Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn ngữ văn ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.59 KB, 27 trang )

PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG THCS KIM LONG

HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP
HUYỆN NĂM HỌC 2018-2019

Tên sáng kiến: Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn
Ngữ văn ở trường THCS
Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Thu Hằng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS Kim Long, huyện Tam Dương,
tỉnh Vĩnh Phúc.
HỒ SƠ GỒM CÓ:
1. Đơn đề nghị công nhận Sáng kiến cấp huyện;
2. Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến;
3. Giấy chứng nhận Sáng kiến cấp cơ sở.

Tam Dương, năm 2019


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---o0o---

ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến huyện Tam Dương
Tên tơi là: Nguyễn Thị Thu Hằng
Chức vụ (nếu có): Giáo viên
Đơn vị/địa phương: Trường THCS Kim Long
Điện thoại: 0355963789


Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng Sáng kiến huyện Tam
Dương xem xét và công nhận sáng kiến cấp huyện cho tôi đối với sáng kiến đã
được Hội đồng Sáng kiến cơ sở công nhận sau đây:
Tên sáng kiến Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém mơn
Ngữ văn ở trường THCS
(Có Báo cáo Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến
và Giấy chứng nhận Sáng kiến cấp trường kèm theo)
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật,
khơng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hồn tồn chịu trách
nhiệm về thơng tin đã nêu trong đơn.
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
(Ký tên, đóng dấu)

Kim Long, ngày 28 tháng 01 năm 2019
Người nộp đơn
(Ký tên, ghi rõ họ tên)

Đỗ Thị Minh Phượng

Nguyễn Thị Thu Hằng


PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG THCS KIM LONG

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn
Ngữ văn ở trường THCS

Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Thu Hằng

Tam Dương, năm 2019


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Trong những năm gần đây, cùng với các ngành khác, ngành giáo dục Việt
Nam đạt nhiều thành tựu đáng kể, góp phần khơng nhỏ vào việc đào tạo nguồn
nhân lực dồi dào và có chất lượng cho xã hội. Tuy nhiên, một thực tế là có một
bộ phận khơng nhỏ học sinh có kết quả học tập chưa tốt, kĩ năng vận dụng kiến
thức được học vào thực tiễn cuộc sống chưa cao, hịa nhập vào cuộc sống cịn
khó khăn, lúng túng do kiến thức và kĩ năng, điều đó một phần do lực học của
học sinh chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Vì vậy bên cạnh nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi thì phụ đạo học sinh yếu kém là
mục tiêu cơ bản hàng đầu, là mối quan tâm lớn đối với sự nghiệp giáo dục hiện
nay. Việc phụ đạo học sinh yếu kém bộ môn là một trong những vấn đề rất quan
trọng, cấp bách, cần thiết và không thể thiếu trong mỗi một học ở các cấp học
nói chung và ở cấp THCS nói riêng. Và để nâng cao chất lượng giáo dục, đòi
hỏi giáo viên và học sinh phải dạy thực chất và học thực chất. Muốn vậy, người
giáo viên khơng chỉ biết dạy mà cịn phải biết tìm tịi phương pháp nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém. Cịn học
sinh cũng phải nhanh chóng tiếp cận được phương pháp dạy học mới đang được
triển khai: học sinh học theo hướng tích cực, độc lập, chủ động nghiên cứu, tìm
tịi, sáng tạo... để lĩnh hội và vận dụng kiến thức. Tuy nhiên, để nâng cao chất
lượng học sinh không phải là chuyện một sớm một chiều mà nó địi hỏi phải có
sự kiên nhẫn và lòng quyết tâm của người giáo viên, bản thân học sinh, phụ
huynh và toàn xã hội. Vậy phụ đạo như thế nào, phương pháp ra sao thì đó cùng
là một vấn đề địi hỏi giáo viên cần phải khơng ngừng tìm hiểu.

Cùng với một số mơn học khác, thực trạng dạy học môn Văn được đề cập
nhiều ở các phương tiện thơng tin, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tỉ lệ học sinh
yếu ở bộ môn này ngày càng cao. Vì vậy, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học


thật sự là vấn đề thiết yếu và cần được quan tâm. Dẫu có thể khẳng định thời
gian qua, nhiều giáo viên đã nỗ lực mang lại cho các em những phương pháp
học văn tích cực cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ thông tin đã
giúp tiến học văn đạt hiệu quả cao hơn, song học sinh yếu môn văn là một tồn
tại khách quan. Điều đó một phần do giáo viên chưa áp dụng phương pháp học
phù hợp, chưa giúp đỡ kịp thời để các em hổng kiến thức cơ bản. Một phần là do
các em chưa biết cách học, chưa có hứng thú học tập, chán học dẫn đến ngày
một tụt hậu so với trình độ chung của lớp.
Vì lý do đó tơi xin phân tích một số ngun nhân dẫn đến tình trạng học
sinh yếu kém mơn Ngữ văn để từ đó có thể tìm ra hướng khắc phục giúp học
sinh vươn lên trong học tập thông qua đề tài: “Một số biện pháp phụ đạo học
sinh yếu kém môn Ngữ văn ở trường THCS”.
2. Tên sáng kiến “Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn
Ngữ văn ở trường THCS”.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Hằng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THCS Kim Long
- Số điện thoại: 0355963789
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Thu Hằng
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sáng kiến sử dụng trong việc phụ đạo
học sinh yếu kém của môn Ngữ văn ở trường THCS, đặc biệt lớp 8, 9.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 9/2017.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến.
7.1. Cơ sở lý luận:
Trong các cơng trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn, hầu hết các

