Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.27 KB, 43 trang )

Phần mở đầu

Trang

1. Lời giới thiệu……………………………………………………...............2
2. Tên sáng kiến……………………………………………………................3
3.Tác giả sáng kiến……………………………………………………........... 3
4. Chủ đầu tư sáng tạo………………………………………...........................3
5. Lĩnh vực áp dụng ………………………………………..............................3
6. Ngày sáng kiến được áp dung………………………………………………3
7. Mô tả bản chất SKKN……………………………………………………....3
Phần nội dung
1. Nhận dạng đề................................................................................................. 5
2. Tìm hiểu đề.................................................................................................... 9
3. Lập dàn bài....................................................................................................11
4. Hướng dẫn chi tiết làm bài cụ thể.................................................................12
5. Hướng dẫn HS làm bài theo hướng mở.........................................................23
6. Bài văn mẫu cho HS......................................................................................25
Phần kết luận và kiến nghị.............................................................................32

1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu.
Ở trường phổ thơng, mơn văn có vị trí, vai trị rất quan trọng trong việc
hình thành phát triển nhân cách, năng lực ngôn ngữ cho học sinh. Thông thường
môn Ngữ văn gồm các phân môn: Đọc văn, tiếng việt, tập làm văn. Trong đó
phân mơn làm văn có vị trí hết sức quan trọng, bởi lẽ nó quyết định cho việc
nhận định, đánh giá, diễn đạt ngôn ngữ của học sinh. Trong chương trình sách


giáo khoa Ngữ văn những năm trước đây thường xuất phát từ một quan niệm
khá cực đoan: Coi trọng nghị luận văn học. Để khắc phục tình trạng cực đoan
trên, chương trình Ngữ văn hiện nay có những điều chỉnh lớn nhằm cân đối giữa
nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Đây là nội dung phù hợp nhưng cũng hết
sức khó khăn cho việc học tập của học sinh.
Trong những năm gần đây kiểu văn nghị luận xã hội đã được chú trọng
trong các nhà trường trung học. Bởi văn nghị luận đã trở thành tiêu chí đánh giá
đối với học sinh không chỉ trong những bài kiểm tra, thi học sinh giỏi, thi vào
lớp 10 và ngay cả thi tốt nghiệp THPT rồi đến kì thi Đại học. Sự chuyển biến
này là cơ hội và cũng là thách thức đối với học sinh. Một thời gian khá dài, làm
văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh
cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Rèn luyện văn nghị luận xã hội
giúp học sinh khơng chỉ hồn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình, mà
cịn cung cấp tri thức vơ cùng phong phú về những vấn đề xã hội. Thế nhưng
thách thức đặt ra đối với học sinh và giáo viên cũng không phải là nhỏ. Học sinh
quá quen với tư duy văn học, kiến thức về xã hội còn hạn chế, tài liệu tham khảo
nghị luận xã hội không nhiều, kĩ năng làm bài chưa thuần thục, dung lượng một
bài không được quá dài, chỉ được viết trong một thời gian ngắn về một vấn đề
trong cuộc sống chứ không phải cố định ở một văn bản trong sách giáo
khoa...Tất cả những điều đó tạo nên áp lực, gây khó khăn cho học sinh.
Trong năm qua, bản thân tôi được phân cơng giảng dạy mơn Ngữ văn 11,
tơi ln có ý thức trong việc giảng dạy, đặc biệt đã chú trọng rèn luyện cho học
sinh kĩ năng làm bài nghị luận nói chung và bài văn nghị luận xã hội nói riêng,
vì đây là một vấn đề đang được xem là mới và khó.
Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài nghị luận xã
hội ở trường THPT hiện nay, để tạo tiền đề cho việc học và làm văn của các em

2



ở các bậc học tiếp theo, tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Rèn luyện kĩ
năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 11”. Nhằm trao đổi với đồng
nghiệp một vài kinh nghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 11 nắm vững hơn
phương pháp làm kiểu bài này, với mong muốn nâng cao chất lượng bài thi, bài
kiểm tra và kết quả học tập của các em.
2. Tên sáng kiến:
“Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 11”.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Hà
- Địa chỉ: Trung tâm GDNN - GDTX Tam Đảo
- Số điện thoại: 0975875514

Email:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Nguyễn Thị Hà - Trung tâm GDNN-GDTX Tam Đảo
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Áp dụng dạy học môn Ngữ văn cho học sinh cấp THPT lớp11.
- Hỗ trợ giáo viên có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy: Rèn luyện kĩ năng
làm bài nghị luận xã hội cho học sinh
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 5/11/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Nội dung sáng kiến:
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG RÈN
LUYỆN KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH
1. Cơ sở lí luận
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện
nay thì giáo dục đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Mục tiêu giáo dục của tất cả
các quốc gia là đào tạo con người phát triển toàn diện. Tổ chức khoa học giáo
dục thế giới UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập là: “Học để biết, học

để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình”. Việc đưa mảng nghị
luận xã hội vào chương trình Ngữ văn bậc trung học hồn tồn phù hợp với xu
hướng giáo dục trên. Nghị luận xã hội là phưong pháp nghị luận lấy đề tài từ các
lĩnh vực xã hội, chính trị, đạo đức làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏ cái
3


đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề được nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo
về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống và bản thân. Những đề
tài và nội dung này thường là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc
sống, có tính giáo dục và tính thời sự cao. Đối với học sinh THPT, các bài văn
nghị luận xã hội thường mang đến cho các em những suy nghĩ và nhận thức
đúng đắn về cuộc sống; có ý nghĩa hướng đạo, đặc biệt là uốn nắn nhận thức cho
các em về những vấn đề có tính hai mặt của đời sống xã hội đang tác động trực
tiếp đến thế hệ trẻ.
2. Cơ sở thực tiễn:
Để làm tốt bài nghị luận xã hội, học sinh phải có những hiểu biết tương
đối sâu rộng về các lĩnh vực đời sống, chính trị xã hội… Song đa phần học sinh
phổ thơng ngày nay khơng có nhiều kiến thức xã hội. Các em khơng có sự chủ
động quan tâm tìm hiểu các vấn đề xã hội do bản chất của các vấn đề chưa hấp
dẫn với học sinh. Các em lại dành phần lớn quỹ thời gian của mình cho việc học
ở trường và ơn bài ở nhà. Bị bó hẹp trong mơi trường gia đình và nhà trường các
em gần như bị tách khỏi những vận động của đời sống chính trị, xã hội. Bên
cạnh đó, bản chất của những vấn đề xã hội cũng phức tạp, khó nắm bắt với lứa
tuổi học sinh.
Khó khăn thứ hai khi học sinh làm bài nghị luận xã hội mắc phải là khó khăn
về phương pháp. Đa số học sinh phổ thông không thành thạo các phương pháp
lập luận, gặp khó khăn trong tư duy lôgic, đặc biệt là lôgic ngôn ngữ.
Phương pháp học văn quen thuộc của học sinh là được thầy cô giáo hướng
dẫn và làm bài theo mẫu. Văn nghị luận xã hội lại khơng có mẫu, khơng thể biết

