Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số kinh nghiệm khi dạy phần văn học dân gian cụm văn bản truyện cổ tích (ngữ văn lớp 6)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.7 KB, 16 trang )

I. T VN :
1. Lớ do chn ti:
Môn Ngữ văn trớc hết là một môn học thuộc nhóm khoa häc
x· héi. Cho nên, mơn Ngữ văn góp phần gi¸o dục quan điểm t tởng,
tình cảm của học sinh.
Nu nh các mơn học khác có thể giúp các em tính toán bằng các con số,
hiểu về những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội…thì mơn Ngữ văn lại giúp
các em bồi dưỡng tâm hồn và nhân cách để trở thành những con người hoàn
thiện.
Tuy nhiên, trên thực tế trong các giờ học về phần văn học dân gian - Ngữ
văn 6 - đặc biệt là truyện cổ tích giáo viên còn lúng túng trong các khâu lên lớp
nên chất lượng giờ dạy thấp, học sinh không nắm được nội dung bài học, không
kể được truyện, không cảm thấy hứng thú khi học truyện cổ tích. Qua nhiều năm
dạy học, dự giờ đồng nghiệp và nghiên cứu tài liệu tôi mạnh dạn đưa ra: Một số
kinh nghiệm khi dạy phần văn học dân gian - Cụm văn bản: Truyện cổ tích (Ngữ
văn lớp 6).
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng để tôi nghiên cứu đề tài này là các em học sinh lớp 6 Trường
THCS Nguyễn Thiếp trong vòng 2 năm (năm học 2014 - 2015 và 2015 - 2016).
Với học sinh lớp 6, tôi tiến hành khảo sát cuối năm về phần truyện cổ tích: Kể
tên văn bản đã học, tóm tắt nội dung, ý nghĩa của truyện.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
Trong những năm gần đây chương trình THCS nói chung và bộ mơn Ngữ
văn nói riêng đã có nhiều thay đổi để phù hợp hơn với lứa tuổi và thời đại. Tuy
nhiên, hiện nay tâm lí của một bộ phận khơng nhỏ học sinh và phụ huynh khơng
cịn thiết tha với bộ mơn Ngữ văn nữa. Các em khơng cịn đam mê mơn Ngữ văn
vì phải đọc nhiều, viết nhiều. Vì vậy, ngay từ lớp 6 giáo viên phải làm thế nào để
tạo hứng thú học tập cho học sinh đó là một câu hỏi lớn. Đặc biệt, ngay từ lớp 6
các em đã được tiếp xúc với phần văn học dân gian, trong đó có truyện cổ tích.
Thơng qua mơn học, giáo viên phải biết cách bồi dưỡng cho các em tư tưởng,
tình cảm, biết yêu cái thiện, căm ghét, bài trừ cái ác.


4. Giải pháp nghiên cứu:
Từ thực tiễn dạy học các truyện cổ tích trong chương trình Ngữ văn 6 ở
trường THCS Nguyễn Thiếp và q trình cơng tác của bản thân tơi đã tìm hiểu,
điều tra, khảo sát để có được những kết quả bước đầu và từ đó mạnh dạn kiến
nghị những giải pháp để kết quả dạy học đạt hiệu quả cao hơn.
5. Tính mới của đề tài:
Thực tế, đề tài này khơng mới mẻ. Trong q trình giảng dạy, các buổi tập
huấn, chuyên đề, các cuộc họp tổ chuyên môn tôi và đồng nghiệp đã đề cập đến
một số khía cạnh của đề tài này. Nghiên cứu đề tài này, tôi chỉ là người làm công
việc xâu chuỗi các ý kiến của đồng nghiệp kết hợp với những kinh nghiệm trong
q trình cơng tác của bản thân mà thơi.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lí luận:
1