phương pháp được đặt ra với đối tượng học sinh một cách chung chung. Tất cả


tùy thuộc vào vai trò dẫn dắt của giáo viên trong giờ học. Song, theo quan điểm
của PGS.TS Phạm Quang Trung, Trường Đại học Đà Lạt thì “Phương pháp dạy
học hiện đại khơng cho phép người dạy hình dung đối tượng một cách chung
chung. Phải quan tâm đến từng cá nhân học sinh, mỗi em một tính nết, sự hiểu
biết cùng khác nhau nên khơng thể có một đối tượng học sinh chung chung
trong giờ học được”. Cịn trong cơng trình “Thiết kế bài học tác phẩm văn
chương ở nhà trường phổ thông” GS Phan Trọng Luận nhấn mạnh: “Giờ học
mới phải là một kết cấu logic chặt chẽ khoa học mà uyển chuyển linh hoạt, hệ
thống đơn vị tình huống học tập được đặt ra từ bản thân tác phẩm phù hợp với
sự tiếp nhận của HS. Và song song tương ứng là một hệ thống việc làm, thao tác
do GV dự tính tổ chức để dẫn dắt từng cá thể HS tự chiếm lĩnh tác phẩm một
cách hứng thú”. Như vậy, dù không phát biểu trực tiếp song ý kiến trên cũng đã
nhấn mạnh sự dẫn dắt khéo léo của giáo viên trong giờ học sao cho phù hợp với
mọi đối tượng học sinh như tác giả Nguyễn Kế Hào đã từng nhấn mạnh “Dạy
học theo phương pháp mới phải đảm bảo tính đồng loạt, phát huy được mọi đối
tượng” Vậy, làm cách nào để phát huy được mọi đối tượng – kể cả đối tượng
học sinh yếu – trong cùng một tiết học?
7.2. Cơ sở thực tiễn:
Tiêu chí hàng đầu trong việc lựa chọn cách dạy chính là cách học. Tuy
nhiên, cách học không chỉ do những đặc điểm cả nhân của người học quy định,
mà còn do tính chất và đặc điểm của nội dung học tập, mục đích học tập, cũng
như điều kiện học tập quy định. Đồng thời, việc lựa chọn cách dạy còn phụ
thuộc và quan điểm và mục đích dạy học, cũng như trình độ và kỹ năng sử dụng
các phương pháp dạy của người dạy. Qua thực tế giảng dạy, tôi có những nhận
xét sau:
Thứ nhất, thực tế học Văn ở học sinh cịn nhiều điều đáng nói, đáng bàn.
Thống kê chất lượng hằng năm ở trường (qua kết quả thi để khách quan hơn)

cho thấy tỉ lệ học sinh yếu kém là rất lớn.


Thứ hai, xuất phát từ đối tượng học tập: Nhìn chung, trong một lớp học
bao giờ cũng có các đối tượng khác nhau: học sinh yếu, trung bình, khá, giỏi.
Những em khá, giỏi rất dễ dàng tiếp thu kiến thức cơ bản trong khi điều này lại
rất khó khăn với những học sinh yếu. Vì vậy, khơng thể chỉ áp dụng cùng một
phương pháp, một hình thức, một nội dung cho các loại đối tượng khác nhau
trong một tiết học. Dĩ nhiên, là cần chú ý đến mặt bằng kiến thức chung (mục
tiêu cần đạt của các bài học).
Thứ ba, xuất phát từ đặc thù bộ môn Ngữ văn – môn học của khám phá và
sáng tạo – bên cạnh sự thống nhất là sự phong phú, đa dạng của tiếp nhận hình
tượng văn học. Vậy nên, trước một tiết học, tôi thường đặt câu hỏi: trong hoạt
động này,học sinh khá, giỏi sẽ tiếp thu gì? học sinh yếu kém sẽ làm được những
gì? trong hệ thống câu hỏi đặt ra thì những cầu hỏi nào dành cho đối tượng này?
Từ thực tế trên, việc giúp đỡ học sinh yếu kém khơng phải là chuyện ngày
một, ngày hai mà địi hỏi có lịng kiên nhẫn, sự quyết tâm và bằng những
phương pháp thật cụ thể, thiết thực. Về phía bản thân, những năm trước đây, tôi
thường trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về những em học yếu của lớp để giáo
viên chủ nhiệm nhắc nhở và phân công cán sự bộ mơn kèm cặp. Về phía nhà
trường, trong những năm học qua cũng đã mở các lớp phụ đạo cho học sinh yếu.
Tuy nhiên, do nhiều quá trình giảng dạy, với suy nghĩ làm thế nào để khắc phục
dần tình trạng yếu kém của học sinh, tơi đã tiến hành một số cách làm và bước
đầu đã có kết quả nhất định.
7.3. Biện pháp thực hiện:
7.3.1. Lên kế hoạch cho việc phụ đạo, phân tích thực trạng, nguyên nhân.
Vào đầu năm học, thông qua bài khảo sát chất lượng đầu năm tại lớp cần
phân tích, đánh giá kết quả đạt được của học sinh để đưa ra các dự báo về học
sinh yếu kém. Có như vậy mới đánh giá được sự tiến bộ của học sinh trong năm.
Công việc này khơng tốn nhiều thời gian bởi vì nó được làm đồng bộ trong quá

trình chấm bài, trả bài. Mỗi lớp chỉ cần đính kèm vào sổ điểm cá nhân một trang


ghi chú này. Sau khi nhận diện học sinh yếu kém, cần phát hiện các nguyên nhân
dẫn đến tình trạng học sinh yếu kèm trước khi tìm các biện pháp giúp đỡ các em.
Một số nguyên nhân chính thường là:
a. Về phía học sinh:
Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân
học sinh yếu kém có thể kể đến là do:
- Học sinh lười học: Qua q trình giảng dạy, bản thân tơi nhận thấy rằng
các em học sinh yếu đa số là những học sinh cá biệt, trong lớp không chịu chú ý
chuyên tâm vào việc học về nhà thì khơng xem bài, không chuẩn bị bài, không
làm bài tập, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Cịn một bộ phận nhỏ thì
các em chưa xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên
lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học để sau đó về
nhà lấy ra “học vẹt” mà khơng hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Chưa có
phương pháp và động cơ học tập đúng đắn.
- Học sinh khơng có thời gian cho việc tự học: Đa số học sinh của trường
đều ở nông thôn, gia đình chủ yếu là sống bằng nghề nơng, các em ở nhà phải
phụ giúp gia đình việc đồng án, chăn nuôi nên ảnh hưởng không nhỏ đến thời
gian tự học.
- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp dưới: Đây là một điều khơng thể phủ
nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một
phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
- Khả năng tập trung ngắn, nên dễ dàng bị xao nhãng trong giờ học.Nhiều
câu hỏi đặt ra khó nên dần dần học sinh nảy sinh tâm lí e ngại, sợ phát biểu xây
dựng.
- Gặp khó khăn trong việc hiểu bài, khả năng diễn đạt yếu.
b. Về phía giáo viên:



