Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) phương pháp giảng dạy thơ ca trữ tình trong trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.31 KB, 21 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Đã từ lâu, phương pháp dạy Văn học trong nhà trường phổ thơng các cấp
nói chung, trong nhà trường cấp II nói riêng đã là một vấn đề nóng bỏng, được
nhiều người quan tâm. Người ta bàn về những con đường đến với tác phẩm ở
nhiều thể loại khác nhau. Phương pháp giảng dạy thơ ca trữ tình cũng là một
trong những điều mà người ta luôn bàn cãi nhiều hơn cả. Làm thơ đã khó, phân
tích thơ càng khó gấp bội.
- Tính cấp thiết: Giảng thơ ca trữ tình giúp học sinh thấy được vẻ đẹp nhân
sinh quan được phản ánh đầy đủ trong thơ ca. Từ đó có năng lực cảm thụ và
phân tích thơ đạt hiệu quả cao hơn.
- Căn cứ vào giảng dạy trong nhà trường, căn cứ vào những bàn luận xung
quanh vấn đề dạy thơ, tơi cũng muốn góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình về
vấn đề:
“ Phương pháp giảng dạy thơ ca trữ tình trong trường Trung học cơ sở ”
2. Tên sáng kiến: Phương pháp giảng dạy thơ ca trữ tình trong
trường Trung học cơ sở.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ tên: Nguyễn Thị Hạnh
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Giáo viên Trường THCS Kim Long –
huyện Tam Dương – tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0352.043.032.
Gmail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Hạnh - Giáo viên Trường
THCS Kim Long – huyện Tam Dương – tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Xoay quanh một số nội dung về Phương pháp giảng dạy thơ ca trữ tình
trong trường Trung học cơ sở.
- Có cách đánh giá đúng đắn về một tác phẩm thơ trữ tình.
- Thời gian tiến hành trong năm học 2018-2019


- Học sinh lớp 9A, 9B Trường Trung học cơ sở Kim Long.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
- Thời gian nghiên cứu và áp dụng thử:
Từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 01 năm 2018.
- Thời gian tiến hành áp dụng từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 01 năm
2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
I. Cơ sở lý luận khoa học của đề tài
1


Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nói: “ Dạy văn là một q trình rèn luyện
tồn diện”. Bởi vậy dạy văn là dạy chất văn trong bài văn, chất văn trong bài
văn là ngơn ngữ nghệ thuật, là hình ảnh hình tượng văn học mà tác giả xây dựng
để phản ánh hiện thực, qua đó gửi gắm tư tưởng tình cảm của mình.
Văn học là một bộ mơn nghệ thuật sáng tạo ngơn từ đầy giá trị. Có thể coi
mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo
nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế
nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường cũng
như có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “ bé con” giá trị ? Tơi nghĩ
đó là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và có hiệu
quả nhất.
Hơn nữa dạy thơ ca trữ tình giúp học sinh cảm thụ được cái hay cái đẹp
của tác phẩm, thấy được thơ là những rung động đặc biệt, độc đáo, là kết tinh
của trí tưởng tượng phong phú.
Như vậy khoa học về phương pháp giảng dạy thơ ca trữ tình là một q
trình tìm tịi, đúc rút kinh nghiệm qua lý truyết và thực tiễn. Đó chính là cơ sở
khoa học để giúp người giáo viên thực hiện nhiệm vụ của mình.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
1. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người học được xem là chủ thể số

một của hoạt động dạy học là quan niệm cơ bản của lý luận và phương pháp
dạy học hiện đại. Trong phương pháp mới người giáo viên phải biết định hướng
cho học sinh tự mình chiếm lĩnh kiến thức thông qua tổ chức hướng dẫn hoạt
động của một giờ dạy. Đó là sự thay đổi căn bản trong quan niệm về vai trò của
người dạy và người học theo tinh thần đổi mới.
2. Một giờ dạy văn thực sự có hiệu quả và chất lượng là giờ văn gây hứng
thú say mê cho học sinh, đặc biệt trong giờ cảm thụ thơ là giờ học rất quan
trọng. Muốn vậy, giáo viên phải khéo léo đưa ra những vấn đề, những tình
huống thú vị để dẫn dắt học sinh. Các tình huống ấy, các vấn đề ấy được thể hiện
chủ yếu dưới dạng các câu hỏi. Bằng hệ thông câu hỏi, giáo viên sẽ tạo được
một hệ thống việc làm giúp học sinh thi công bài học của mình đồng thời khi
học sinh làm việc theo hệ thống câu hỏi các em tự mình bày tỏ chủ kiến, cảm
xúc của mình. Do đó đây là u cầu có tính hai mặt: Vừa là hoạt động thiết kế cụ
thể của thầy, lấy đó làm phương tiện để tổ chức hướng dẫn học sinh tích cực,
chủ động chiếm lĩnh tác phẩm vừa là hoạt động của trò lấy đó để học, để tự bộc
lộ năng lực cảm xúc và tư duy của mình trong tiếp cận tác phẩm. Hệ thống câu
hỏi này là cách đề cao vai trò thiết kế của giáo viên trong việc sáng tạo hệ thống
câu hỏi và chức năng tự học của học trò.

