Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ MINH CHI

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HỐ TINH THẦN
TRONG XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ MINH CHI

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HỐ TINH THẦN
TRONG XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 03 08

Ngƣời hƣớng d n hoa học TS

Hà Nội - 2015



ẪN VĂN

AI


LỜI CA

ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong luận văn nay là hoàn toàn trung thực và chưa từng
được cơng bố. Các thơng tin, tài liệu trình bày trong luận văn có xuất xứ rõ
ràng.
Hà Nội, tháng 4 năm 2015
Tác giả luận văn

Lê Minh Chi

3


LỜI CẢ

ƠN

Luận văn với đề tài “Xây dựng đời sống văn hố tinh thần trong xây
dựng nơng thơn mới ở Việt Nam hiện nay” được hoàn thành tại trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Để hoàn thành
luận văn, bên cạnh những cố gắng của bản thân, tác giả luận văn đã nhận

được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể.
Trước tiên, với tình cảm chân thành, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới TS. Mẫn Văn Mai, đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học để luận văn được
hồn thành.
Tơi xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Triết học, các
cán bộ, công chức của các phòng ban, thư viện trường Đại học Khoa Học xã
hội và Nhân văn đã hết sức giúp trong q trình học tập, nghiên cứu tại khoa,
trường.
Tơi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến các ban, ngành chức năng tỉnh
Thanh Hoá đã cung cấp các số liệu nghiên cứu và UBND các xã nơi khảo sát
thực tế đã tạo điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành luận văn của mình.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã luôn quan tâm, động vieenvaf giúp đỡ tác giả trong suốt q trình
hồn thahf luận văn thạc sĩ của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận văn

Lê Minh Chi

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Đƣợc hiểu là

Ký hiệu chữ viết tắt


1

CLB

Câu lạc bộ

2

CNH

Cơng nghiệp hóa

3

HĐH

Hiện đại hóa

4

NVH

Nhà văn hóa

5

NXB

Nhà xuất bản


6

MTTQVN

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

7

SNN&PTNT

Sở Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn

8

SVHTT&DL

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

9

Tr. CN

Trước Công nguyên

10

UBND

Uỷ ban nhân dân


11

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

5


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 3
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ............................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................... 6
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu ................................. 6
6. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 6
7. Ý nghĩa của luận văn................................................................................... 7
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 7
NỘI DUNG
Chƣơng 1

ỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG

VĂN HÓA TINH THẦN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................................. 8
1.1. Quan niệm về đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống văn hoá
tinh thần trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay ........................ 8
1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn hóa tinh thần, đời sống văn hóa tinh thần .... 8
1.1.2. Quan niệm về nơng thơn mới và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần

trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay ...................................... 20
1.2. Những yếu tố tác động đến xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong
xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay ............................................... 33
1.2.1. Các yếu tố khách quan .......................................................................... 33
1.2.2. Yếu tố chủ quan ..................................................................................... 44
1.2.3. Một số vấn đề thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây
dựng nơng thôn mới ở Việt Nam hiện nay ...................................................... 49


Chƣơng 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HĨA TINH THẦN TRONG XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY (Qua khảo sát ở tỉnh Thanh Hóa) ......................... 59
2.1. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nơng
thơn mới ở Thanh Hóa hiện nay...................................................................... 59
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm văn hóa xã hội tỉnh Thanh Hóa ....... 59
2.1.2. Thành tựu xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nơng
thơn mới ở Thanh Hóa hiện nay và nguyên nhân của thành tựu .................... 62
2.1.3. Hạn chế trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và nguyên nhân
của hạn chế...................................................................................................... 86
2.2. Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh
thần trong xây dựng nơng thơn mới ở tỉnh Thanh Hóa thời gian tới .............. 96
2.2.1. Phương hướng .................................................................................... 96
2.2.2. Các giải pháp cơ bản .......................................................................... 101
KẾT LUẬN .................................................................................................. 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 118
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1.


Lí do chọn đề tài
Xây dựng nơng thơn mới đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Xây

dựng nông thôn mới, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống
của nhân dân là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta và luôn được các cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm nhằm rút ngắn dần
khoảng cách chênh lệch về đời sống vật chất và tinh thần giữa thành thị và
nông thôn. Nhận thức được tầm quan trọng của chủ trương xây dựng nông
thôn mới, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra mục tiêu “ Phấn đấu
đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nơng thơn mới theo tiêu chí Chính
phủ quy định”.
Đảng ta đã khẳng định quan điểm coi nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn
có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
và bảo về Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế-xã
hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phịng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ mơi trường sinh thái của đất
nước. Mục tiêu tổng quát về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn
được Đảng ta đề ra là “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của dân cư nơng thơn, hài hồ giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở
các vùng còn nhiều khó khăn; nơng dân được đào tạo có trình độ sản xuất
ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị,
đóng vai trị làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển
toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hố lớn, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh
lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nơng thơn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ,

