Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) hướng dẫn học sinh ôn thi THPT quốc gia các văn bản thuộc thể kí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.07 KB, 76 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGÔ GIA TỰ

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến:

HƯỚNG DẪN HỌC SINH ÔN THI THPT QUỐC GIA
CÁC VĂN BẢN THUỘC THỂ KÍ

Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Minh Phượng
Tổ
: Ngữ văn - Ngoại ngữ
Email
:
Số điện thoại
: 0967039333
Mã sáng kiến
: 12.51.0

Vĩnh Phúc, 2020


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGÔ GIA TỰ

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến:


HƯỚNG DẪN HỌC SINH ÔN THI THPT QUỐC GIA
CÁC VĂN BẢN THUỘC THỂ KÍ

Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Minh Phượng
Tổ
: Ngữ văn - Ngoại ngữ
Email
:
Số điện thoại
: 0967039333
Mã sáng kiến
: 12.51.0

Vĩnh Phúc, 2020


MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................3


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. LỜI GIỚI THIỆU
Bồi dưỡng học sinh ôn thi THPT Quốc gia là một một cơng việc nhiều
khó khăn và thách thức. Chỉ xét riêng ở một khía cạnh trong q trình bồi dưỡng
là cung cấp các dạng đề và hướng dẫn cách làm cho từng dạng đề đã đòi hỏi rất
cao ở người thầy một sự tìm tịi, sáng tạo và nhanh nhạy nắm bắt những đổi
thay. Thực tế cho thấy, những năm gần đây, kí là thể loại hay và khó đang xuất
hiện nhiều trong kì thi Tốt nghiệp, THPT Quốc gia, đặc biệt là ở câu Nghị luận
văn học (5,0 điểm). Điển hình như: Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thơng năm

2012, đề bài là: Phân tích hình tượng sơng Đà trong Người lái đị Sơng Đà của
nhà văn Nguyễn Tuân. Gần đây nhất là trong kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019,
đề thi ra là: Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng sơng Hương trong đoạn trích:
“Trong những dịng sơng đẹp … chân núi Kim Phụng”. Từ đó, nhận xét cách
nhìn mang tính phát hiện về dịng sơng của nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường…
Nhà văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là những tác giả xuất
sắc của kí Việt Nam với ngịi bút tài hoa un bác có cá tính sáng tạo. Các văn
bản kí của hai ơng được đưa vào chương trình Ngữ văn 12 là một việc làm có
giá trị, góp phần tăng cường chất văn và đáp ứng mục tiêu giáo dục mĩ cảm cho
học sinh. Nhưng thực tế khi dạy và học các đoạn trích này đã và đang gặp nhiều
khó khăn. Để hiểu được cái hay, cái đẹp của tác phẩm theo thể loại kí từ đó thấy
được cái tôi độc đáo của các nhà văn là điều không hề dễ dàng bởi:
+ Thứ nhất, cả Người lái đò Sơng Đà và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là 2
văn bản kí dài mà việc phân bố thời lượng chính khóa cho 2 văn bản này cịn
q ít (4 tiết)… Đây là một thực tế đáng để chúng ta phải suy nghĩ.
+ Thứ hai, các tác phẩm văn xuôi thiên về tự sự, các em làm quen với cốt
truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết, tình huống... Trong suốt một q trình dài
trước đó, học sinh chủ yếu được học các tác phẩm ấy dần dần, cảm xúc và nhận
thức của các em đã quen nương theo cốt truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết… Vì
vậy khi gặp tác phẩm kí giàu chất trữ tình học sinh nào cũng sợ, các em thấy
lúng túng, mất phương hướng với những khái niệm nhân vật trữ tình, cái tơi trữ
tình, giọng điệu trữ tình, mạch cảm xúc chủ quan... dẫn đến học sinh khó tiếp
nhận được tác phẩm. Vì khơng thật sự hứng thú nên việc truyền đạt và tiếp nhận
trên lớp học đối với những nội dung này khó lòng đạt được kết quả như mong
muốn.
Hơn thế, để cung cấp thêm tư liệu dạy học cho giáo viên trao đổi, học tập
kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh ôn thi THPT quốc gia đạt hiệu
quả hơn, đáp ứng yêu cầu giáo dục chất lượng cao, hàng năm Sở giáo dục và
1



Đào tạo Vĩnh Phúc thường xuyên chỉ đạo các cụm trường trong tỉnh tổ chức hội
thảo chuyên đề ôn thi THPT Quốc gia. Trong những hội thảo đó, đã xây dựng
được hệ thống các chuyên đề bồi dưỡng học sinh ôn thi THPT quốc gia phong
phú làm tài liệu dùng chung cho người dạy. Có nhiều giáo viên đã đề xuất những
phương pháp hiệu quả, tích cực hướng dẫn học sinh giải quyết đề nghị luận văn
học trong cấu trúc đề thi THPT Quốc gia. Song chưa có chuyên đề nào đi sâu
vào hướng dẫn học sinh tiếp cận các văn bản này theo đặc trưng của thể kí.
Trong khi đó chỉ cịn vài tháng nữa là các em sẽ bước vào kì thi THPT
Quốc gia - kì thi quan trọng có tính chất bước ngoặt trong cuộc đời của các em.
Chính vì vậy, việc giúp học sinh nắm bắt được cách thức tiếp cận một tác phẩm/
đoạn trích kí là vơ cùng cần thiết. Nhận thức rõ điều đó, là một giáo viên môn
Ngữ văn, người viết luôn trăn trở làm sao để giúp chính bản thân mình cùng
đồng nghiệp và học sinh có thêm những hiểu biết cơ bản về thể kí; biết cảm thụ
được cái hay, cái đẹp, giá trị của mỗi tác phẩm văn học từ đó chủ động trong q
trình học, ơn thi và có kết quả tốt nhất cho kì thi THPT Quốc Gia năm học 2019
- 2020 và những năm tiếp theo. Xuất phát từ mong muốn đó, chúng tơi đã chọn
đề tài: Hướng dẫn học sinh ôn thi THPT Quốc gia các văn bản thuộc thể kí. Với
hi vọng góp một vài kinh nghiệm nhỏ có tính ứng dụng cụ thể đối với giáo viên
và học sinh trong q trình ơn thi THPT Quốc gia.
Trong chuyên đề này, chúng tôi xin được trình bày Một số phương pháp
về việc giảng dạy kí hiện đại. Củng cố kiến thức cơ bản. Đặc biệt, hướng dẫn
một số đề văn thuộc câu 5 điểm trong đề thi THPT Quốc gia thường gặp liên
quan đến hai đoạn trích kí trong Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo đề minh
họa của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức cơng bố ngày 24/01/2018. Ngồi
ra, đề xuất một số đề tự giải cho học sinh…
2. TÊN SÁNG KIẾN
Hướng dẫn học sinh ôn thi THPT Quốc gia các văn bản thuộc thể kí.
3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
- Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Phượng

- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Ngô Gia Tự - Lập Thạch -Vĩnh Phúc.
- Email:
4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN
- Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Phượng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Ngô Gia Tự - Lập Thạch - Vĩnh Phúc.
- Email:
- Số điện thoại: 0967039333
5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Sáng kiến được áp dụng khi tìm hiểu 2 văn bản thuộc thể loại kí trong sách
Ngữ văn 12 tập 1 (cơ bản) ở trường THPT theo phân phối chương trình Ngữ văn
2


