Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Một số giải pháp đề xuất góp phần phát triển dịch vụ du lịch sinh thái tại VQG Cúc Phương – Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.33 KB, 74 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lịch sử nhân loại, du lịch được ghi nhận như một sở thích, một
hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người, và dần dần nó trở thành nhu cầu
không thể thiếu được trong đời sống của xã hội hiện đại.
Du lịch ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn cầu và trở thành một
trong những hoạt động kinh tế hàng đầu của thế giới. Du lịch sinh thái là một
bộ phận quan trọng của ngành du lịch với bản chất là gắn liền với các yếu tố
môi trường sinh thái. Cùng với sự phát triển chung của ngành du lịch, DLST
hiện có tốc độ tăng trưởng nhanh và thu hút được sự quan tâm của nhiều thành
phần trong xã hội. Hoạt động du lịch sinh thái ngày càng nổi bật và khuyến
khích phát triển, Vườn Quốc Gia và các khu Bảo Tồn thiên nhiên là một nơi
lý tưởng để mọi người có cơ hội tham quan, giải trí, nâng cao nhận thức về
môi trường.
Vườn Quốc Gia Cúc Phương là đơn vị bảo tồn thiên nhiên được thành
lập sớm nhất ở Việt Nam, VQG có nhiều loài động vật, thực vật quý giá, tính
đa dạng sinh học, thiên nhiên phong phú. VQG Cúc Phương sớm trở thành
một nơi thu hút các hoạt động tham quan giải trí, học tập, nghiên cứu khoa
học của khách trong nước và quốc tế. Trong những năm gần đây số lượng
khách du lịch đến thăm Vườn Quốc Gia đã tăng lên, mức độ tập trung khách
ngày càng cao đã nảy sinh những bất cập trong mối quan hệ giữa hoạt động
dịch vụ du lịch và công tác bảo tồn. Vì vậy, việc đánh giá tiềm năng du lịch
của VQG, hiện trạng hoạt động du lịch với các vấn đề bảo tồn tự nhiên, với sự
phát triển của cộng đồng của khu vực để từ đó đưa ra giải pháp thúc đẩy sự
tham gia của cộng đồng địa phương, nhằm đảm bảo mục tiêu bảo tồn và song
song với việc mở rộng các hoạt động dịch vụ du lịch của VQG để đáp ứng
nhu cầu của du khách là hết sức cần thiết. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng
của vấn đề vì vậy tôi lựa chọn đề tài “ Một số giải pháp đề xuất góp phần phát
triển dịch vụ du lịch sinh thái tại VQG Cúc Phương – Ninh Bình ”
1
- Mục tiêu nghiên cứu của khoá luận là: Trên cơ sở nghiên cứu hiện
trạng, tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại cơ sở, đề xuất một số giải pháp


góp phần đẩy mạnh hoạt động DLST gắn liền với bảo tồn thiên nhiên tại VQG
Cúc phương - Ninh Bình.
- Nội dung nghiên cứu của khoá luận bao gồm:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về thời gian quản lý và phát triển DLST.
- Nghiên cứu hiện trạng hoạt động dịch vụ DLST tại VQG Cúc
Phương.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển DLST tại VQG Cúc Phương.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp kế thừa tài liệu
- Phương pháp khảo sát thực tiễn
Phương pháp này tìm hiểu địa bàn của ban du lịch tại VQG Cúc Phương, thẩm
nhận giá trị tài nguyên trên cơ sở đó đề xuất được những giải pháp hợp lý và khả
thi.
- Phương pháp thống kê và phân tích kinh tế
Các tài liệu thống kê được từ nguồn số liệu từ VQG Cúc Phương, trên cơ sở đó
chọn lọc, xử lý, tập hợp các tài liệu, số liệu, các kết quả điều tra xã hội học. Qua
đó cho phép xác định tính động lực, sự ảnh hưởng qua lại giữa phát triển du lịch
với công tác bảo tồn thiên nhiên và giải pháp thúc đẩy dịch vụ nơi này.
- Phương pháp chuyên gia
Phỏng vấn cán bộ quản lý của ban du lịch và VQG Cúc Phương để
nắm bắt được cơ chế chính sách liên quan đến việc tổ chức các hoạt động du
lịch và thuận lợi và khó khăn của đơn vị trong giai đoạn hiện nay
- Phương pháp phân tích xu thế
Bản chất của phương pháp này là dựa vào quy luật biến động trong
quá khứ để suy ra xu hướng phát triển trong tương lai.
2
Phần I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
1.1. Khái niệm về du lịch
Trên thực tế du lịch đã được nhìn nhận từ nhiều phương diện khác

nhau và có rất nhiều quan niệm khác nhau về du lịch. Những định nghĩa
truyền thống thì chỉ quan niệm du lịch đơn giản là một kỳ nghỉ hay một
chuyến đi để giải trí.
Theo xu hướng hiện nay, du lịch được định nghĩa bao hàm các nội
dung liên quan đến dạng chuyển cư đặc biệt, cách thức sử dụng thời gian tại
nơi đến và các hoạt động kinh tế, xã hội liên quan diễn ra tại đó. Trong cuốn
“Du lịch: Môi trường vật lý. Kinh tế và tác động xã hội” (1982) Mathieson và
Wall đã đưa ra định nghĩa như sau:
“Du lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân đến những nơi ngoài
khu vực cư trú và làm việc thường xuyên của họ, các hoạt động được thực hiện
trong thời gian lưu trú tại những nơi đó và các tiện nghi được sinh ra nhằm
thỏa mãn nhu cầu của họ”
Ở Việt Nam khái niệm này được định nghĩa chính thức trong pháp
lệnh du lịch (1999) như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư
trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ
dưỡng trong một thời gian nhất định ”.
Du lịch là một ngành liên quan đến rất nhiều thành phần như: Du
khách, phương tiện giao thông, địa bàn đón khách ở đó diễn ra các hoạt động
du lịch cũng như các hoạt động kinh tế - xã hội liên quan đến du lịch.
1.2. Khái niệm và đặc trưng của du lịch sinh thái
1.2.1. Khái niệm du lịch sinh thái
Từ những năm 80 DLST bắt đầu được thế giới quan tâm và thập kỷ
90 được dự đoán là “Thập kỷ của DLST”. Khái niệm du lịch sinh thái lần đầu
3
tiên được đưa ra bởi Hector Ceballos - Lascurain, một nhà nghiên cứu tiên
phong về loại hình du lịch này như sau:
“Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị thay đổi
với những mục tiêu đặc biệt: Nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong
cảnh và giới thực vật - động vật hoang dã cũng như những biểu thị văn hóa(cả
quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này”.