1


Qua mơn Ngữ văn học sinh dần dần hình thành hệ thống đạo đức cơ bản,
biết nhận ra tốt - xấu - đúng - sai. Đúng như M.L.Kalinine đã nói: “Văn học làm
cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được
con người nhiều hơn”. Đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh THCS, các em biết tơn
trọng, gìn giữ tình cảm gia đình, bạn bè, anh em….Hơn tất cả, mơn Ngữ văn sẽ
hình thành nên những con người văn hóa, biết sống có ích cho xã hội. Và học
sinh có thể sử dụng môn Ngữ văn như một công cụ để các em có thể sử dụng
giao tiếp hữa hiệu.
Chương trình Ngữ văn lớp 6 có 4 văn bản tự sự thuộc thể loại truyện cổ
tích đó là: “Thạch Sanh”, “Em bé thơng minh”, “Cây bút thần”, “Ông lão
đánh cá và con cá vàng”. Đối tượng của truyện cổ tích là truyện kể về một số
kiểu nhân vật như: nhân vật bất hạnh, người mồ cơi (Thạch Sanh), Người có tài

năng kì lạ (Cây bút thần), Người thông minh (Em bé thông minh). Các truyện có
yếu tố hoang đường thể hiện ước mơ của nhân dân về cái thiện chiến thắng cái
ác, cái tốt đối với cái xấu, sự công bằng đối với cái bất cơng. Truyện cổ tích từ
lâu đã là thanh nam châm thu hút sự say mê của mọi người đặc biệt là trẻ em. Từ
nhỏ các em đã được bà, mẹ… kể cho các em nghe những câu chuyện cổ tích.
Những hồng tử, cơng chúa từ lâu đã trở thành một phần khơng thể thiếu trong
đời sống tâm lí của các em. Và đặc biệt với lứa tuổi học sinh THCS, truyện cổ
tích có những “mãnh lực” hấp dẫn riêng với các em. Giống như nhà thơ Lâm
Thị Mỹ Dạ đã viết trong bài thơ: “Truyện cổ nước mình”:
Tơi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm…..
2. Cơ sở lí luận:
Phần văn học dân gian là một bộ phận quan trọng của nền văn học, nó là
nền tảng để hình thành nên nền văn học viết sau này. Vì vậy, người giáo viên
phải làm sao cho các em hứng thú đối với mỗi tiết học. Tuy nhiên, trong q
trình giảng dạy tơi nhận thấy rằng: Đối với các em lớp 6 sau khi học xong, các
em không thể kể lại đầy đủ một câu chuyện. Đặc biệt, có em cịn khơng thể nhớ
đã được học những câu truyện cổ tích nào… Qua thực trạng trên, tôi nhận thấy
khả năng tiếp thu của các em trong giờ dạy thấp, dẫn đến chất lượng không cao,
số học sinh khá, giỏi ít…Tơi đã tiến hành khảo sát cuối năm học: 2014 - 2015 và
kết quả khảo sát của tơi như sau:
Lớp

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
số

Số
Phần
Số
Phần
Số
Phần
Số
Phần
lượng trăm lượng trăm lượng trăm lượng trăm
(%)
(%)
(%)
(%)
6A
34
12
35,29
8
23,52
13
38,23
1
2,96
6B
34
3
8,82
8
23,52
22

64,70
1
2,96
6C
34
2
5,88
7
20,58
23
67,64
2
5,9
Những con số trên là một thực trạng đáng buồn và qua nghiên cứu tơi đã
tìm ra một số nguyên nhân sau:
2

2


- Gia đình và chính bản thân các em khơng coi trọng mơn Ngữ văn, nên
trong q trình học tập các em có phần nào sao nhãng mơn học này. Phụ huynh
ngay từ đầu đã hướng con em mình học khối A, khố B nên mơn Ngữ văn có
phần bị coi nhẹ.
- Truyện cổ tích khơng cịn là món ăn tinh thần hấp dẫn các em nữa, bên
cạnh đó các em thấy hấp dẫn bởi các loại truyện tranh: Conan, Hecman,
Đôrêmon… những truyện mà các em không phải đọc nhiều lại có hình ảnh minh
họa rất đẹp mắt…
- Các em khơng cịn được nghe kể nhiều truyện cổ tích nữa do chủ yếu các
em sống trong gia đình chỉ có 2 thế hệ, bố mẹ thường xuyên đi làm nên khơng