1



đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hố dân
tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính
trị ở nơng thơn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai
cấp nông dân, củng cố liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức vững mạnh,
tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Đảng và Chính phủ cũng đã xác định rõ, xây dựng nông thôn mới “cuộc
vận động xã hội sâu sắc và toàn diện bao gồm phát triển kinh tế, văn hóa-xã
hội, sản xuất, đời sống, nếp sống, phong tục tập quán”. Có thể thấy, xây dựng
đời sống văn hóa cho nhân dân là một nội dung quan trọng trong tiêu chí xây
dựng nơng thơn mới của Đảng và Nhà nước ta chiếm 2 trên 19 tiêu chí của Bộ
tiêu chí Quốc gia về nơng thơn mới.
Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người, xuất hiện từ thủa bình minh
của xã hội lồi người. Những năm gần đây, vai trị của văn hóa đã được nhìn
nhận với đúng giá trị của nó. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp
hành Trung ương khóa VII đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự
kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã
hội và với thiên nhiên. Nó vừa là động lực vừa là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của chúng ta. Theo hình thái giá trị văn hố được chia thành hai lĩnh
vực, văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Xây dựng đời sống văn hoá cho
nhân dân là phải quan tâm đến cả hai lĩnh vực.
Hiện nay, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nông
thôn mới đang được thực hiện trên pham vi cả nước. Qua khảo sát ở các tỉnh,
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho cư dân nơng thơn bước đầu có
những kết quả đáng ghi nhận, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế cần
được khắc phục: đó là có khơng ít những giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống,

2



truyền thống tốt đẹp của dân tộc bị mai một, biến chất; mức hưởng thụ đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân, nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu,
vùng xa cịn chênh lệch với khu vực đơ thị; nhiều hủ tục lạc hậu và mê tín dị
đoan…tràn lan ở một số lễ hội đã ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, một số
giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân chưa thực sự bền vững; văn hóa tinh
thần chưa trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, vấn đề
xây dựng đời sống văn hố tinh thần trong xây dựng nơng thơn mới ở Việt
Nam hiện nay có vai trị to lớn trong việc phát triển bền vững kinh tế - xã hội
vùng nơng thơn. Vì những lý do như trên, tơi chọn đề tài “Xây dựng đời sống
văn hố tinh thần trong xây nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay” làm luận
văn thạc sĩ của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
Đề tài về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn cũng đã

được nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc độ và phạm vi khác nhau. Trong
những năm gần đây, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần đã được
quan tâm nghiên cứu tương đối có hệ thống, qua một số chương trình khoa
học cấp nhà nước, cơng trình nghiên cứu độc lập và một số bài viết đáng lưu ý
như:
Nhóm các tài liệu nghiên cứu về văn hóa và văn hố tinh thần tiêu biểu
như: Cơng trình “Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam” (tập thể tác giả), gồm
02 tập, Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1983 và “Giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam” của GS Trần Văn Giàu, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh (tái bản 1993) đã phân tích một cách sâu sắc về các giá trị tinh thần
truyền thống của người Việt Nam, sự vận động của những giá trị tinh thần
truyền thống qua những giai đoạn của lịch sử Việt Nam.

Đề tài khoa học: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc” do tác giả Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Nxb Chính trị

3


Quốc gia, Hà Nội, 2001. Xuất phát từ sự tiếp cận văn hóa, những yếu tố
cấu thành của nó, những tiền đề lý luận và thực tiễn hoạt động văn hóa hơn
nửa thế kỷ qua, nhóm tác giả đã khảo sát thực trạng văn hóa, đạo đức lối
sống, đặc biệt là của thanh niên, qua đó đề xuất một số giải pháp để xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
GS.TS Đỗ Huy trong cuốn: “Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi
của nó trong thế kỷ mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, trên cơ sở
nhìn lại văn hóa Việt Nam trong thế kỷ XX, tác giả đã đề cập đến việc xây
dựng những giá trị văn hoá Việt Nam trong thế kỷ mới.
Nhóm các tài liệu nghiên cứu về nông thôn và nông thôn mới tiêu biểu
như: Đề tài cấp Nhà nước do PGS.TS. Vũ Trọng Khải làm chủ nhiệm với tiêu
đề: “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế- xã hội nơng thơn mới,
kết hợp truyền thống làng xã với văn minh thời đại” được Nxb Nông nghiệp
ấn hành năm 2004 là một công trình nghiên cứu cơng phu về mơ hình phát
triển của nơng thơn Việt Nam.
Cơng trình nghiên cứu: “Nơng nghiệp, nơng thôn Việt Nam thời kỳ đổi
mới” của PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống kê, năm 2003. Đây là cơng
trình nghiên cứu của tác giả bởi ngồi những về q trình đổi mới nông
nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm, công trình cịn cung cấp hệ thống tư liệu về
phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một Niên giám thống kê
nông nghiệp thu nhỏ. Chỉ ra những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông
nghiệp, nông thôn nước ta như vấn đề đầu tư, vấn đề phân hoá giàu nghèo,
vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh, xuất khẩu nơng sản...
Đề tài “Đời sống văn hố tinh thần nông thôn Hà Nam hiện nay” của