THPT hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo là: Người lái đị Sơng Đà của
Nguyễn Tn và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường
6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU: 06/01/2018
7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
PHẦN 1: VỀ NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KÍ
1.1.1 Khái qt về thể kí
a) Khái niệm
Kí là một loại hình văn học bao gồm nhiều thể loại chủ yếu là văn xuôi tự
sự, dùng để ghi chép, miêu tả và biểu hiện những sự vật, sự việc, con người có
thật trong cuộc sống… theo sự cảm nhận, đánh giá của tác giả từ những điều
mắt thấy, tai nghe. Kí thường khơng có cốt truyện rõ ràng, thậm chí có khi
khơng có cả nhân vật.
Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, kí là thể loại văn học có đặc điểm “tôn
trọng sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu”.
Còn các tác giả của Từ điển tiếng Việt thì cho rằng kí là loại “thể văn tự sự
có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất”.

b) Đặc trưng cơ bản của kí
- Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí địi hỏi sự
trung thực, chính xác. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời
gian, địa điểm, hành động và khơng bao giờ qn miêu tả khung cảnh gợi khơng
khí.
- Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tư tưởng, cảm thụ,
nhận xét, đánh giá. Vì vậy sức hấp dẫn của kí là khả năng tái hiện sự thật một
cách sinh động của tác giả. Kí chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những
liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc
sống.
- Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là chất chủ quan, chất trữ tình sâu
đậm của cái tôi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí cịn phụ thuộc vào sức hấp
dẫn của cái tôi ấy (thường là những cái tôi phong phú, un bác, tài hoa, độc
đáo…)
- Ngơn ngữ bút kí giàu hình ảnh và giàu chất thơ. Trước hết, ngơn từ nghệ
thuật của kí hướng vào miêu tả phong tục qua những đặc điểm mơi trường hoặc
những nét tính cách tiêu biểu của cuộc sống. Vì thế nó vừa cụ thể, sinh động,
đậm chất đời thường, vừa khái quát. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí
thường rất linh hoạt về giọng điệu. Kí thường khơng chỉ trần thuật, mà cùng với
trần thuật là phân tích, khái quát ý nghĩa của các hiện tượng đời sống được đề
cập, phản ánh trong tác phẩm.
c) Phân loại kí
3


Kí cũng đa dạng về kiểu loại và kết cấu. Theo đó, người ta chia kí thành
hai nhóm lớn. Nhóm thứ nhất thiên về tự sự gồm các thể chính như: kí sự, phóng
sự, nhật kí, hồi kí. Nhóm thứ hai nghiêng về trữ tình với các thể chính như: tùy
bút, bút kí, tản văn…
Kí sự: Là một thể của kí thiên về tự sự, thường ghi chép các sự kiện, hay

kể lại một câu chuyện khi nó mới xảy ra. Kí sự có cốt truyện hồn chỉnh hoặc
tương đối hồn chỉnh, cũng là loại thể có yếu tố trữ tình và chính luận, nhưng
khuynh hướng của tác giả được tốt ra từ tình thế và hành động. Yếu tố phi cốt
truyện của những loại kí này khơng nhiều. Tác phẩm kí sự cũng cấu tạo theo
phương thức kết cấu thông thường của một tác phẩm nghệ thuật: mở đầu và phát
triển sự kiện, sự biến phát triển đến cao độ - hoặc căng thẳng nhất - và kết thúc.
Kí sự là bức tranh tồn cảnh trong đó sự việc và con người đan chéo, những
gương mặt của nhân vật khơng thật rõ nét.
Phóng sự: Là một thể kí nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồi dào và
nóng hổi, khơng chỉ đưa tin mà cịn dựng lại hiện trường cho mọi người quan
sát, đánh giá, do đó nó nghiêng hẳn về phía tự sự, miêu tả, tái hiện sự thật. Nội
dung chủ yếu của phóng sự lại thiên về vấn đề mà người viết muốn đề xuất và
giải quyết. Do đó phóng sự, mặc dù có chất liệu chủ yếu là người thật việc thật,
nhưng có màu sắc chính luận.
Nhật kí: Là một thể loại kí mang tính chất riêng tư, đời thường nhiều
nhất. Nếu hầu hết các tác phẩm văn học là để giao lưu với người khác, thì nhật
kí lại chỉ để giao lưu với chính mình. Là ghi chép của cá nhân về sự kiện có thật
đã, đang và tiếp tục diễn ra theo thời gian, nhật kí thường bao gồm cả những
đoạn trữ tình ngoại đề và những suy nghĩ có tính chất chủ quan về sự kiện. Một
nhật kí có phẩm chất văn học khi nó thể hiện được một thế giới tâm hồn, khi qua
những sự việc và tâm tình cá nhân tác giả giúp người đọc nhìn thấy những vấn
đề xã hội trọng đại.
Hồi kí: Những ghi chép có tính chất suy tưởng của cá nhân về quá khứ,
một dạng gần như tự truyện của tác giả. Hồi kí cung cấp những tư liệu của quá
khứ mà đương thời tác giả chưa có điều kiện nói được. Khác với nhật kí, do đặc
thù thời gian đã lùi xa, sự kiện trong hồi kí có thể bị nhớ nhầm hoặc tưởng tượng
thêm mà người viết khơng tự biết.
Bút kí: Là một thể của kí, bút kí thiên về ghi lại một cảnh vật mà nhà văn
mắt thấy tai nghe, thường trong các chuyến đi. Bút kí tái hiện con người và sự
việc một cách phong phú, sinh động, nhưng qua đó biểu hiện khá trực tiếp

khuynh hướng cảm nghĩ của tác giả, có màu sắc trữ tình. Kết hợp linh hoạt các
phương thức nghị luận, tự sự, trữ tình nhưng tùy theo độ đậm nhạt khác nhau
của các phương thức mà ta có bút kí chính luận, bút kí tùy bút v.v..
4


Tùy bút: Là một thể của kí, tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa
là cái tơi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút viết tùy
theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày
v.v. Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để tác giả bộc
lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá… (Bản thân Nguyễn Tuân từng định
nghĩa một cách khôi hài: Tùy bút là tùy theo bút mà viết).
1.1.2. Một số phương pháp về việc giảng dạy kí hiện đại Việt Nam trong
chương trình Ngữ văn 12 qua Người lái đị Sơng Đà của nhà văn
Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sơng? của Hồng Phủ Ngọc
Tường.
a) Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại vừa là một yêu cầu vừa là một
nguyên tắc của q trình phân tích và giảng dạy tác phẩm văn học nói chung.
Với thể loại kí, việc tìm hiểu đặc trưng thể loại lại càng có ý nghĩa quan trọng
hơn. Nắm vững và bám sát vào đặc trưng của thể kí, người đọc sẽ khám phá
được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Dưới đây là một vài phương pháp cơ bản
khi tiếp cận thể loại kí:
* Cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt của đối tượng được tác
giả phản ánh trong 2 tác phẩm kí so với đối tượng tương tự có thật ở ngồi đời.
Vì kí viết về sự thật, người thật, việc thật nên địi hỏi phải chính xác,
trung thực. Việc cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt của đối
tượng được tác giả phản ánh trong 2 tác phẩm kí so với đối tượng tương tự có
thật ở ngồi đời là rất cần thiết.
Ví dụ:

+ Sông Đà nếu chỉ được Nguyễn Tuân ghi chép bằng những số liệu đơn
thuần như một nhà địa lý (tên khai sinh, độ dài…) thì cái phần hồn hung bạo và
thơ mộng của nó sẽ khơng được phát hiện.
+ Dịng sông Hương của xứ Huế thơ mộng cũng vậy. Nếu Hoàng Phủ
Ngọc Tường chỉ ghi lại các khúc đoạn trong dịng chảy của nó từ thượng nguồn
về với Huế khơng thơi thì sẽ khơng có gì hấp dẫn, mà cái hấp dẫn chính là ở chỗ
tác giả tưởng tượng sơng Hương như một con người có số phận, có tâm hồn (cơ
gái Digan) có hành động cụ thể dưới những điểm nhìn khám phá khác nhau. Khi
thì sơng Hương như một cơ gái mang trong mình tình u tha thiết với thành
phố Huế, khi lại là một người mẹ sản sinh cho xứ Huế những giá trị văn hóa
truyền thống cùng âm nhạc, thi ca, khi lại là một nhận chứng của lịch sử đầy oai
hùng hiển hách.
* Học sinh phát hiện và đánh giá óc quan sát, trí liên tưởng, tưởng tượng năng
lực sử dụng ngôn ngữ của 2 nhà văn.
5