có thời gian kể cho các em nghe truyện cổ tích. Vì vậy, sự say mê của các em
đối với thể loại này cũng bị giảm sút.
- Nhiều tệ nạn xã hội lôi cuốn các em như: bài bạc, rượu chè, game….
- Do một số giáo viên lên lớp chuẩn bị bài dạy chưa thật kĩ càng, chưa đào
sâu suy nghĩ tìm ra những hướng giảng dạy mới, phù hợp. Ngơn ngữ của giáo
viên chưa trau chuốt, khơng có sức lôi cuốn học sinh vào những giờ dạy. Và
đặc biệt giờ dạy cịn thiếu sinh động, giáo viên nói q nhiều, không định
hướng cho học sinh những kiến thức cơ bản, khiến cho học sinh thấy giờ học
lan man, nặng nề. Các em chưa thấy hứng thú với các tiết học về truyện cổ tích.
Câu hỏi của giáo viên có thể quá khó với các em hoặc cũng có thể học sinh
không xác định được vấn đề trọng tâm của bài học…
Từ chất lượng học sinh khi học về truyện cổ tích và nhớ truyện cổ tích cịn
thấp tơi đã mạnh dạn đưa vào bài giảng một số hình thức mới, phù hợp với lứa
tuổi các em học sinh lớp 6 để đạt được hiệu quả bài dạy cao hơn.
3. Giải pháp thực hiện:
a. Giáo viên phải chuẩn bị kĩ những cơng việc cho một tiết dạy truyện cổ
tích:
Giáo viên phải là người cung cấp tri thức đến cho các em một cách nhẹ
nhàng mà hiệu quả. Để làm được điều đó giáo viên phải chuẩn bị kĩ những cơng
việc sau:
- Lên kế hoạch chuẩn bị kỹ bài giảng, những vấn đề xung quanh câu truyện
cổ tích.
- Nghiên cứu kỹ câu chuyện, nắm chắc nội dung và hiểu thấu đáo những
điều mình sẽ dạy. Nghiên cứu kĩ phần mục tiêu bài dạy.
- Vận dụng và sáng tạo ra các phương pháp dạy học mới, chuẩn bị hệ thống
câu hỏi và bài tập đa dạng, phong phú và hấp dẫn, tăng cường những câu hỏi và
bài tập có tính sáng tạo, câu hỏi nêu vấn đề.
- Nghiên cứu, sáng tạo và chuẩn bị một số dụng cụ trực quan, sơ đồ, tranh
ảnh phù hợp với nội dung bài học.
b. Tạo tâm lí thoải mái cho các em học sinh trong tiết dạy phần truyện cổ

tích:
Dù giáo viên có chuẩn bị kĩ càng nhưng khơng tạo được tâm lí thoải mái
cho các em thì tiết dạy cũng khó thành cơng. Tâm lí nhẹ nhàng giúp các em xây
dựng bài hiệu quả, có sự hứng thú khi tiếp thu bài học. Trong quá trình giảng
3

3


dạy giáo viên có thể sử dụng những câu hỏi gợi mở, hay ngay từ đầu bài giảng
giáo viên có thể sử dụng những cách giới thiệu khác nhau để học sinh có sự
hứng thú hơn:
Ví dụ: Khi giới thiệu về truyện Thạch Sanh giáo viên có thể so sánh: “Nếu
truyền thuyết kể về những nhân vật lịch sử thời q khứ thì truyện cổ tích lại kể
về những nhân vật bất hạnh, thơng minh, người có tài năng kì lạ… Hơm nay,
chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về nhân vật người dũng sĩ trong truyện cổ tích Thạch
Sanh”.
Hoặc giáo viên cũng có thể khơi gợi sự hứng thú của các em khi giới thiệu
về truyện “Em bé thông minh”: Các em ạ! Có một em bé bằng lứa tuổi các em
thôi những đã được phong làm trạng nguyên và được nhà vua mời vào cung để
tiện việc hỏi han. Các em có muốn biết vì sao em bé đó lại may mắn như vậy
khơng? Chính là nhờ vào trí thông minh hơn người của em. Hôm nay chúng ta
sẽ tìm hiểu truyện cổ tích “Em bé thơng minh” nhé…
Khi giáo viên tạo được sự hứng khởi ngay đầu tiết học thì sẽ làm cho các
em tập trung chú ý hơn. Và sau đó giáo viên phải có những câu hỏi gợi mở để
các em có thể phát biểu xây dựng bài.
Ví dụ: Khi dạy văn bản : Em bé thơng minh - Giáo viên có thể đặt ra
những câu hỏi như sau:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh

? Em hãy chỉ ra chuổi các sự việc giải Sự việc 1: Em bé giải câu đố của viên
đố của em bé ?
quan.
Sự việc 2: Em bé giải câu đố thứ 1
của nhà vua.
Sự việc 3: Em bé giải câu đố thứ 2
của nhà vua.
Sự việc 4: Em bé giải câu đố của sứ
giả nước láng giềng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo Lần 1: Ngầm so sánh với người cha.
luận nhóm: Trong các lần giải đố đó, Lần 2: Ngầm so sánh với dân làng.
trí thơng minh của em bé được ngầm Lần 3: Ngầm so sánh với người cha.
so sánh với ai.
Lần 4: Ngầm so sánh với tất cả quân
lại, những nhà thông thái của đất
? Em thích nhất lần giải đố nào của em nước.
bé? Vì sao ?
(Học sinh trả lời theo suy nghĩ)
Khi học sinh tự phát hiện hoặc làm việc theo nhóm có hiệu quả những câu
hỏi của giáo viên đặt ra thì các em sẽ có sự hứng thú và tập trung cao vào bài
giảng.
Ngoài các câu hỏi hay, giáo viên cũng cần đưa ra các bảng đối chiếu, liệt kê
nhằm mục đích làm cho các em nắm vững nội dung dễ dàng hơn, ghi nhớ lâu
hơn, hứng thú hơn. Ngoài ra, bảng đối chiếu, liệt kê còn tạo cho các em học sinh
tư duy logic khi học bài.
Ví dụ1: Ở truyện cổ tích “Cây bút thần”, khi hướng dẫn tìm hiểu nhân vật
nhà vua và Mã Lương trừng trị nhà vua, giáo viên có thể lập bảng liệt kê sau:
4

4



Lần

Nhà vua

Mã Lương

Lần 1

Lần 2

Lần 3
Sau đó giáo viên chia lớp làm 3 nhóm và lên điền vào bảng liệt kê:
Lần
Lần 1

Lần 2

Nhà vua

Mã Lương

Rồng

Cóc ghẻ

Phượng

Gà trụi lơng


Núi vàng  Đá
thỏi vàng  Mãng xà

Lần 3

Biển

Biển  Gió mạnh, biển động



Cá lội

Thuyền

Thuyền  Lắc, chìm

Ví dụ 2: Ở truyện cổ tích “Thạch Sanh” có 2 tuyến nhân vật ln đối
kháng nhau về tính cách và hành động, tơi sẽ cho học sinh phát hiện chi tiết và
lập ra bảng đối chiếu như sau để giúp các em nắm được những ý chính của
truyện:
THẠCH SANH
Hành động

Tính cách

- Kết nghĩa anh em.
- Thật thà, chất phát.
- Giết chằn tinh.

- Tin người.
- Diệt đại bàng.
- Trọng nhân nghĩa.
 Cứu công chúa.
- Dũng cảm, tài
năng.
Kết quả:
- Thưởng đàn thần, niêu cơm thần.
- Lấy công chúa và lên làm vua.
Ý nghĩa:
“Ở hiền gặp lành”

LÍ THƠNG
Hành động
- Lợi dụng.
- Lừa gạt, ám hại.
- Tiểu nhân.

Tính cách
- Bội nghĩa.
- Tàn ác, cướp công.
- Nham hiểm.