Chương trình du lịch sinh thái của hiệp hội bảo tồn thiên nhiên Quốc
tế -IUCN thì đưa ra một khái niệm tương tự nhưng có đề cao trách nhiệm
trong việc bảo tồn thiên nhiên và văn hóa bản địa cũng như lợi ích của cộng
đồng địa phương:
“DLST là loại hình du lịch và tham quan có trách nhiệm với môi
trường tại những vùng còn tương đối nguyên sơ, để thưởng thức và hiểu biết
thiên nhiên (và có kèm theo các đặc trưng văn hóa - quá khứ cũng như hiện
tại) có hỗ trợ đối với bảo tồn, và có ít tác động từ du khách giúp cho sự tham
gia tích cực có ích cho kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương”.
Còn ở Việt Nam hội thảo “Xây dựng về chiến lược quốc gia về phát
triển DLST tại Việt Nam đã đi đến thống nhất quan niệm về DLST như sau :
“DLST là một loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa bản địa
có tính giáo dục môi trường và đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn và phát triển
bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”.
Hiệp hội du lịch sinh thái định nghĩa “Du lịch sinh thái là du lịch có
trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện
phúc lợi cho nhân dân địa phương ”.
Định nghĩa này bao hàm đầy đủ nội dung của DLST thống nhất về cơ
bản với các quan niệm của các nhà khoa học thế giới.
Khái quát lại có thể nói du lịch sinh thái được nhìn nhận như là du
lịch lựa chọn những mặt tích cực của một số loại hình du lịch sau đây:
-Du lịch thiên nhiên văn hóa bản địa
-Du lịch có giáo dục môi trường
4
-Du lịch ủng hộ bảo tồn
-Du lịch hỗ trợ cộng đồng
1.2.2.Đặc trưng của du lịch sinh thái
Sự khác biệt cơ bản của du lịch sinh thái với các loại du lịch khác ở
việc đảm bảo đầy đủ các yếu tố đặc trưng chủ yếu sau:
*Dựa trên địa bàn hấp dẫn về tự nhiên và các yếu tố văn hóa bản địa

Đối tượng của DLST là những khu vực hấp dẫn về tự nhiên điển hình
với tính đa dạng sinh học cao, còn tương đối nguyên sơ. Điều này giải thích
tại sao hoạt động DLST thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên
đặc biệt ở các Vườn Quốc Gia.
*. Đảm bảo bền vững về sinh thái, ủng hộ bảo tồn.
Đây là một đặc trưng khác biệt nổi bật của DLST vì nó được phát
triển trong môi trường có những hấp dẫn về ưu thế tự nhiên trong DLST, hình
thức, địa điểm và mức độ sử dụng cho các hoạt động du lịch phải được duy trì
và quản lý trên cơ sở bền vững của hệ sinh thái và bản thân ngành du lịch.
Điều này được thể hiện ở quy mô nhóm khách thường có số lượng nhỏ, yêu
cầu sử dụng phương tiện, tiện nghi của du khách thường thấp hơn yêu cầu về
kinh nghiệm du lịch có chất lượng. Các hoạt động trong DLST thường ít gây
tác động đến môi trường, và du khách sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi
trường. (Chủ yếu ở Bắc Mỹ và Châu Âu là loại khách có thu nhập cao, trình
độ nhận thức và thẩm mỹ phù hợp)
*. Có giáo dục môi trường (GDMT).
Trong DLST, GDMT là yếu tố cơ bản thứ hai phân biệt nó với các
loại hình du lịch thông thường khác. Giáo dục và thuyết minh bằng các nguồn
thông tin thông qua tài liệu, hướng dẫn viên, các bảng biển trên tuyến, điểm
tham quan góp phần làm giàu kinh nghiệm du lịch, nâng cao nhận thức về môi
trường và bảo tồn.
GDMT có tác dụng làm thay đổi thái độ của du khách cộng đồng và
chính ngành du lịch đối với giá trị bảo tồn và sẽ góp phần tạo nên sự bền vững
5
lâu dài của những khu tự nhiên. GDMT có thể coi là một công cụ quản lý hữu
hiệu của du lịch bền vững.
* Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia và hướng lợi ích từ du
lịch
DLST tạo việc làm, tăng thêm lợi ích cho cộng đồng địa phương trên
cơ sở cung cấp về kiến thức, kinh nghiệm thực tế để đa số người dân có thể

tham gia vào việc quản lý, làm dịch vụ DLST, từ đó hướng họ tham gia vào
công tác bảo tồn. Lợi ích mang lại từ du lịch phải lớn hơn sự trả giá về môi
trường và văn hóa xã hội có thể nảy sinh mà địa phương phải gánh chịu.
* Cung cấp các kinh nghiệm du lịch với chất lượng cao cho du khách
về sự nâng cao hiểu biết môi trường du lịch, kinh nghiệm du lịch lý thú là sự
tồn tại sống còn lâu dài của ngành DLST. Vì vậy các dịch vụ trong DLST tập
trung vào việc đáp ứng những nhu cầu này nhiều hơn là các dịch vụ cho nhu
cầu về tiện nghi.
1.3. Các nguyên tắc của du lịch sinh thái
DLST được phát triển trên cơ sở những nguyên tắc hướng tới phát
triển bền vững. Các nguyên tắc này không chỉ cho các nhà quy hoạch,các nhà
quản lý,điều hành mà cả những hướng dẫn viên du lịch sinh thái và được tổng
kết lại như sau:
- Sử dụng tài nguyên bền vững: Sẽ khiến môi trường tự nhiên văn hóa, xã
hội được duy trì và việc kinh doanh phát triển lâu dài.
- Giảm tiêu thụ quá mức và xả thải nhằm giảm chi phí khôi phục các suy
thoái môi trường, đồng thời cũng góp phần nâng cao chất lượng du lịch.
- Duy trì tính đa dạng: Là điều cơ bản cho du lịch bền vững và tạo cơ sở
mạnh mẽ cho ngành công nghiệp này.
- Lồng ghép du lịch vào quy hoạch phát triển địa phương và quốc gia
- Hỗ trợ nền kinh tế địa phương, phải tính toán chi phí môi trường vừa để
bảo vệ nền kinh tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường.
6
- Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương tạo nên những lợi ích
kinh tế lâu dài cho cộng đồng địa phương những người nên được quyền
làm chủ trong sự phát triển và trong hoạch định du lịch.
- Sự tư vấn của các nhóm quyền lợi và nhóm công chúng tư vấn giữa công
nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương các tổ chức và cơ quan là đảm bảo
cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh.
- Đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch nhằm thực thi sáng kiến và giải pháp