giới hạn kiến thức để hướng dẫn trước.
Trong thực tế, kiến thức xã hội nói chung, kiến thức xã hội để làm bài văn
NLXH nói riêng của học sinh THPT hiện nay không cao, khả năng tư duy logic
và khả năng lập luận của đa số học sinh còn thấp nên các em thường gặp khó
khăn khi làm bài NLXH. Thời lượng dành cho bài NLXH trong chương trình
phổ thơng hiện nay chỉ có 2 tiết lí thuyết dạy vào lớp 12 vì vậy giáo viên cũng
gặp khó khăn khi giảng dạy phân môn này. Vậy làm thế nào để nâng cao chất
lượng bài NLXH cho học sinh, làm thế nào để bồi dưỡng kiến thức xã hội cho
học sinh là một vấn đề cấp thiết. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy Ngữ Văn ,
chúng ta cần phải làm gì trước thực tế này để giúp các em học sinh có được
những kỹ năng làm bài tốt nhất khi đứng trước nhiều vấn đề rất thiết thực của
đời sống xã hội, qua đó bày tỏ được thái độ, suy nghĩ, nhận xét ... của bản thân
trước vấn đề ấy? Đó là những câu hỏi đã và đang được đặt ra và cần sớm được
giải quyết trong thực tế dạy - học hiện nay. Là giáo viên giảng dạy Ngữ Văn, tôi
luôn mong muốn giúp các em học sinh tiếp cận được vấn đề, hiểu và giải quyết
được vấn đề đặt ra từ các đề làm văn nghị luận xã hội. Từ đó, bồi dưỡng cho các

4


em sự u thích đối với mơn học và cũng là để góp phần giúp các em thêm hiểu
người, hiểu đời, làm phong phú thêm đời sống tâm hồn, tình cảm; góp phần hình
thành kỹ năng sống cho các em từ những vấn đề xã hội được tiếp cận. Đồng
thời, những vấn đề được đặt ra từ các đề bài làm văn nghị luận xã hội cũng góp
phần thiết thực vào việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho học sinh, trở
thành hành trang tri thức, góp phần chuẩn bị cho các em tự tin bước vào đời
thông qua những vấn đề nghị luận xã hội rất thiết thực.
3. Thực trạng dạy học văn NLXH ở trường phổ thông
- Thực trạng chung: Thực trạng học và làm bài văn nghị luận nghị luận xã hội
đang là một vấn đề được quan tâm trong các trường THPT nói chung và trường

TT GDNN-GDTX Tam Đảo nói riêng. Theo thống kê và theo dõi kết quả thi
học, kì, thi học sinh giỏi, thi vào PHPT của mấy năm gần đây thì chất lượng làm
bài mơn Ngữ văn của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên phần điểm bị
trừ trong bài lại rơi vào phần văn nghị luận xã hội. Nguyên nhân chính là do
cách diễn đạt của các em chưa được tốt. Các ý còn chung chung, chưa cụ thể và
rõ ràng, kiểu nghị luận này yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức thực tế thì
các em lại chưa có. Nhiều em cịn mắc các lỗi về dùng từ, diễn đạt...có em cịn
xác định sai đề, dẫn đến sai kiến thức cơ bản do suy diễn cảm tính, suy luận chủ
quan hoặc tái hiện quá máy móc dập khn trong tài liệu, thậm chí có chỗ “râu
ông nọ cắm cằm bà kia” nhầm nghị luận về tư tưởng đạo lí sang nghị luận về sự
việc hiện tượng đời sống...Sở dĩ chất lượng phần văn nghị luận xã hội còn chưa
đạt yêu cầu như vậy là do nhiều nguyên nhân:
- Về giáo viên:
Mặc dù trong những năm gần đây, hầu hết giáo viên đã nắm chắc được
cấu trúc của các đề thi học sinh giỏi và thi vào THPTQG, một phần không thể
thiếu là câu hỏi liên quan đến kiểu bài nghị luận xã hội, thế nhưng một số giáo
viên vẫn cho rằng câu hỏi chỉ chiếm tỉ lệ điểm trong bài khoảng 20% số điểm
nên chưa tập trung nhiều để hướng dẫn học sinh, khiến kiến thức cơ bản học
sinh nắm chàng màng. Tư tưởng học sinh làm bài lại chỉ chăm chú đến phần
nghị luận văn học mà không nghĩ rằng đây là phần dễ đạt điểm tối đa. Hơn nữa
lâu nay có khá nhiều học sinh và ngay cả thầy cô cứ nghĩ rằng văn hay là câu
chữ phải “bay bổng”, phải “lung linh”, nghĩa là dùng cho nhiều phép tu từ, nhiều
từ “sang”, nhiều thuật ngữ “oách” mà quên rằng văn hay là sự chân thực, sự giản
dị, tức là nói những điều mình nghĩ và nói bằng ngơn ngữ bình thường, khơng
cao giọng, không uốn éo làm duyên.
- Về học sinh.
Trong những năm gần đây học sinh không hứng thú muốn học mơn Ngữ
văn, nhất là ngại làm những bài văn. Có lẽ ngồi ngun nhân khách quan từ xã
hội, thì một phần cũng do làm văn khó, lại mất nhiều thời gian, “cơng thức” làm
văn cho các em lại khơng hình thành cụ thể. Các em không phân biệt rõ các thao

tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Kĩ năng tạo lập văn bản của học sinh ở
trường TT GDNN-GDTX Tam Đảo cịn kém nhiều và rất hiếm có những bài
nghị luận có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác,
đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm, luận cứ... Bài viết của các em khi thì sai về
5


yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không sát, khơng đúng với nội dung nghị luận
của đề bài. Ví dụ đề yêu cầu nghị luận về tư tưởng đạo lí lại làm sang nghị luận
về hiện tượng sự việc đời sống. Mặt khác đối với bài nghị luận xã hội dung
lượng quy định (chỉ khoảng 300 đến 400 từ hoặc một trang giấy thi) nhiều học
sinh vẫn chưa căn được, cứ thế phóng bút viết thậm chí hết nhiều thời gian mà
bài lại khơng cơ đọng, súc tích. Một điều nữa mà ta dễ dàng nhận thấy khi dạy
kiểu bài này các em đều quan niệm là bài văn “khơ khan” nên bài viết chưa có
sức hút, chưa lay động được tâm hồn người đọc. Ở bất cứ thể văn nào, khô khan
hay hấp hẫn là ở chất lượng. Mà chất lượng một bài văn phụ thuộc vào cảm
hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: Cách lập luận, dùng từ, câu...
Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài này vào thực tế giảng
dạy như sau: Năm học 2018-2019.
Lớp


số

11A1 34

Số HS không biết cách Số HS biết cách làm Số HS làm bài
làm bài (1->4điểm)
bài ở mức trung bình- tốt
khá (5->7điểm)