Kết quả:
Bị sét đánh chết  biến thành bọ hung.
Ý nghĩa:
“Gieo gió gặp bão”

5


5


c. Giáo viên cần phải hệ thống nội dung bài học bằng các sơ đồ hóa:
Sơ đồ hóa có thể áp dụng vào phần tổng kết tiết học. Đây là một phần rất
quan trọng sau khi học sinh tìm hiểu toàn bộ nội dung câu chuyện. Tuy nhiên, ở
trên lớp phần này thường tạo nên sự nhàm chán đối với học sinh. Vì vậy, giáo
viên cần phải sử dụng các sơ đồ vào phần tổng kết làm cho học sinh hứng thú
hơn.

Ví dụ 1: Ở truyện cổ tích “Em bé thông minh”, từ nội dung bài học tôi đã khái
quát thành sơ đồ sau:

6

6


EM BÉ

GIẢI ĐỐ

Lần 1

Lần 2

Viên quan

Vua


Lần 3

Vua

Đố lại

Lần 4

Sứ giả

Sử dụng trí khơn dân gian

Đề cao trí khơn của con người và của dân gian

Ví dụ 2: Ở truyện cổ tích “Cây bút thần” (truyện cổ tích Trung Quốc), từ
nội dung bài học tôi đã khái quát thành sơ đồ sau:

7

7


Mã Lương và cây bút thần

Vẽ

Người nghèo

Địa chủ


Cày, cuốc, đèn, thùng

Cung tên

Của cải vật chất, thóc gạo

Đời sống no ấm

Thiện Thưởng

Bắn tên địa chủ

Nhà vua

Cóc, gà, thuyền, gió, biển

Chơn vùi vua dưới sóng biển

Chết

Ác Phạt

Quan niệm của nhân dân về cơng lí xã hội

d. Ngồi ra, giáo viên cịn nên sử dụng tranh ảnh của phần văn học dân
gian để giúp học sinh có thể hứng thú hơn đối với bài học:
Ngồi những hình thức trên, tơi cịn sử dụng một số tranh ảnh minh hoạ.
Ngoài một số tranh ảnh mượn ở thư viện tơi cho các em tìm hoặc vẽ thêm một
8
8



số tranh ảnh khác hoặc khai thác hình ảnh trên mạng internet để minh hoạ cho
các bài học. Đa số giáo viên khi có tranh ảnh rồi giáo viên treo lên bảng và mơ
tả cho học sinh hình dung ra được một số chi tiết trong truyện. Riêng tôi, tôi sẽ
cho các em tự mơ tả hình ảnh để phát hiện chi tiết. Qua đó có thể phát huy được
tính tích cực và khắc sâu kiến thức cho học sinh.
Cụ thể, tra cứu trên mạng intenet tơi đã tìm được rất nhiều tranh ảnh về
các truyện cổ tích trong chương trình Ngữ văn 6 như sau:
a. Truyện cổ tích: Thạch Sanh
Hình ảnh: Thạch Sanh đang đánh nhau với chằn tinh.

Hình ảnh: Thạch Sanh đang đánh nhau với chằn tinh.

9

9


Hình ảnh: Thạch Sanh diệt đại bàng cứu cơng chúa.

Hình ảnh: Thạch Sanh được cưới công chúa và lên làm vua.

10

10


Hình ảnh: Hai mẹ con Lí Thơng bị sét đánh chết.
b. Truyện cổ tích : Em bé thơng minh


Hình ảnh: Ba con trâu đực và ba thúng gạo nếp vua ban để thử tài
em bé thông minh

11

11


Hình ảnh: Em bé thơng minh giải câu đố của nhà vua.
c. Truyện cổ tích: Ơng lão đánh cá và con cá vàng:

Hình ảnh: Ơng lão thả cá vàng xuống biển.
c. Truyện cổ tích: Cây bút thần:
12

12


Hình ảnh: Mã Lương vẽ cày, cuốc cho dân nghèo.