PTBV, nhằm cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch.
- Marketing du lịch một cách có trách nhiệm, phải cung cấp cho du khách
những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du
khách đến môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội khu du lịch thường xuyên đáp
ứng cho du khách những kinh nghiệm lý thú.
- Triển khai các nghiên cứu nhằm hỗ trợ giải quyết các vấn đề, mang lại lợi
ích cho khu du lịch, thường xuyên đáp ứng cho du khách những kinh nghiệm
du lịch lý thú.
Các nguyên tắc cho những nhà điều hành du lịch sinh thái:
- Cung cấp các thông tin cơ bản cho khách về việc giảm thiểu các tác động
của môi trường và văn hóa khi tham quan.
- Cần cung cấp các thông tin qua hướng dẫn và tài liệu cho khách du lịch
về văn hóa và môi trường ở nơi tham quan.
- Giảm thiểu các tác động của khách thông qua việc nhắc nhở bằng lời
hoặc hành động khi cần thiết.
- Cung cấp các thông tin cần thiết và tạo cho các nhân viên có đủ khả năng
giúp công ty hạn chế những tác động vào môi trường và văn hóa địa phương
đón khách.
- Sử dụng người địa phương vào mọi cương vị của doanh nghiệp
- Phải là người ủng hộ bảo tồn của khu vực đón khách
7
- Cung cấp các cơ sở ăn, nghỉ không gây ảnh hưởng có hại đến nguồn lực
địa phương cũng như làm hại môi trường trong khi tạo mối quan hệ qua lại
với cộng đồng địa phương.
- Đảm bảo được sự lãnh đạo hợp lý, các nhóm thăm quan nhỏ để tối thiểu
các tác động vào lãnh thổ đón khách
- Tránh các khu vực ở đó không có sự quản lý và khách tham quan quá tải
1.4. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn ở Vườn
Quốc Gia
- Vai trò của VQG đối với du lịch sinh thái

Theo tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới thì :
Một vườn quốc gia là một lãnh thổ tương đối rộng trên đất liền hay
trên biển mà :
- Ở đó có một hay vài hệ sinh thái không bị thay đổi lớn do sự khai
thác hay chiếm lĩnh của con người. Các loài thực, động vật, các đặc điểm hình
thái, địa mạo và nơi cư trú của các loài hoặc các cảnh quan thiên nhiên đẹp
trong đó là mối quan tâm cho nghiên cứu khoa học, cho giáo dục và giải trí
- Ở đó ban quản lý thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc loại bỏ
càng nhanh càng tốt sự khai thác hoặc chiếm lĩnh và tăng cường sự tôn trọng
những đặc trưng về sinh thái, hình thái học và cảnh quan.
- Ở đó cho phép khách du lịch đến thăm, dưới những điều kiện đặc
biệt, cho các mục đích nghiên cứu, giáo dục, văn hóa, giải trí và lòng ngưỡng
mộ.
Trong hệ thống phân loại rừng đặc dụng Việt Nam: VQG “Là khu bảo
vệ có giá trị sử dụng toàn diện về các mặt bảo vệ thiên nhiên, nghiên cứu khoa
học, bảo tồn di tích văn hóa phục vụ tham quan du lịch”.
Như vậy với sự phong phú của tự nhiên, sự đa dạng của hệ thống sinh
thái và các cảnh quan đẹp, các VQG là địa bàn thuận lợi cho việc phát triển
DLST mang lại lợi ích về kinh tế - xã hội cho cộng đồng sở tại.
8
Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan điểm về mối quan hệ giữa
phát triển du lịch và bảo tồn tự nhiên, mối quan hệ đó được tổng hợp lại thành
ba dạng chính như sau:
+ Quan hệ cùng tồn tại: Giai đoạn ban đầu, khi du lịch chưa phát triển
mức độ sử dụng tài nguyên thấp. Mối quan hệ thường thể hiện ở dạng quan hệ
cùng tồn tại nghĩa là cả du lịch và bảo tồn có rất ít ảnh hưởng lẫn nhau. Mối
quan hệ này cũng ít được người ta quan tâm đến bởi nó không nảy sinh nguy
cơ làm thay đổi môi trường.
+ Quan hệ mâu thuẫn : Giai đoạn tiếp theo, nếu du lịch phát triển quá
mức, đặc biệt khi du lịch đại chúng xuất hiện mà không quản lý tốt, không

quan tâm đến bảo tồn thì mối quan hệ sẽ theo chiều hướng tiêu cực, quan hệ
mâu thuẫn. Điều này thường xảy ra trong thực tế khi khả năng quản lý nhà
nước về du lịch chưa theo kịp nhu cầu trong khi các công ty du lịch lại “gặt
hái nóng vội”. Khi đó du lịch làm tổn hại lớn đến bảo tồn tự nhiên đây thường
là vấn đề bức xúc ở các VQG và các khu bảo tồn thiên nhiên của các nước
chậm phát triển.
+ Quan hệ cộng sinh : Nhưng nếu du lịch được quy hoạch và quản lý
tốt phát triển hòa hợp với bảo tồn thiên nhiên thì mối quan hệ theo hướng tích
cực - quan hệ cộng sinh. Có mối quan hệ này những giá trị thiên nhiên vẫn
được bảo vệ, thậm trí ở điều kiện tốt hơn trong khi vẫn đảm bảo được chất
lượng du lịch. Lúc này cả du lịch và bảo tồn thiên nhiên đều nhận được những
lợi ích từ mối quan hệ giữa chúng và có sự hỗ trợ lẫn nhau. Trên thế giới
nhiều nước đã làm được điều này.
1.5. Tổ chức quản lý dịch vụ du lịch
1.5.1 .Khái niệm về dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch là toàn bộ các hoạt động nhằm tạo ra các tiện nghi và
làm dễ cho du khách trong việc mua và sử dụng dịch vụ hàng hóa trong quá
trình du lịch. Như vậy dịch vụ du lịch chính là nội dung của hoạt động kinh
9
doanh du lịch. Các đơn vị tổ chức du lịch bán các sản phẩm du lịch của mình
thu lợi nhuận trên cơ sở đáp ứng tốt nhất nhu cầu của du khách.
Hoạt động du lịch có những đặc điểm sau đây :
- Hoạt động DVDL là một quá trình kéo dài về thời gian mở rộng về
không gian do nhiều tổ chức thực hiện, chịu tác động của nhiều mối quan hệ.
- Nội dung và phương pháp phục vụ du lịch đa dạng và phong phú.
- Dịch vụ và hàng hóa phục vụ du lịch phong phú, đa dạng cả dưới dạng vật
chất và phi vật chất.
- Việc thực hiện các dịch vụ, hàng hóa phục vụ du lịch diễn ra đồng
thời trên cùng một không gian, thời gian của quá trình tạo ra dịch vụ.
1.5.2 Các loại hình dịch vụ du lịch có thể được tổ chức tại VQG