(8-9 điểm)
SL
%
SL
%
SL %
17
50,0
15
44,1
2
5,9

Kết quả trên đây cho thấy nguyên nhân mấu chốt là học sinh phần nhiều chưa
biết làm bài văn nghị luận tốt.
Vậy nên việc nâng cao, mở rộng, rèn thêm cho học sinh kĩ năng làm bài văn
nghị luận xã hội là rất cần thiết.
PHẦN II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ
LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH LỚP 11
I. NHẬN DẠNG ĐỀ:
Nghị luận xã hội là những bài văn mà người viết dùng lí lẽ, phán đoán,
chứng cứ để bàn luận về một vấn đề chính trị, xã hội, đời sống. Đề tài của dạng
bài này hết sức rộng mở, bao gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng, đạo lí, lối
sống, những hiện tượng tích cực, tiêu cực trong đời sống, vấn đề thiên nhiên,
môi trường, vấn đề hội nhập, vấn đề giáo dục nhân cách....Nghĩa là ngoài những
tác phẩm văn học ( lấy tác phẩm văn học trong nhà trường làm đối tượng) thì tất
cả các vấn đề khác được đưa ra bàn luận đều được xếp vào dạng nghị luận xã
hội. Có thể qui về hai dạng đề cơ bản: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị
luận về một hiện tượng đời sống.
Dạng nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học xét cho cùng

thì cũng phải qui về một trong hai dạng đề trên. Trên thực tế các đề nghị luận xã
hội rất phong phú và đa dạng, sự phân chia dạng đề chỉ là tương đối. Nhiều khi
6


giới hạn giữa hai dạng đề rất nhỏ nên học sinh khó xác định rạch rịi. Việc nhận
dạng đề trước khi tìm hiểu đề rất quan trọng, giúp học sinh định hướng đúng cho
bài làm, tránh sai lạc trong trong quá trình làm bài.
1. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí:
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư
tưởng đạo đức, lối sống, quan niệm của con người. Vấn đề tư tưởng đạo lí
thường được nêu lên trong các ý kiến, nhận định của các bậc vĩ nhân, hay nhà
thơ, nhà văn, hoặc được nêu ra ở tục ngữ, ca dao…. Các đề thường gặp là:
Ví dụ:
- Hãy viết một bài văn ngắn (khơng q 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh
(chị) về ý kiến sau:
“Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh
mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa” (Theo sách Dám thành công – Nhiều tác
giả, NXB trẻ, 2008, tr90): Đề thi tuyển sinh đại học khối D năm 2009.
- “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Khơng có lí tưởng thì khơng có phương
hướng kiên định, mà khơng có phương hướng thì khơng có cuộc sống” (Lép
Tônxtôi) . Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trị của lí tưởng nói chung và trình
bày lí tưởng riêng của mình .
- “Đời người cũng như một bài thơ, giá trị của nó khơng tùy thuộc vào số
câu mà tùy thuộc vào nội dung” (Seneca). Suy nghĩ của em về ý kiến trên.
- “Có ba điều trong cuộc đời mỗi người nếu đi qua sẽ không lấy lại được:
Thời gian, lời nói và cơ hội” Lời nhắn nhủ này nhắc anh (chị) điều gì?
- Suy nghĩ của anh (chị) về lời dạy của Chúa Jesus: “Thiên đường ở chính
trong ta. Địa ngục cũng do ta mà có”
- Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của Tuân Tử: “Người khen ta mà khen

phải là bạn của ta, người chê ta mà chê phải là thầy của ta, những kẻ tâng bốc,
xu nịnh là thù của ta”.
Học sinh có thể nhận ra dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí khi nhận
thấy đề bài yêu cầu bàn luận về một nhận định, một câu tục ngữ, hay một câu
danh ngơn.
Nhận định, tư tưởng thường được trích dẫn nguyên văn và được đặt trong
dấu ngoặc kép.

7


2. Dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống:
Xung quanh chúng ta hằng ngày có biết bao hiện tượng xảy ra. Có hiện
tượng tốt, có hiện tượng xấu. Tất cả những điều xảy ra trong cuộc sống ấy đều là
hiện tượng đời sống. Nghị luận về một hiện tượng đời sống là cách sử dụng tổng
hợp các thao tác lập luận để bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với
đời sống xã hội, đáng khen, đáng chê, hay đáng suy nghĩ; có tính bức xúc, cập
nhật nóng hổi diễn ra trong đời sống hàng ngày, được xã hội quan tâm như: an
tồn giao thơng, gian lận trong thi cử, bạo lực học đường, bệnh vơ cảm, bệnh
thành tích, bệnh đạo đức giả, hiện tượng mê muội thần tượng....từ đó làm cho
người đọc hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu sâu, để đồng tình hoặc bác bỏ trước những
hiện tượng đó. Các đề thường gặp là:
- Hãy viết một bài văn bàn về vấn đề: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành
động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thơng hiện nay.
Ví dụ:
- Em có suy nghĩ gì về vấn đề bạo lực học đường đang diễn ra khá nhiều
trong trường học hiện nay?
- Hãy viết một bài văn với tiêu đề: “ Nước - nguồn tài nguyên quý vô giá”.
- Hãy viết một bài văn bàn về vấn đề: ô nhiễm môi trường .
- Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp

văn hóa nhưng mê muội thần tượng là một thảm họa”
- Anh (chị) có suy nghĩ gì về căn bệnh vơ cảm trong xã hội ta hiện nay?
- “Đạo đức giả là một căn bệnh chết người ln nấp sau bộ mặt hào
nhống”. Suynghĩ của em về ý kiến trên.
- Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) bày tỏ suy nghĩ của
mình về hành động dũng cảm cứu người của học sinh Nguyễn Văn Nam từ
thông tin sau: “Chiều ngày 30 - 4 – 2013, bên bờ sông Lam , đoạn chảy qua xã
Trung Sơn,huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Nam (học sinh lớp
12T7, trường THPTĐô Lương I) nghe tiếng kêu cứu có người đuối nước dưới
sơng, em liền chạy đến.Thấy một nhóm học sinh đang chới với dưới nước, Nam
đã nhảy xuống, lần lượt cứu được ba học sinh lớp 9 và một học sinh lớp 6. Khi
đẩy được em thứ năm vào bờ thì Nam đã kiệt sức và bị dịng nước cuốn trơi.
(Theo Khánh Hoan, Thanhnienonline, ngày 6 - 5 - 2013)

8


- Học sinh nhận ra dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống nhờ vào
đối tượng được đề cập đến trong đề bài và yêu cầu của đề bài. Đối tượng được
đề cập bây giờ không phải là một câu nói nào đó mà là một vấn đề đang xảy ra
trong cuộcsống hiện tại. Thông thường trên dạng đề này có các từ ngữ như: hiện
tượng, vấn đề, vấn nạn…. nhờ các từ ngữ nói trên, học sinh có thể xác định được
dạng đề ngay tức thì.
- Tuy nhiên với một số đề thì vấn đề lại khơng hồn tồn đơn giản như vậy.
Có những đề có sự giao thoa giữa nghị luận về một tư tưởng đạo lí với nghị luận
về một hiện tượng đời sống.
Ví dụ: Nhà hoạt động xã hội Martin Luther King từng nói: “Trong thế giới
này, chúng ta khơng chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà
cịn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt”. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến
trên?

Đề bài trên vừa bàn về tư tưởng đạo lí, vừa bàn về hiện tượng đời sống. Với
dạng đề bài này, học sinh cần kết hợp yêu cầu bài làm của cả hai dạng đề để giải
quyết.
Trước hết các em cần xác định phần chung của hai dạng đề cần giải quyết,
đó là:
- Giới thiệu, tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng cần giải quyết.
- Bình luận về tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống. Chỉ ra mặt đúng,
mặt tíchcực, hay mặt sai, mặt tiêu cực của vấn đề cần bàn luận.
- Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.
Mỗi dạng đề có các yêu cầu riêng của nó. Dạng đề nghị luận về một tư
tưởng đạo lí cần thiết phải giải thích ý nghĩa của tư tưởng đạo lí. Còn dạng đề
nghị luận về một hiện tượng đời sống cần thiết phải phân tích nguyên nhân và
chỉ ra hậu quả của hiện tượng cần bàn luận. Đối với các đề bài có sự kết hợp cả
hai dạng thì học sinh cần phải xác định luận điểm nhiều hơn, bao gồm cả phần
chung và phần riêng đã nói trên. Như vậy, nhận dạng đề là khâu quan trọng đầu
tiên giúp học sinh xác định được hướng đi của bài làm, nhằm tránh việc lạc đề.
Có thể thấy dạng đề được thể hiện khá rõ qua các dấu hiệu ngôn ngữ có trong đề
bài. Đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí thường yêu cầu bàn luận về một nhận
định, một câu tục ngữ, một câu danh ngôn. Nhận định, tư tưởng thường được
trích dẫn nguyên văn và được đặt trong dấu ngoặc kép. Đề nghị luận về một hiện