Hình ảnh: Mã Lương tiêu diệt tên vua.
e. Giáo viên sử dụng giáo án điện tử:
Các hình thức học tập trên sẽ hiệu quả hơn khi được thực hiện trong giờ dạy
với giáo án điện tử. Tuy rằng mất nhiều thời gian để soạn bài giảng tuy nhiên
13

13



các hình ảnh, nhiều bài tập và câu hỏi ở các dạng khác nhau đều được sử dụng.
Thực hiện phương tiện này thì tất cả các đồ dùng dạy học như: sơ đồ, lược đồ,
tranh ảnh…đều có thể đưa lên máy. Như vậy, học sinh sẽ rất hứng thú và say mê
học truyện dân gian, đặc biệt là truyện cổ tích, tiết học sẽ trở nên sinh động và
hiệu quả hơn.
Ngồi các phương tiện trên tơi cịn cho học sinh sưu tầm và tìm thêm một số
bài văn, bài thơ, mẩu chuyện, bộ phim, vở kịch, chèo… liên quan đến tác phẩm
đang học và kết quả rất khả quan.
Trên dây là một số phương tiện trực quan mà tôi đã và đang thực hiện. Tôi
nhận thấy qua việc sử dụng các phương tiện ấy, học sinh hứng thú và tích cực
hơn trong giờ học và đạt hiệu quả rất cao. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng
giáo viên phải thực hiện một cách khéo léo, sinh động và phải biết kết hợp
nhuần nhuyễn tất cả các phương pháp dạy học. Có như thế mới đạt hiệu quả cao.
g. Tiến hành những tiết học ngồi giờ lên lớp (Học ngoại khóa):
Ngồi những giờ dạy trên lớp, tơi cịn cho học sinh tiến hành những tiết
học ngoại khóa về những tác phẩm thuộc văn học dân gian nói chung và truyện
cổ tích nói riêng. Khi thực hiện các tiết học ngoại khóa tôi mong muốn các em
học sinh phát huy những nội dung các em đã tiếp thu được trong các tiết dạy.
Ngồi ra, các em có thể phát huy những khả năng khác của mình như: sáng tác,
trình diễn, hội thoại… Tôi đã cho học sinh thực hành bằng cách: học sinh có thể
đóng kịch một câu truyện mà các em u thích, sưu tầm và trình bày những câu
chuyện em biết trước lớp…Tiết học ngoại khóa có mời một số giáo viên dạy văn
trong nhà trường về tham dự và làm ban giám khảo, chấm điểm cho các em…
Tạo nên một khơng khí học truyện cổ tích rất sơi nổi.
Với những cách thức dạy học tôi đã áp dụng để tiến hành dạy phần văn học
dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng. Tơi đã thu được những kết quả
ban đầu khá tích cực như sau:
Kết quả khảo sát học sinh về phần truyện cổ tích năm học 2015 - 2016
Lớp Sĩ số
Giỏi

Khá
Trung bình
Yếu, kém
Số
Phần
Số
Phần
Số
Phần
Số
Phần
lượng trăm lượng trăm lượng trăm lượng trăm
(%)
(%)
(%)
(%)
6A
34
20
58,82
12
35,29
2
5,89
0
0
6B
34
8
23,52

14
41,17
10
29,41
2
5,9
6C
34
6
17,64
12
35,29
11
32,35
5
14,72
Học sinh yêu mến các nhân vật, các câu chuyện cổ tích.
Các nhân vật, câu chuyện cổ tích đi vào suy nghĩ, tâm hồn các em một cách
hồn nhiên, Ví dụ: các em trêu chọc nhau, gán ghép nhau rằng người này là
Thạch Sanh, người kia là Lí Thơng, bạn học giỏi là “em bé thơng minh”, người
nhu nhược là ông lão,….
Học sinh đã nắm vững được nội dung các câu truyện cổ tích đã học, ngồi
ra các em cịn có ấn tượng sâu sắc với những nhân vật truyện cổ tích mà các em
yêu mến. Từ đó, các em nắm bài học rất kĩ, nhớ rất lâu.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
14