- Còn một số giáo viên chưa nắm chắc những yêu cầu kiến thức của từng
bài dạy. Việc dạy học còn dàn trải, còn nâng cao kiến thức một cách tùy tiện.
- Còn một số giáo viên chưa chú ý đúng mức đến đối tượng học sinh yếu.
Chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút của học sinh.
- Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho học
sinh yếu khơng theo kịp. Từ đó các em cam chịu, dần dần chấp nhận với sự yếu
kém của chính mình và nhụt chí khơng tự vươn lên… Một số giáo viên cịn thiếu
nghệ thuật cảm hóa học sinh yếu, khơng gây hứng thú cho học sinh thích học
mơn mình.
c. Về phía phụ huynh:
Cịn một số phụ huynh học sinh:
- Thiếu quan tâm đến việc học tập ở nhà của con em, phó mặc mọi việc
cho nhà trường và thầy cơ.
- Gia đình học sinh gặp nhiều khó khan về kinh tế hoặc đời sống tình cảm
khiến trẻ khơng chú tâm vào học tập.
- Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên
học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi, giả bệnh,…) cha mẹ
cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vơ tình là đồng phạm góp phần làm học sinh
lười học, mất dần căn bản và rồi yếu kém.
7.3.2. Những biện pháp giáo viên đã thực hiện trong giờ học:
7.3.2.1. Thống nhất về định hướng nguyên tắc.
- Có ba khâu chủ yếu của nhiệm vụ rèn luyện kỹ năng là: Bồi dưỡng ý
thức, nâng cao trình độ, rèn luyện thói quen cho học sinh. Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã từng chỉ ra cho giáo viên dạy văn là phải “Làm cho học sinh dần dần ý
thức, có trình độ, rồi đi đến có thói quen viết và nói đúng tiếng Việt”. Ba khâu
cần thực hiện trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bởi vì chưa nhận thức
đúng thì chưa có hành động đúng. Nhận thức đúng nhưng thiếu trình độ để học



tập, tiếp thu và rèn luyện kỹ năng thì nhận thức chỉ trong lĩnh vực lý thuyết. Có
nhận thức đúng, có trình độ mới có thể rèn luyện thói quen. Vì thói quen thuộc
phạm trù kỹ năng, kỹ xảo. Thực hiện định hướng nguyên tắc này, giáo viên cần
có ý thức trong cơng việc của mình, từ việc giáo dục cho học sinh ý thức dùng
từ, phát âm luyện viết câu đến tìm ý, dựng đoạn, lập dàn ý và viết bài văn.
- Xây dựng môi trường học tập thân thiện; Sự thân thiện của giáo viên là
điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói,
ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để
các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân
mình. Giáo viên ln tạo cho bầu khơng khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng,
khơng mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho chọ sinh cảm
thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Bên
cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví
dụ như giáo viên nên thay chê bài bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm
mà em hồn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.
7.3.2.2. Bồi dưỡng ý thức:
a. Ý nghĩa của việc bồi dưỡng ý thức học văn:
- Bồi dưỡng nhận thức đúng cho học sinh về học tập và vị trí của mơn
Văn. Trước hết bồi dưỡng cho học sinh nhận thức đúng về đặc trưng của mơn
Văn. Từ đó học sinh mới có cách học văn đúng đắn và phù hợp. Khi học tác
phẩm các em phải nhớ nội dung tác phẩm, nhớ được các chi tiết quan trọng
nhưng không được tách rời với hình thức nghệ thuật vì đó là cơ sở để các em
tiếp cận giá trị của tác phẩm văn chương. Các em phải biết hệ thống lại kiến
thức của mình sau mỗi bài học, đó là những kiến thức chính, trọng tâm của các
bài văn để tránh tình trạng chắp vá kiến thức và nhầm lẫn giữa tác phẩm này với
tác phẩm kia. Đồng thời các em cũng phải tập xác định các thao tác lập luận
mình sẽ sử dụng khi làm bài làm văn đó cho phù hợp với yêu cầu của đề. Từ
việc rơi rụng kiến thức, học sinh cảm thấy học mơn Văn rất khó. Các em không



hiểu nguyên nhân đành chấp nhận kết quả kém. Từ kém đến chán và càng kém
đi cũng là lẽ tất nhiên. Cho nên việc bồi dưỡng nhận thức đúng về môn Văn là
vô cùng quan trọng. Kiến thức văn học rất quan trọng trong việc hình thành
nhân cách và hành động của các em cho cuộc sống sau này. Giáo viên cần phải
giúp học sinh hiểu rõ những bài học Văn mang tính chất hành động rất có lợi
cho các em trong quá trình chọn ngành nghề và trong giáo tiếp khi các em bước
vào môi trường xã hội rộng lớn sau này. Ngày nay các em phải hiểu rằng học
Văn khơng phải chỉ là tìm hiểu cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương như
quan niệm trước đây nữa mà học văn là cách để rèn luyện cho các em hoàn thiện
về mọi mặt: nhân cách, đời sống tinh thần, kỹ năng giao tiếp và làm giàu vốn từ
Tiếng Việt sẽ giúp các em trong việc học các ngơn ngữ khác… đặc biệt trong
chương trình Ngữ văn cịn có một số bài có thể giúp các em có những hiểu biết
bước đầu về một số ngành cụ thể như: phỏng vấn, viết bản tin, lập kế hoạch cá
nhân, trình bày một vấn đề… Hay một số tác phẩm văn học có thể giúp các em
những bài học trong cách nhìn nhận cuộc sống, cách đánh giá những vấn đề
trong xã hội sau này. Cần cho học sinh thấy môn Văn là công cụ giúp cho việc
học các môn khác thuận lợi. Học văn có thể giúp các em khắc sâu về kiến thức
lịch sử hoặc cụ thể hóa những kiến thức về lịch sử như: thời gian, địa điểm của
các sự kiện lịch sử.
Ví dụ: Sau khi học “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
học sinh sẽ hiểu phần nào một thời kỳ lịch sử tranh giành quyền lực giữa các tập
đoàn phe phái phong kiến dẫn đến các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Hoặc qua
“Hoàng Lê nhất thống chí” sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về vị vua nổi tiếng của
lịch sử dân tộc: vua Quang Trung.
b. Biện pháp để nâng cao ý thức về việc học văn.
- Giáo viên dành thời gian phân tích, cung cấp những kiến thức, sự hiểu
biết cho học sinh về đặc trưng môn văn trong các buổi phụ đạo.
- Tổ chức ngoại khóa: Sáng tác văn học, tìm hiểu văn học.