9


tượng đời sống thường đề cập đến đối tượng cụ thể là các hiện tượng, vấn đề,
vấn nạn....học sinh có thể nhận biết dễ dàng nếu tập trung chú ý.
II. TÌM HIỂU ĐỀ:
Sau khi nhận dạng đề, học sinh cần tiến hành khâu tìm hiểu đề. Đây khơng
phải là cơng đoạn riêng của văn nghị luận xã hội mà bất cứ bài làm văn nào
cũng cần thiết phải được chú ý. Tìm hiểu đề là tìm hiểu 3 yêu cầu của đề, bao

gồm:
- Yêu cầu về thể loại.
- Yêu cầu về nội dung.
- Yêu cầu về dẫn chứng.
Về thể loại: gần như cả 2 dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí hay nghị
luận về một hiện tượng đời sống đều là bình luận. Về dẫn chứng, người viết phải
biết huy động mọi loại kiến thức trong nhà trường cũng như trong cuộc sống đặc
biệt là những hiểu biết thực tế để làm cho bài viết vừa sâu sắc vừa sống động,
đầy sức thuyết phục. Yêu cầu quan trọng nhất là về nội dung đòi hỏi học sinh
phải xác định đúng trọng tâm của đề thì bài viết mới đúng hướng.
Ví dụ 1: Có ý kiến cho rằng: “Nếu cuộc đời là một bộ phim , tôi muốn là
vai phụ xuất sắc nhất”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.
Luận đề của đề bài này là: Bàn về vai trị của một người bình thường trong
xã hội nhưng là người bình thường xuất sắc.
Ví dụ 2: Hãy viết bài văn với tiêu đề: “Góc sân và khoảng trời”.
Luận đề của đề bài này là: Bàn về mối quan hệ giữa những cái nhỏ bé, gần
gũi và những cái lớn lao, to tát; giữa thực tại và ước mơ, khát vọng.
Ví dụ 3: Có ý kiến cho rằng: “ Một người chưa biết đến những lời nói dối
đẹp thì cũng chưa biết đến thế giới chân thực” . Suy nghĩ của em về ý kiến trên.
Luận đề của đề bài này là: Bàn về ý nghĩa của những lời nói dối đẹp.
Ví dụ 4: Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của Âu Dương Tử: “Trăm sơng
học bể đến được bể. Gị đống học núi khơng đến được núi là bởi một đằng đi,
một đằng đứng”.
Luận đề của đề bài này là : Tầm quan trọng của cách học và cũng là cách
sống của con người trong cuộc đời.

10


Ví dụ 5: Có ý kiến cho rằng: “ Một người khi đã đánh mất niềm tin vào

bản thân thì sẽ đánh mất thêm nhiều thứ quí giá khác”. Suy nghĩ của anh (chị) về
ý kiến trên.
Luận đề của đề bài này là: Bàn về vai trò, tầm quan trọng của lịng tự tin.
Ví dụ 6: Suy nghĩ của anh (chị) về lời dạy của Chúa Jesus: “Thiên đường ở
chính trong ta. Địa ngục cũng do ta mà có”.
Luận đề của đề bài này là: Cuộc sống của chúng ta trở nề đẹp đẽ hay chán
ngắt là do chính chúng ta quyết định.
Từ một số ví dụ trên có thể thấy việc tìm hiểu đề có ý nghĩa như thế nào.
Nó xác định đúng hướng, đúng trọng tâm yêu cầu của đề. Những học sinh vội
vàng, hấp tấp, bỏ qua cơng đoạn tìm hiểu đề, gặp những đề như thế này chắc
chắn sẽ làm lạc đề.
Phương pháp chung cho việc tìm hiểu đề là: Đọc thật kĩ đề ra, tiếp theo tìm
từ hoặc cụm từ then chốt có chứa ẩn ý được gọi là từ khóa hay cụm từ khóa .
Sau đó giải mã các từ khóa để tìm ra u cầu trọng tâm của đề là gì. Ở ví dụ 1
cụm từ then chốt là“vai phụ xuất sắc nhất”; nếu xác định từ then chốt là cuộc đời
hay bộ phim thì sẽ lạc đề ngay. Ở ví dụ 2 từ khóa là “góc sân” và “khoảng trời”;
ví dụ 3 cụm từ khóa là“lời nói dối đẹp” và “thế giới chân thực”; ví dụ 4 từ khóa
là “đi” và “đứng”; ví dụ 5 cụm từ khóa là “niềm tin vào bản thân”; ví dụ 6 từ
khóa là “thiên đường” và “địa ngục”.....
III- LẬP DÀN BÀI
Từ yêu cầu chung và một số ví dụ nêu trên, tơi đề nghị mẫu dàn bài cho bài
văn nghị luận xã hội như sau:
1. Đối với đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí:
- Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu khái quát nhận định, đánh giá có nêu ra ở đề
bài. Sau đó định hướng vấn đề nghị luận. Lưu ý: Học sinh phải trích dẫn nhận
định và nêu luận đề của đề bài trong phần mở bài này.
- Thân bài:
+ Giải thích Làm rõ nội dung vấn đề tư tưởng đạo lí được dẫn trong đề.
+ Các biểu hiện của vấn đề trong thực tế đời sống.
+ Nhận định, đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lí trong bối cảnh của cuộc sống

hiện tại. + Ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đối với đời sống xã hội: Mặt tích cực,

11


tiêu cực, đúng hay chưa đúng của tư tưởng đạo lí, khẳng định mặt đúng, tích
cực, bác bỏ những biểu hiện sai lệch.
+ Bàn luận mở rộng, nâng cao vấn đề: Đưa ra phản đề làm đối sánh nhằm
khẳng định luận đề, mở rộng nâng cao vấn đề lên mức độ khái quát thành quan
niệm sống, triết lí sống.
- Kết bài: Kết luận, tổng kết, nêu bài học sâu sắc cho bản thân về nhận
thức, về hành động. Lưu ý: Bài làm ở dạng này cần lựa chọn góc độ riêng để
giải thích, đánh giá và đưa ra ý kiến riêng của mình. Có thể chọn dẫn chứng từ 3
nguồn: thực tế, sách vở và giả thiết. Tuy nhiên không nên chọn nhiều dẫn chứng
văn học, vì sẽ dễ sa vào nghị luận văn học.
2. Đối với đề bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống:
- Mở bài: Giới thiệu sự việc hiện tượng đời sống có vấn đề, cần bàn luận.
- Thân bài:
+ Nêu thực trạng của hiện tượng, phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại.
+ Tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng.
+ Bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó.
+ Đề xuất các giải pháp cụ thể đối với hiện tượng.
- Kết bài: Kết luận, khẳng định những vấn đề đã nêu trong thân bài. Lưu ý:
Bài làm ở dạng này cần lựa chọn góc độ riêng để phân tích, nhận định, đưa ra ý
kiến và sự cảm nhận riêng của người viết.
IV- HƯỚNG DẪN CHI TIẾT LÀM BÀI CỤ THỂ
1) Hướng dẫn cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống:
Cuộc sống đang từng giờ, từng phút trôi qua cùng biết bao thay đổi và
biết bao sự kiện. Có thể nói chính những sự việc, hiện tượng đời sống là mảng

đề tài hết sức hấp dẫn, phong phú người ra đề lựa chọn các mảng đề tài khác
nhau để ra đề như: Môi trường, dân số, trẻ em, tệ nạn xã hội.... Để làm tốt dạng
đề nghị luận xã hội về sự việc hiện tượng đời sống đang được dư luận xã hội
quan tâm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh lưu ý.
*Làm bài nghị luận về sự việc đời sống.