14



Với những kết quả tiến bộ của học sinh trong vịng 2 năm mà tơi đã đạt
được, từ việc đưa ra đề tài nghiên cứu này vào công tác giảng dạy, tuy khả quan
nhưng tơi nhận thấy bản thân mình cần phải cố gắng hơn nữa, không ngừng học
tập ở bạn bè, đồng nghiệp để kết quả giảng dạy Truyện cổ tích được tốt hơn.
Đồng thời phải ln tìm tịi, nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều phương pháp,
phương tiện dạy học để tạo sự say mê hứng thú của học sinh khi học truyện cổ
tích. Khi các em đã thấy u thích, gần gũi với mơn học thì việc tự giác học tập
là động lực rất lớn giúp cho người giáo viên trong công tác giảng dạy.
Đây chưa phải là một kinh nghiệm hồn tồn mới mẻ vì những kiến thức
tơi có được cũng chỉ là một giọt nước nhỏ bé trong đại dương kiến thức mênh
mông. Nhưng tôi hy vọng nó sẽ giúp ích cho các anh (chị) đồng nghiệp (nhất là
các giáo viên Ngữ văn) trong công tác giảng dạy của mình. Và tất nhiên đề tài
này vẫn cịn nhiều thiếu sót, rất mong các anh (chị) đồng nghiệp góp ý bổ sung
thêm để đề tài của tơi ngày càng hồn chỉnh hơn và có tác dụng tích cực đối với
việc giảng dạy Truyện cổ tích.
1. Kết luận:
Phần dạy về truyện cổ tích trong chương trình lớp 6 tưởng dễ mà rất khó,
tưởng khó mà lại dễ dàng khi mà giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt các hình
thức dạy học khác nhau. Có như vậy tiết dạy mới phong phú và hấp dẫn hơn, các
em học sinh sẽ tiếp thu bài hứng thú và nhớ lâu hơn.
Các hình thức dạy học mà tơi đã tiến hành khi dạy truyện cổ tích đã có
những kết quả khá tích cực ban đầu: Học sinh yêu mến những câu truyện cổ tích
được học; hiểu nội dung và ý nghĩa của truyện, kể lại được truyện một cách trôi
chảy, yêu mến những nhân vật thơng minh, hiền lành, ngoan ngỗn…Các em đã
tự mình tìm đọc những câu truyện cổ tích khác hoặc yêu cầu gia đình mua cho
các truyện cổ tích khác nhau để đọc. Gia đình các em cũng có ý thức hơn trong
việc lựu chọn tủ sách cho các em…
Đó chính là những thành cơng bước đầu mà tơi đã đạt được khi thực hiện
một số hình thức khi dạy phần truyện cổ tích.
2. Kiến nghị:

Đối với học sinh: u mến những câu chuyện cổ tích nói chung và các
truyện cổ tích đã được học trong chương trình Ngữ văn lớp 6 nói riêng; tìm và
đọc thêm những câu chuyện cổ tích khác của Việt Nam và của nước ngồi; có
thái độ nghiêm túc, ham hiểu biết đối với truyện cổ tích; biết kết hợp giữa học
với hành; tích cực rèn luyện, trau dồi các phẩm chất đạo đức để trở thành những
cơng dân có đủ đức - trí - thể - mĩ trong tương lai.
Đối với các cấp quản lí giáo dục: khơng ngừng đầu tư về mọi mặt để nâng
cao chất lượng dạy học và giáo dục; mua sắm thêm tài liệu tham khảo về truyện
cổ tích cho giáo viên và học sinh; nâng cao hơn nữa hiệu quả các cuộc họp tổ
chuyên môn, hội thảo, chuyên đề, tập huấn về việc dạy học truyện cổ tích; triển
khai thêm các mơ hình để học sinh có thể học tập tốt hơn truyện cổ tích như: sân
khấu hóa, cho học sinh xem băng đĩa….
Tất cả những điều tơi trình bày ở đây đề nhằm một mục đích là nâng cao
chất lượng dạy học nói chung, chất lượng dạy học cụm văn bản truyện cổ tích
15

15


lớp 6 nói riêng. Những điều tơi trình bày chắc chắn khơng tránh khỏi những
thiếu sót, sơ suất, tơi mong muốn nhận được sự chia sẻ, góp ý của các em học
sinh, đồng nghiệp, các cấp quản lí giáo dục để q trình cơng tác của tơi trong
tương lai đạt kết quả cao hơn.

16

16




×