2


Vì vậy, thiết kế hệ thống câu hỏi là điều kiện tiên quyết, cơ bản để phát
huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập, làm cho giáo án mơn Văn
có cấu trúc song hành - hơ ứng giữa hoạt động của hai chủ thể trong một bài
học, tránh được tình trạng đọc - chép và thuyết giảng một chiều của lối dạy
theo phương pháp truyền thống.
3. Học sinh khơng biết cách cảm thụ và phân tích một tác phẩm thơ.
III. Mơ tả phân tích các giải pháp
1. Khái quát về thơ ca

Lần đầu tiên khi đứng trước một tác phẩm thơ trữ tình trước hết ta phải
giúp học sinh hình thành khái niệm: Thơ là gì?
Nói về khái niệm thơ ca có rất nhiều cách định nghĩa.
- Thơ là một loại thể văn học nảy sinh sớm nhất trong đời sống con người
với hình thức sơ khai là những lời cầu nguyện (trong ngày lễ) và nó thực sự
hình thành khi con người có nhu cầu tự biểu hiện vẻ đẹp của mình trong quá trình lao
động.
- Có khái niệm cịn nói: Thơ ca là một hiện tượng phong phú phức tạp, có
hàm nghĩa rộng, bản chất thơ ca rất đa dạng với nhiều biến thái và màu sắc
khác nhau. Nó tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống và khả
năng gợi cảm. Trong thơ tác giả có thể nói lên suy nghĩ, cảm xúc của mình hoặc
gián tiếp nói lên suy nghĩ thông qua sự liên tưởng về một vấn đề nào đó. Thơ
gợi cho người đọc thơng qua cảm nhận ngơn từ và nhạc điệu.
Từ những khái niệm về thơ ca đó, chúng ta đi đến một khái niệm chung
của thơ ca là: Xét về bản chất thơ là phản ánh cái đẹp của cuộc sống, sứ mệnh
của thơ ca gắn liền với xã hội và sự nghiệp đấu tranh, ý nghĩa cao đẹp của thơ ca
là sự thể hiện một cách đầy đủ những chức năng xã hội của nó. Nhà thơ là một
chiến sĩ với vũ khí thơ trong tay, luôn luôn ở tư thế tấn công. Thơ ca là một thể
loại của văn học, thơ ca mang những đặc tính chung của văn học, đồng thời nó
cũng bộc lộ những đặc điểm riêng. Nó là một thể loại dễ đi sâu vào lịng người
đọc. Về mặt hình thức thơ ca là ý lớn tính sâu trong lời hay ý đẹp. Xuất phát từ
những đặc điểm của thơ ca mà ta có phương pháp giảng dạy khác với thể loại
truyện.
2. Đặc điểm của thơ ca
a. Thơ ca tiếng nói của tình cảm mãnh liệt là sản phẩm của những rung
động đặc biệt độc đáo, là kết tinh của trí tưởng tượng phong phú.
- Thơ là sản phẩm của những rung động đặc biệt là kết tinh của trí tưởng
tượng phong phú, nhà thơ có thể mở rộng thế giới thực để cảm nhận đến phạm
vi rộng rãi hơn, nó giúp nhà thơ tiếp cận với cuộc sống bằng nhiều khả năng và
với trí tưởng tượng để khái quát được một cách sâu sắc những vấn đề lớn lao của

xã hội.
3


b. Thơ là phản ánh tập trung cô đọng đời sống xã hội, trong thơ phản ánh
một vấn đề nào đó. Bao giờ nhà thơ cũng tìm đến một cách nói gọn nhất, tập
trung nhất, khái quát nhất. Khi phản ánh nhà thơ không dừng lại phản ánh chi
tiết tỉ mỉ những vấn đề của hiện thực mà chỉ chọn những gì tiêu biểu nhất để bộc
lộ cảm xúc của mình. Trong thơ thường có khoảng trống, đó là sự sáng tạo của
nhà thơ.
- Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ “ Đục mờ”. Tức là ngơn từ bình thường trong
suốt trở thành ngơn ngữ thơ:
Ví dụ: “ Trời mưa ướt bụi ướt bờ
Ướt cây, ướt lá
Ai ngờ ướt em”
(Ca dao)
Cái phi lý ở đây là mưa ướt khắp cả, nhưng nhân vật trữ tình người con
trai khơng chấp nhận “em ướt” em đi đâu cũng toả hào quang, điều đó làm cho
người con trai xót xa, thương em, khơng chấp nhận phũ phàng. Đây là cơn mưa
của tâm tưởng, của cảm xúc.
- Ngơn ngữ thơ có thể thay thế được hội hoạ, âm nhạc:
“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
(Phạm Tiến Duật- Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính )

Hay :
“ Đưa người ta khơng đưa qua sơng
Sao thấy tiếng sóng ở trong lịng
Bóng chiều khơng thắm, khơng vàng vọt
Sao đầy hồng hơn trong mắt trong”
(Thâm Tâm - Tống Biệt Hành)
Tuy nhiên cũng cần lưu ý cho học sinh có những từ ngữ đọc có vần, dễ
đọc dễ nhớ nhưng khơng phải là thơ.
Ví dụ: “ Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
4