- Dịch vụ thăm quan và hướng dẫn tham quan du lịch. Mục đích thăm
quan du lịch tại cácVQG của du khách không chỉ để thỏa mãn các nhu cầu
thuần túy mà còn nhằm nâng cao hiểu biết và nhận thức về bảo tồn thiên
nhiên. Chính vì vậy dịch vụ tham quan và hướng dẫn tham quan và hướng dẫn
tham quan là loại hình dịch vụ chủ yếu trong các hoạt động dịch vụ du lịch ở
các VQG. Để đáp ứng được mục tiêu bảo tồn, việc quản lý loại hình dịch vụ
này phải theo hướng DLST.
- Dịch vụ lưu trú, ăn uống và bán hàng
Đây là các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của du khách,
do vậy cũng như các cơ sở du lịch khác, dịch vụ này cũng được tổ chức cùng
với dịch vụ tham quan, học tập và nghiên cứu. Để đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao của du khách và thích ứng với cơ chế thị trường các loại hình dịch
vụ này được tổ chức có quy hoạch trên cơ sở liên doanh liên kết và mở rộng
sự tham gia của cộng đồng.
- Dịch vụ vui chơi giải trí
Đây là loại hình dịch vụ du lịch hấp dẫn đối khách du lịch đại chúng,
ở các khu du lịch nếu tổ chức được các hoạt động này sẽ là một hoạt động thu
hút khách. Đối với các VQG các hoạt động này cần có nhưng không khuyến
10
khích để tránh sự tác động vào môi trường sinh thái. Do vậy việc tổ chức cần
cân nhắc ở mức độ nào cho phù hợp và theo hướng khai thác và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc. Ngoài ra khi khách ngủ lại qua đêm cần phải tổ chức
chương trình giao lưu văn hóa, văn nghệ, giữa khách du lịch và cán bộ VQG.
Đặc biệt phát huy văn hóa, văn nghệ của người Mường để phục vụ khách qua
đó nhằm mục đích giữ gìn bản sắc dân tộc bằng tiếng mường.
Thêm vào đó còn có dịch vụ thuê xe đạp cho khách quốc tế khi họ có
nhu cầu đi thưởng ngoạn, tham quan quang cảnh của những địa điểm du
lịch.Tuy nhiên hình thức dịch vụ này chưa đem lại lợi nhuận cao nhưng nó lại
không gây tổn hại đến môi trường và các loài thú được bảo tồn tại Vườn.
1.5.3 Các yếu tố sản xuất sử dụng trong quá trình du lịch

- Yếu tố tài nguyên:
Tài nguyên là yếu tố vô cùng quan trọng cho du lịch hình thành và
phát triển. Cảnh quan thiên nhiên và di tích lịch sử văn hóa và những nền văn
hóa đặc trưng mang đậm sắc thái dân tộc, bao giờ cũng thu hút mạnh mẽ lòng
hiếu kỳ của khách du lịch. Do vậy muốn kinh doanh du lịch đạt hiệu quả cao
căn cứ loại hình và qui mô dịch vụ cho phù hợp, đồng thời phải biết cách làm
giàu tài nguyên trong quá trình du lịch.
-Yêú tố về vốn:
Kinh doanh du lịch đòi hỏi huy động nguồn vốn không nhỏ đặc biệt
trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, nhà nghỉ, các khu vực vui
chơi giải trí, phương tiện giao thông vận tải ... và cần sự đầu tư đồng bộ thì
mới phát huy tốt hiệu quả. Ngành du lịch nước ta trong giai đoạn hiện nay gặp
rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư bởi nền kinh tế còn thấp
kém khi nhu cầu du lịch lại phát triển quá nhanh.
-Yếu tố về vật tư hàng hóa:
Vật tư hàng hóa phục vụ du lịch rất phong phú đa dạng đòi hỏi chất
lượng cao, khó bảo quản và giá cả thường rất cao. Song khối lượng vật tư
hàng hóa tiêu thụ trong lĩnh vực này lại rất lớn, nếu tổ chức tiêu thụ tốt thì sẽ
11
mang lại nguồn lợi khổng lồ.Thông thường khách du lịch xuất hiện ở đâu thì ở
đó có hình thành dịch vụ bán hàng.
1.5.4 Marketing du lịch
Marketing du lịch là sự ứng dụng khoa học Marketing vào lĩnh vực du
lịch là hệ thống hoạt động và quản lý của công ty du lịch nó có vai trò liên kết
hợp nhất giữa mong muốn của khách hàng mục tiêu, với các hoạt động sản
xuất, tài chính và nhân sự của công ty du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng một cách tốt nhất và sớm hơn các đối thủ cạnh tranh để đạt được
mục đích của công ty.
Như vậy Marketing du lịch đòi hỏi trước hết phải điều tra nắm bắt
được nhu cầu của những đối tượng du khách sẽ đến với công ty trên cơ sở đó

xây dựng chiến lược kinh doanh, xây dựng sản phẩm và tổ chức hệ thống
mạng lưới dịch vụ phù hợp nhằm thu hút lượng khách lớn nhât, kinh doanh
thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đáp ứng tốt nhu cầu của du khách.
12
Phần II
ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
SINH THÁI TẠI VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG
2.1 . Đặc điểm cơ bản của Vườn quốc gia Cúc Phương
2.1.1 Giới thiệu khái quát về VQG
VQG Cúc Phương là khu rừng nguyên sinh còn sót lại trên dãy núi đá
vôi nằm gần kề châu thổ Sông Hồng với nền văn minh lúa nước lâu đời của
cư dân nước Việt. VQG Cúc Phương nằm cách thủ đô Hà Nội 120km về phía
tây nam, nằm trên ranh giới của ba tỉnh Ninh Bình, Thanh Hoá và Hoà Bình,
đây là một khu rừng nguyên sinh nhiệt đới và á nhiệt đới có nhiều loài động
thực vật quý hiếm, có tính đa dạng sinh học rất cao phong phú, có giá trị về
mặt văn hoá và lịch sử.
Ngày 7/7/1962 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập khu
rừng cấm Cúc Phương, là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên ở Việt nam với
diện tích là 22.200 ha. Ngày 01/8/1996 rừng cấm Cúc Phương được đổi tên
thànhVQG Cúc Phương. Từ đó đến nay, ngoài mục đích bảo tồn thiên nhiên,
VQG Cúc Phương còn trở thành một địa điểm lý tưởng cho việc nghiên cứu
khoa học, tham quan du lịch, giải trí, nghỉ ngơi cho mọi người.
Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, VQG Cúc Phương đã lập
được nhiều thành tích xuất sắc và luôn xứng đáng là đơn vị dẫn đầu trong
công tác bảo tồn thiên nhiên ở Việt nam.
VQG Cúc Phương đã được Nhà nước tặng huân chương độc lập hạng
hai và danh hiệu đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới.
VQG Cúc Phương được xếp vào loại " là khu bảo vệ có giá trị sử
dụng toàn diện về các mặt bảo vệ thiên nhiên, nghiên cứu khoa học bảo tồn di
tích văn hóa, phục vụ tham quan du lịch".VQG Cúc Phương được Nhà nước

quy định ba chức năng cơ bản sau:
- Bảo vệ thiên nhiên, bảo tồn di tích văn hoá
- Nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu khoa học
13
- Tổ chức phục vụ tham quan du lịch
Để thực hiện các chức năng trên, luận chứng kinh tế - kỹ thuật đã
xác định các nhiệm vụ cụ thể của Vườn như sau:
+ Quản lý bảo vệ toàn bộ hệ sinh thái tự nhiên của Vườn, mọi giá
trị tài nguyên văn hoá, lịch sử, khảo cổ, các cảnh quan có giá trị thẩm mỹ đặc
biệt, phục hồi những khu vực đã bị tác động hoặc bị tàn phá.
+ Tổ chức điều tra, nghiên cứu khoa học, thực nghiệm phục vụ
công tác bảo vệ, phục hồi quản lí và khai thác nguồn tài nguyên hợp lí.
+ Đảm nhiệm làm tốt dịch vụ du lịch sinh thái trên cơ sở tôn
trọng luật lệ, nguyên tắc bảo vệ và sử dụng tài nguyên của VQG, tạo điều kiện
cho mọi người tham quan, học tập, giải trí, thưởng thức giá trị của VQG, nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường…
2.1.2 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của VQG
Cúc Phương
- Vị trí địa lý
Cách biển đông 60km theo đường chim bay về phía tây, khu rừng Cúc
Phương nổi lên như một ốc đảo xanh giữa đồng bằng của 4 huyện: Nho Quan
(thuộc tỉnh Ninh Bình), Thạch Thành (thuộc tỉnh Thanh Hoá), Yên Thuỷ và
Lạc Sơn (thuộc tỉnh Hoà Bình).
Với vị trí địa lý nằm ở toạ độ: 20
0
14' - 20
0
24' vĩ độ bắc, 105
0
29' -