- Áp dụng phương pháp dạy học tích hợp để giúp học sinh có hiểu biết xã
hội rộng hơn từ môn văn.
- Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những
đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc
điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là:
sức khỏe kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…
- Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy
phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự
đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm
thông qua đặc trưng này.
- Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề
ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù
hợp. Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành
cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện
cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được
vị trí đích thực của mình trong tập thể.
7.3.2.3. Những nội dung cần bổ trợ:
a. Những kiến thức bổ trợ cơ bản:
* Về việc hiểu từ và cách dùng từ:
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng chỉ ra rằng: “Tôi cho rằng “từ” là rất
quan trọng. Trong ngơn ngữ thì “từ” là cái quan trọng nhất, rồi đến câu, sau đến
bài văn. Cho nên dạy “từ” là rất cần thiết, phải hiểu tất cả ý nghĩa của “ từ”, ý
nghĩa sâu xa, ý nghĩa phong phú, phải hiểu tất cả mọi cách dùng “từ”, hiểu ‘từ”,
dùng “từ” đúng chỗ là điều quan trọng và cũng là điều khó khăn nhất. Sau ‘từ”
là đến ‘câu”, nhiều “câu” thành đoạn, nhiều đoạn thành một bài, rồi đến một
cuốn sách. Tất cả đều phải học, phải tập nhằm diễn tả cho thành cơng những
điều mình suy nghĩ”. Và điều quan trọng trong việc dạy từ là “Phải hiểu tất cả


các ý nghĩa từ, ý nghĩa sâu xa, ý nghĩa phong phú, phải hiểu tất cả mọi cách

dùng từ”. Là giáo viên dạy văn, yêu cầu trên hết sức quan trọng. Bởi vì nếu
khơng nắm rõ về ý nghĩa của từ ta sẽ không thể giúp học sinh hiểu rõ về các văn
bản văn chương. Đơi khi có những em học sinh ham học hỏi tìm tịi sẽ bất chợt
hỏi về một từ nào đó mà các em chưa hiểu nghĩa, yêu cầu giáo viên phải giảng
giải cặn kẽ và chính xác. Điều đó vừa giúp các em hiểu hơn về từ vựng, tiếng
Việt đồng thời khuyến khích học sinh học tốt hơn. Hiểu rõ nghĩa của từ, giáo
viên cũng cần giúp cho học sinh biết cách sử dụng từ đúng với hoàn cảnh, đúng
phong cách để tránh học sinh viết trong bài làm văn"chị Thúy Kiều" "anh Kim
Trọng". Đặc biệt, một hiện tượng phổ biến trong bài văn học sinh hiện nay là
dùng từ không đúng nghĩa. Rất nhiều học sinh dùng ngôn ngữ sinh hoạt hàng
ngày trong bài viết văn của mình. Giúp học sinh hiểu như thế nào là những từ
ngữ sáo rỗng, công thức để các em biết cân nhắc khi sử dụng. Ví dụ như các từ :
kho tàng văn học, di sản văn học, tác gia văn học, nhà văn vĩ đại, kịch tác gia vĩ
đại, nam thanh nữ tú...
* Về việc tạo câu:
Nhìn chung với học sinh nơng thơn viết câu đúng cịn nhiều hạn chế. Có
thể nói, số học sinh viết được câu đúng ngữ pháp một cách có ý thức chiếm tỷ lệ
thấp, các em không diễn đạt được ý nghĩ của mình qua những câu văn hoặc lời
nói. Vì vậy một khâu rất quan trọng là giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn
để học sinh có thể rèn luyện được cách đặt câu đúng ngữ pháp.Trước hết giáo
viên cần giúp học sinh hiểu rõ về cấu tạo, các thành phần ngữ pháp trong câu và
cách bố trí các thành phần đó như thế nào, ý nghĩa của các thành phần đó là gì?
Vì là đối tượng học sinh yếu kém nên khi dạy về câu chúng ta cũng nên giúp học
sinh sử dụng câu đúng ngữ pháp bằng một số mẹo nhỏ như: khi dùng các giới từ
trong, qua, bằng, với... ở đầu câu học sinh thường sẽ viết câu thiếu thành phần,
vì vậy các em nên hạn chế sử dụng...Giáo viên có thể sử dụng giờ trả bài làm
văn hoặc trong các giờ thực hành, thậm chí là ngay giờ giảng văn đều có thể xen
kiến thức về câu để học sinh rèn luyện về viết câu. Nhưng cũng cần lưu ý, với



học sinh yếu kém, giáo viên chỉ nên rèn luyện cho học sinh về một số kiểu câu
đơn giản mà các em cần sử dụng thường xuyên tránh những câu có cấu trúc
phức tạp mà thực tế học sinh ít được sử dụng.
* Về dựng đoạn và liên kết đoạn:
Nhiều học sinh chưa biết dựng một đoạn văn đơn giản. Các em viết đoạn
văn văn và cả bài văn theo thói quen khơng nắm được cơ sở lí luận, do đó bố
cục, ý thiếu rõ ràng mạch lạc. Vì vậy phải giúp học sinh nắm được cấu trúc, vai
trò của đoạn trong bài văn. Từ đó cho học sinh tập viết đoạn văn thật nhiều bằng
các giờ thực hành hoặc kiểm tra mười lăm phút. Khi cho học sinh tập viết đoạn
văn, giáo viên cần giúp các em cách xác định câu chủ đề, cấu trúc của đoạn văn
trình bày theo cách nào. Trên thực tế nếu cho các em viết đoạn văn về một chủ
đề tự do thì học sinh có thể dễ dàng triển khai ý. Nhưng khi cho các em viết
đoạn trong một đề văn cụ thể thì các em lại lúng túng khơng xác định được phải
trình bày như thế nào. Vì vậy, giáo viên nên chọn ý trong đề văn nào đó để học
sinh tập viết đoạn. Và khi tập viết đoạn văn giáo viên cũng nên tập cho các em
sử dụng câu,
* Về tạo lập văn bản:
Bài văn là tổng hợp nhiều đoạn văn nhưng không phải là sự tổng hợp của
các đoạn văn theo phép tính cộng, mà là sự tổng hợp của các đoạn có chưa các ý
khác nhau nhưng có mối quan hệ rất mật thiết chặt chẽ với nhau tạo nên một
chỉnh thể. Học sinh còn yếu nhiều về liên kết ý, liên kết kết đoạn văn. Do đó
giáo viên phải nhắc lại lí luận về các phép liên kết trong văn bản. Giáo viên cần
giúp cho học sinh biết cách sử dụng những phép liên kết đó như thế nào cho hợp
lý không làm cho bài văn trở lên rườm rà, phức tạp. Đồng thời, giáo viên hướng
dẫn cho học sinh cách sắp xếp ý một cách hợp lí, logic, có sức thuyết phục và
làm nổi bật vấn đề nghị luận. Ở phần này, giáo viên nên sử dụng giờ trả bài,
dành tối đa thời gian để các em rút kinh nghiệm từ bài làm của mình và luyện
tập cách viết liên kết đoạn, sắp xếp các đoạn văn.