Con cóc nhảy đi”.
- Có những bài thơ khơng có vần điệu nhưng lại làm ta nhớ lâu.
“ Chăn trâu đốt cỏ trên đồng
Lửa rơm thì ít gió đơng thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro”
( Quang Huy - Hư vơ)
Từ những tín hiệu trong thơ, giúp học sinh tìm hiểu những chi tiết hay
trong bài thơ. Hình ảnh “con diều” là biểu tượng cho tuổi thơ, cho tự do và ước
mơ. Chân trời “thành tro”ấy như một sự tiếc nuối.
Chỉ với 4 dòng thơ nhưng gửi gắm nhiều ý vị sâu xa. Từ những phân tích
giúp học sinh tìm ra nhãn tự của bài thơ, sau đó đi phân tích giá trị nghệ thuật
và nội dung của bài thơ.
Vì thế mà P.Valeli từng nhận xét: “Thơ là sự phân vân giữa âm và nghĩa,
văn xi thuộc phía con người, thơ thuộc phe thượng đế, thơ là gán ý nghĩa và

nhiệt tình cho những vật vô tri vô giác và là một đặc tính của nhi đồng. Làm thơ
là để nói được thú nghe lời mình nói. u thơ là u những cái đẹp, thơ là ngơn
ngữ tự lấy mình làm cứu cánh.”
Thơ là ngơn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó, cái hay của bài thơ là
cái hay của ngôn từ:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lịng người cơ phụ
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
(Lưu Trọng Lư - Tiếng thu)
3. Phương pháp giảng dạy
3.1: Đọc
Gồm có
o Đọc cảm nhận
o Đọc phân tích
o Đọc luyện tập.
Có thể nói lao động trong quá trình đọc là một dạng lao động đặc thù,
nhất là với những tác phẩm nghệ thuật. Tiếp cận với tác phẩm người đọc dù
muốn hay không cũng phải làm quen với thế giới ngôn ngữ, cảm xúc, nhân vật
mà nhà văn thể hiện. Chủ đề mà nhà văn đề cập tới trên những bối cảnh và thể
loại cụ thể được cấu trúc và biểu đạt theo những khuynh hướng và trường phái
5


nghệ thuật khác nhau. Mà như Mai-a-cốp-xki nhận xét: “Toàn bộ sức tưởng
tượng vĩ đại ấy được huy động trong quá trình miêu tả - “nạp” thế giới khách
quan vào tác phẩm, có thể tác động trên những cung bậc khác nhau vào nhận

thức của người đọc, song tất cả đều tồn tại trên cái nền hiện thực. Bằng chính
tác phẩm của mình mỗi nhà văn có một cách khách quan vào tác phẩm, có thể
tác động trên những cung bậc khác nhau vào nhận thức của người đọc, song tất
cả đều tồn tại trên cái nền hiện thực”. Bằng chính tác phẩm của mình mỗi nhà
văn có một cách riêng để đến với người đọc. Trong thơ trữ tình thì đọc lại càng
quan trọng vì đọc diễn cảm sẽ diễn tả được cái hồn của bài thơ.
Vì vậy điều kiện thứ nhất, như một nhu cầu tất yếu khách quan để việc
đọc một tác phẩm diễn ra theo đúng quy luật của sự thưởng thức nghệ thuật, là
sự tái hiện và sắp xếp kí ức, ấn tượng hồn tồn mang dấu ấn cá thể của tư duy
người đọc, có thể diễn ra trong mọi khoảnh khắc của toàn bộ quá trình thẩm
định tác phẩm.
- Điều kiện thứ hai của q trình đọc sẽ diễn ra có thể trái lại, người đọc
trong cùng một lúc phải đồng thời cảm nhận thấy và phân biệt được sự biểu hiện
của cái thật và cái như thật.
- Nhìn chung khi đọc một tác phẩm văn học, hay tác phẩm thơ trữ tình
người ta thường nhấn mạnh các bước quan trọng sau:
 Đọc lướt tạo ấn tượng chung về những vấn đề xã hội thẩm mĩ được trình
bày trong tác phẩm.
 Đọc tập trung vào “ điểm sáng thẩm mĩ ” hoặc tình huống then chốt để tạo
nên sức biểu hiện nổi bật của bức tranh nghệ thuật .
 Đọc hồi cố những chi tiết điển hình đặc sắc và dự đốn khuynh hướng
phát triển của tác phẩm tạo nên sự nhất quán của hình tượng nghệ thuật
 Đọc nhấn mạnh âm hưởng chủ đạo tạo nên sự thống nhất về tư tưởng
thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật của tác giả.
- Đặc biệt trong thơ trữ tình đọc diễn cảm tơ đậm giá trị nội dung tư tưởng
và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
- Liên tưởng mở rộng so sánh …
Như vậy ở phương pháp đọc giáo viên cần cung cấp cho học sinh cách
đọc đúng và có hiệu quả, sao cho cánh tiếp cận ban đầu vào tác phẩm có hiệu
quả nhất.