Sức hấp dẫn của kí chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động
của tác giả. Nếu chỉ đơn thuần là ghi chép thì tác phẩm kí hết sức khơ khan
khơng gây được ấn tượng với người đọc.
Ví dụ:
+ Người lái đị Sơng Đà: Khi khám phá vẻ đẹp hung bạo của con sông,
Nguyễn Tuân đã vận dụng tri thức của nhiều ngành để miêu tả tính cách của con
sơng mà ơng gọi là “lồi thủy quái khổng lồ” là “kẻ thù số một” của con người.
Nhà văn đã huy động vốn kiến thức của điện ảnh, hội họa, kiến trúc, điêu khắc,
thậm chí cả lĩnh vực quân sự, võ thuật, thể thao để miêu tả
Khi khám phá vẻ thơ mộng, trữ tình của con sơng, lại cần phát hiện ra sự
thay đổi, di chuyển điểm nhìn và cách miêu tả. Dịng sơng ấy được chiêm
ngưỡng từ trên cao nhìn xuống. Hình dáng con sơng Đà được ví như một “sợi
dây thừng ngoằn ngoèo” và dễ thương, đáng yêu biết bao, qua phép so sánh liên

tưởng độc đáo “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”..
Với hình tượng ơng lái đị: Nhân vật này không được khắc họa thành số
phận như trong tác phẩm tự sự. Thực ra đó chỉ là một khoảnh khắc trên sơng
nước để qua đó Nguyễn Tn tơn vinh con người lao động trong thời kỳ mới thời kỳ miền Bắc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
+ Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương là
kết quả của nguồn tri thức phong phú thuộc các lĩnh vực địa lí, lịch sử, văn hóa
và khả năng quan sát sắc sảo của Hồng Phủ Ngọc Tường
Ở đây Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều rất “tài hoa”, ln
nhìn cuộc sống, sự vật, con người ở phương diện, góc độ văn hóa thẩm mỹ, nên
phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của hiện thực cuộc sống. Đồng thời cả 2 nhà văn cũng
rất “uyên bác”: hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và có thể cung
cấp, đóng góp, lí giải những kiến thức đó cho người khác
* Học sinh phát hiện được đặc điểm của “cái tơi” tác giả trong mỗi bài kí.
Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là tính chủ quan, chất trữ tình sâu đậm
của cái tơi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí cịn phụ thuộc vào sức hấp dẫn
của cái tơi ấy.
Ví dụ:
+ “Cái tơi” của Nguyễn Tn trong Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn
Tn: Đó là một cái tơi tài hoa, một cái tôi “uyên bác”.
+ “Cái tôi” trong Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc
Tường: “Cái tơi” say mê kiếm tìm cái đẹp, dạt dào cảm xúc và ln gắn bó với
thiên nhiên. “Cái tơi” u q hương đất nước hướng về cội nguồn. Một “cái
tôi” tài hoa uyên bác.
b) Rèn luyện phương pháp đọc hiểu cho học sinh
6


Dạy học đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn trong tiếp nhận văn bản. Hoạt động đọc hiểu của
học sinh cần được thực hiện theo một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ

đọc đúng, đọc thông, đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình
thành năng lực đọc hiểu của học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ
thẩm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy.
Trong quá trình đọc hiểu học sinh cần thực hiện các nội dung cơ bản sau:
- Huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân - là những hiểu biết về
chủ đề hay hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan đến chủ đề, thể
loại của văn bản.
- Thể hiện những hiểu biết về văn bản: Tìm kiếm thơng tin, đọc lướt để tìm ý
chính, đọc kỹ tìm các chi tiết. Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, phân tích,
kết nối, tổng hợp… thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản. Phản hồi và
đánh giá thông tin trong văn bản.
Học sinh cần làm nổi bật được: Đề tài, thể loại, cảm hứng sáng tạo, đọc và
tìm hiểu bố cục của văn bản, nội dung của văn bản, đặc sắc nghệ thuật của văn
bản…
Như vậy, việc đọc hiểu không chỉ rèn luyện cho học sinh đọc - hiểu văn
bản mà còn rèn luyện năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là năng lực viết sáng
tạo. Viết sáng tạo là khả năng trình bày, thể hiện những cảm nhận, suy nghĩ của
cá nhân về đối tượng, vấn đề được đặt ra… Viết sáng tạo được thể hiện ở nhiều
phương diện khác nhau, với các mức độ khác nhau, vì vậy cần tạo ra được
những cơ hội để học sinh thể hiện ngay trong quá trình đọc hiểu, đồng thời phát
triển các năng lực khác trong học tập.
c) Sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy.
Sơ đồ tư duy là phương pháp ghi nhớ chi tiết để tổng hợp hay để phân tích
một vấn đề thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Vì vậy giúp cho học sinh
dễ nhớ và dễ ôn tập hơn:
- Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng
- Quan hệ hỗ trợ tương ứng giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng
quan trọng thì sẽ nằm vị trí càng gần ý chính.
- Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức bằng thị
giác.

- Ôn tập và ghi nhớ sẽ rất hiệu quả và nhanh hơn.
- Thêm thông tin (ý) dẽ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản đồ.
- Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
- Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng,
bát chap thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh
chóng và linh hoạt cho việc ghi nhớ.
7


Như vậy, sơ đồ tư duy là một công cụ lý tưởng cho việc giảng dạy và
trình bày các khái niệm trong lớp học. Sơ đồ tư duy giúp cho giáo viên tập trung
vào các vấn đề cần trao đổi cho học sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan về
chủ đề mà khơng có thơng tin thừa. Học sinh sẽ khơng phải tập trung vào việc
đọc chép dài dịng, mà thay vào đó sẽ lắng nghe những gì mà thầy cô giáo diễn
đạt. Hiệu quả bài học sẽ tăng.
1.1.3. Một số nhận định hay về tác giả, tác phẩm kí trong chương trình
SGK Ngữ văn 12, tập 2 (cơ bản).
a. Về Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò Sông Đà
* Của Nguyễn Tuân
1. Văn chương trước hết phải là văn chương. Nghệ thuật trước hết là
nghệ thuật. Sau đó mới là cuộc đời…Đã là nghệ thuật phải có phong cách độc
đáo.
2. Nghề văn là nghề chữ, là nghề dùng chữ nghĩa “sinh sự” để mà “sự
sinh”
3. Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không
chỉ học tập ngôn ngữ mà có sáng tạo. Khơng nên ăn bám vào ngơn ngữ người
khác. Giàu ngơn ngữ thì văn sẽ hay. Trường vốn sẽ đi được xa. Cùng một vốn
ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có tìm tịi sáng tạo thì văn sẽ bề thế và kích thước.
Có vốn mà khơng biết sử dụng thì chỉ như nhà giàu giữ của.
4. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của

nó. Văn phải linh hoạt, văn khơng linh hoạt là văn cứng đơ thấp khớp.
* Của các đồng nghiệp đánh giá Nguyễn Tuân
1. Anh Đức: Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một
nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng,
một nhà văn độc đáo, vơ song mà mỗi dịng, mỗi chữ tn ra đầu ngọn bút đều
như có đóng một dấu triện riêng.
2. Nguyễn Minh Châu: Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ
tài hoa.
3. Tơn Thảo Miên: Ơng có một vốn từ vựng cực kì phong phú, một lối
hành văn độc đáo, tinh tế và rất có duyên. Câu văn của ông dường như chứa
đựng mọi âm thanh, sắc màu của cuộc sống, hay nói cách khác là sự hòa quyện
của thõ ca, nhạc, họa, Nguyễn Tuân xứng đáng là một bậc thầy của nghệ thuật
ngôn từ, một nhà văn độc đáo vơ song.
4. Nguyễn Đình Thi: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái Thật và
cái Đẹp … Nguyễn Tuân là bậc thầy tiếng Việt Nam và ông làm công việc tạo ra
những cái chưa có.
5. Phan Ngọc: Ngơn ngữ tiếng Việt khi ở trong tay Nguyễn Tuân trở thành
yêu ngôn gây ra cho người đọc một sự say mê gần như ma quái.
8