b. Nội dung bổ trợ kiến thức khác:
Củng cố là bổ sung, mở rộng lí luận về phương diện đã nêu trên. Song
song với việc nâng cao trình độ về ngơn ngữ cịn phải cần nâng cao trình độ về lí
thuyết làm văn, về kiến thức giảng văn, văn học sử.
+ Học sinh thường học lí thuyết làm văn một cách máy móc giống như
các mơn học thuộc khác, khi làm bài cụ thể lại không biết áp dụng kiến thức đó
vào trong bài làm. Học sinh thường coi nhẹ lí thyết dẫn đến cách làm bài khơng
đúng u cầu, gặp nhiều lúng túng trong pháp. Vì vậy, các em phải nắm chắc lý
thuyết làm văn, áp dung linh hoạt trong các bài làm văn cụ thể.
+ Về kiến thức giảng văn, văn học sử, kiến thức về tác phẩm ở học sinh
còn nhiều hạn chế, cũng do cách hoạc ‘đại khái” nên học sinh dễ quên chi tiết,
hình ảnh cốt truyện và các yếu tốt khác tạo nên tác phẩm. Đặc biệt khi làm về
thơ, học sinh thường bỏ qua yếu tố về nghệ thuật mà đơn thuần chỉ nêu nội dung
của câu thơ hoặc ý nghĩa của câu thơ. Do đó giáo viên cần hướng dẫn học sinh
cách nắm được những chi tiết, hình ảnh quan trọng, những thủ pháp nghệ thuật
cơ bản làm nên thành công của tác phẩm. Tránh tình trạng nhớ q máy móc
hoặc học thuộc lòng cả bài thơ dài hay tác phẩm văn xi. Hơn nữa, giáo viên
phải giúp học sinh có một vốn kiến thức văn học sử chắc chăn để không bị
nhầm lẫn giữa các thời đại, các thể loại văn học hoặc đơn giản là giữa các tác
giả, tác phẩm.
+ Củng cố, hệ thống các kiến thức học sinh đã được học trong chương
trình lớp trước.
+ Bổ sung kiến thức cơ bản thường xuyên trong suốt quá trình giảng dạy
của giáo viên.
+ Điều tra cơ bản nắm trình độ kiến thức của học sinh, phát hiện yếu ở
phương diện nào từ đầu cấp, đầu năm học, trên cơ sở đó có kế hoạch bù đắp kiến
thức kịp thời.


7.3.2.4. Rèn luyện kĩ năng vận dụng cho học sinh.

a. Rèn luyện thói quen đúng.
* Rèn luyện cho học sinh thói quen đúng cũng là rèn luyện kỹ năng vì khi
có nhận thức đúng về ý nghĩa của việc làm mới có ý thức quyết tâm. Có khả
năng, có trình độ mới làm được, và mới tạo được thói quen, có quen làm thì mới
làm khéo. Tất cả các thao tác ở trên đều cần được rèn luyện để học sinh biết thực
hiện thành thạo các công việc trong quá trình học tập, nâng cao chất lượng học
văn. Những thói quen đó là:
- Học văn phải biết đặc điểm mơn văn và cách học có hiệu quả: rèn luyện
từng khâu, từng thao tác nhỏ. Cần uốn nắn học sinh cách viết đúng chính tả,
đúng ngữ pháp, nói đúng chính âm, học thuộc thơ, văn.
- Rèn luyện thói quen làm văn phải theo đúng quy trình, các bước có tính
chất ngun tắc một cách khoa học: Trước khi lên lớp phải soạn bài; khi nghe
giảng phải biết phân tích lời giảng, chọn ý ghi chép. Về nhà phải biết tự bổ sung,
chỉnh lý kiến thức cho đầy đủ chính xác.
* Biện pháp rèn luyện kĩ năng.
- Ra bài tập về nhà, củng cố hệ thống kiến thức mới là cũ. Sau mỗi bài
giảng giáo viên nên đưa ra ngay những đề bài đơn giản mà học sinh có thể dựa
vào kiến thức vừa học để làm bài.
- Rèn luyện kỹ năng nói, dung từ, diễn đạt trong giờ kiểm tra miệng đầu
giờ.
- Chỉ ra lỗi về câu, lỗi đúng từ, lỗi chính tả, u cầu học sinh tự sửa các
lỗi đó trong bài văn viết. Hoặc ghép đôi, giao cho một học sinh kiến thức tương
đối vững có trách nhiệm thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra, uốn nắn cho một học
sinh yếu hơn về các lỗi trên để tạo thành thói quen khi viết cho các em.
- Rèn luyện kỹ năng lập luận ngay khi học sinh phát biểu, kiểm tra miệng.
- Yêu cầu học sinh có thói quen khi làm văn phải lập dàn ý.