12


- Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cục ba phần, luận điểm rõ ràng, luận
cứ xác thực, lời văn có sức thuyết phục.
- u cầu về nơi dung.
+ Nêu thực trạng của vấn đề.
+ Biểu hiện – phân tích tác hại.
+ Nguyên nhân.
+ Biện pháp khắc phục (hướng giải quyết)
+ Ý thức bản thân đối với vấn đề nghị luận.
Ví dụ :
Với nhan đề: Mơi trường sống của chúng ta. Dựa vào những hiểu biết của
em về môi trường, viết một bài văn ngắn trình bày quan niệm của em và cách
làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
Nêu vấn đề và triển khai thành bài văn nghị luận gồm các ý cơ bản sau:
a. Mở bài: (Nêu vấn đề nghị luận)
Môi trường sống của chúng ta thực tế đang bị ơ nhiễm và con người chưa
có ý thức bảo vệ.
b. Thân bài:
- Biểu hiện. + Xã hội.
+ Nhà trường.
- Phân tích tác hại:
+ Ơ nhiễm mơi trường làm hại đến sự sống.

+ Ơ nhiễm mơi trường làm cảnh quan bị ảnh hưởng.
- Đánh giá:
- Những việc làm đó là thiếu ý thức bảo vệ mơi trường, phá hủy môi trường
sống tốt đẹp.
- Phê phán và cần có cách xử phạt nghiêm khắc.
- Hướng giải quyết.
- Tuyên truyền để mỗi người tự rèn cho mình ý thức bảo vệ mơi trường.
- Coi đó là vấn đề cấp bách của toàn xã hội.

13


c. Kết bài: Khẳng định lại vai trị của mơi trường.
*Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
- Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cục ba phần, diễn đạt có cảm xúc.
- Yêu cầu về nội dung cần đảm bảo các ý sau:
+ Giải thích hiện tượng.
+ Trình bày suy nghĩ của người viết về hiện tượng ấy.
+ Liên hệ thực tế đời sống.
+ Nêu tác dụng ảnh hưởng và bài học rút ra.
Ví dụ :
Đề bài: “Giữa một vùng sỏi đá khơ cằn, có những lồi cây vẫn mọc lên và
nở những chùm hoa thật đẹp”. Viết một một bài văn nghị luận (Khoảng 300 từ)
nêu suy nghĩ của em được gợi ra từ hiện tượng trên.
Gợi ý.
Với dạng bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập theo ý.
* Về hình thức: Trình bày thành văn bản nghị luận ngắn, có bố cục 3 phần
rõ ràng (Mở bài, thân bài, kết bài), yêu cầu khơng q 300 từ.
* Về nội dung:
- Giải thích hiện tượng: là hiện tượng có thể bắt gặp trong thiên nhiên, gợi

tả sức chịu đựng, sức sống kì diệu của những loài cây “vẫn mọc lên và nở những
chùm hoa thật đẹp” ngay trong “một vùng sỏi đá khô cằn” (có thể đi từ việc giải
thích từ ngữ: Vùng sỏi đá khô cằn, chỉ sự khắc nghiệt của môi trường sống; loài
cây vẫn mọc lên và nở những chùm thật đẹp; sự thích nghi, sức chịu đựng, sức
sống, vẻ đẹp).
- Trình bày suy nghĩ:
Hiện tượng thiên nhiên nói trên gợi suy nghĩ về vẻ đẹp của con người trong
bất cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào vẫn thể hiện nghị lực phi thường, sức chịu đựng
và sức sống kì diệu nhất. Đối với họ nhiều khi sự gian khổ, khắc nghiệt của hồn
cảnh lại chính là mơi trường để tơi luyện, giúp họ vững vàng hơn trong cuộc
sống. “Những chùm hoa thật đẹp” “Những chùm hoa trên đá” (Thơ: Chế Lan
Viên). Thành cơng đạt dược thật có giá trị vì nó là kết quả của những cố gắng
phi thường, sự vươn lên không mệt mỏi. Vẻ đẹp của những cống hiến, những

14


thành công mà họ dâng hiến cho cuộc đời lại càng có ý nghĩa hơn, càng “rực rỡ”
hơn...
- Liên hệ thực tế : Khơng có ai ở Việt Nam khơng biết đến thầy Nguyễn
Ngọc Kí đã bị liệt cả hai tay, nhưng anh đã kiên trì luyện tập biến đơi bàn chân
thành đơi bàn tay kì diệu viết những dịng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo,
nhà thơ...
- Nêu tác dụng, ảnh hưởng, bài học rút ra từ hiện tượng :
Những con người với vẻ đẹp của ý chí, nghị lực luôn là niềm tự hào,
ngưỡng mộ của chúng ta, động viên và thậm chí cảnh tỉnh những ai chưa biết
chấp nhận khó khăn, thiếu ý chí vươn lên trong cuộc sống.
2. Hướng dẫn làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý:
* Lưu ý : Đề bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí khá đa dạng.
- Thể hiện ở nội dung nghị luận: Những vấn đề tư tưởng, đạo lí hết sức

phong phú, đa dạng.Vì vậy cần tránh học tủ, đốn “mị” nội dung nghị luận.
Điều quan trọng là phải nắm được kĩ năng làm bài.
- Thể hiện trong dạng thức đề thi:
Có đề thể hiện rõ yêu cầu nghị luận, có đề chỉ đưa ra yêu cầu nghị luận mà
không đưa ra một yêu cầu cụ thể nào.
Có đề nêu trực tiếp vấn đề nghị luận, có đề gián tiếp đưa ra vấn đề nghị
luận qua một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện...
- Chú ý các bước cơ bản của bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Đây
cũng là trình tự thể hiện hệ thống lập luận trong bài viết. Học sinh cần tranh thủ
những hướng dẫn quan trọng trong sách giáo khoa để nắm chắc kĩ năng làm bài
như ở trên.
a.Mở bài: - Dẫn dắt vấn đề.
- Nêu vấn đề.
b.Thân bài:
- Giải thích vấn đề (nghĩa đen, nghĩa bóng; từ ngữ trọng tâm...)
- Khẳng định vấn đề (đúng, sai)
- Quan niệm: sai trái.
- Mở rộng vấn đề.
15


c.Kết bài:
- Giá trị đạo lí đối với đời sống của mỗi con người.
- Bài học hành động cho mọi người, bản thân.
Đồng thời giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý đối với hai dạng đề
nghị luận về tư tưởng đạo lí thường gặp.
+ Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp.
+ Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách gián tiếp.
* Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp.
Những lưu ý về cách làm bài.