3.2: Phân tích: (Đi từ khái quát đến cụ thể)
Phân loại thơ ca được chia ra làm nhiều loại:
Chia theo đề tài: Có thơ tình u, thơ triết học.
Chia dựa vào nội dung: Thơ châm biếm đả kích, tụng ca.
Chia dựa vào hình thức ngơn ngữ: Thơ thất ngơn, thơ ngũ ngôn …
6


Chia dựa vào phương pháp phản ánh: Có thơ tự sự, thơ trữ tình.
Ở đây chúng ta chỉ phân tích loại thơ ca chia theo phương thức phản ánh.
a. Thơ trữ tình
- Đặc điểm của thơ trữ tình: Là tư tưởng tình cảm của tác giả được thể
hiện một cách trực tiếp. Nhân vật thường không được khắc hoạ một cách hoàn
chỉnh mà nhà thơ thiên về bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ.
Ví dụ: Bài “Vườn xưa” của Tế Hanh.
“Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu cơng tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao hơm sao mai khơng cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa”
Hình ảnh mảnh vườn xưa và người mẹ như một bến đợi, ấm áp như một gợi nhớ
nhắc nhở tuổi trẻ yêu nhau trở về. Nhưng bao nhiêu công việc trách nhiệm đặt ra và
tuổi trẻ mãi còn xa cách. Cho nên mong ước bao giờ “cùng trở lại vườn xưa?” vẫn là
khắc khoải mong ước.
Bài thơ hay cả về ý, tứ, cả về câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu.
Tư tưởng tình cảm trong thơ trữ tình được thể hiện một cách cụ thể qua
nhân vật trữ tình, nhân vật trữ tình có khi là tác giả, cũng có khi khơng phải là

tác giả.
Trong thơ trữ tình sắc thái tình cảm riêng của nhà thơ được thể hiện qua hệ
thống ngôn ngữ phù hợp.
Dấu ấn phong cách riêng của nhà thơ được thể hiện rõ nét qua việc chọn
lựa hình ảnh, xây dựng kết cấu, nhịp điệu.
Ví dụ: Tư thế người thợ mộc liệt sĩ Nguyễn Thế Tư hi sinh trong một chiến
hào được tạo dựng bằng những nét khoẻ gân guốc:
“Kì lạ quá trong chiến hào nóng bỏng
Anh Tư ơi, ngỡ như anh cịn sống
Đào anh lên, anh vẫn đứng vai vươn
Đôi mắt nheo ngắm súng trường
Sống
Cầm cưa
Xẻ gỗ dựng quê hương
Chết
Cầm súng
7


Anh thành người cộng sản”
(Minh Huệ – Người thợ mộc trông chiến hào)
- Trong thơ Tố Hữu giàu âm điệu, tình cảm trong sáng mượt mà, nhẹ
nhàng. Bài Việt Bắc đọc gần như ca dao:
“Mình về mình có nhớ
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ắnh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
(Tố Hữu – Việt Bắc)

- Thơ Huy Cận chất suy nghĩ ở đây mạnh hơn cảm xúc.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lặng sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng”
(Huy Cận – Tràng Giang)
b. Thơ tự sự
Thơ trữ tình khác với thơ tự sự. Thơ tự sự– Tư tưởng tình cảm của tác giả
khơng bộc lộ trực tiếp mà chìm trong hình tượng nhân vật, thấm vào cách mơ tả
trực tiếp, chi tiết ẩn trong toàn bộ. Trong thơ tự sự có những bài thơ dài, truyện
thơ thơ ngụ ngơn.
Với hai thể loại chính đó mà ta có phương pháp giảng dạy đúng với từng thể loại.
Thơ trữ tình đi sâu vào cảm xúc tâm trạng nói chung khơng mơ tả trực tiếp
hình ảnh và đời sống nhân vật, mà đòi hỏi người đọc phải từ cảm xúc thái độ của
tác giả.
3.3 : Hình thức chung của một bài thơ
Trữ tình đi sâu vào cảm xúc tâm trạng nói chung khơng mơ tả trực tiếp hình
ảnh và đời sống, nhân vật mà đòi hỏi người đọc phải từ cảm xúc thái độ của
người viết mà tưởng tượng suy ra hình ảnh của đối tượng khách quan kết cấu
của thơ trữ tình có nhiều hình thức.
 Kết cấu song song
ví dụ : “ Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đối trơng theo đã cách ngăn
Tn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh”
(Đặng Trần Cơn, Đồn Thị Điểm - Chinh phụ ngâm)
 Kết cấu vòng tròn:
8



Ví dụ :

.

“Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè
X
X X
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh…”
(Tố Hữu - Lượm)
 Kết cấu theo biểu tượng, tượng trưng, có nghĩa là các hình ảnh các chi tiết
trong bài thơ nhằm mơ tả những chi tiết ngồi đời:
“ Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
…Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vơ tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
( Nguyễn Duy - Ánh trăng)
 Kết cấu trùng điệp:
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:

Cục...cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
(Xuân Quỳnh - Tiếng gà trưa)
 Kết cấu đối lập: Có 2 mảng đời đối lập nhau về ý nghĩa, tư tưởng, tình
cảm.
Ví dụ: Cơ gái Sơng Hương (Tố Hữu)
“ Trên dịng Hương Giang
Em bng mái trèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái trèo
9