- Quy định học thuộc bài thơ, câu thơ hay có sổ ghi chép. Yêu cầu nhớ chi
tiết, nhân vật cột truyện đối với tác phẩm văn xuôi, giáo viên có kiểm tra.

b. Rèn luyện kỹ năng viết:
Khi làm bài học sinh thường viết vội vàng, tùy tiện, viết theo cảm xúc hay
nghĩ được đến đâu viết đến đó hoặc ‘thấy” gì viết nấy (theo nghĩa đen của câu từ
trong văn bản viết không chú ý đến việc tác giả viết như thế để thể hiện điều
gì).
* Mục đích rèn luyện.
- Mục đích cuối cùng và cũng là hiệu quả cuối cùng của việc học văn là
học sinh phải viết được một bài văn tốt nhất theo yêu cầu của chương trình và
trình độ học sinh. Những kinh nghiệm sau đây có thể nhiều giáo viên đã thực
hiện, song cần hệ thống lại và thực hiện, song cần hệ thống lại và thực hiện
thường xuyên trong công việc giảng dạy của giáo viên dạy văn.
- Rèn luyện cho học sinh có nếp suy nghĩ khoa học khi viết văn. Bám sát
yêu cầu cụ thể của đề bài trả lời câu hỏi: Viết cái gì?, viết như thế nào? Dung
thao tác lập luận nào để trình bày?
* Biện pháp rèn luyện:
- Để khắc phục tình trạng trên cần chỉ đạo cho học sinh có thói quen làm
việc khoa học: chuẩn bị đầy đủ chu đáo trước khi viết, đọc lại và sửa chữa sau
khi viết.
+ Yêu cầu học sinh trước khi viết phải biết phân tích đề, và lập dàn ý (sơ
lược, hay chi tiết).
+ Với học sinh quá yếu về diễn đạt, mắc nhiều lỗi về viết câu, về dùng từ
hay chính tả, giáo viên cần lưu ý các em viết ngắn gọn, tập trung vào các nội
dung chính, hạn chế mở rộng, bình sâu về vấn đề rèn luyện cách diễn đạt, làm rõ
vấn đề nghị luận.


- Ra đề luyện tập ở nhà. Ra nhiều kiểu đề: đề có luận điểm rõ ràng, đề
khơng đưa ra luận điểm yêu cầu học sinh phải tự tìm ý để tập làm. Tùy tác phẩm
ra nhiều đề khác nhau để học sinh phân biệt chỗ giống và khác nhau một cách
tinh tế của đề. Ra đề với nhiều thao tác lập luận khác nhau để rèn luyện cho học

sinh biết cách sử dụng thuần thục các thao tác và biết kết hợp các thao tác nhuần
nhuyễn hơn.
- Luyện cho học sinh cách tìm ý ở các giờ giảng văn, văn học sử, bằng
cách yêu cầu học sinh phân tích một nhận định cơ bản trong sách giáo khoa.
- Cho học sinh tập tìm luận điểm, luận cứ cách lập luận trong bài văn
hoàn chỉnh, tiêu biểu về văn nghị luận
- Giáo dục học sinh các thái độ viết văn nghiêm túc, tích cực, sáng tạo,
tránh thái độ qua loa, cẩu thả, đại khái hay cầu kì sáo rỗng.
7.3.2.5. Đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên.
a. Xây dựng hệ thống câu hỏi chú ý đến đối tượng học sinh yếu.
Khi tiếp xúc với một tác phẩm văn chương, điều đầu tiên giáo viên cần ở
học sinh là những cảm xúc, những rung động thật sự của các em trước thiên
nhiên, cuộc sống, con người. Song, những nhận thức cảm tính, những rung động
tự nhiên ẩy ở học sinh là rất tí do nhiều yếu tốt khách quan và chủ quan. Bản
thân năng lực cảm xúc nằm ở nhận thức. Phải hiểu thì rung cảm mới có cơ sở.
Song với đối tượng học sinh yếu, việc hiểu bài là rất khó khan. Bên cạnh nội
dung câu hỏi vừa sức, bám sát kiến thức trọng tâm, cũng phải chú ý đến kĩ năng
đặt câu hỏi: Lời văn ngắn gọn, dễ hiểu; tối kị đặt những câu hỏi dài, rườm ra gây
khó hiểu. Từ thực tế giảng dạy, tơi nhận ra rằng cũng nên đặt nhiều câu hỏi phát
hiện, tái hiện, khái quát cho đối tượng này hơn là các câu hỏi suy luận, vận dụng
để các em nắm bài tốt hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Nguyễn Du và Truyện Kiều”, Phần I – Tác giả:
Những câu hỏi tái hiện vừa sức với đối tượng học sinh này như:


+ Nguyễn Du được sinh ra trong một gia đình như thế nào?
+ Nguyễn Du sống dưới những triều đại nào?
+ Những sự kiện nào trong cuộc đời ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và sự
nghiệp văn thơ của ông?
+ Kể tên những tác phẩm chính?

+ Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du? Cũng
nội dung trên, song với đối tượng học sinh yếu, tôi sử dụng chủ yếu câu hỏi tái
hiện thì với đối tượng học sinh từ trung bình trở lên, bên cạnh câu hỏi tái hiện,
tôi đặt nhiều câu hỏi khái quát, suy luận, vận dụng:
+ Bản thân em đánh giá như thế nào về Nguyễn Du?
+ Những yếu tố nào góp phần tạo nên những thành công lớn ấy?
Chứng minh Nguyễn Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, nhà thơ kiệt
xuất?
b. Tăng cường hoạt động của học sinh yếu qua hoạt động nhóm.
* Ý nghĩa của phương pháp thảo luận nhóm.
Trong những năm gần đây, có nhiều phương pháp được giới thiệu và bồi
dưỡng cho giáo viên, đáng chú ý hơn cả là phương pháp Thảo luận nhóm trong
lớp học. Theo ý kiến của nhiều nhà sư phạm, nhà nghiên cứu giáo dục, cần phải
khắc phục ngay lối học thụ động đã được hình thành trong nhà trường nhiều
năm qua bằng cách khuyến khích học sinh thảo luận nhóm ngay trong lớp dưới
sự hướng dẫn của thầy cô giáo bộ mơn.
Phương pháp thảo luận nhóm trong học tập là phương pháp học sinh
khơng cịn làm việc cá nhân mà là làm việc chung với nhau bằng những nhóm
nhỏ, thảo luận chung trong nhóm về những vấn đề do giáo viên đề ra nhằm mục
đích tìm hiểu những nội dung và tự giải đáp trước khi vấn đề đó được giải quyết
với sự giám sát, điều chỉnh chung của lớp học và của giáo viên. Nhưng việc thảo