6. Anh Đức: Chúng ta vừa mất đi một bậc thầy ngôn ngữ. Một nhà văn
mà khi ta gọi là bậc thầy nghệ thuật ngôn từ ta không thấy ngại miệng. Một nhà
văn độc đáo vơ song mà mỗi dịng, mỗi chữ tn ra dưới đầu ngọn bút đều như
có đóng một dấu triện riêng.
7. Tố Hữu: Nguyễn Tuân là người thợ kim hoàn của chữ.
8. Tạ Tỵ: Nguyễn Tuân viết văn mà giống như thợ kim hòan điêu khắc cần
cù chạm trổ vào mặt đá quý những hình nét trác tuyệt.
9. Hồi Anh: Cái đẹp của Nguyễn Tn khơng phải là cái đẹp mơ mộng,
nhàn nhạt, phẳng lặng, mà là cái đẹp tạo hình, có góc cạnh, nhiều khi dữ dội”.

“Nguyễn Tuân người nghệ sĩ ngôn từ đưa cái đẹp đến thăng hoa đến một độ cao
hiếm thấy trong văn học Việt Nam.
10. Vũ Ngọc Phan: Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú
vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.
* Một số câu thơ về dịng sơng và Tây Bắc
1. Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc…….cịn đâu
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên).
2. Ôi những dịng sơng bắt nước từ đâu… sơng xi
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm).
3. Cái tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì xa xơi biết mấy cũng lên đường
Sống ở thủ đơ mà dạ để ngàn phương
Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn
(Lên miền Tây - Bùi Minh Quốc).
4.
Thác Lửa, thác Đá, thác Chơng
Thác Đài, thác Khó, thác Ơng, thác Bà
Thác, bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời
(Bài ca xuân 61 - Tố Hữu).
b. Về Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dịng sơng?
* Những nhận định hay
1. Nguyễn Tn: Ký của Hồng Phủ Ngọc Tường có "rất nhiều ánh lửa".
2. Nguyên Ngọc: Anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi
để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và say mê
viết về họ...
3. Hoàng Cát: Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn
học của riêng mình. Thế mạnh của ơng là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa
lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ơng
vẫn có thể tung hồnh thoải mái ngòi bút được...

9


4. Ngơ Minh: Hồng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết
bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc
Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất
Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình ...
5. Tơ Hồi: Hồng Phủ Ngọc Tường là nhà văn đạt được 7 chữ “ T” thứ nhất là có Tâm, rồi có Tình, có Tài, có Thực Tiễn, và Trung Thực.
* Thơ về sơng Hương
- Con sơng nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên (Nguyễn Trọng Tạo)
- Con sông dung dằng con sơng khơng chảy
Sơng chảy vào lịng nên Huế rất sâu ( Thu Bồn)
- Cầu cong như chiếc lược ngà
Sơng dài mái tóc cung nga bng hờ (Nguyễn Bính)
- Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền,
Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
(Mn dãy núi như chạy vịng quanh khu ruộng xanh mướt
Dịng sơng dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh) (Cao Bá Quát)
* Bài hát về Huế, sông Hương
- Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về sơng Hương
Nước sơng Hương cịn vương chưa cạn
Chim núi Ngự tìm bạn bay về
Người tình quê ơi người tình quê thương nhớ lắm chi
(Ai ra xứ Huế - Duy Khánh)
- Ðã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tơi ơm ấp một tình u dịu ngọt
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được

Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư
(Huế Tình u Của Tơi - Trương Tuyết Mai)
- Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón...
Em cầm trên tay ra đứng bờ sơng.
Sơng Hương nước chảy thuyền trơi lững lờ,
Em trao nón đợi và em hẹn hò.
( Huế thương - An Thuyên)
1.2. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN, ĐẶC TRƯNG ĐỂ GIẢI
CÁC DẠNG BÀI TẬP VỀ HAI VĂN BẢN KÍ
*Về phía giáo viên
Để thực hiện chuyên đề đã chọn, chúng tôi đã sử dụng kết hợp những
phương pháp sau:
10


- Hoạt động song phương giữa giáo viên và học sinh trong quá trình tiếp
cận, tìm hiểu và nhận biết những phương diện đặc sắc của văn bản.
- Đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp khảo sát thống kê - phân loại
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh văn học.
- Thảo luận nhóm, điều tra thực tiễn, tự liên hệ.
Kết hợp sử dụng phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, trao đổi thảo luận nhằm
phát triển khả năng tư duy hệ thống, thiết lập hệ thống ý và phát huy khả năng
làm việc nhóm, làm việc độc lập ở học sinh. Phân loại đề theo cấu trúc đề thi
THPTQG: Sau khi cung cấp cho các em hiểu những vấn đề quan trọng, hệ thống
các kiến thức, giáo viên sẽ tiến hành soạn hệ thống câu hỏi theo các dạng trên và
bám sát cấu trúc đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo (hệ thống câu hỏi này sẽ
được phát cho học sinh trước khi học chuyên đề 01 ngày để các em chuẩn bị và

chủ động trong việc xử lí đề).
- Tổ chức ơn luyện hệ thống kiến thức cơ bản cần sử dụng trong chuyên đề.
- Phương pháp thực hành: Giáo viên cần phải cho học sinh viết bài chuyên
đề như cấu trúc đề thi THPTQG theo định kì (có báo trước) và khơng theo định
kì (bất chợt), chấm chữa bài và uốn nắn những chỗ còn chưa đạt trong bài viết
của học sinh. Khuyến khích nêu gương những học sinh có bài viết tốt, khen ngợi
kịp thời những học sinh có biểu hiện tiến bộ.
* Về phía học sinh
- Yêu cầu học sinh xử lí nguồn tài liệu ở nhà qua hệ thống câu hỏi (Đọc
hiểu văn bản trong sách giáo khoa, đọc sách tham khảo, truy cập internet tìm
nguồn tài liệu trực tuyến…).
- Sau khi xử lí nguồn tài liệu, học sinh tích cực, chủ động trả lời các câu hỏi
trong phần hướng dẫn học bài, đồng thời thiết lập hệ thống dàn ý dựa trên hệ
thống câu hỏi ra về nhà.
- Học sinh cần huy động những năng lực như: năng lực vận dụng tổng hợp,
năng lực hợp tác, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực vận dụng
kiến thức liên môn giải quyết vấn đề thực tiễn… để hiểu sâu, rộng hơn đoạn
trích.Trong giờ học chuyên đề, giáo viên cho học sinh tự giải quyết vấn đề qua
thảo luận nhóm Dùng các kĩ thuật dạy học tích cực mới như: kĩ thuật hội chợ, kĩ
thuật khăn trải bàn, kĩ thuật mảnh ghép...) Cuối cùng, giáo viên nhận xét và kết
luận. Như thế, học sinh sẽ phải tư duy và chủ động trong việc chiếm lĩnh tri
thức.