Trên dịng Hương Giang…”
(Tố Hữu - Cơ gái Sơng Hương)
3.4 : Kết cấu trong một bài thơ trữ tình
- Theo thể loại:
 Đường luật.
Ví dụ: Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan).
 Thơ tự do.
Ví dụ: Nhớ rừng (Thế Lữ).
 Truyện thơ.
Ví dụ: Lục Vân Tiên ( Nguyễn Đình Chiểu).
- Ý và Tứ thơ.
- Vần (tuỳ loại thơ) cách gieo vần của từng thể loại.
- Nhạc tính của thơ ca ( do từ và cách phối hợp âm tạo nên).
- Ngôn ngữ trong thơ ca là thứ ngôn ngữ chọn lọc. Điểm nổi bật là tính

hình tượng thể hiện tập trung nhất trên khía cạnh ngơn ngữ thơ ca là loại ngơn
ngữ có tác dụng gợi cảm đặc biệt thực hiện thơng qua 2 hình thức. Chuyển nghĩa
tuỳ theo từng hoàn cảnh, văn cảnh. Hai là vận dụng linh hoạt và tập trung các
màu sắc thanh tiết tấu.
- Ngôn ngữ có tính chất cơ đọng và hàm xúc một cách sâu sắc. Nói tóm lại
ngơn ngữ trong thơ ca là một thứ ngơn ngữ chọn lọc, giàu hình ảnh, giàu âm
thanh,
nhịp điệu.
Khác ngơn ngữ của truyện (kịch): Nó gần gũi với tiếng nói thơng thường
của nhân dân. Là sự tái hiện một cách trực tiếp nhất vì ngơn ngữ các nhân vật
được tổ chức thông qua hệ thống đối thoại, thể hiện tính điển hình riêng biệt,
khơng được đồng nhất, khắc họa được tính cách nhân vật điển hình.
Khác với hình thức kết cấu của bài thơ, hình thức kết cấu của truyện có
cốt truyện, nhân vật, kết cấu trình tự thời gian kể sự việc liên tục đi từ đầu đến
cuối hoặc kết cấu theo lối đi thẳng vào truyện.
3.5 : Soạn giảng
Ví dụ: Bài Đồng chí (Chính Hữu)
Hồn cảnh ra đời: Vào mùa xuân năm 1948 sau chiến thắng Việt Bắc thu
đơng 1947. Bài thơ Đồng chí ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh
ra tử có nhau của anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội
đánh giặc trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
Thể thơ tự do: Thể hiện sự khoáng đạt giàu chất thơ.
Hai câu đầu có cấu trúc song hành đối xứng làm hiện lên 2 gương mặt
chiến sĩ rất trẻ như đang tâm sự cùng nhau:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
10


Năm câu thơ tiếp theo nói lên một q trình thương mến từ: “Đôi người

xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí”
Súng bên súng là cách nói hàm xúc hình tượng cùng chung lý tưởng chiến
đấu. Câu thơ: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động
đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ.
Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: Bên, sát, chung
thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí.
Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ:
Nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa.
Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”
Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết thực phản ánh hiện thực
kháng chiến buổi đầu rất khó khăn, thiếu vũ khí, thiếu qn trang, thiêú lương
thực,
thuốc men:
“Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hơi
Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Đến đây ta nhấn mạnh vào“mắt chữ ” của đoạn thơ. Chữ “biết” trong
đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ :
“anh với tôi” “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết
dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp.

Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - đồng chí trong chiến
đấu Họ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Cảnh tượng chiến trường là “rừng
hoang sương muối”, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoanh vu giữa núi rừng
chiến khu. Một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhâu chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.
11


Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đơng “ rừng hoang sương muối” thì
có “ đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng. Hình ảnh “ Đầu súng
trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến,
đã được Chính Hữu lấy đặt tên cho tập thơ - đoá hoa đầu mùa của mình. Mượn
trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “ chờ
giặc tới”. Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ nhường chỗ cho vẻ đẹp
huyền, thơ mộng của vầng trăng và chính đó cũng là vể đẹp cao cả thiêng liêng
của tình đồng chí, tình chiến đấu.
Bài thơ: “Đồng chí ” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống
vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng
khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì
buổi đầu kháng chiến.
Ngơn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm
sự, tâm tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt
tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực
và màu sắc lãng mạn hun đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
“Đồng chí” là bài thơ độc đáo viết về anh bộ đội cụ Hồ - người nông dân
mặc áo lính. Bài thơ như một tượng dài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị,
cao cả và thiêng liêng.

IV. Giải pháp mới
1. Từ phân tích trên cần tạo hứng thú cho các em tìm hiểu phân tích một tác
phẩm thơ trữ tình, tơi duy trì và tiếp tục rèn luyện thêm với yêu cầu cao hơn khi
học tập bộ môn.
2. Đưa ra những giải pháp mới để áp dụng:
2.1: Giúp học sinh nhìn nhận vấn đề dưới góc độ khái quát.
2.2: Dạy cách tư duy trừu tượng cho học sinh
2.3: Cách phân tích trình bày một tác phẩm thơ trữ tình.
2.4: Cho học sinh thực hành làm các đề văn cụ thể. Ví dụ làm đề số 2Chương trình Ngữ văn 9:
Câu 1. (1,0 điểm)
Câu văn “Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng
khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung
tung…” sử dụng những biện pháp tu từ nào? Việc sử dụng những biện pháp tu
từ đó có tác dụng gì trong việc diễn đạt nội dung của đoạn văn?
Câu 2. (3,0 điểm)
Trong bài thơ Con Cò, Chế Lan Viên viết:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.
Lời thơ trên gợi cho em suy nghĩ gì về tình mẫu tử. Viết đoạn văn khoảng
20 dịng trình bày suy nghĩ đó.
12