Lê Thanh Hưng (2008), đã làm rõ vai trị của văn hố tinh thần trong đời sống
xã hội Việt Nam hôm nay. Phân tích thực trạng đời sống văn hố tinh thần ở
nơng thơn Hà Nam hiện nay thơng qua việc tìm hiểu những truyền thống lịch

4


sử văn hố Hà Nam; những giá trị tích cực và những biểu hiện tiêu cực trong
đời sống văn hoá tinh thần ở nơng thơn Hà Nam. Từ đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm bảo tồn và phát triển văn hố tinh thần ở nơng thơn Hà Nam trong
thời kỳ đổi mới hiện nay...
Về mặt lý luận và thực tiễn, các cơng trình đã nêu, ở những phương
diện khác nhau đã có những đóng góp nhất định cho việc kế thừa và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Trong q
trình tìm hiểu các cơng trình, các đề tài, tác giả có sự kế thừa và phát huy
những giá trị về mặt lý luận và thực tiễn của các tài liệu. Nhưng đề tài của
luận văn sẽ không trùng lặp với những đề tài đã nghiên cứu. Đây là đề tài độc
lập của tác giả nghiên cứu tính đặc thù về xây dựng đời sống văn hoá tinh
thần trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát thực tế
ở tỉnh Thanh Hoá.
3.

Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
+ Mục tiêu của luận văn là từ việc làm rõ một số vấn đề lý luận và thực

trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam hiện nay cùng với việc khảo sát thực tế tại tỉnh Thanh Hóa, đưa ra
các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục xây dựng đời sống văn hoá tinh thần trong
xây dựng nơng thơn mới tỉnh Thanh Hóa góp phần xây dựng một nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

+ Nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ quan niệm về đời sống văn hoá tinh thần và xây dựng đời sống văn
hoá tinh thần trong xây dựng nông thôn mới;
- Đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng
nơng thơn mới ở Thanh Hóa;
- Đề xuất giải pháp cơ bản tiếp tục xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong
xây dựng nơng thơn mới ở Thanh Hóa thời gian tới.

5


4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
+ Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xây dựng đời sống văn hóa

tinh thần trong xây dựng nơng thơn mới ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát ở
tỉnh Thanh Hóa
+ Phạm vi nghiên cứu: xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh
Thanh Hóa thơng qua khảo sát thực tế tại các xã điểm xây dựng nông thơn
mới ở tỉnh Thanh Hóa: Xã Nga An, Quảng Hợp đại diện cho vùng biển; Xã
Trường Sơn, đại diện cho vùng đồng bằng; Xã Xuân Phú, Sơn Thủy đại diện
cho vùng miền núi cao; Xã Xuân Du, Cao Ngọc đại diện cho vùng miền núi
thấp, tỉnh Thanh Hóa, thời gian từ năm 2009 đến nay.
5.

Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận: đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,

quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hố và vai trị của đời sống văn hố tinh

thần đối với sự phát triển của con người và xã hội, quan điểm của Đảng và
nhà nước về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và đời
sống văn hóa tinh thần ở nơng thơn.
Cơ sở thực tiễn: thực trạng đời sống văn hố tinh thần ở nơng thơn tỉnh
Thanh hố qua các báo cáo tổng kết, các tài liệu, tư liệu của các cơ quan chức
năng có thẩm quyền ở các địa phương, cơ sở và qua khảo sát điều tra của tác
giả.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp cụ thể mà đề tài chủ yếu sử
dụng là phân tích, tổng hợp, phương pháp logic, lịch sử và điều tra xã hội học
để nghiên cứu.
6.