11


- Phương pháp thống kê, phân tích dữ liệu để đánh giá mức độ nhận thức của
học sinh từ đó điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với
tình hình thực tế.
1.3. HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM CÂU 5 ĐIỂM VỀ VĂN BẢN KÍ

TRONG ĐỀ THI THPT QUỐC GIA (các dạng bài tập)
Mục tiêu:
*Kiến thức
- Giúp học sinh: Nắm được những đặc trưng cơ bản của thể loại kí (trong đó có
tùy bút và bút kí). Phát hiện và cảm nhận được vẻ đẹp của đối tượng thẩm mỹ
qua các đoạn trích/ tác phẩm ấy. Đồng thời nắm được đặc điểm cái “tôi” của mỗi
nhà văn.
* Kĩ năng
- Nhận diện được văn bản thuộc thể loại tùy bút.
- Biết cách đọc - hiểu một tác phẩm kí hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại.
- Biết vận dụng những hiểu biết trên vào việc làm bài văn nghị luận văn học.
- Ơn luyện và hình thành cho học sinh kĩ năng giải các đề thi liên quan đến tác
phẩm ở nhiều mức độ, nhiều kiểu bài theo cấu trúc đề thi THPT Quốc gia: phần
Làm văn (5,0 đ).
* Thái độ
Giáo dục HS
- Biết trân quý những giá trị văn hóa truyền thống mà kí hiện đại đem lại
- Có ý thức tìm tịi về thể loại, từ ngữ, hình ảnh trong kí hiện đại Việt Nam .
- Tình yêu và cảm xúc trước vẻ đẹp của các đối tượng thẩm mĩ.
* Năng lực
- Năng lực thu thập thơng tin liên quan đến kí hiện đại Việt Nam.
- Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm kí hiện đại Việt Nam.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về kí hiện đại.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận.
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học.
- Năng lực giải quyết vấn đề…
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ bày tỏ quan điểm, cảm nhận sau khi đọc văn
bản. Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ.
- Năng lực vận dụng kiến thức liên môn: lịch sử, địa lý, âm nhạc, hội họa,
du lịch, thi ca, phong tục tập quán; Tích hợp kiến thức sách vở và đời sống; Tích

hợp tự thân: Đọc văn - Tiếng việt - Làm văn. Theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục
và Đào tạo về phương án tổ chức kì thi Trung học phổ thông quốc gia áp dụng từ
năm 2017, cấu trúc một đề Ngữ văn gồm có 3 phần: Phần I - Đọc hiểu (3 điểm);
Phần II- Làm văn gồm 2 câu (câu 1- nghị luận xã hội 2 điểm, câu 2 - nghị luận
văn học 5 điểm). Với mục đích góp phần hệ thống các vấn đề cần ôn luyện về
12


mảng kí, giúp học sinh tự trau dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng làm bài đạt kết
quả tốt trong kì thi Trung học phổ thơng quốc gia năm học 2019 - 2020 và
những năm tiếp theo, chúng tôi tập trung vào các dạng đề sau:
+ Dạng đề cảm nhận, phân tích nhân vật, giá trị của tác phẩm: Đề
thường đưa ra yêu cầu trực tiếp phân tích hoặc cảm nhận nhân vật, giá trị hiện
thực và nhân đạo của tác phẩm.
+ Dạng đề phân tích, cảm nhận các chi tiết, đoạn văn, hình ảnh, nhân
vật trong một tác phẩm, từ đó nhận xét về một vấn đề nào đó... Đề thường yêu
cầu: Phân tích, cảm nhận nhân vật, chi tiết, đoạn văn trong các lần miêu tả; nhận
xét: sự thay đổi, vẻ đẹp/ bình luận nội dung nhân đạo/ tác giả muốn gửi gắm
điều gì? so sánh nhân vật…chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
Lưu ý: Dạng đề kiến thức cơ bản trong tác phẩm truyện: Chi tiết, hai đoạn
văn, hai lần miêu tả, hai nhân vật…trong tác phẩm hoặc trong hai tác phẩm. Câu
hỏi vận dụng: Nhận xét, bình luận, hãy rút ra… sự thay đổi, thân phận, vẻ đẹp;
tư tưởng, thông điệp; nghệ thuật…
+ Dạng đề liên hệ trong tác phẩm văn học: Đề thường đưa ra yêu cầu
phân tích, cảm nhận nhân vật, chi tiết… từ đó liên hệ với một nhân vật, chi tiết
trong tác phẩm khác.
+ Dạng bài nghị luận ý kiến bàn về văn học. Vấn đề mà đề bài thường
đưa ra là: Một (hoặc nhiều) vấn đề, khía cạnh, phương diện trong tác phẩm văn
học: Nhân vật, hình tượng, đoạn văn, chi tiết nghệ thuật, cách kết thúc tác
phẩm… Dạng câu hỏi đặc trưng của đề bàn về ý kiến văn học trong đề thi THPT

Quốc gia thường là: Từ cảm nhận của mình về ... anh/chị hãy bàn luận những ý
kiến trên hoặc anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên...
Lưu ý: Hai ý kiến cần bàn luận có thể: Một ý kiến đúng, một ý kiến sai.
Cả hai ý kiến đều đúng, bổ sung cho nhau.
+ Dạng đề so sánh: Các loại đề so sánh văn học thường gặp: So sánh hai
chi tiết trong hai tác phẩm văn học. So sánh hai đoạn văn. So sánh hai nhân vật.
So sánh cách kết thúc hai tác phẩm. So sánh phong cách tác giả. So sánh, đánh
giá hai lời nhận định về một tác phẩm
Hệ thống các phương pháp cơ bản, đặc trưng để giải các dạng bài tập
trong chuyên đề, cụ thể như sau:
1.3.1) Cách làm dạng bài cảm nhận, phân tích nhân vật, giá trị của tác
phẩm
a) Yêu cầu
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nhân vật (ấn tượng về nhân vật là gì?)
- Khái quát về nhân vật/ Khái quát về giá trị tác phẩm
- Phân tích các phương diện của nhân vật (lai lịch, ngoại hình, ngơn ngữ,
nội tâm, cử chỉ, hành động…)/ Phân tích các biểu hiện của giá trị tác phẩm
13


- Tư tưởng tác giả gửi gắm qua nhân vật
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Mở rộng, liên hệ (nếu có)
- Đánh giá khái quát nhân vật, khẳng định sức sống của nhân vật…/ giá trị
của tác phẩm
b) Đề minh họa
Đề 1
Vẻ đẹp của hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái đị Sơng
Đà của nhà văn Nguyễn Tuân (SGK Ngữ văn 12, tập 1, cơ bản)
HƯỚNG DẪN