105
0
44' kinh độ đông.
- VQG Cúc Phương cách thủ đô Hà Nội 120km về hướng tây nam
theo đường ô tô, nằm không xa đường quốc lộ chính và chỉ cách quốc lộ 1A
35km, có đường giao thông vào dễ dàng tạo điều kiện thu hút khách tham
quan. Hơn nữa do vị trí nằm gần thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế xã hội của
cả nước nên có thể thu hút nguồn khách từ Hà Nội và các vùng lân cận thực
hiện chuyến tham quan Cúc Phương khá tiện lợi với thời gian trong ngày.
Cúc Phương lại nằm trong quần thể du lịch Ninh Bình nổi tiếng của cả
nước với 18 điểm du lịch hấp dẫn như: Cố đô Hoa Lư lịch sử từng là trung
14
tâm chính trị kinh tế, văn hoá của nước Đại cồ Việt, Nhà nước phong kiến
trung ương độc quyền đầu tiên của Việt nam ở thế kỷ thứ X; Nhà thờ Phát
Diệm - công trình văn hoá tôn giáo kết hợp hài hoà kiến trúc phương đông -
phương tây… có nhiều hang động đẹp như "Nam thiên đệ nam động", động
Vân trình; nhiều hồ nước đẹp: Hồ Đầm cút, hồ Yên quang, hồ Đồng chương
có suối nước nóng Cúc Phương … khu thắng cảnh Tam Cốc - Bích Động.
Ngoài ra VQG còn tồn tại hệ động thực vật quý hiếm có tên trong
sách đỏ thế giới và Việt Nam như: Voọc quần đùi trắng, chồn bay, sóc bay,
đại bàng… thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước, quốc tế
và khách du lịch đến chiêm ngưỡng… với mật độ điểm du lịch cao và hấp dẫn
đường giao thông đến Ninh Bình thuận lợi về cả đường thuỷ và đường bộ, có
đường quốc lộ số 1 và đường sắt xuyên việt chạy qua, khả năng thu hút khách
du lịch đến Ninh Bình là rất lớn. Khoảng cách giữa các điểm du lịch hấp dẫn
của Ninh Bình là ngắn, đi lại dễ dàng và việc kết hợp giữa các tour, tuyến du
lịch của Cúc Phương với điểm du lịch tạo thành các tour du lịch hấp dẫn là
khá thuận tiện, nên làm tăng khả năng thu hút khách du lịch đến với Cúc
Phương, đặc biệt nguồn khách từ Hà Nội và các tỉnh lân cận.
- Địa hình

VQG Cúc Phương thuộc dạng địa hình Carsto, chủ yếu là đá vôi với
nhiều đỉnh núi cao và các hang động có nhiều đỉnh núi cao và các hang động
có nhiều nhũ đá đẹp có khả năng hấp dẫn khách du lịch, phục vụ tham quan,
nghiên cứu như: Hang Đắng hay hang Dơi mà ngày nay gọi là động Người
xưa, động Trăng khuyết, hang Con Moong, động Thuỷ Tiên, hang Phò Mã…
những hồ nước nóng, những con suối chảy theo mùa, và cả những dòng suối
ngầm làm nên nét độc đáo hấp dẫn riêng cho mình.
Khoảng 3/4 diện tích Cúc Phương là núi đá vôi có độ cao tuyệt đối
trung bình từ 300 - 400m. Với hai dãy núi cao chạy song song, ở giữa là thung
lũng mở rộng về phía tây bắc và hẹp dần về phía đông nam tạo ra vùng tiểu
khí hậu khá biệt lập. Với địa hình cao hơn hẳn so với khu vực lân cận Cúc
15
Phương còn được ví như một "Hạ long cạn" hùng vĩ, và đây cũng là một trong
những điều kiện thuận lợi để khu rừng này được bảo vệ tồn tại khá nguyên
vẹn đến ngày nay, trước sức ép khai thác lâm sản của một biển người vây
quanh trên đường ranh giới dài 120km.
- Khí hậu, thuỷ văn
Do đặc điểm của cấu tạo địa lý như trên nên khí hậu của Cúc Phương
có nhiều điểm khác biệt. Khí hậu Cúc Phương thuộc khu vực khí hậu nhiệt
đới gió mùa, có sự phân hoá theo mùa. Do thảm thực vật dày, cùng với địa
hình tương đối cao nên nhiệt độ ở đây luôn thấp hơn ở các vùng xung quanh.
Nhiệt độ bình quân năm là 22,5
0
C, nhiệt độ cao tuyệt đối là 39
0
C, thấp tuyệt
đối là 4,9
0
C.
Lượng mưa bình quân năm ở đây dao động từ 1.700 - 2.200mm, cơn

mưa to thường xuất hiện vào cuối tháng 8 và tháng 9. Độ ẩm của Cúc Phương
tương đối cao, bình quân là 85% và khá đều trong năm, tháng thấp nhất trong
năm không dưới 75%. Cúc Phương một năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và
mùa khô, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 - tháng 11 (lượng mưa 100mm trở lên)
lượng mưa chiếm khoảng 88% tổng lượng mưa cả năm, mùa hanh khô từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau và lượng mưa chiếm khoảng 12%. Ở Cúc
Phương một năm có khoảng 190 - 200 ngày mưa, số ngày không mưa đạt trên
150 ngày phù hợp với mức độ, khá thuận lợi cho hoạt động du lịch nhất là đối
với du lịch sinh thái. Tuy nhiên vào những ngày mưa hoạt động du lịch bị hạn
chế gây khó khăn cho việc đi lại, tham quan trong rừng của du khách vì có
nhiều Vắt và đường khó đi.
Nhìn chung khí hậu Cúc Phương phân theo mùa, mùa mưa gặp khó
khăn đi lại, tham quan do hệ thống thoát nước là các dòng suối ngầm bị quá
tải dẫn đến ngập lụt ở một vài nơi, đường đi bộ ở các tuyến tham quan có trở
ngại. VQG Cúc Phương được đánh giá tổng hợp là khá thích nghi cho hoạt
động du lịch, thời gian hoạt động du lịch ở đây kéo dài từ tháng 10 đến tháng
16
12 và từ tháng 3 đến nửa đầu tháng 5 do tính phân mùa của khí hậu vì vậy
hoạt động du lịch ở Cúc Phương cũng mang tính mùa vụ.
Về thuỷ văn, Cúc Phương có hệ thống sông suối ít, song nguồn nước
ngầm khá phong phú tạo nên nguồn cung cấp nước cho sông hồ xung quanh
Vườn. Mặc dù lượng mưa lớn, song do đặc điểm địa hình Carsto nên nước rút
nhanh xuống các bể nước ngầm, hạn chế việc hình thành các dòng chảy mặt.
Trong khu vực VQG Cúc Phương chỉ có sông Bưởi và sông Ngang ở phía tây
bắc có nước quanh năm, còn lại là các khe cạn, chỉ có nước về mùa mưa.
Trong phần ranh giới Vườn không có hồ ao tự nhiên mà chỉ có những dòng
suối cạn vào mùa khô, thường gây lũ nhỏ vào những tháng có lượng mưa lớn.
+ Sông Bưởi chảy từ phía nam của tỉnh Hoà Bình, cắt dọc phần phía
tây của Vườn trước khi hoà với sông Ngang chạy dọc biên giới phía tây ở khu
vực xã Thạch Lâm. Đây là hai con sông có giá trị cung cấp nguồn nước ngọt