luận nhóm trong lớp sẽ được tổ chức như thế nào cho hiệu quả? Mục tiêu của nó
là gì? Qua thực tế giảng dạy và dự giờ của đồng nghiệp (kể cả những môn học
khác) tôi nhận thấy rằng, với những câu hỏi thảo luận nhóm, giáo viên chia lớp
thành các nhóm, học sinh thảo luận và cử đại diện trả lời. Chính vì thế, đây là
việc làm của học sinh từ học lực trung bình trở lên. Học sinh yếu không tham
gia được ý kiến nào (thời gian quy định) lại càng khơng thể làm đại diện nhóm
trả lời. Mặt khác, khơng phải hễ cứ chia nhóm là tất cả mọi thành viên đều tích

cực mà cịn xuất hiện tâm lý ỷ lại vào nhóm trưởng (vì nhóm trưởng thường là
học khá hoặc tích cực hơn). Như vậy, một số học sinh khác sẽ biến thành thụ
động. Nhóm càng đông, càng nhiều em thụ động.
* Biện pháp phát huy học sinh tham gia hoạt động nhóm:
Thứ nhất, tích cực giám sát khi nhóm thảo luận. Giáo viên đi quanh các
nhóm và lắng nghe ý kiến học sinh. Quan sát để xem có học sinh nào “đứng bên
lề” hoạt động khơng? Nếu có, giáo viên tìm cách đưa các em vào khơng khí
chung của nhóm.
-Thứ hai, khơng nên bao giờ cũng để học sinh tự cử đại diện nhóm trả lời
mà giáo viên chỉ định 1 em bất kì của nhóm. Hoặc có một tình huống, tơi chỉ
định trước em A đại diện nhóm trả lời (A học yếu mơn Văn). Khi nghe nói:
Điểm của em A chính là điểm thảo luận của cả nhóm, nhiều em khác cùng tham
gia ý kiến, bổ sung, giảng giải để em A hiểu là mức tốt nhất có thể.
Trong tình huống khác, tơi cũng tìm cách tăng cường hoạt động của các
em trong thảo luận nhóm đơi bằng cách cho các em đổi chéo bài cho nhau và tự
chấm, hình thức này phù hợp với các bài tập trắc nghiệm hay kiểm tra kiến thức
văn học. Sau khi chấm, ghi kết quả vào bài (sổ câu đúng – sai). Với thao tác như
trên, giáo viên yêu cầu được tất cả các học sinh cùng tham gia tiết học, đặc biệt
là học yếu. Đồng thời, phát huy hiệu quả của thảo luận nhóm – thực chất là trợ
giúp, chia sẻ, chung sức, lắng nghe, thuyết phục.
c. Phân loại bài tập.


* Bài tập trên lớp.
Trong một tiết học, đến phần bài tập, giáo viên phân ra từng đối tượng học
sinh. Bài tập 1 cho nhóm học sinh yếu làm, bài 2 nhóm trung bình, bài 3 nhóm
khá giỏi, như vậy hy vọng mới khắc phục dần tình trạng học sinh yếu. Nếu giáo
viên cứ cho học sinh hoạt động bình thường như nhau thì học sinh yếu khơng
theo kịp thậm chí có khi khơng biết gì. Đồng thời, những lỗi thường gặp ở học
sinh yếu đều phải được chú trọng sửa chữa, uốn nắn qua các bài tập.

* Bài tập về nhà cũng tương tự như trên.
Ví dụ: Sau khi học xong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” (Trích Truyện
Kiều – Nguyễn Du) tôi giao bài tập cho học sinh ở các mức độ khác nhau như
sau:
- Nhóm 1 (yếu): Thống kê các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong
đoạn trích? Mỗi biện pháp nghệ thuật nêu 1 ví dụ minh hoạ.
- Nhóm 2 (trung bình): Những phẩm chất, tài năng của Thúy Kiều, ý
nghĩa các biện pháp nghệ thuật của Kiều trong đoạn trích?
- Nhóm 3 (khá, giỏi): Tài năng của Nguyễn Du trong miêu tả nhân vật?
d. Theo dõi sự tiến bộ của học sinh.
Qua các bài kiểm tra thường xun, kiểm tra định kì, tơi cũng lưu ý mức
độ tiến bộ của các em, đánh dấu vào bảng theo dõi ở trên. Nhận xét những em có
tiến bộ để động viên em cố gắng hơn. Chẳng hạn, những em diễn đạt lủng củng
được lưu ý nên viết những câu gọn, ít thành phần qua bài viết này có tiến bộ gì
khơng? Thực tế, nhờ vào bảng ghi chú cá nhân như đã nới ở trên, trong giờ học,
trong bất kì tình huống nào tơi cũng có thể nhận xét các em ở mặt này hay mặt
khác đã tiến bộ hay chưa.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:


Đối với giáo viên:
Giáo viên cần nghiên cứu kỹ về hoàn cảnh lịch sử, xuất xứ, thể loại, chủ
đề, nội dung văn bản, tình huống…. nắm chắc nội dung và hiểu thấu đáo những
điều mình sẽ dạy.
Liên hệ với thực tế, gắn với những trài nghiệm của học sinh trong cuộc
sống, với những điều học sinh được học. Vận dụng sáng tạo các phương pháp
dạy học mới, chuẩn bị hệ thống câu hỏi và bài tập đa dạng, phong phú và hấp
dẫn tăng cường những câu hỏi và bài tập có tính sáng tạo, câu hỏi nêu vấn đề,
nghiên cứu, sáng tạo và chuẩn bị những nội dung mở rộng phù hợp với nội dung