1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xi hiện đại. Nói
đến ơng là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn tài hoa, uyên bác và có một cách
diễn đạt rất độc đáo.
- Người lái đị sơng Đà là một tùy bút thành công của Nguyễn Tuân, được rút từ
tập tùy bút Sơng Đà. Hình tượng nổi lên trong tùy bút là hình tượng người lái
đị. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò trở thành một nghệ sĩ trong
nghệ thuật vượt thác leo ghềnh và hội tụ rất nhiều những vẻ đẹp khác nhau.
2. Vẻ đẹp của hình tượng người lái đị
a. Ngoại hình và hồn cảnh sống
- Ơng lái đị được nhà văn miêu tả có những nét ngoại hình và tố chất khá đặc
thù cho những người lao động trên sông nước: tay ông lêu nghêu, chân lúc nào
cũng khuỳnh khuỳnh, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh...
- Cuộc sống của người lái đò là những cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên
- một thứ thiên nhiên Tây Bắc đầy dữ dội để giành lấy sự sống từ tay nó về tay
mình.
- Trên bả vai người lái đị bầm lên một khoanh củ nâu. Cái đồng tiền tụ máu ấy
là một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đị sơng Đà
b. Vẻ đẹp tài trí
- Ơng lái đị hiểu tường tận tính nết của con sơng Đà, nhớ tỉ mỉ, Trí nhớ ơng
được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ như đóng đanh vào lòng tất cả
những luồng nước của những con thác hiểm trở
- Ông nắm chắc binh pháp của thần sơng, thần đá, ơng thuộc quy luật phục kích
của nó.
- Trong cuộc chiến đấu với sông Đà để giành lấy sự sống, ơng bình tĩnh đối đầu
với những thác ghềnh nguy hiểm. Ơng khơn khéo vượt qua mọi cạm bẫy của
thạch trận sông Đà, băng qua các cửa tử nơi thác hiểm trở, chỉ huy con thuyền
xuôi ngược trên sông tới đích bình n.
14



c. Ơng đị là người lao động dũng cảm, kiên cường, một nghệ sĩ
tài hoa trong nghệ thuật vượt thác nghềnh
- Để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, kiên cường và vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của
người lái đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả rất sinh động trận thủy chiến ác liệt trên
sông Đà. Trong trận thủy chiến đó, ơng đị tả đột hữu xung, chiến đấu quả cảm
với trùng vi thạch trận sông Đà để thuần phục dịng sơng dữ.
+ Bước đầu vào trận chiến đấu (trùng vi 1): thác nước rống lên như hàng
ngàn con trâu mộng; đá dữ dàn bày thạch trận (D/c: mặt nước hò la vang dậy ùa
vào mà bẻ gãy cán chèo, sóng nước như qn liều mạng...). Trùng vi thạch trận
sơng Đà vơ cùng lắt léo: vịng đầu: bốn cửa tử, một cửa sinh; vòng thứ hai chúng
tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền; vòng cuối cùng bên phải, bên
trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa bọn đá hậu vệ của con thác =>
thiên nhiên dữ dội, hung bạo, hiểm ác. Ơng đị là vị chỉ huy con thuyền sáu bơi
chèo quyết tâm chiến thắng sông Đà dữ dội, hung ác. Mặc dù đây là một cuộc
chiến khơng cân sức.
+ Ơng nắm chắc binh pháp của thần sơng, thần đá, chống trả quyết liệt
những địn âm, địn tỉa của sóng thác sơng Đà (trùng vi 2). Ông cố nén vết
thương “ hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái” kiên cường chịu đựng nỗi đau về
thể xác. “Trên con thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn
tỉnh táo của người cầm lái”. Ơng đị đã chiến đấu với thác dữ, sóng nước sơng
Đà bằng trí dũng tuyệt vời, bằng những động tác táo bạo, mạnh mẽ và vô cùng
chuẩn xác: Khi thì ơng cưỡi lên thác sơng Đà “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Có khi ơng nắm chặt lấy cái bờm sóng ghì cương lái mà phóng nhanh con
thuyền đến với cửa sinh. Đối đầu với bọn thủy quân hung dữ, độc ác: đứa thì
ơng tránh mà rẻo bơi chèo lên, đứa thì ơng đè sấn lên mở đường tiến.
+ Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ông chỉ huy con thuyền như một mũi tên
tre xuyên qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được, bỏ lại
những luồng tử, những thác dữ. -> Ông là một người nghệ sĩ tài hoa vượt qua
trận thủy chiến ác liệt, thuần phục dịng sơng. Qua đây thể hiện sự ngoan cường,

dũng cảm, kinh nghiệm sơng nước của ơng đị. Đây chính là ngun nhân để
ơng đị có thể chiến thắng được sự hung bạo, dữ đội của sông Đà.
d. Phong thái ung dung của ơng đị
- Sau khi vượt qua những gian nan, nguy hiểm ơng đị nhìn những thử thách đã
qua bằng một cái nhìn giản dị mà lãng mạn. Cái tài của ơng đị khơng có chút
kiêu bạc mà rất gần gũi với đời thường (D/c: Khi đã đưa con thuyền vào dịng
nước êm ả thì sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong
hang đá nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh. Chả ai

15


bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước có đủ tướng
dữ quân tợn vừa rồi)
e. Nghệ thuật biểu hiện nhân vật
- Nguyễn Tuân đã tạo được tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm
chất của mình. Nhà văn đã miêu tả cuộc vượt thác của người lái đò như một
cuộc thủy chiến ác liệt, không hề cân sức. Càng nhấn mạnh vẻ hung dữ, hiểm
độc của thạch trận sông Đà, tác giả càng khắc họa sinh động sự từng trải, vẻ
mưu trí, tinh thần kiên cường dũng cảm, phong thái ung dung và tài nghệ của
người lái đò.
- Tác giả còn sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sống động giàu chất tạo hình, đầy
cá tính, phù hợp với đối tượng được miêu tả. Nhà văn có những từ dùng rất mới
mẻ, lối nhân hóa độc đáo, những ví von so sánh, liên tưởng chính xác, thú vị
“ơng đị nắm chặt lấy bờm sóng” “cưỡi đến cùng như là cưỡi trên lưng hổ”...
3. Đánh giá
- Hình ảnh người lái đị cho thấy Nguyễn tn đã tìm được nhân vật mới - những
con người đáng trân trọng, ngợi ca không thuộc tầng lớp đài các “vang bóng một
thời” mà là những người lao động bình thường - “chất vàng mười” của Tây Bắc.
- Qua hình tượng ơng lái đị, Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm:

+ Người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu với qn thù mà cịn có
cả trong cuộc sống lao động thường ngày.
+ Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của con người không chỉ thể hiện trong lĩnh vực
sáng tạo nghệ thuật mà còn thể hiện ở lĩnh vực của cuộc sống, trong mọi hoạt
động của con người dù là lao động trí óc hay chân tay.
Đề 2
Cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dịng
sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường (SGK Ngữ văn 12, tập 1, cơ bản).
HƯỚNG DẪN
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận
Trong văn học Việt Nam hiện đại, nói đến những người viết tùy bút có
thực tài bao giờ người ta cũng nghĩ đến Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Cả hai đều say mê kiếm tìm và diễn tả cái đẹp nhưng nếu Nguyễn Tuân
ưa thích những cái đẹp đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ với tất cả tính chất dữ
dội, khác thường của nó thì với Hồng Phủ Ngọc Tường, cái đẹp phải thơ mộng,
dịu dàng.
- Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là một trong những bài kí đặc sắc thể hiện phong
cách trữ tình hướng nội súc tích và tài hoa của Hồng Phủ Ngọc Tường. Với
ngịi bút tài hoa, uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện sống động những
16


vẻ đẹp quyến rũ của con sông Hương- con sông thuộc về một thành phố duy
nhất.
2. Vẻ đẹp của sông Hương.
2.1. Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên
a) Dịng sơng nơi thượng nguồn
- Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dịng
sơng Hương: “Trong những dịng sơng đẹp ở các nước mà tơi thường nghe nói
đến, hình như chỉ sơng Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”.