- Cách làm bài dạng đề này về cơ bản giống với cách nói trên. Ví dụ khi
gặp đề bài “Bàn luận về lịng yêu nước”, để đáp ứng được yêu cầu của đề, học
sinh trước hết phải giải thích khái niệm “Lịng u nước”, nêu và phân tích
những biểu hiện của “Lịng u nước”; ý nghĩa, vai trò của “Lòng yêu nước”đối
với đời sống của mỗi con người, mỗi dân tộc, đồng thời phê phán những biểu
hiện đi ngược lại với “Lòng yêu nước”, rút ra bài học về nhận thức và hành động
cho bản thân.
*Ví dụ minh hoạ:
Đề bài : Viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình
bày suy nghĩ về đức hy sinh.
Đề bài yêu cầu học sinh viết một văn bản nghị luận (không quá một trang
giấy thi) trình bày suy nghĩ của bản thân về đức hy sinh. Đây là dạng bài nghị
luận xã hội (Về một vấn đề tư tưởng, đạo lý) đã khá quen thuộc với học sinh. Dù
vậy, giáo viên cần hướng dẫn các em đáp ứng được các yêu cầu sau :
* Trình bày bài viết đúng với yêu cầu của đề; khơng q một trang giấy thi.
* Có thể diễn đạt theo nhiều cách, song cần đảm bảo bố cục sau:
a.Mở bài:
Giới thiệu được đức hy sinh và nêu khái quát đặc điểm vai trò của đức hy
sinh.
b.Thân bài.
- Giải thích sơ lược, nêu biểu hiện của đức hy sinh :

16


Là những suy nghĩ, hành động vì người khác, vì cộng đồng. Người có đức
hy sinh khơng chỉ có tấm lòng nhân ái mà còn là người biết đặt quyền lợi của
người khác, của cộng đồng lên quyền lợi của bản thân mình...
- Khẳng định : Đức hy sinh là tình cảm cao đẹp, là phẩm chất đáng quý của
con người. Người có đức hy sinh ln được mọi người yêu mến, trân trọng.

- Mở rộng - liên hệ thực tế để thấy:
Có nhiều tấm gương giàu đức hy sinh, quên mình vì người khác, sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng đất nước. (Lấy dẫn chứng tiêu biểu về những người có đức
hy sinh - Bác Hồ chính là biểu tượng cao đẹp nhất của con người hy sinh quên
mình vì nhân dân, vì dân tộc).
Tuy nhiên trong cuộc sống cũng cịn một số người có lối sống ích kỷ, chỉ
nghĩ đến quyền lợi của cá nhân mình...
c.Kết bài:
- Đức hy sinh từ lâu đã trở thành tình cảm có tính truyền thống đạo lý của
con người, dân tộc Việt Nam... Mỗi người cần ý thức được điều này để góp phần
làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.
* Dạng đề trong đó tư tưởng, đạo lí được nói tới một cách gián tiếp...
Những lưu ý về cách làm bài :
- Ở dạng này vấn đề tư tưởng, đạo lí được ẩn trong một câu danh ngơn, một
câu ngạn ngữ, một câu chuyện, một văn bản ngắn. Xuất xứ của một câu danh
ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản ngắn này cũng rất đa dạng: Trong sách
giáo khoa, trên báo chí, trên internét, đặc biệt trong cuốn “Quà tặng cuộc sống,
cuộc sống quanh ta, bài học cuộc đời, hạnh phúc ở quanh ta...”. Chính vì thế
giáo viên cần hướng cho học sinh biết đọc tham khảo, kể cho các em nghe
những câu chuyện có liên quan, có nội dung thiết thực với các em hàng ngày.
- Khi làm bài cần chú ý cách nói bóng bẩy, hình tượng thường xuất hiện
trong những câu danh ngôn, tục ngữ, thành ngữ..., ý nghĩa ẩn dụ, triết lí sâu sắc
của những câu chuyện, văn bản ngắn.Vì thế để rút ra được vấn đề tư tưởng đạo
lí cần bàn bạc, cần chú ý :
+ Giải thích từ ngữ (nghĩa đen, nghĩa bóng) từ đó rút ra nội dung câu nói
(Nếu đề bài có dẫn chứng câu danh ngơn, tục ngữ, ngạn ngữ...)

17



+ Giải thích ý nghĩa câu chuyện, văn bản (Nêu đề bài có dẫn chứng câu
chuyện, văn bản ngắn).
- Thơng thường khi làm bài, học sinh chỉ chú ý đến tính chất đúng đắn của
vấn đề được đưa ra nghị luận mà ít chú ý thao tác bổ sung, bác bỏ...Những khía
cạnh chưa hồn chỉnh của vấn đề hoặc trái ngược với vấn đề cần quan tâm.
Chẳng hạn khi suy nghĩ về tình cảm người mẹ qua câu thơ :
“Dẫu con đi hết cuộc đời
Cũng không đi hết những lời mẹ ru”
(Nguyễn Duy)
Ngồi khẳng địng về tình mẫu tử thiêng liêng, ta cịn bắt gặp đâu đó những
người mẹ cịn bỏ rơi con hoặc đánh đập con. Hay khi trình bày suy nghĩ của bản
thân về câu nói : “Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có
thể”. Học sinh ngồi khẳng định tính chất đúng đắn của lời khuyên (sống thực
tế, biết bằng lòng với hiện tại, với những gì mình có...), cần phải hiểu được tầm
quan trọng của những khát vọng, ước mơ đối với mỗi con người trong cuộc
sống.
- Một điều nữa cần lưu ý là khơng được sa vào phân tích câu danh ngôn,
ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản...như một bài nghị luận văn học.
Ví dụ:
Ví dụ 1: Nghị luận một vấn đề trực tiếp.
“Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”
(Nguyễn Duy).
Từ ý thơ trên, hãy viết một bài nghị luận xã hội (khoảng một trang giấy thi)
trình bày suy nghĩ của em về tấm lịng người mẹ.
* Về hình thức: Đảm bảo bài văn bố cục 3 phần, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc.
* Về nội dung :
- Nêu ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Duy “Lời mẹ ru” biểu tượng cho tình
u thương vơ bờ mà mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp” cũng “khơng đi
hết”. Khẳng định tình mẹ là vơ cùng thiêng liêng cao cả và bất tử, là bao la vô


18


tận khơng sao có thể đền đáp được...Từ đó khẳng định: Tấm lòng của mẹ thật
bao la, lớn lao.
- Biểu hiện, bàn về tấm lòng của mẹ:
+ Ban cho con hình hài, muốn con khơn lớn, khoẻ mạnh về vóc dáng, bằng
sự chăm sóc ân cần, chu đáo.
+ Là người dạy con từ những kĩ năng sống đến đạo lí làm người.
+ Là vị quan toà đầy lương tâm, trách nhiệm, chỉ bảo phân tích xác đáng
những sai trái, lỗi lầm.
+ Là bến đỗ bình n đón đợi con sau những dơng bão cuộc đời.
+ Là bệ phóng xây dựng niềm tin, khát vọng...để con bay cao, bay xa (lấy
dẫn chứng).
- Ý nghĩa :Tình yêu và đức hy sinh của mẹ là sức mạnh để giúp con vượt
lên khó khăn trong cuộc sống, giúp con sống tốt hơn.
- Tuy nhiên trong thực tế, có những người mẹ thể hiện tình thương con
không đúng cách (nuông chiều, giấu đi cái xấu, lỗi lầm...), hay có những người
mẹ vơ trách nhiệm (bỏ rơi, đánh đập con...), những người mẹ ấy đáng bị phê
phán.
- Bài học về nhận thức và hành động :
Liên hệ bản thân, cảm nhận sâu sắc tấm lòng người mẹ với con cái, tình
cảm của con với cha mẹ.
Ví dụ 2 :
Đề bài: Viết bài văn ngắn (không quá 300 từ), trình bày ý kiến của em về
câu nói sau đây của nhà văn Nga Leptôn – xtôi.
“Bạn đừng nên chờ đợi những quà tặng bất ngờ của cuộc sống mà hãy tự
mình làm nên cuộc sống”.
Gợi ý : Học sinh cần đáp ứng một số yêu cầu sau :