Câu 3. (6,0 điểm). Đọc đoạn thơ và thực hiện các yêu cầu sau:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
a. Đoạn thơ trên trích trong văn bản nào? Của ai? (0,5điểm)
b. Tìm biện pháp nghệ thuật có trong đoạn thơ và cho biết tác dụng của biện

pháp đó? (1,5 điểm)
c.Viết bài văn ngắn trình bày cảm nhận của em về khổ thơ trên. (4 điểm)
ĐÁP ÁN
Câu 1. (1,0 điểm)
Nội dung
Điểm
- Câu văn sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa:
+ So sánh: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì
0,5
giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả.
+ Nhân hóa: chặt, quét.
- Tác dụng: Nhấn mạnh hồn cảnh làm việc đầy khó khăn,
vất vả của anh thanh niên. Qua đó làm nổi bật sự hy sinh thầm
lặng của nhân vật này.
0,5
Câu 2. (3,0 điểm)
Nội dung
* Yêu cầu về kĩ năng: Học sinh biết cách viết đoạn văn
nghị luận xã hội, diễn đạt trôi chảy, khơng mắc các lỗi chính tả,
dùng từ, ngữ pháp.
* Yêu cầu về nội dung: Học sinh có thể diễn đạt theo
nhiều cách khác nhau, nhưng cần làm rõ các nội dung sau:
- Giải thích: Hai câu thơ nhắc tới tình u thương vơ cùng
của người mẹ đối với con. Cuộc sống dẫu có nhiều thay đổi, con
dẫu đã lớn khơn nhưng tình mẹ u con thì bất biến…Đó là tình
mẫu tử sâu nặng, thiêng liêng.
Tình mẫu tử là tình cảm thương yêu, đùm bọc, che chở;
là đức hi sinh; là sự bao dung, độ lượng….mà người mẹ dành cho
con. Tình cảm ấy vừa tự nhiên vừa cao cả nên sẽ đi theo mỗi người
suốt cuộc đời.

- Bàn luận: Có tình u thương của mẹ, con người có một
thế giới an tồn và bình n để trở về, để nương tựa và có sức
mạnh, động lự để vượt lên khó khăn; có nguồn an ủi, vỗ về khi ta
vấp ngã và đau buồn trong cuộc sống…
Người không may mắn trong cuộc sống thiếu tình u
thương của mẹ khơng chỉ thua thiệt vì thiếu sự săn sóc, quan tâm
mà cịn thua thiệt nhiều điều quý báu trong đời sống tinh thần cá
nhân.
Nhưng thực tế, vẫn có những đứa con chối từ tình yêu
13

Điểm

0,5

2,0


thương của người mẹ, thậm chí chà đạp lên tình cảm thiêng liêng
ấy.
Muốn tận hưởng trọn vẹn tình mẫu tử trong cuộc đời,
cần biết nâng niu, trân trọng; cần biết cách đón nhận và cũng biết
cách đáp lại.
- Dẫn chứng thực tế.
- Bài học: Cần hiểu được ý nghĩa, vai trị của tình mẫu tử
trong cuộc sống, từ đó cần hồn thiện bản thân để xứng đáng với
tình cảm bao la, thiêng liêng đó.

0,5


Câu 3. (6,0 điểm)
Phần
Nội dung
Điểm
a
0,5
Đoạn thơ trên trích trong văn bản “ Mùa xuân
nho nhỏ” của tác giả Thanh Hải.
b
- Chỉ ra được biện pháp tu từ và phân tích được
tác dụng của biện pháp đó:
+ Phép nhân hóa: Đất nước “vất vả”,“gian lao”> Hình ảnh đất nước trở nên gần gũi, mang dáng vóc
tảo tần, cần cù của người mẹ, người chị.
0,5
+ Phép so sánh: Đất nước với “...vì sao, cứ đi
lên phía trước”-> nhà thơ sáng tạo hình ảnh đất nước
khiêm nhường nhưng cũng rất tráng lệ: Là một vì sao
nhưng ở vị trí lên trước dẫn đầu, đó cũng là hình ảnh
của cách mạng Việt Nam, của đất nước trong lịch sử.
0,5
+ Điệp từ “đất nước”: cùng phép so sánh, nhân
hóa góp phần làm nổi bật và gợi ấn tượng sâu sắc về
0,5
hình ảnh đất nước với niềm yêu mến, tự hào của tác
giả.
c
* Yêu cầu về kĩ năng: Học sinh có kĩ năng nghị 1,25
luận về một đoạn thơ trong tác phẩm văn học; Bố cục rõ
ràng, diễn tả chân thực cảm xúc của nhà thơ.
Diễn đạt trơi chảy, khơng mắc lỗi chính tả, dùng

từ, ngữ pháp.
* Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể phân tích
theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên cần đảm bảo các ý
sau:
Mở bài
Thân bài

Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận, nêu sơ lược 0,5
về tác giả tác phẩm, nội dung đoạn thơ, trích dẫn.
- Nêu vị trí đoạn thơ
0,5
- Từ những cảm nhận về sức sống của mùa xuân
đất nước, tác giả suy ngẫm về đất nước
0,5
Đất nước “vất vả”,“gian lao”-> Hình ảnh đất
14


nước trở nên gần gũi, mang dáng vóc tảo tần, cần cù
của người mẹ, người chị.
+ Phép so sánh: Đất nước với “...vì sao, cứ đi 1,0
lên phía trước”-> nhà thơ sáng tạo hình ảnh đất nước
khiêm nhường nhưng cũng rất tráng lệ: Là một vì sao
nhưng ở vị trí lên trước dẫn đầu, đó cũng là hình ảnh
1,0
của cách mạng Việt Nam, của đất nước trong lịch sử.
+ Điệp từ “đất nước”: cùng phép so sánh, nhân
hóa góp phần làm nổi bật và gợi ấn tượng sâu sắc về
hình ảnh đất nước với niềm yêu mến, tự hào của tác
giả.