cho con người, động vật và tạo nên những cảnh quan hấp dẫn khách du lịch.
+ Cúc Phương về mùa mưa, nước rút vào các khe cạn rồi vào các vó
nước, phía đông nam của Vườn còn có khu hồ Yên Quang, hồ này bao gồm 4
hồ liền nhau với diện tích khoảng 300 ha kéo dài 5km được xây dựng nhằm
mục đích chứa nguồn nước ngầm từ khu núi đá vôi để cung cấp nước tưới cho
khu vực sản xuất nông nghiệp góp phần cải thiện môi trường.
Do vị thế của hồ tựa vào vách núi tạo nên một cảnh sắc sơn thuỷ hữu
tình có giá trị về du lịch, giữa hồ còn có một hòn đảo nhỏ cây cối um tùm, có
vài cây cổ thụ tán rộng bao vây lấy một miếu cổ. Vào mùa đông chim trời về
đây chú ngụ tạo nên cảnh quan thiên nhiên thật trữ tình hấp dẫn khách xem
chim.
Ngoài ra, tại làng Thường Sung ở xã Kỳ Phú có nguồn nước khoáng
từ trong lòng đất phun lên, trong suốt, không màu, không mùi, có nhiệt độ là
35
0
. Nước này rất có lợi cho sức khoẻ khi ngâm mình trực tiếp tại nguồn. Hiện
đã được sản xuất và trao đổi trên thị trường mang nhãn hiệu nước khoáng Cúc
Phương.
17
- Tài nguyên thiên nhiên:
Qua điều tra thống kê tổng hợp tài nguyên rừng và sử dụng đất của
VQG Cúc Phương được thể hiện như sau:
Biểu 01. Đặc điểm cơ cấu đất đai tài nguyên rừng của VQG
STT Hạng Mục Diện tích (ha) Tỷ trọng (%)
1 I. Đất lâm nghiệp 21.811,6 24,60
2 1. Đất có rừng 16.686,3 18,82
3 1.1. Rừng tự nhiên 16.605,8 18,73
4 - Rừng gỗ núi đất 1.110,1 1,25
5 + Rừng giầu 526,8 0,59
6 + Rừng trung bình 328,8 0,37

7 + Rừng nghèo 240,0 0,27
8 + Rừng non phục hồi 14,5 0,02
9 - Rừng gỗ núi đá 15.307,4 17,27
10 Rừng tre nứa 188,3 0,21
11 1.2. Rừng trồng 80,5 0,09
12 2. Đất không có rừng 5.125,3 5,78
13 2.1. Núi đất 2.008,4 2,27
14 - Trảng cỏ 1.424,6 1,61
15 - Trảng cây bụi 342,1 0,39
16 - Cây gỗ rải rác 241,7 0,27
17 2.2. Núi đá 3.116,9 3,52
18 - Cây bụi 3.116,9 3,52
19 II. Đất nông nghiệp 78,9 0,09
20 III. Đất khác 305,5 0,34
Tổng 88.660,4 100
(Nguồn: số liệu thống kê của ban quản lý Rừng VQG Cúc Phương)
Với hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm trên núi đá vôi điển hình, Cúc
Phương có tính đa dạng sinh học cao, đây là những tài nguyên thiên nhiên cho
du lịch sinh thái. Cúc Phương là nơi hội tụ của nhiều luồng thực vật và rất
phong phú về loài. Theo số liệu điều tra gần đây Cúc Phương có gần 2000 loài
thực vật, chiếm 17,27% trong tổng số loài thực vật ở Việt Nam. Đặc biệt Cúc
Phương có nhiều loài đặc hữu quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam.
Cấu trúc rừng mưa nhiệt đới, do vậy rừng Cúc Phương là rừng nhiều tầng, có
18
nhiều cây gỗ lớn, có hoa quả trên thân… đây là những yếu tố kỳ thú đối với
khách du lịch. Sự phong phú hấp dẫn của thế giới thực vật của Cúc Phương
còn thể hiện ở sự đa dạng của các loài cây dây leo thân gỗ, hiện tượng cây phụ
sinh, các loài đa bóp cổ … Nguồn tài nguyên thực vật đa dạng và phong phú
này không chỉ có giá trị về mặt khoa học, mà còn thu hút khách du lịch với sự
ngưỡng mộ và trân trọng.

Khu hệ dộng vật Cúc Phương cũng rất phong phú, theo số liệu điều
tra mới nhất, Cúc Phương có 89 loài thú, 307 loài chim, 110 loài bò sát và
lưỡng cư, 65 loài cá và gần 2000 loài côn trùng. Trong các loài thú ở Cúc
Phương, nhiều loại đã được xếp vào loại quý hiếm như Báo gấm, Báo lửa,
Gấu ngựa và nhiều loài đặc hữu như sóc bụng đỏ. Cúc Phương có loài Linh
trưởng rất đẹp, ngoài Việt Nam chúng không còn tồn tại nơi nào khác. Đó là
loài Voọc mông trắng, chim gõ kiếm đầu đỏ, chim phượng hoàng đất. Chính
vì vậy Cúc Phương được chọn là một trong những điểm xem chim lý tưởng
cho các nhà khoa học trong và ngoài nước.
2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội
- Xã hội:
VQG Cúc Phương nằm trong một phần đất đai của 15 xã, thuộc 4
huyện của 3 tỉnh.Với trên 80.000 nhân khẩu sống ở vùng đệm, mật độ chung
cho toàn vùng gồm 15 xã là 138 người/km
2
nhưng dân số phân bố không đều.
Một số xã có mật độ dân số thấp như Cúc Phương 23 người/km
2
, Thạch Lâm
38 người/km
2
, Kỳ Phú 72 người/km
2
, Văn Phương 454 người/km
2
, Yên Trị
354 người/km
2
.
Do đặc điểm dân cư chủ yếu tập trung ở vùng thấp gần các trục đường