- Với trí tưởng tượng và niềm say mê, Hồng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dịng
sơng Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính:
+ Với hình ảnh “bản trường ca của rừng già”, sơng Hương hiện ra với
cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm
say mê của nhà văn. Bởi “trường ca” là áng văn chương có dung lượng lớn
thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, cịn “rừng già” lại là hình ảnh của những
cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mơng.
+ Dịng sơng chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy của nó tất
cả những sắc thái phong phú, đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây
đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn
lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có khi lại “dịu dàng say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”…
+ Cách miêu tả uyển chuyển tài hoa qua những hình ảnh đối lập đã giúp
nhà văn làm hiện lên hình ảnh dịng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng
thời cả sức mạnh và vẻ đẹp. Dịng sơng với những lớp sóng hung hãn cuộn trào
bởi sự tiếp sức của thác ghềnh sóng gió, những xốy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh
hồng của vực sâu, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn;
do đó sơng Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa khơi gợi
những bí ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ đẹp kiêu sa, rực rỡ.
+ Không dừng lại trong những miêu tả trực tiếp, nhà văn cịn dùng phép
nhân hóa khiến dịng sơng được miêu tả như một “cơ gái Digan khóng khống
và man dại”, “bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong sáng”, cái mạnh mẽ
phóng khống của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do lang thang nay đây mai
đó được gắn cho dịng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng
trở nên quyến rũ đắm say.
- Sắc thái nhân hóa càng đậm nét khi nhà văn lý giải sự tương phản của sông
Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu, không phải bằng những kiến thức địa lý
thông thường. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sơng Hương như một người
con gái vốn mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được chế ngự để
nhanh chóng tạo cho mình một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến Huế 17



sự dịu dàng như một cái bến bình yên người ta thường mong sau những thác
ghềnh bão táp, sự trí tuệ của những con người từng trải và đầy bản lĩnh để có thể
giấu kín gian trn sóng gió trong vẻ êm đềm, bình lặng, tuyệt đối khơng muốn
bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt và vĩnh viễn ở lại với những
cánh rừng đại ngàn. Trong cảm nhận của nhà văn, sông Hương khi về tới Huế đã
hoàn toàn trở thành người mẹ phù sa của “một vùng văn hóa xứ sở”- những thét
gào man dại, những phóng túng tự do nay đằm lắng trong sự bồi đắp dịu dàng,
thương mến của đồng bằng châu thổ. Những hình ảnh phong phú, ấn tượng,
những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hóa đặc sắc đã làm hiện lên dịng
sơng Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt đầy cá
tính, qua đó cho thấy cách cảm nhận suy tư có bề sâu trí tuệ của nhà văn.
b) Sơng Hương về vùng châu thổ
* Sông Hương về tới đồng bằng và ngoại vi thành phố:
Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông
Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân thử thách. Trong cái nhìn tình
tứ và lãng mạn của nhà văn, tồn bộ cuộc hành trình của sơng Hương từ thượng
nguồn về tới Huế giống như một “cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực
của cơ gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về tình u. Sử dụng một loạt các
động từ mang sắc thái nhân hóa, nhà văn đã vẽ nên một hành trình sống động
của dịng sơng:
- Ra khỏi rừng già, giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại, sông Hương là
người con gái đẹp ngủ mơ màng. Rừng già đã chế ngự được bản năng của người
con gái để nó “ra khỏi vùng núi như nàng tiên được đánh thức, sông Hương
bỗng bừng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xn”. Dịng sơng
chuyển dòng liên tục rồi “vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những
đường cong thật mềm”, “vẽ một hình vịng cung thật trịn” rồi “ơm lấy chân đồi
Thiên Mụ”. Nó “vượt qua, đi trong dư vang của Trường Sơn”,“trơi đi giữa hai
dãy đồi sừng sững như thành quách”. “Dòng sông lúc này mềm như tấm lụa với

những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi
- Mặt nước sông Hương “ánh lên những phản quang nhiều màu sắc – một vẻ
đẹp đa màu biến ảo” ảnh hưởng bởi nền trời Tây Nam của thành phố “sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím”.
- Khi đi qua những lăng tẩm, đền đài của những vua chúa đời Nguyễn, nó có
vẻ đẹp trầm mặc. Khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên
Mụ, nó có vẻ đẹp triết lí, cổ thi. Khi đi qua những bãi bờ xanh biếc của vùng
ngoại ô Kim Long, nó như tươi vui hẳn lên. Đến gần thành phố nó uốn một cánh
cung rất nhẹ sang cồn Hến làm cho dịng sơng mềm hẳn đi như một tiếng ‘vâng’
khơng nói ra của tình u.
18


Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sơng Hương chính là sự hắt
bóng kỳ diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên mơ mộng xứ Huế - thiên nhiên
Huế như nguồn phù sa tuyệt vời bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho dịng sơng Hương,
“người con gái dịu dàng” của mình. Sự kết hợp tài hoa hai bút pháp kể và tả
trong cảm quan cắt nghĩa đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương trong sự phối
cảnh kỳ thú giữa dịng sơng và cảnh sắc phong phú, đa dạng của thiên nhiên xứ
Huế.
* Vẻ đẹp sông Hương trong lịng thành phố Huế
- Trước tiên, sơng Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm” khi vào
đến thành Huế, cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm
giác thanh thản, bình n của một dịng sơng khi tìm thấy chính mình, tìm thấy
tình yêu của mình khi về với thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại
vì nó, một thành phố ln đợi chờ, ln tin vào dịng sông thân yêu từ miền
thăm thẳm đại ngàn xa xôi. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến dịng sơng trở nên gần
gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.
- Sau cảm giác bình n giữa lịng thành phố, dịng sơng bắt đầu thể hiện sự
dun dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ. Đó là việc

“sơng Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng đến Cồn Hến”, với liên tưởng
độc đáo, lãng mạn của nhà văn, “đường cong ấy làm dịng sơng mềm hẳn đi,
như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u”. Qua phép so sánh thật ngọt
ngào, dịng sơng bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ,
đắm say của Huế.
- Sơng Hương: “một dịng sơng trơi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ cịn là một
mặt hồ n tĩnh”, trong đó từ nhịp ngắt, các yếu tố điệp cho đến so sánh đều góp
phần làm đậm thêm nhịp chảy chậm rãi, yên ả của dịng sơng; có lúc nhà văn
khơng giấu được tình u thiên vị của mình khi so sánh dịng chảy băng băng
của sông Nêva lúc xuân về với “điệu chảy lặng tờ” của dịng sơng xứ Huế, nhà
văn cịn rằng chỉ dòng chảy êm lặng ấy mới giúp con người cảm nhận được tâm
hồn dịu dàng, đa cảm của một dịng sơng “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở,
chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lịng”.
* Tạm biệt Huế để ra biển cả
- Sơng Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sỹ tài hoa trong nghệ thuật
phối màu. Màu sắc của dịng sơng là màu “xanh thẳm” của chính nó, màu rực rỡ
của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc
màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc
của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của
ngoại ô Kim Long”; từ màu thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên
nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng
19


cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc,
của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông
Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ
huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.
* Nhận xét: Có thể nói sơng Hương trong lòng thành phố mang vẻ đẹp đối lập
với sơng Hương ở khúc thượng nguồn. Khúc thượng nguồn nó rầm rộ, mãnh liệt