bài học. Bên cạnh đó, giáo viên cần:
Lập danh sách, tìm hiểu nguyên nhân học sinh yếu kém.
Bước đầu tiên, giáo viên nghiên cứu văn bản bàn giao chuyên môn giữa
giáo viên năm học cũ và năm học mới sau khi nhận lớp hoặc qua bài khảo sát
chất lượng đầu năm và bài viết số 1, tiến hành lập danh sách học sinh yếu ở các
lớp và tìm ra những nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu như sau: Lười học bài
(nhất là những dẫn chứng) chăm học bài nhưng mau quên; yếu kỹ năng đọc –
hiểu văn bản; viết đoạn văn chữa rõ nghĩa; đọc không kỹ đề, dẫn đến viết bài
văn lạc đề; chữ viết cẩu thả, khó đọc.
Xây dựng kế hoạch học tập phụ đạo phù hợp.
Sau khi tìm hiểu được nguyên nhân học sinh yếu kém của lớp, căn cứ vào
định hướng phụ đạo của tổ, vào cấu trúc đề kiểm tra, thi học kì của Sở GD&ĐT
và Phịng GD và đào tạo, cấu trúc đề thi THPT, thời khóa biểu của lớp… giáo
viên tiến hành xây dựng kế hoạch phụ đạo theo chủ đề.
Kế hoạch dạy phụ đạo giúp học sinh yếu được lãnh đạo chun mơn kí
duyệt và sẽ thực hiện xuyên suốt hết học kì.
Tổ chức các tiết dạy chính khóa, phụ đạo có hiệu quả.


Qua thực tế giảng dạy, để đạt kết quả giáo viên cần quản lí học sinh chặt
chẽ, thay đổi phương pháp để tạo sự hấp dẫn…
Ví dụ: Khi phụ đạo với chủ đề: Đọc – hiểu văn bản
Bước 1: Ôn lý thuyết về các phương thức biểu đạt tự sự, biểu cảm, miêu
tả, nghị luận, thuyết minh
Bước 2: Thực hành, học sinh làm việc cá nhân.
Bước 3: Giáo viên chỉnh sửa, rút kinh nghiệm.
Tạo tâm lí thoải mái cho học sinh khi tham gia môn học.
Học sinh yếu kém thường tiếp thu kiến thức rất chậm hay tự ti mặc cảm
lại chịu áp lực từ phía gia đình và giáo viên nếu người giáo viên khéo léo, không
gần gũi thân thiện, động viên an ủi học sinh thì tiết dạy phụ đạo sẽ không thành

công. Tiết dạy phụ đạo nhất là tiết truy bài lý thuyết, khi củng cố kiến thức xong
giáo viên có thể cho học sinh chọn bạn cùng ơn lại kiến thức khơng khí thoải
mái để học bài thay vì phải ngồi học chỗ được phân cơng.
Phối hợp với phụ huynh học sinh, giáo viên chủ nhiệm, Đội thiếu niên.
Thông báo lịch học phụ đạo, kết quả học tập (điểm kiểm tra, điểm thi, tình
hình tiến bộ) của mỗi học sinh.
Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm xử lí những học sinh có biểu hiện lơ là
hay không tham gia học phụ đạo.
Quan tâm chặt chẽ đến việc học bài ở nhà của học sinh bằng cách xin số
điện thoại của từng phụ huynh học sinh để khi cần thiết điện thoại hỏi thăm tình
hình học tập ở nhà của các em. Qua đó, động vien nhắc nhở các em cố gằng.
Phối hợp với Đội thiếu niên để khen thường những học sinh yếu kém có
nhiều tiến bộ vượt bậc trong học tập.
Đối với học sinh


Ln trau dồi, học hỏi thêm những điều mà mình chưa biết, chú ý tập
trung và thực hiện theo sự hướng dẫn của thầy cơ một cách tích cực, hăng hái
phát biểu ý kiến xây dựng bài và đề xuất ý kiến của mình.
Ngồi việc học trên lớp, các em cần rèn luyện tính tự giác tự học thêm ở
nhà, tìm thêm nhiều tài liệu để tham khảo. Bên cạnh đó, các em cần phải tích
cực giao lưu, học hỏi thêm ở ngồi xã hội, đem kiến thức có được áp dụng vào
cuộc sống, tập tính năng động, sáng tạo, rèn luyện mình trở thành người có ích
cho xã hội.
Đối với ngành giáo dục.
Nên tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên đề, chuyên môn cấp trường, cấp
huyện để giáo viên giao lưu, học hỏi kinh nghiệm.
Trang bị thêm các phương tiện dạy học theo hướng đổi mới.
Tổ chức các giờ học ngoại khóa về văn học: đóng kịch, thi đọc diễn cảm,
thi tìm hiểu các tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thơng.

10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến :
Sau q trình nghiên cứu, tơi đã vận dụng lựa chọn và áp dụng linh hoạt
một số biện pháp trên, tơi nhận thấy trong giờ học thầy và trị cùng làm việc tích
cực, học sinh hứng thú hơn trong giờ học. Kết quả khảo sát sau khi áp dụng cho
học sinh các lớp tôi nhận thấy một số em học yếu cũng phần nào cải thiện được
chất lượng học tập của mình. Điều đó được thể hiện qua sự tham gia của các em
vào các hoạt động học tập trong giờ học, qua kết quả của các bài kiểm tra.
Kết quả

Năm học
2017-2018

Giỏi

Khá

8A/35

5 14%

10 28%

8C/36

2 0,5%

10 27%

Trung


Yếu

Kém

19 33,3%

1 0,3%

0

21 28,3%

3 0,8%

0

bình


8D/37

0

8 21%

23 34%

5 13,5%


0

Yếu

Kém

Kết quả

Năm học

Trung

2018-2019

Giỏi

Khá

9A/35

9 25%

13 37%

13 37,%

0

0


9C/36

3 0,8%

16 43%

15 42,%

1 0,3%

0

9D/37

2 0,5%

12 32%

20 33,3%

3 0,8%

0

bình

Trên đây là những kinh nghiệm của cá nhân trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện. Với thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm chưa nhiều nên đề tài này
vẫn cịn thiếu sót, rất mong các anh (chị) đồng nghiệp góp ý bổ sung thêm đề tài
của tơi ngày càng hồn chỉnh hơn và có hiệu quả hơn trong phụ đạo học sinh

yếu. Làm thế nào để nâng cao đầu yếu? Đó là cả một vấn đề rất khó khăn cần
phải nghiên cứu, đây chỉ là một vài biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện.
Rất mong sự đóng góp, trao đổi ý kiến từ các đồng nghiệp.

11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc
áp dụng sáng kiến lần đầu.
Số
TT

Tên tổ chức/cá nhân

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến


×