Kết bài

- Khẳng định vấn đề nghị luận.
- Nêu suy nghĩ của bản thân.

0,5

3. Quá trình áp dụng của bản thân
- Giảng văn khác với môn học khác ở chỗ học sinh khơng những biết trước
bài sắp học mà cịn thâm nhập khá sâu vào bài qua sự chuẩn bị ở nhà. Nên trong
phần giới thiệu bài giáo viên đưa ra hai cách: Một là nêu tình huống có vấn đề,
hoặc chuyển từ bài cũ sang bài mới.
- Hai là gọi học sinh tự giới thiệu bằng lời văn của mình qua sự chuẩn bị ở
nhà. Chú ý cho các em khâu đọc diễn cảm. Đọc thơ là lúc tạo âm vang, rung
động thơ. Trong khi phân tích tơi ln hướng cho các em tìm ra nghệ thuật để đi
đến nội dung chú ý vào diễn biến tâm trạng của nhà thơ.
- Tìm ra “nhãn tự ”của bài thơ, đoạn thơ. Liên tưởng so sánh và nâng bình.
- Rèn luyện cách đọc thơ và cách ghi vở. Có sự động viên kịp thời tạo hứng
thú cho các em khi bình thơ.
4. Hiệu quả khi áp dụng
Qua việc làm trên thu được hiệu quả đáng kể khi giảng dạy thơ trữ tình.
- Hiện nay với việc đổi mới chương trình các biện pháp trên đã phát huy
tích tích cực của học sinh khi tiếp thu tác phẩm văn học mới.
- Hiệu quả của việc phân tích thơ trữ tình trong trường THCS giúp cho các
em có cái nhìn mới về tác phẩm thơ trữ tình.
5. Bài học kinh nghiệm
Từ đề tài trên tôi rút ra được bài học kinh nghiệm:
- Khi đứng trước một tác phẩm thơ trữ tình, nhiệm vụ của người thầy là
nhóm lên lịng nhiệt huyết, ngọn lửa tâm hồn chứ không phải truyền ngôn ngữ
khô khan.


15


- Khởi động hoạt động tâm lý và hoạt động trí tuệ để các em tham gia khám
phá hình tượng. Từ đó tự giác tiếp thu bài học nhân sinh và tự rèn luyện cách
phân tích thơ trữ tình.
V. Kết quả thực hiện
*. Áp dụng phương pháp trên tôi thu được hiệu quả rõ rệt:
- Học sinh có cái nhìn toàn diện và hứng thú học văn hơn, đặc biệt là có kĩ
năng phân tích khi đứng trước một tác phẩm thơ trữ tình.
- Học sinh u thích bộ mơn.
- Từ tháng 09/2017 đến tháng 12/2017 (Áp dụng thử lần 1 phương pháp
mới trong giảng dạy)
Lớp

Sĩ số

8A
8B

36
38

Loại giỏi
SL
%
1
3
0

0

Loại Khá
SL
%
9
25
5
13

Trung Bình
SL
%
17
47
21
55

Loại Yếu
SL
%
9
25
12
32

Từ tháng 01/2018 đến tháng 05/2018
- Sử dụng phương pháp mới trong giảng dạy lần 2.
Lớp


Sĩ số

8A
8B

36
38

Loại giỏi
SL
%
3
8
1
3

Loại Khá
SL
%
11
31
8
21

Trung Bình
SL
%
14
39
18

47

Loại Yếu
SL
%
8
22
11
29

8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
* Địa điểm: Tại trường THCS Kim Long.
- Giáo viên có sự tìm tịi sáng tạo.
- Học sinh say mê, hứng thú trong học tập.
- Nhà đã trường tạo điều kiện về cơ sở vật chất để giáo viên hoàn thành
sáng kiến kinh nghiệm.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã
tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các
nội dung sau:
Qua việc làm trên thu được hiệu quả đáng kể khi giảng dạy thơ trữ tình:
- Hiện nay với việc đổi mới chương trình các biện pháp trên đã phát huy
tích tích cực của học sinh khi tiếp thu tác phẩm Văn học mới.
- Hiệu quả của việc phân tích thơ trữ tình trong trường THCS giúp cho các
em có cái nhìn mới về tác phẩm thơ trữ tình.
16


- Học sinh hứng thú và say mê học Văn.