Đóng góp mới của luận văn
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nơng thôn mới là

vấn đề lý luận và thực tiễn đang được đặt ra. Đóng góp về mặt lý luận, luận

6


văn đã góp phần làm rõ quan niệm về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
trong xây dựng nơng thôn mới ở Việt Nam hiện nay; đồng thời đưa ra một số
các giải pháp cơ bản tiếp tục xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây
dựng nơng thơn mới ở tỉnh Thanh Hóa, nhằm nâng cao đời sống tinh thần của
nhân dân ở địa bàn nông thôn nhằm tạo ra bộ mặt văn hóa mới trong cuộc
sống của mỗi thành viên, mỗi gia đình, mỗi làng bản.
Đóng góp về mặt thực tiễn, nội dung nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần thúc đẩy xây dựng nơng thơn mới của địa phương.
7.


Ý nghĩa của luận văn
Kết quả của đề tài cung cấp những luận cứ, luận chứng khoa học để các

cấp lãnh đạo, quản lý, các cơ quan chức năng ở tỉnh Thanh Hoá tham khảo
nghiên cứu và vận dụng vào xây dựng đời sống văn hoá tinh thần trong xây
dựng nơng thơn mới ở tỉnh Thanh Hố hiện nay.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề
có liên quan của một số bộ môn khoa học xã hội và trong các trường cao
đẳng, đại học…
8.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm 2

chương, 4 tiết.

7


NỘI DUNG
Chƣơng 1

ỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI

SỐNG VĂN HĨA TINH THẦN TRONG XÂY DỰNG NƠNG THÔN
MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.

Quan niệm về đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời


sống văn hố tinh thần trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện
nay
1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn hóa tinh thần, đời sống văn hóa tinh
thần


Văn hóa

Văn hóa là tồn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân
dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước. Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với
nhiều cách tiếp cận, trên nhiều phương diện, lĩnh vực khác nhau, liên quan
đến mọi mặt của đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người và xã
hội. Vì thế văn hóa được chọn làm đối tượng nghiên cứu của khá nhiều ngành
khoa học, nó trở thành một thuật ngữ có hàm nghĩa phong phú. Hiện nay đã
có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, đã có nhiều nhà khoa học tiến
hành thống kê, phân ra các nhóm định nghĩa về văn hóa. Tuy khác nhau
nhưng các định nghĩa đều thống nhất chung ở một điểm chủ yếu: Văn hóa là
một dấu ấn đặc trưng cho xã hội loài người, khác về cơ bản với tổ chức của xã
hội động vật. Mọi thứ văn hóa đều thuộc về con người, được hình thành và
phát triển từ hoạt động sáng tạo của con người trong tồn bộ tiến trình lịch sử
của các cộng động dân tộc và tồn nhân loại.
Khái niệm văn hóa đã xuất hiện từ thời cổ đại và khơng ngừng được
hồn thiện cả về nội hàm và ngoại diên của nó. Trong thời kỳ cổ đại ở Trung
Quốc thì văn hóa vốn là một cách biểu thị chung của hai khái niệm văn

8



trị và giáo hóa, dùng cái hay cái đẹp để giáo dục và cảm hóa con người. Thế
kỷ IV trước công nguyên, Khổng Tử đã dùng thuật ngữ “văn” để chỉ những
giá trị tốt đẹp của cuộc sống, trong giao tiếp, ứng xử của con người với con
người. Thuật ngữ “hóa” có nghĩa là biến cải, biến đổi. Từ đó mà văn hóa có
nghĩa là biến đổi, bồi đắp cho đẹp ra, hướng con người đạt tới chân – thiện –
mỹ. Theo ngôn ngữ phương Tây, tương ứng với từ văn hóa trong tiếng Việt là
từ có nguồn gốc từ các dạng của động từ Latinh “cultus” nghĩa là trồng trọt,
vun xới. Sau này được mở rộng ra một nghĩa khác “cultus anime” – trồng trọt
tinh thần nghĩa là chỉ sự nâng niu, nuôi dưỡng bản chất phẩm giá con người
theo những cái hay, cái đẹp cái tiến bộ. Có thể thấy nói đến văn hóa là nói đến
sự sáng tạo của con người tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần vươn
tới những giá trị nhân văn của con người qua trường kỳ lịch sử.
Nguyên tổng giám đốc UNESCO, ông F. Mayor, đã đưa ra một khái
niệm về văn hóa vừa mang tính khái qt vừa có tính đặc thù: “Văn hố là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng
đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã
hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu
tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Khái niệm này được cộng đồng
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá tại
Venise; 1970. [42, tr.23]
Nhà dân tộc học văn hố Anh E. B. Taylor cho rằng “văn hóa hoặc văn
minh là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực, thói quen nào khác mà con người
cần có với tư cách là một thành viên của xã hội.” [43, tr.13]
Khi đề cập đến văn hóa, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng con người
chính là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Theo đó,
văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra

9



bằng lao động và hoạt động thực tiễn, văn hóa là sự biểu hiện năng lực bản
chất của con người. Con người có hai nhu cầu cơ bản đó là nhu cầu về vật
chất và nhu cầu về tinh thần. Do đó, khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã
hội loài người, chủ nghĩa Mác – Lênin đã khái quát các loại hình hoạt động
của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất và sản xuất tinh
thần. Vì vậy, văn hóa xét theo hình thái giá trị thì bao gồm có văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần. Trong đó văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con
người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là
những sản phẩm lao động trí óc của con người được sáng tạo trong quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại. Đó là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị
được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con
người, được biểu thị chủ yếu dưới dạng các hiện tượng tinh thần. Có thể thấy,
văn hóa tinh thần bao gồm các giá trị tư tưởng, đạo đức, các truyền thống
cộng đồng chuẩn mực trong xã hội, các hoạt động khoa học, nghệ thuật, sinh
hoạt tín ngưỡng, tơn giáo, lễ hội,... các quan hệ thẫm mỹ của con người với
thực tại (với tự nhiên và xã hội).
Ở Việt Nam, Đào Duy Anh một trong những người đầu tiên đưa ra ý
niệm về văn hóa (năm 1938): “Người ta thường cho rằng Văn hóa là chỉ
những học thuật tư tưởng. Có lẽ gì văn hố của các dân tộc lại khác nhau đến
thế? Vì rằng cách sinh hoạt của các dân tộc khơng giống nhau. Chính vì
những điều kiện tự nhiên về địa lí khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở
kinh tế khác nhau, cho nên cách sinh hoạt cũng thành khác nhau vậy”. Ơng
cịn viết: “nghiên cứu xem sự hoạt động để sinh hoạt về các phương diện của
một dân tộc nay biển chuyển thế nào, là nghiên cứu văn hoá lịch sử của dân
tộc ấy vậy” [ 1, tr.10 - 11]. Theo quan niệm của Đào Duy Anh thì Văn hóa là
một kiểu thức sinh tồn của một xã hội.

10



Năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một định nghĩa văn hóa rất
khái quát tại “Mục đọc sách” trong tác phẩm “Nhật ký trong tù”. Khi bàn về
văn hóa Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.[21, tr.431]
Quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh là một cái nhìn tồn diện và
sâu sắc về nguồn gốc, phạm vi và sự biểu hiện của văn hóa trong đời sống và
tồn bộ sinh hoạt của con người. Hồ Chí Minh cho rằng, nguồn gốc của văn
hóa là do nhu cầu sinh tồn và mục đích sống của con người. Văn hóa được
hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con người với tự nhiên,
giữa con người với con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và cải tạo
thế giới, những kinh nghiệm mà con người tích lũy được đã trở thành nền
tảng cơ bản cho sự phát triển của văn hóa. Con người khơng thể tồn tại nếu
thiếu khả năng sáng tạo và phát minh ra văn hóa nhằm đối phó với những
khắc nghiệt của tự nhiên và xã hội. Văn hóa tác động lên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội, Người đã xác định văn hóa bao gồm cả những sáng tạo về vật
chất và tinh thần để đáp ứng cho sự tồn tại và phát triển của con người. Và
văn hóa khơng chỉ là sự sáng tạo mà còn là phương thức sử dụng sự sáng tạo
đó.
Trong cuốn Bản sắc văn hố Việt Nam, Nxb VHTT 1998, GS Phan
Ngọc viết: “Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá
nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này
hay tộc người này mơ hình hố theo cái mơ hình tồn tại trong biểu tượng.

11



Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hố dưới hình
thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay
tộc người khác”. [23, tr.16]
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn đề cao vị trí, vai trị của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng và sự
phát triển dân tộc. Trong Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) Đảng đã xác
định văn hóa là một mặt trận quan trọng “là một trong ba mặt trận (kinh tế,
chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”. Đến Nghị quyết
Trung ương 5, khóa VIII (1998) của Đảng về “xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, lần đầu tiên, văn hóa được
hiểu bao gồm 8 lĩnh vực rộng lớn không chỉ là văn học, nghệ thuật mà cả xây
dựng môi trường văn hóa, xây dựng tư tưởng đạo dức, lối sống, phát triển
giáo dục – đào tạo và khoa học - công nghệ, hệ thống thông tin đại chúng,
bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và văn hóa các dân tộc thiểu số, chính
sách văn hóa đối với tơn giáo, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, hồn thiện
thể chế văn hóa...Từ đó Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội”. Với quan điểm này Đảng đã nhìn nhận văn hóa ở
chiều sâu nhất của nó, ở những giá trị do nó tạo nên. Trong những năm qua
thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, đặc biệt là từ khi thực hiện Nghị
quyết TW5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đã đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của
nhân dân nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Sự gắn kết giữa văn hóa với
các lĩnh vực đời sống xã hội ngày càng chặt chẽ và có tác dụng tốt trong việc
giữ vững ổn định tình hình kinh tế - xã hội trong cả nước.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc
(UNESCO) đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa được cộng đồng thế giới sử


