yêu cầu định giá tài sản” hoặc tự mình “ra quyết định định giá tài sản” là
một đặc điểm riêng biệt của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ
án xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Ngoài ra, Vấn đề xử lý vật chứng trong vụ
án thuộc nhóm tội này cũng là một đặc điểm riêng mà VKS luôn phải xử lý

bằng việc yêu cầu CQĐT xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 106 BLHS.
1.1.3. Đối tượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
vụ án xâm phạm sở hữu
Từ những phân tích trên thấy rằng, THQCT là việc nhân danh Nhà nước
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với người phạm tội
trong q trình điều tra vụ án hình sự nói chung và vụ án xâm phạm quyền sở
hữu nói riêng thì đối tượng của quyền cơng tố là tội phạm và người phạm tội.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nó khơng chỉ xâm hại đến lợi ích
cá nhân mà còn xâm hại đến trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia cho nên
Nhà nước phải đại diện xã hội trừng trị người phạm tội. Hơn nữa, một trong
những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là nguyên tắc quyền truy cứu
trách nhiệm hình sự thuộc về Nhà nước (quyền cơng tố) và nguyên tắc nghĩa
vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi THQCT, VKSND
sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý theo luật định để thực hiện việc truy
cứu TNHS, buộc tội đối với các đối tượng phạm tội xâm phạm quyền sở hữu
nhằm bảo đảm phát hiện nhanh chóng và khởi tố, điều tra kịp thời mọi tội
19


pham và người phạm tội; thu thập đầy đủ các chứng cứ chứng minh hành vi
phạm tội, hậu quả của tội phạm. Các tình tiết buộc tội, gỡ tội, tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS cũng như các tình tiết khác có liên quan đến đến vụ án.
1.1.4. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án xâm phạm quyền sở hữu
Xác định đúng đắn phạm vi THQCT trong điều tra các vụ án xâm phạm
quyền sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
này trong việc chống bỏ lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người
vô tội.
Theo quy định tại Điều 1 Quy chế tạm thời số 03 thì, cơng tác thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ

án hình sự bắt đầu từ khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết thúc việc
điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc quyết định đình chỉ vụ án
theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết các vụ án xâm phạm quyền sở hữu bao gồm các giai
đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong đó, giai đoạn điều
tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là giai đoạn tố tụng mà cơ quan điều tra
căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp
điều tra cần thiết nhằm thu thập các chứng cứ chứng minh tội phạm cũng như
người phạm tội xâm phạm quyền sở hữu. Căn cứ theo quy định tại các
chương, từ Chương X đến chương 17 của BLTTHS năm 2015 “Những quy
định chung về điều tra vụ án hình sự” thì có thể xác định, phạm vi THQCT
của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu có thời
điểm bắt đầu từ khi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố vụ án và kết thúc bằng bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra đề
nghị Viện kiểm sát truy tố người phạm tội trước Tịa án hoặc ra quyết đình chỉ
điều tra vụ án hình sự.

20


×