giao thông, nên phân bố lao động và sản xuất cũng tập trung chủ yếu ở đây.
Dân tộc chủ yếu là người Mường và người Kinh. Người Mường chủ yếu phân
bố ở các Bản vùng núi thuộc các xã Yên Nghiệp, Ân Nghĩa, Tân Mỹ, Thành
Yên, Cúc Phương, Thạch Lâm. Dân tộc Mường thường sống tập trung thành
19
những bản nhỏ từ 20 - 40 hộ ở các thung lũng có nguồn nước ổn định. Người
Kinh sống ở làng bản gần đường giao thông và thị trấn.
Tốc độ gia tăng dân số khá cao, các tập quán sản xuất, sinh hoạt còn
lạc hậu. Từ nhiều thế kỷ người Mường đã định cư và phát triển ở vùng núi cao
và hoàn toàn không phụ thuộc vào người Kinh sống ở vùng đồng bằng. Dân
tộc Mường đã phát triển những phong tục tập quán và ngôn ngữ của họ khác
biệt với dân tộc khác.
Cư dân lâu đời ở đây là người dân tộc Mường có nét văn hoá - xã hội
riêng biệt, đặc thù. Người Mường sinh sống trong các ngôi nhà sàn bên sườn
đồi thành những Bản, họ đã cư trú ở đây 300 năm, sản xuất nông nghiệp là
nghề chính, có thêm ngề dệt vải thổ cẩm, chủ yếu để dùng trong gia đình,
nghề nuôi ong lấy mật. Công cụ sản xuất truyền thống của họ mang nặng tính
bản sắc như con nước, cối giã gạo bằng sức nước, máng dẫn nước bằng ống
bương, những khung cửi dệt vải thủ công, rìu nỏ làm bằng gỗ… Thêm vào đó
là các trang phục độc đáo, nếp sống sinh hoạt đặc trưng bởi nhiều thế hệ sống
chung trong một ngôi nhà, phong tục uống rượu cần, lễ hội Cồng chiêng, tục
chơi xuân ném còn. Họ sống thật thà, gắn bó, thương yêu lẫn nhau và rất hiếu
khách.
Tuy nhiên các thôn bản ở gần đường giao thông không còn giữ được
các bản sắc đặc thù của mình và đang hoà đồng với cách sống của người
Kinh, chỉ còn một số bản ở phía tây của Vườn là khu vực thung lũng sông
Bưởi như bản Khanh, xóm Voọc…Còn giữ được một số nét văn hoá sinh hoạt
bản địa.
- Kinh tế: Đời sống kinh tế của cộng đồng xung quanh Vườn nói
chung còn nghèo, thu nhập của người dân chủ yếu là từ nông nghiệp, thu nhập

bình quân 2.000.000 đồng / người/ năm. Trước đây thu nhập chính của họ là
từ nông nghiệp, chủ yếu là gạo,ngô, mía, lạc. Cây lúa là cây lương thực chính
của người dân, nhưng ở các cộng đồng xung quanh Vườn việc sản xuất lúa lại
phụ thuộc vào rất nhiều vào nguồn nước từ con suối trong rừng chảy ra. Ngoài
20
ra, các nguồn thu khác của họ đều bắt nguồn từ các sản phẩm rừng, sức lao
động, các dịch vụ và các mặt hàng thủ công, các loại hình dịch vụ, công
nghiệp và lao động làm thuê. Các sản phẩm chủ yếu mà cư dân khai thác và
sử dụng đó là gỗ, củi, măng, các loại củ quả và hạt, cây thuốc, mọc nhĩ, phong
lan. Động vật mà họ bắt và săn bắn đó là cua, ốc đá, cá, gà rừng, các loại bò
sát (rắn, tắc kè). Thú và các loài động vật hoang dã khác, những hoạt động đốt
rừng làm nương dẫy, chăn thả gia súc trong rừng cũng ảnh hưởng tới tài
nguyên thiên nhiên ở đây.
Hoạt động sinh kế của dân cư trong khu vực VQG đã và đang có
nhiều ảnh hưởng xấu đến tài nguyên thiên nhiên của Vườn, đòi hỏi Ban quản
lý phải có giải pháp hữu hiệu để vừa bảo vệ phát triển tài nguyên vừa nâng
cao đời sống cho nhân dân địa phương.
Thuộc địa hình Carsto che phủ, Cúc Phương có nhiều hang động đẹp,
đặc biệt có một số hang động còn lưu giữ những di tích khảo cổ có giá trị như
động Người xưa, hang Con moong. Qua việc khai quật ở hai động này người
ta đã thu giữ được một số bộ xương người nguyên thuỷ và công cụ lao động
bằng đá thuộc hai nền văn hoá Hoà Bình và Sơn Vĩ cách đây hàng nghìn năm.
Các di chỉ này đã trở thành những vật chứng có giá trị khoa học, đồng thời
cũng là yếu tố thu hút sự quan tâm của khách tham quan.
Nhìn chung điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tài nguyên giàu có
cùng với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ ở VQG Cúc Phương rất thuận lợi cho
việc tổ chức các hoạt động tham quan du lịch, đặc biệt là loại hình du lịch sinh
thái. Được nhà nước cho phép, nhiều năm qua VQG Cúc Phương đã tiến hành
kinh doanh dịch vụ du lịch, song công tác quản lý, tổ chức của các hoạt động
này còn nhiều điểm cần phải xem xét để cải tiến, sửa đổi bổ sung cho phù hợp

và phát triển tốt hơn.
2.1.4. Cơ sở hạ tầng trong khu vực VQG.
21
Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật là tiền đề cho sự phát triển kinh tế -
xã hội nói chung, và nó chiếm một vị trí rất quan trọng trong hoạt động kinh
doanh du lịch.
- Hệ thống giao thông: Giao thông đến VQG Cúc Phương thuận lợi để
thu hút khách du lịch.
+ Cách đường quốc lộ 1A là 20km, từ Gián Khẩu đến thị trấn Nho
Quan theo đường Phà Đế (đường 12A). Từ Nho Quan vào đến cổng VQG
khoảng 13km đường bê tông được nâng cấp từ năm 1994, là điều kiện khá
thuận lợi cho khách du lịch từ Hà Nội và các tỉnh đồng bằng đến thăm quan
VQG.
Ngoài ra, các đường liên tỉnh, liên huyện khác cũng tạo điều kiện khá
thuận lợi cho khách du lịch từ Hà Nội và các tỉnh đồng bằng đến thăm quan
VQG.
+ Đường ô tô liên tỉnh từ Nho Quan đi Yên Thuỷ - Lạc Thuỷ - Hoà
Bình; đường ô tô Lạc Sơn - Thạch Thành - Thanh Hoá, hiện đang dự kiến
nằm trong dự án đường quốc lộ 1B (đường Hồ Chí Minh). Tuyến ô tô vào
trung tâm Vườn tạo nên tuyến đầu mối cho các tuyến tham quan trong Vườn.
+ Tuyến đường chính từ cổng Vườn vào khu trung tâm đã cải tạo
thành đường bê tông, nhựa, rộng 3 - 3,5m. Xe chở khách vào thẳng khu trung
tâm, nơi tập kết để thực hiện các điểm, tuyến tham quan trong Vườn. Tổng
chiều dài tất cả các tuyến đường mòn đi bộ tham quan khoảng 30km.
Tuy nhiên, vào mùa mưa, một số đoạn đườn từ quốc lộ 1A đến thị
trấn Nho Quan và từ khu hành chính vào trung tâm Vường bị ngập, gây khó
khăn cho việc đi lại nói chung và cho du lịch nói riêng. Ngoài ra chất lượng
của một số tuyến đường liên tỉnh còn thấp, hạn chế khả năng thu hút luồng
khách đến tham quan từ những tuyến đường này.
- Thông tin liên lạc: Trước đây mạng lưới thông tin liên lạc ở Vườn