12


dụng và trích dẫn nhiều nhất. Định nghĩa này được nêu trong “Tun bố về
chính sách văn hóa” tại Hội nghị quốc tế về chính sách văn hóa của UNESCO
từ ngày 26/7 đến 6/8/1992 tại Mexico: “Văn hóa là tổng thể những nét đặc
thù về tinh thần và vật chất, về trí tuệ và cảm xúc quy định tính cách của một
xã hội hay một nhóm xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị,
những truyền thống và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng
suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật
đặc biệt- con người, có lí tính có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý.
Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biến
mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu
của bản thân, tìm kiếm khơng mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên
những cơng trình vượt qua cả giới hạn của bản thân.”
UNESCO đã nhìn nhận văn hóa với ý nghĩa rộng rãi nhất, như một
tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm
khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng. Ngồi ra UNESCO cịn đưa ra cách
hiểu ở nghĩa hẹp hơn khi cho rằng văn hóa là một tổng thể những hệ thống
biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng sử và sự giao tiếp trong một cộng
đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng...Văn hóa bao gồm hệ thống những
giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô
luân, phải hay trái, đúng hay sai...) theo cộng đồng ấy.
Từ những khái niệm, định nghĩa về văn hóa nói trên chúng ta có thể
khái quát thành những nội dung sau:
Văn hóa tồn tại trong những tổng thể những sản phẩm do con người
sáng tạo ra. Văn hóa là cái dấu ấn biểu hiện trình độ sáng tạo, trình độ người
trên các sản phẩm văn hóa ma con người sáng tạo ra. Văn hóa tồn tại trong
tổng thể các quan hệ mang tính nhân văn của con người, khơng chỉ là quan hệ


13


giữa con người với tự nhiên và xã hội mà cịn là mối quan hệ với chính bản
thân mình. Hạt nhân của văn hóa chính là tổng hịa các quan hệ nhân văn
chứa đựng bản chất người trong quá trình phát triển hồn thiện khơng ngừng.
Sự hình thành văn hóa là cả một q trình, được tích lũy qua nhiều thế
hệ, vì vậy văn hóa có tính lịch sử. Tính lịch sử của văn hóa được thể hiện qua
truyền thống văn hóa thơng qua ngơn ngữ, phong tục tập qn, nghi lễ, luật
pháp, dư luận,... những giá trị truyền thống này có vai trị quyết định trong
việc hình thành nhân cách ở con người.
Văn hóa có tính giá trị, biểu hiện ra như những giá trị nhân văn do con
người sáng tạo và phát triển trong quá trình quan hệ với tự nhiên, xã hội và
chính mình, đánh dấu trình độ hoàn thiện bản chất người trong lịch sử và chi
phối trở lại đời sống cộng đồng. Con người sáng tạo văn hóa khơng những
trong đời sống tinh thần mà còn cả trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh
vực tổ chức đời sống xã hội. Song chỉ có những sáng tạo mang tính nhân văn
tức là xuất phát từ con người, phục vụ lợi ích chính đáng của con người và
góp phần giải phóng con người mới được bao hàm trong phạm trù văn hóa.
Nhờ vào đặc trưng giá trị, theo mục đích chúng ta có thể chia thành giá trị vật
chất và giá trị tinh thần, tương ứng với đó là văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần.


Văn hóa tinh thần

Sự phân biệt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong thực tế chỉ
mang tính chất tương đối bởi chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Trong một số trường hợp chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Khơng phải

ngẫu nhiên mà Mác đã cho rằng: tư tưởng sẽ trở thành những lực lượng vật
chất khi nó được quần chúng hiểu rõ. Cho nên tùy vào những mục đích khác
nhau việc phân biệt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần cần phải dựa vào
những tiêu chí khác nhau.