* Hình thức : Bố cục rõ ràng, diễn đạt chặt chẽ, lơ gíc.
* Nội dung :
- Giải thích câu nói :
+ Quà tặng bất ngờ : Có thể hiểu theo cả nghĩa cụ thể - khái quát (vật chất
và tinh thần, những cơ hội may mắn, bất ngờ...).
19


+ Nội dung ý nghĩa của câu nói khuyên con người cần có thái độ sống chủ
động, có ý chí và nghị lực vươn lên.
- Bàn luận :
+ Quà tặng bất ngờ mang lại niềm vui, sự hào hứng...nhưng không phải lúc
nào cũng có.
+ Nhiều người khi nhận được quà tặng bất ngờ; có tâm lí chờ đợi, ỉ lại,
thậm chí phung phí những quà tặng ấy.
+ Phê phán một số người thụ động, thiếu ý chí vươn lên, chỉ chờ đợi những
“quà tặng bất ngờ” mà cuộc sống mang lại mà khơng “tự mình làm nên cuộc
sống”.
+ Khơng thể phủ nhận những giá trị ý nghĩa của “quà tặng bất ngờ” mà
cuộc sống đem lại cho con người, vấn đề là biết tận dụng, trân trọng quà tặng ấy
như thế nào?
- Bài học nhận thức hành động :
Phải chủ động trang bị kiến thức, rèn luyện cách sống bản lĩnh, có ý
chí...để có thể đón nhận những “q tặng kì diệu” của cuộc sống do chính bản
thân mình làm nên.
3. Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội.
Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn
nghị luận xã hội, người viết phải sử dụng dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những
người thật, việc thật. Đây là một cơng việc khá khó khăn đối với học sinh. Để
giúp các em biết cách tìm dẫn chứng một cách tốt nhất, xin chia sẻ một số kinh

nghiệm trong việc sưu tầm tư liệu phục vụ cho đề văn nghị luận xã hội.
- Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin
đại chúng, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, con số chính xác
về một sự việc nào đó.
- Sau một thời gian tích luỹ cần chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa
nhất cho một số dẫn chứng tiêu biểu.
- Cần nhớ, một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau.
Quan trọng là phải có lời phân tích khéo léo. (Ví dụ lấy dẫn chứng về Bác Hồ
hay BillGates vừa có thể dùng cho đề bài về tinh thần tự học, về tài năng của

20


con người, hoặc vừa là đề bài về khả năng ý chí vươn lên trong cuộc sống hay
về niềm đam mê, bài học về sự thành công, tấm gương về một lòng nhân ái...).
- Sau đây là một số dẫn chứng tiêu biểu có thể dùng làm dẫn chứng cho
một bài văn nghị luận xã hội.
* Dùng nhân vật trong thực tế đời sống để làm dẫn chứng.
a. Bác Hồ: Một lãnh tụ vĩ đại, một nhà cách mạng lỗi lạc đồng thời là một
nhà văn, nhà thơ. Để có được điều đó Người phải tự học, ý chí vươn lên trong
cuộc sống, quan trọng hơn Bác còn là người biết hy sinh mình cho tổ quốc nhân
dân.
-> Khó khăn khơng làm cho ý chí lung lay mà ngược lại cịn giúp cho con
người có nghị lực hơn.
b. Niu–tơn : Là nhà tốn học, vật lí, cơ học, thiên văn học vĩ đại người
Anh. Sinh ra thiếu tháng, là một đứa trẻ yếu ớt, Niu-tơn thường phải tránh
những trò chơi hiếu động của bạn bè. Do đó ơng phải tự tạo ra những trị chơi
cho mình và trở thành người rất tài năng.
-> Những thiếu thốn của bản thân không thắng nổi sức mạnh của nghị lực.
c. Bill Gates: Từ nhỏ đã say mê toán học, từng đậu vào trường Đại học

Harvrard nhưng niềm say mê máy tính ơng đã nghỉ học và cùng một người bạn
mở công ty Micrôsott. Vượt qua nhiều khó khăn, ơng đã trở thành người giàu
nhất hành tinh và hiện nay ông đã dành 95% tài sản của mình làm từ thiện. Cuộc
đời của ơng là bài học cho sự thành công nhờ tự học và niềm đam mê công
việc...
d. Chu Văn An: (1292 – 1370) là nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm
mẫu mực cuối đời Trần. Nổi tiếng cương trực, không cầu danh lợi. Ra làm quan
từ thời vua Trần Dụ Tông (Đầu thế kỷ XIV), chính sự suy đồi, nịnh thần lũng
đoạn, ông dâng sớ xin chém 7 nịnh thần (thất trảm sở) nhưng khơng được chấp
thuận. Ơng treo án từ quan về q dạy học, viết sách. Ơng khơng vì trị làm quan
to mà dựa dẫm, ln thẳng thắn phê bình những trị thiếu lễ độ. Đây là tấm
gương về lối sống trung thực, bất chấp khó khăn vẫn đấu tranh cho lẽ phải.
e. Phan Thị Huệ: Là một trong số ít người Việt Nam nhiễm HIV /AIDS
dám cơng khai thân phận - Phạm Thị Huệ, quê ở Hải Phòng đã được tạp chí
Time của Mĩ bầu chọn là “Anh hùng châu Á”. Biết mình và chồng bị nhiễm

21


nhưng cơ đã chiến thắng bản thân, đóng góp sức lực cho cuộc đời. Tháng 2/2005
cơ trở thành tình nguyện viên của Liên Hợp Quốc.
-> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất.
g. Anh Trần Văn Thước: bị tai nạn lao động liệt tồn thân. Khơng gục
ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Khơng thể nói hết
những gian nan, những giọt nước mắt đau khổ của họ trong những ngày tự mình
vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn
nhưng khơng phế.
h. Nguyễn Công Hùng: Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn
Công Hùng (Xã Nghi Diên-huyện Nghi Lộc-Nghệ An) Từ khi sinh đã mắc
chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy

kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp,
trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành
một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ cơng nghệ thơng tin năm
2005 vì những đóng góp khơng vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005
anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt
Nam” về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào
tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo.
i. Thầy Nguyễn Ngọc Ký: bị liệt cả hai bàn tay đã kiên trì luyện tập biết
đơi bàn chân thành đơi bàn tay kì diệu, viết những dịng chữ thật đẹp trở thành
nhà giáo, nhà thơ.-> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất.
Đấy là những con người có nghị lực phi thường trong cuộc sống, những
con người biết vượt lên số phận.
* Dùng những con số biết nói để làm dẫn chứng.
a. Tính trên tồn thế giới, số người nhiễm HIV hiện nay là 45 triệu người.
Trong đó 50% là phụ nữ. Có khoảng 14 triệu trẻ em trên thế giới có cha mẹ,
hoặc cả cha mẹ qua đời vì HIV/AIDS.
HIV/AIDS là một thảm hoạ, tồn nhân loại cần có những hành động thiết
thực để ngăn chặn căn bệnh thế kỷ này.
b. Những con số biết nói về môi trường :
14 chiếc túi ni lon được làm ra tổn phí nhiên liệu bằng lượng xăng dầu cho
một chiếc ô tô chạy 1 km.