còn gặp khó khăn vì chưa có sóng điện thoại di động, mà liên lạc chủ yếu
bằng điện thoại bàn và chỉ có đến cổng Vườn. Trong trung tâm Bống cũng
22
chưa có mạng lưới, hệ thống máy fax và email cũng chỉ đến đó. Mọi thông tin
từ cổng Vườn vào trung tâm đều phải đưa đến tận nơi thông qua phương tiện
giao thông. Hiện tại bây giờ đã có lưới điện và sóng điện thoại di động đến
khu vực hồ Mạc (qua cổng Vườn vào phía trong 1km). Theo phản ánh của
một số khách du lịch thì lượng khách nghỉ lại qua đêm chưa nhiều một phần
vì lý do thiếu thông tin.
- Hệ thống cấp điện:
Hệ thống lưới điện của Vườn được nối từ thị trấn Nho Quan đến cổng
Vườn, về mùa mưa vẫn còn xẩy ra mất điện do cây đổ hoặc tập trung điện cho
chống lụt ở vùng lân cận.
Nguồn điện này đảm bảo thuận tiện cho việc sử dụng các phương
pháp thiết yếu cho nhu cầu của khách (quạt điện, điều hoà, nước nóng, tivi…)
Ngoài ra, VQG có hai máy phát điện có công suất 75KVA và 8KVA.
Một máy dự phòng khi cần thiết cho khu trụ sở chính cổng Vườn. Máy kia
dùng phát điện tại khu trung tâm Vườn vào buổi tối (từ 6h đến 10h) vì khu
này chưa được cung cấp điện lưới quốc gia. Vì vậy khách nghỉ lại trong khu
nhà nghỉ ở trung tâm Vườn là những khách không đòi hỏi các yêu cầu tiện
nghi cao, phù hợp với khách du lịch sinh thái đích thực, thích gần gũi với
thiên nhiên.
- Hệ thống cấp thoát nước và xử lý nước thải:
Khu vực cổng Vườn đã có hệ thống nước máy và xử lý nước sạch, về
căn bản là đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Khu vực trung tâm sử dụng nguồn
nước tự nhiên thông qua bể chứa. Nước tự nhiên ở rừng Cúc Phương trong,
sạch, có thể dùng làm nước sinh hoạt. Tuy nhiên, hàm lượng vôi không được
xử lý cũng phần nào không tốt cho sức khoẻ nếu sử dụng lâu dài.
Nước thải được sử lý bằng phương pháp thấm, phân huỷ thông qua bể
phốt, nước rửa ở nhà ăn được dẫn qua cống rãnh và tự thấm vào lòng đất. Rác

thải chưa được phân loại mà được xử lý thô sơ bằng cách đốt hoặc chôn.
23
Lượng khách đến Cúc Phương ngày càng tăng, rác thải ngày càng
nhiều. Để giải quyết vấn đề này, VQG Cúc Phương đang có kế hoạch phối
hợp với Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Ninh Bình xây dựng hệ
thống xử lý chất thải giảm thiểu sự tác động xấu đến môi trường.
2.2.Tình hình tổ chức hoạt động du lịch sinh thái tại VQG Cúc phương
2.2.1. Tổ chức quản lý hoạt động du lịch sinh thái
VQG Cúc Phương hiện nay có 112 cán bộ công nhân viên được chia
thành các bộ phận sau đây:
* Lãnh đạo VQG:
-Có 1Giám đốc
-2 phó Giám đốc
* Các phòng ban chức năng:
- Phòng Tổ chức hành chính
- Phòng Kế hoạch tài vụ
- Phòng Khoa học và hợp tác quốc tế
* Các đơn vị cơ sở:
- Hạt kiểm lâm
- Trạm nghiên cứu khoa học
- Ban du lịch
Các hoạt động du lịch hoàn toàn do sự điều hành và giám sát của Ban
giám đốc, giám đốc là người đứng đầu và trực tiếp điều hành mọi hoạt động
của Vườn.
Phó giám đốc (2 người) tham mưu giúp việc cho giám đốc.
Gồm có ba đơn vị trực thuộc và ba phòng chức năng thực hiện các
nhiệm vụ chủ yếu như sau:
Phòng Tổ chức hành chính có nhiệm vụ tham mưu giúp cho giám đốc
trong việc định ra đường lối, sắp xếp lao động một cách hợp lý, xây dựng kế
hoạch quản lý cán bộ công nhân viên trong Vườn.

24
Phòng Kế hoạch tài vụ quản lý vốn, tài sản của Vườn, tham mưu cho
giám đốc sử dụng vốn kinh doanh đạt hiệu quả cao, tăng nhanh, thay mặt
Vườn kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh củaVườn.
Phòng Khoa học và hợp tác quốc tế nhiệm vụ phòng này chủ yếu thực
hiện các dự án trong Vườn quan hệ với các tổ chức nước ngoài thực hiện dự
án đầu tư nghiên cứu về khoa học nghiên cứu bảo tồn loài.
Hạt kiểm lâm chức năng chính của đơn vị này là làm công tác quản lý
rừng và bảo vệ rừng.
Trạm nghiên cứu khoa học chủ yếu là nghiên cứu các công trình khoa
học tạo nguồn giống lai ghép các nguồn gen mới.
Ban du lịch chủ yếu làm công tác đón tiếp khách đến thăm Vườn
hướng dẫn điều tiết khách sao cho hợp lý, ngoài ra còn một công việc rất quan
trọng là làm công tác bảo tồn để người dân và du khách nhận thức được tầm
quan trọng của việc làm này trong đó ban du lịch là một trong ba đơn vị cơ sở
thực hiện nhiệm vụ tổ chức du lịch. Như vậy Ban du lịch là đơn vị cơ sở chịu
sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của giám đốc Vườn.
Theo sơ đồ 01 dưới đây ta thấy với mô hình quản lí này, các hoạt
động du lịch hoàn toàn do sự điều hành và giám sát của Ban quản lý VQG.
Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp giữa hoạt động du lịch với
công tác bảo tồn của VQG. Ban quản lý VQG có thể chủ động trong việc quy
hoạch, điều chỉnh các hoạt động du lịch cho phù hợp với nhiệm vụ, chức năng
của Vườn đó là bảo tồn và nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường.
25

×