14


Theo GS.TSKH Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Khái luận về văn hóa”
đã đưa ra quan điểm riêng của mình về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Theo ơng, văn hóa vật chất là tồn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất
vật chất của con người tạo ra bao gồm đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh
hoạt hằng ngày, công cụ sản xuất, phương tiện đi lại...
Văn hóa tinh thần là tồn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất
tinh thần của con người tạo ra bao gồm tư tưởng, tín ngưỡng – tơn giáo, nghệ
thuật, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương,...
Như vậy, văn hóa tinh thần là những sản phẩm tinh thần mang giá trị
văn hóa do con người sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con
người bao gồm các chuẩn mực trong xã hội và quan hệ thẩm mỹ của con
người với thực tại, các tư tưởng có giá trị sử dụng như khoa học, giáo
dục...các hoạt động sáng tạo như tơn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật, nghi lễ, lễ
hội...
Sự khác biệt giữa sản xuất các sản phẩm tinh thần với sản xuất các sản
phẩm vật chất đó là các sản phẩm tinh thần phản ánh hiện thực khách quan
nhưng lại thể hiện trong đời sống tinh thần của con người. Hay nói một cách
khác văn hóa tinh thần là các sản phẩm, các giá trị phản ánh nhu cầu trong đời
sống tinh thần của con người.


Đời sống văn hóa tinh thần


Đời sống văn hóa tinh thần là một bộ phận hữu cơ của đời sống xã hội.
“Đời sống văn hóa tinh thần là tổng hòa sống động các hoạt động sản xuất,
trao đổi, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần, làm cho các giá trị đó thấm
sâu vào từng con người, từng cộng đồng người, trở thành yếu tố khăng khít
của toàn bộ cuộc sống, hoạt động và quan hệ con người đáp ứng nhu cầu văn
hóa tinh thần đa dạng và không ngừng tăng lên của mọi thành viên trong xã
hội” [34; 15]

15


Đời sống văn hóa tinh thần là khái niệm có liên quan đến phạm trù đời
sống tinh thần xã hội. Đời sống tinh thần xã hội được hiểu bao gồm tất cả
những gì liên quan đến lĩnh vực tinh thần: từ những giá trị, sản phẩm tinh thần
đến những hiện tượng, quá trình tinh thần, từ những hoạt động tinh thần (sản
xuất tinh thần, phân phối, tiêu dùng giá trị tinh thần...) đến những quan hệ tinh
thần (trong trao đổi, giao tiếp tinh thần...). Đời sống tinh thần xã hội và đời
sống văn hóa tinh thần có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng không phải
là đồng nhất, không phải cái này rộng hơn cái kia, mà quan hệ giữa chúng là
quan hệ giữa quá trình hoạt động tinh thần và chất lượng đã đạt tới của q
trình đó. Cũng như các hiện tượng vật chất, các hiện tượng tinh thần như: tư
tưởng, khoa học, nghệ thuật… có mức độ hồn thiện nhất định, có trình độ
phát triển nhất định và chỉ những hiện tượng tinh thần tiến bộ mới biểu hiện
ra là văn hóa tinh thần. Khi chúng ta khẳng định đời sống văn hóa tinh thần là
chất lượng đạt tới của hoạt động tinh thần, chúng ta có thể nói đến văn hóa
của sản xuất tinh thần, văn hóa của việc tiêu dùng tinh thần, văn hóa của q
trình đào tạo, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật…Đời sống văn hóa tinh
thần là bộ mặt tinh thần của xã hội nói lên trình độ đạt được của một cá nhân,
cộng đồng, một xã hội về văn hóa. Đời sống văn hóa tinh thần của một dân

tộc được sàng lọc, kết tinh thành hệ giá trị văn hóa tinh thần, nói lên trình độ,
đặc điểm, phẩm chất, bản sắc của dân tộc đó. Đời sống tinh thần có những cái
hay nhưng cũng có những cái dở, nhưng đời sống văn hóa tinh thần hướng
con người tới những giá trị cao đẹp mà qua đó giúp con người phát triển, hoàn
thiện theo hướng chân, thiện, mỹ.
Nội dung của đời sống văn hóa tinh thần tương đối đa dạng và phong
phú, tùy theo góc độ tiếp cận khác nhau. Nếu xét theo góc độ các lĩnh vực
hoạt động, đời sống văn hóa tinh thần bao gồm các hoạt động chủ yếu như:
hoạt động tư tưởng, hoạt động khoa học, văn học nghệ thuật, giáo dục đào