*. Kết quả thu được cụ thể
- Năm học: 2016-2017 (chưa sử dụng phương pháp mới trong giảng dạy)
Lớp

Sĩ số

7A
7B

36
38

Loại giỏi
SL
%
1
3
0
0

Loại Khá
SL
%
5
14
3
8

Trung Bình
SL

%
19
53
21
55

Loại Yếu
SL
%
11
30
14
37

Năm học 2017-2018 (Từ tháng 01/2018 đến tháng 05/2018)
- Sử dụng phương pháp mới trong giảng dạy và qua khảo sát lần 2.
Lớp

Sĩ số

8A
8B

36
38

Loại giỏi
SL
%
3

8
1
3

Loại Khá
SL
%
11
31
8
21

Trung Bình
SL
%
14
39
18
47

Loại Yếu
SL
%
8
22
11
29

Năm học: 2018-2019 (Tính đến đầu tháng 01 năm 2019)
Sau khi sử dụng phương pháp mới và qua khảo sát tôi thu được kết quả như sau:

Loại giỏi
Loại Khá
Trung Bình
Loại Yếu
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
36
7
16
17
51
11
30
1
3
9B
38
3
8
14
37
17

45
4
10
Có thể thấy, với việc áp dụng phương pháp dạy học mới như đã nêu trên vào
thực tế giảng dạy thì kết quả được cao hơn nhiều. Điều đó đã thúc đẩy tôi không
ngừng phấn đấu để đạt được kết quả tốt hơn nữa. Cùng với việc áp dụng phương
pháp này vào tiết dạy cụ thể. Tôi đã thành cơng trong giờ thao giảng cấp trường,
kiểm tra tồn diện của Phòng GD - ĐT huyện Tam Dương trong năm học này và
kết quả đạt loại giỏi.

17


Lễ trao thưởng cho các Chi đội có thành tích xuất sắc trong học tập
năm học 2017-2018.
18


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
* Khẳng định mục đích, ý nghĩa thực tiễn lý luận của đề tài.
- Có thể nói giảng dạy thơ ở trường Trung học cơ sở phải bám chắc đặc
trưng của bài, phải hiểu, phải thấm bài thơ, phải tìm được điểm sáng trong bài thơ.
- Phải liên hệ giữa người giảng và đối tượng nghe, vận dụng một cách linh
hoạt giữa đọc diễn cảm, giảng và bình. Chú ý đến thể thơ để định hướng phân tích.
- Khi phân tích phải khai thác một cách triệt để phạm vi không gian tưởng
tượng trong thơ. Chú ý sự chuyển đổi âm điệu bài thơ.
- Sau khi phân tích phải có sự tổng hợp để cho hình tượng trở thành sự
tồn vẹn trong một chỉnh thể.
2. Kiến nghị

a. Về phía nhà trường, lãnh đạo Phịng giáo dục
- Cần đầu tư cho giáo viên tài liệu giảng dạy và tài liệu tham khảo.
- Phổ biến những kinh nghiệm dạy tốt ở những trường điểm, trường chất
lượng cao để học tập lẫn nhau.
- Tổ chức được những buổi ngoại khoá văn học để mở rộng kiến thức.
- Có những buổi nói chuyện chuyên đề để nâng cao kiến thức văn học.
- Đầu tư thêm phòng học bộ mơn, trang thiết bị phục vụ mơn học.
b. Về phía giáo viên
- Trau dồi kiến thức chuyên môn thường xuyên, học tập nhiều cách làm
hay trên mạng internet.
- Đầu tư nhiều thời gian vào sử dụng phương pháp mới trong dạy học.
- Sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, tạo hưng phấn mới cho học
sinh, vì thơng qua bài giảng điện tử giáo viên sẽ đưa được nhiều kênh hình thơng
tin về tác giả, chân dung các nhà thơ, văn giúp học sinh nhớ kĩ hiểu sâu.
c. Về phía phụ huynh học sinh
- Quan tâm đến con em mình trong các mơn học đặc biệt là mơn Ngữ văn.
Thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc các em học và làm bài tập đầy đủ mỗi khi đến
lớp.
- Đầu tư cho con em mình nhiều tài liệu tham khảo, đặc biệt trong môn
Ngữ Văn để các em được đọc tham khảo và học tập cách viết văn hay.
Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ Văn đứng lớp đâu chỉ là chất lượng tính
bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh vì đã hiểu bài,
những bàn tay tự viết ra được những lời văn óng ánh, những nụ cười thiện cảm
với mơn Văn từ phía học sinh. Để đạt được những điều vơ cùng q giá đó mỗi
giáo viên chúng tơi đâu chỉ có say mê nhiệt tình với cơng tác giảng dạy mà cịn
phải tìm tịi hướng đi hiệu quả nhất.
19


Mặc dù đề tài nghiên cứu đã đưa ra một số phương pháp giảng dạy thơ trữ

tình nhưng do thời gian và năng lực bản thân còn hạn chế nên đề tài vẫn còn một
số điểm sơ sài. Rất mong sự góp ý của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp.
* Vấn đề mới của sáng kiến kinh nghiệm đặt ra và giải quyết so với sáng
kiến kinh nghiệm trước đây ở trong nhà trường là tính cấp thiết, để mơn Ngữ
văn thực sự là mơn học u thích của người học.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc
áp dụng sáng kiến lần đầu
Số
Tên tổ chức/
Phạm vi/Lĩnh vực
Địa chỉ
TT
cá nhân
áp dụng sáng kiến
1 Học sinh lớp 9A, Trường THCS Kim Long - Học sinh lớp 9A, B.
1
9B của trường Tam Dương - Vĩnh Phúc.
THCS Kim Long.
Kim Long, ngày 18 tháng 01 năm 2019
Hiệu trưởng
(Ký tên, đóng dấu)

Kim Long, ngày 17 tháng 01 năm 2019
Tác giả sáng kiến

Đỗ Thị Minh Phượng

Nguyễn Thị Hạnh

20



21



×