22


c. 10 triệu USD là ngân sách nhà nước Việt Nam chi cho vấn đề rác thải
hàng năm, trong khi không tiến hành phân loại và tái chế rác gây lãng phí 9 triệu
USD (gần 140 tỉ đồng)
Sau khi hướng dẫn học sinh sưu tầm các dẫn chứng, tôi nhận thấy các em
làm bài tốt hơn. Bài viết lập luận chặt chẽ, xác thực với những dẫn chứng cụ thể

trong cuộc sống đời thường. Những tấm gương giúp các em hồn thiện mình
hơn, những số liệu làm các em phải suy nghĩ và biết đưa ra hành động tích cực,
để tạo nên sức hút cho bài làm.
V- HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
THEO HƯỚNG MỞ
Trong những năm gần đây, đề thi mơn Ngữ văn đã có nhiều thay đổi về cấu
trúc cũng như nội dung. Xu hướng chung của các kì thi là ra đề theo hướng mở.
Việc ra đề theo hướng mở đã góp phần phát huy trí thơng minh, sáng tạo của học
sinh trong việc học môn Ngữ văn. Nội dung của đề mở không chỉ là những vấn
đề xã hội gần gũi, đời thường.
Hiện nay cách ra đề nghị luận xã hội của các thầy cơ giáo trong các kì kiểm
tra hoặc thi cử sáng tạo, phong phú. Điểm qua đề thi ngữ văn vào lớp 10, thi học
sinh giỏi của một số tỉnh, thành ta có thể nhận thấy cách ra đề nghị luận xã hội
thường dựa vào những cơ sở sau :
Cách thứ nhất:
Lấy hiện tượng xã hội nổi bật được cập nhật trên các phương tiện thông
tin đại chúng làm cở sở cho nội dung đề bài.
Ví dụ: Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt
Nam Võ Nguyên Giáp qua đời lúc 18 giờ ngày 4/10/2013 khi ơng vừa trịn 103
tuổi. Ngay sau sự ra đi của Đại tướng, trên mạng giới trẻ đồng loạt thay avatar
(ảnh đại diện) chia sẻ sự mất mát lớn lao này. Theo 2 sao-trang thông tin tổng
hợp của Vietnamnet.
“Ngay trong đêm 4 tháng 10, rạng sáng ngày 5/10, một nhóm các bạn học
sinh Hà Nội đã tập trung tại khu vực đường Điện Biên Phủ để thắp nến tiếc
thương người anh hùng dân tộc”. Ngày 07/10/2013 báo Gia dinh.net đưa
tin : “Trên mạng xã hội cư dân mạng truyền tay nhau hình ảnh một thanh niên
người Pháp tên Neang đang học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh mặc
áo dài trắng, đầu chít khăn tang trắng theo đúng phong tục truyền thống của
người Việt Nam, tay cầm tấm chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để tỏ
23



lịng thành kính”. Báo chí nước ngồi nhận định: “Đám tang Đại tướng là hiện
tượng hiếm có!”. Hãy bàn luận về những sự việc nói trên.
Cách thứ 2: Dựa vào các tác phẩm văn học, người ra đề nêu lên vấn đề
xã hội và yêu cầu học sinh bàn luận.
Ví Dụ 1: Một câu trong đề thi vào lớp 10 “Sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hoá năm học: 2012-2013” như sau :
Có một người cha trước khi chết gọi ba con trai đến bên giường, đưa cho
họ bó tên và bảo : “Các con thử bẻ bó tên này xem ai có thể bẻ gãy được. Cả ba
người đều lấy hết sức bình sinh để bẻ nhưng bó tên đã khơng gãy chiếc nào.
Người cha cầm lấy bó tên tháo ra và lần lượt bẻ từng chiếc một. Trong phút chốc
bó tên đã bị gãy... ”.
(Truyện ngụ ngôn : Người cha và bó đũa)
Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 30 dịng) bàn về
tính đồn kết trong gia đình và cộng đồng.
Ví dụ 2:
Trong bài thơ “Quê hương” nhà thơ Đỗ Trung Quân Viết:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi.
Dựa vào ý thơ trên hãy viết một văn bản nghị luận về chủ đề quê hương.
Đề bài yêu cầu học sinh viết một bài văn nghị luận (không quá một trang
giấy thi) về chủ đề quê hương. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (về một vấn đề
tư tưởng, đạo lí) với hình thức “khá mở”, tạo điều kiện cho học sinh có thể trình
bày ý kiến, cảm nhận của mình xoay quanh chủ đề quê hương như (Vai trò của
quê hương đối với đời sống con người, tình yêu sự gắn bó với quê hương...)
Qua đề văn đã dẫn trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy: việc có thêm nội dung
nghị luận xã hội theo hướng mở sẽ khiến đề phong phú về nội dung và đa dạng
về cách kiểm tra. Khơng chỉ vậy đề nghị luận xã hội cịn giúp học sinh tự giác
học tập biết quan tâm đến các vấn đề xã hội. Từ đó giúp các em thêm hiểu biết
và chủ động trong cuộc sống. Khi làm bài các em cịn có cơ hội thể hiện cảm

xúc, suy nghĩ của bản thân trước tình huống mà cuộc sống đặt ra. Nhờ đó kĩ
năng sống được rèn luyện.
Gợi ý.

24


- Bước 1: Đọc kĩ đề, phát hiện vấn đề cần giải quyết qua bản tin, câu
chuyện, câu nói mà đề đã dẫn.
- Bước 2: Tìm những luận cứ để giải thích, chứng minh vấn đề đã được xác
định.
Việc này thường xoay quanh các câu hỏi người làm bài tự đặt ra dựa vào
vấn đề cần giải quyêt.
+ Hiện tượng (vấn đề) ấy xảy ra ở đâu, như thế nào? Tại sao có hiện tượng
(vấn đề) ấy.
+ Ảnh hưởng, tác động của hiện tượng (vấn đề) ấy đến cuộc sống của
những người xung quanh với xã hội như thế nào?
+ Những suy nghĩ về hướng giải quyết hiện tượng (vấn đề) đó.
Làm thế nào để phát huy (nếu là vấn đề tốt) hoặc hạn chế (nếu là vấn đề
chưa tích cực).
+ Vấn đề đó đã tác động đến bản thân mình như thế nào? Bản thân hiểu ra
điều gì từ vấn đề được nêu, có ước muốn, quyết định gì...
- Bước 3: Dựa vào các ý đã tìm được ở bước 2 để lập dàn ý.
+ Nếu viết bài văn dù độ dài chỉ một trang giấy thi, nhưng bố cục cũng
phải đầy đủ 3 phần : Mở bài, thân bài, kết bài.
- Bước 4: Hoàn chỉnh văn bản theo dàn ý đã lập bằng những câu văn có
cảm xúc và lập luận chặt chẽ.
* Lưu ý :
- Kĩ năng viết + vốn sống phong phú + cảm xúc chân thành, đúng đắn = sức
thuyết phục của bài văn viết.

- Giáo viên cần hướng dẫn cho các em học và tham khảo theo chủ đề trong
cuộc sống: Chủ đề tình cảm gia đình (tình mẹ, tình cha, tình anh em...); tình bạn;
chủ đề mơi trường; vấn đề dân số; tệ nạn xã hội...
VI- GIÁO VIÊN CẦN CÓ NHỮNG BÀI VĂN MẪU HỌC SINH
THAM KHẢO
Để học sinh hình dung cụ thể về cách làm bài dạng đề này thì giáo viên nên
đọc một số bài văn mẫu từ đó học sinh được cảm nhận về nội dung, hình thức,
cách viết để vận dụng trong bài viết của mình một cách tốt hơn. Những bài mẫu

25


×