16


tạo, tơn giáo tín ngưỡng,… Nếu xét dưới góc độ các hình thức hoạt động cụ
thể, thì chúng ta có các dạng hoạt động cụ thể như: hoạt động nghiên cứu
khoa học, hoạt động sáng tác biểu diễn nghệ thuật, hoạt động giáo dục, hoạt
động lễ hội, tham quan, du lich…
Khi xem xét đời sống văn hóa tinh thần từ góc độ vận động và phát
triển thì q trình này vận động qua năm khâu: nhu cầu văn hóa tinh thần; sản
xuất văn hóa tinh thần; lưu giữ các giá trị văn hóa tinh thần; trao đổi các giá
trị văn hóa tinh thần, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần.
Trước hết là các nhu cầu văn hóa tinh thần, nhu cầu này bao gồm cả
nhu cầu hưởng thụ và nhu cầu sáng tạo ra các giá trị văn hóa của con người
do tác động của hồn cảnh sống. Tuy nhiên chúng ta cần phân biệt nhu cầu
văn hóa tinh thần khác với nhu cầu tinh thần nói chung. Nhu cầu tinh thần của
con người bao gồm: nhu cầu lao động, nhu cầu học tập và nhận thức thế giới,
nhu cầu thẫm mỹ, nhu cầu giao tiếp… các nhu cầu này phụ thuộc trực tiếp
vào sản xuất tinh thần và gián tiếp vào nhu cầu và sản xuất vật chất, vào chế
độ chính trị - xã hội, ý thức và tâm lý xã hội, vào chủ thể có nhu cầu và các
nhân tố khác. Trong khi đó, chỉ những nhu cầu tinh thần nào hướng tới các

giá trị cao đẹp và góp phần phát triển con người theo hướng lành mạnh, tiến
bộ mới được xem là nhu cầu văn hóa tinh thần. So với các loại nhu cầu khác,
nhu cầu văn hóa tinh thần có những đặc điểm riêng biệt, nó liên quan chặt chẽ
với trình độ nhận thức và tâm trạng của chủ thể, nó khơng đơn thuần là sự đòi
hỏi hưởng thụ và đồng thời còn là nhu cầu sáng tạo. Con người không chỉ
thỏa mãn với những giá trị đã được người khác tạo ra mà cịn địi hỏi các sản
phẩm đó phải có hiệu ứng kích thích bản thân sáng tạo ra những giá trị mới.
Từ những nhu cầu văn hóa tinh thần dẫn đến việc con người không
ngừng sản xuất ra các giá trị văn hóa tinh thần. Sản xuất văn hóa tinh thần là
hoạt động tìm tịi, phát hiện, phản ánh, sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần

17


đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của con người. Sản xuất các giá trị văn hóa
tinh thần là cơ sở của tồn bộ các hoạt động văn hóa tinh thần. Đặc tính của
sản xuất các giá trị tinh thần là ở chỗ, các sản phẩm thường là mới mẻ, không
bị mất đị trong một lần tiêu dùng mà có thể được sử dụng lâu dài, nhiều lần,
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sản xuất các giá trị văn hóa tinh thần
được tiến hành nhờ lao động trí tuệ, lao động nghệ thuật. Bằng tư duy khoa
học và tài năng nghệ thuật và thường là mang dấu ấn cá nhân. Cụ thể như
trong lao động nghệ thuật, cá tính, sở trường, đặc điểm tài năng của từng văn
nghệ sĩ in đậm dấu ấn riêng vào từng sáng tác. Nghệ thuật không chấp nhận
sự trùng lặp, sự đơn điệu, thiếu bản sắc. Sản xuất các giá trị văn hóa tinh thần
khơng phụ thuộc một cách q nghiệm ngặt vào việc tiêu dùng các giá trị văn
hóa tinh thần. Thực tế đã chứng minh, có những giá trị được sử dụng ngay,
nhưng cũng có khi nhiều giá trị văn hóa tinh thần mãi về sau mới được sử
dụng, mới được đánh giá đúng giá trị.
Những giá trị văn hóa tinh thần được sáng tạo ra trong q trình sử
dụng cần phải được lưu giữ và bảo quản. Bảo quản hay là lưu giữ văn hóa

tinh thần là các hoạt động bảo lưu văn hóa, gìn giữ, cất giữ các giá trị văn hóa
tinh thần do con người sáng tạo ra như hoạt động bảo tồn, bảo tàng, lưu trữ,..
các hoạt động này góp phần làm cho các giá trị văn hóa tinh thần được sử
dụng nhiều lần, lâu dài và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trao đổi hay là giao tiếp các giá trị văn hóa tinh thần là hoạt động giao
lưu văn hóa, trao đổi qua lại những sản phẩm văn hóa tinh thần giữa người
với người, giữa các thế hệ, giữa các cộng đồng người. Sự trao đổi văn hóa
tinh thần cịn là sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các giá trị văn hóa
tinh thần. Sự giao tiếp, trao đổi các giá trị văn hóa tinh thần cũng là nhu cầu
thiết yếu của con người và là cách thức để các giá trị văn hóa tinh thần được
tồn tại và lưu giữ. Trao đổi các giá trị văn hóa tinh thần là quá trình được thực

18


×