bao nhiêu thì ở đây nó dịu dàng bấy nhiêu. Nó đã giữ được vẻ đẹp cổ kính, thơ
mộng của đế đơ.
- Đoạn miêu tả sơng Hương đi trong lịng thành phố thật trữ tình. Người đọc có
cảm giác sơng Hương giống như một người tình say đắm thủy chung, tình tứ kín
đáo, đầy vương vấn với thành phố. Sơng Hương có tâm hồn, có tính cách, nước
sông Hương tỏa đi khắp ngõ ngách trong thành phố, tưới mát cho người dân,
gần gũi với xóm chài
- Sơng Hương trở thành người mẹ bao dung tượng trưng cho tâm hồn người Huế
- Vẻ đẹp sông Hương khi đi qua thành phố khác hẳn sông Hương ở khúc thượng
nguồn bởi sự ngọt ngào. Nhà văn đã thật tài tình khi miêu tả và so sánh, khiến
người đọc như bị cuốn vào vẻ đắm say của dịng sơng
=> Có thể nói Hồng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tài hoa vừa am hiểu kiến
thức về địa lí của thành phố Huế, hiểu rất rõ về bản đồ của Sông Hương, cùng
với tim đa tình, nhạy cảm và sự liên tưởng, tưởng tượng tài hoa, ơng đã miêu tả
thủy trình của sơng Hương tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân
đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình u nhuốm màu cổ tích.
Sơng Hương khơng chỉ đẹp trong thần thái mà cịn đẹp trong sự chung tình,
chung thủy.
b. Vẻ đẹp của sơng Hương nhìn từ góc độ lịch sử
Nhìn từ góc độ địa lý, sông Hương khúc thượng nguồn là “bản trường ca
của rừng già”; khi về tới Huế, sông Hương mang âm hưởng của một điệu slow
chậm rãi sâu lắng, một bản tình ca tình tứ ngọt ngào; nhưng nếu đặt trong quan
hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương lại là bản anh hùng ca hào hùng, bi tráng,
là chứng nhân nhẫn nại, kiên cường của cuộc đời qua bao thăng trầm trong lịch
sử.
- Là một trong số những dịng sơng có mặt từ thuở đầu lập nước, sơng Hương đã
chứng kiến và tham gia hầu hết những biến cố quan trọng vừa oanh liệt vừa đau
thương trong suốt chiều dài của lịch sử của dân tộc.
+ Sông Hương xuất hiện trong lịch sử trước hết với vai trò một dòng sơng
biên thùy của đất nước các vua Hùng, thuở cịn mang tên Linh Giang - dịng

sơng thiêng; trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sơng Hương là dịng sơng “viễn

20


châu”, dịng sơng ở chốn xa xơi của Tổ quốc đã cùng con người tham gia vào
những trận chiến đấu oanh liệt để bảo vệ chủ quyền nước Đại Việt thân u.
+ Dịng sơng cũng đã từng “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh
hùng Nguyễn Huệ” trong thế kỷ XVIII,
+ “Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của bao cuộc khởi
nghĩa”.
+ Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỷ XX, sơng Hương
lại đóng góp sức mạnh của mình để làm nên chiến thắng, từ Cách mạng Tháng
Tám 1945 đến mùa xuân Mậu Thân năm 68, sông Hương kiên cường chịu đựng
nỗi đau của những mất mát không thể bù đắp khi thành phố Huế bị bom Mỹ tàn
phá, khi những di sản văn hóa bị hủy hoại. Cũng vì thế, sơng Hương đã trở
thành một “nét son” trong lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc.
- Đặt sông Hương trong chiều dài lịch sử từ thời dựng nước của các vua
Hùng tới thời đánh Mỹ, nhà văn đã thể hiện khơng chỉ tình u mà cịn là niềm
tự hào sâu sắc về dịng sơng q hương. Tác giả coi sơng Hương là “dịng sơng
của thời gian ngân vang” - sơng Hương đã mang trong mình nó những âm vang
hào hùng, bi tránh của dòng thời gian lịch sử với cả những chiến cơng và những
đau thương. Sơng Hương cịn được coi là dịng sơng “của sử thi viết giữa màu
cỏ lá xanh biếc” - nghệ thuật ẩn dụ đã làm hiện lên vai trò của một chứng nhân
lịch sử, cách miêu tả tinh tế lại gợi ra những sắc thái khác nhau cùng tồn tại
trong một dịng sơng, vì sử thi còn được gọi là anh hùng ca, là thể loại gắn với
những chiến công, gợi đến chiến tranh; nhưng “màu cỏ lá xanh biếc” lại là sắc
màu mang chất trữ tình của cuộc sống, của tình yêu và sự bình n. Sơng Hương
vì thế vừa sử thi, vừa trữ tình, vừa là thiên anh hùng ca hào tráng, vừa là khúc
tình ca tươi mát, dịu dàng.

c. Vẻ đẹp cuả sơng Hương nhìn từ góc độ văn hóa
- Sơng Hương được khám phá khơng chỉ ở góc độ thiên nhiên mà cịn được
nhìn ở phương diện văn hóa. Dưới góc nhìn văn hóa, tác giả khẳng định có một
dịng thi ca về sơng Hương. Sơng Hương cịn gắn với âm nhạc, với lịch sử. Nó
là tâm hồn của người Huế, cũng là tâm hồn của nhân dân Việt Nam từ ngàn đời
nay.
* Sơng Hương là một dịng thi ca
- Cảm hứng về các dịng sơng Việt Nam ln là cảm hứng vô tận của thi nhân.
Đối với sông Hương thì đó là một dịng thơ khơng lặp lại mình. Hầu như các
nghệ sĩ Việt Nam khi đến với sông Hương đều để lại cho nền văn học những câu
thơ bất hủ. Cao Bá Quát từng viết: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”
(Sơng Hương được ví như thanh kiếm dựng trời xanh). Tản Đà trong bài thơ
“Chơi Huế” đã gọi là “Dịng sơng trắng lá cây xanh”…
21


Quả thực sơng Hương là cả một dịng thi ca, một nguồn cảm hứng bất tận
của các văn nghệ sĩ mn đời
* Sơng Hương cịn gắn liền với âm nhạc
- Miêu tả sơng Hương, Hồng Phủ Ngọc Tường thấy nó gắn liền với nền âm
nhạc cổ điển Huế. Tác giả hình dung tồn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được
hình thành trên mặt nước dịng sơng này.
Nhà văn cịn tưởng tượng trong một khoang thuyền nào đó, “giữa tiếng
nước rơi bán âm của những mái chèo khuya, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế
được sinh thành.” Phải có độ nhạy cảm, phải có khả năng thẩm âm, phải hiểu
biết sâu sắc về âm nhạc xứ Huế, tác giả mới có được những nhận xét như vậy.
- Từ góc độ âm nhạc, Hồng Phủ Ngọc Tường cịn thấy trong khoảnh khắc trùng
lại của sông nước, sông Hương đã trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”.
- Đặc biệt hơn nhà văn còn tưởng tượng, nhớ đến đại thi hào Nguyễn Du đã bao

năm lênh đênh trên quãng sông này với một “phiến trăng sầu” để từ đó những
bản đàn đã đi suốt đời Kiều, cũng là để Nguyễn Du viết được những câu thơ bất
hủ. “Trong như tiếng hạc bay qua /Đục như tiếng suối mới ra nửa vời”.
+ Với trí tưởng tượng say đắm của nhà văn, sông Hương hiện lên với
những vẻ đẹp khác nhau của một cơ gái, khi là “cơ gái Digan phóng khống và
man dại”, có lúc “tự hiến đời mình làm một chiến cơng”, có lúc lại trở về trong
“cuộc sống bình thường, là một người con gái dịu dàng của đất nước”. Người
con gái ấy chắc chắn phải là cô gái Huế tài hoa và sâu sắc, tình tứ và dịu ngọt,
lẳng lơ kín đáo mà rất mực chung tình, biết làm đẹp một cách ý nhị duyên dáng
với chút sương khói như “tấm voan huyền ảo của tự nhiên”
d. Nghệ thuật:
Bộc lộ ngòi bút tài hoa, uyên bác
- Huy động nhiều vốn kiến thức địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật
- Ngơn ngữ phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, đầy chất thơ, gợi hình, gợi
cảm, câu văn giàu nhạc điệu; cách sử dụng những phép tu từ so sánh, nhân hố,
ẩn dụ…
- Có sự kết hợp hài hồ giữa cảm xúc và trí tuệ.
- Liên tưởng rất mực phóng túng.
- Có sự kết hợp hài hịa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa chủ quan và khách quan.
- Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa.
3. Đánh giá
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã soi bằng tâm hồn mình và tình u q hương xứ
sở vào sơng Hương khiến cho nó trở nên lung linh đa dạng như đời sống tâm
hồn con người . Sông Hương hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng, quyến rũ. Nhà văn
22


×