Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

cao cap chinh tri

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.24 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG Câu 1 : Phân tích, chứng minh tính đúng đắn cương lĩnh đầu tiên của Đảng A. Bối cảnh lịch sử : Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn xâm lược vũ trang, thực dân Pháp đã thi hành nhiều chính sách thống trị nô dịch và bóc lột nhân dân ta rất tàn bạo. Đất nước Việt Nam biến đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa, mất hẳn quyền độc lập, chủ quyền trở thành một dân tộc bị nô lệ, mất nước. Các giai cấp xã hội bị biến, xã hội Việt Nam hình thành 2 mâu thuẫn cơ bản là : mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và bọn tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống Pháp dưới nhiều ngọn cờ, tư tưởng khác nhau, hình thức và phương pháp đấu tranh khác nhau, nhưng các phong trào yêu nước này đều thất bại, chứng tỏ CMVN đang thực sự lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng. Từ đó nảy sinh yêu cầu khách quan là cần có một đường hướng cứu nước mới cho CMVN. Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm con đường cứu nước theo phương hướng mới. Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại, Người nghiên cứu nhiều loại hình chủ nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người đã hướng đến cách mạng tháng Mười và chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó, Người gia nhập Đảng cộng sản Pháp và trở thành người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và và dân tộc Việt Nam. Từ khi trở thành người cộng sản, Người thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, thông qua tổ chức này và các báo : Người cùng khổ, Nhân đạo, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh…truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin về Việt Nam và đã trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức Đảng cộng sản ở Việt Nam là : Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn. Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Được giao nhiệm vụ của Quốc tế cộng sản, đ/c Nguyễn Ái Quốc chịu trách nhiệm hợp nhất các phần tử chân chính lại để thành lập một Đảng duy nhất. Hội nghị hợp nhất được tiến hành từ 3/2 đến 7/2/1930 (hội nghị tháng Hai) tại Hương Cảng và thống nhất hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua 4 văn kiện do Nguyễn Ái Quốc dự thảo : Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt và lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Bốn văn kiện này được coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Tuy bị Hội nghị BCH.TW Đảng tháng 10/1930 phê phán Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của hội nghị tháng Hai có nhiều sai lầm, thậm chí còn cho rằng sai phạm chính trị rất nguy hiểm nên quyết định thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và điều lệ của Đảng; thay đổi bằng luận cương : Tư sản dân quyền cách mạng do Trần Phú soạn thảo và đổi tên Đảng là : Đảng cộng sản Đông Dương. Nhưng thực tiễn quá trình lãnh đạo CMVN đã chứng minh sự sáng tạo, tính đúng đắn của cương lĩnh đầu tiên về quan điểm, tư. tưởng, đường lối chiến lược và sách lược của Đảng, phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân. Tính đúng đắn của cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta được thể hiện ở nội dung cơ bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng như sau : B. Tính đúng đắn của cương lĩnh tháng Hai 1)- Đảng ta chủ trương thực hiện đường lối chiến lược cách mạng trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế, thành phần giai cấp, xã hội nước ta, Cương lĩnh viết :  Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Thực chất chủ trương cuộc cách mạng có 2 giai đoạn : đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai giành độc lập cho dân tộc là làm cho nước Việt Nam được độc lập, tự do; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, phong kiến để làm của công chia cho dân nghèo; chuẩn bị và lãnh đạo nông dân nghèo làm cách mạng ruộng đất, quốc hữu hóa toàn bộ xí nghiệp của bọn đế quốc; thiết lập chính phủ công, nông, binh và tổ chức quân đội công nông. Các nhiệm vụ trên bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến. Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành công CNXH, CNCS ở Việt Nam. Song, nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế, giữa hai giai đoạn cách mạng : Giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH không có bức tường ngăn cách (cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi), không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lần thứ hai để giải quyết vấn đề chính quyền như cách mạng Nga và Trung Quốc. Nhận thức của Đảng là do những yêu cầu khách quan của CMVN, với chính sách thống trị của thực dân Pháp biến Việt Nam từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nữa phong kiến với nhiều mâu thuẫn tồn tại là : mâu thuẫn giữa nhân dân Việt nam với đế quốc Pháp xâm lược về độc lập dân tộc; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà đa số là nông dân mâu thuẫn với chế độ phong kiến chung quanh vấn đề dân chủ mà chủ yếu ruộng đất và dân cày, dân cày hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ, bị trói chặt vào mảnh ruộng của giai cấp địa chủ với tô thuế nặng nề. Theo tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc thì nhiệm vụ cách mạng sẽ tiến hành đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn được độc lập, tổ chức ra quân đội công, nông, binh, thâu hết ruộng đất của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ. So với nhận thức của Nguyễn Ái Quốc đã nêu trong Cương lĩnh tháng 2/1930, Luận cương chánh trị của Đảng cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo là : chủ trương đánh đổ đế quốc và phong kiến phải thực hiện đồng thời và ngang nhau, không có nhiệm vụ nào hơn nhiệm vụ nào. Về vấn đề này, là do sự nhận thức và giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, lại mang khuynh hướng tả của quốc tế cộng sản trong bối cảnh thời gian lúc đó, cho nên BCHTW Đảng mà đứng đầu là Trần Phú đã không vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng, nên không nêu toát lên được vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Về cách mạng ruộng đất, Luận cương không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai. Luận cương đánh giá không đúng mức vai trò cách. mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của giai cấp tư sản dân tộc, cường điệu mặt tiêu cực của giai cấp này, không thấy được khả năng phân hóa và lôi kéo một bộ phận giai cấp địa chủ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. 2)- Đảng chủ trương đề cao nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu; nhiệm vụ chống phong kiến được thực hiện ở mức độ thấp hơn. Song, ở đây ngoài 2 mâu thuẫn giữa nông dân và chế độ phong kiến, nhân dân Việt Nam và đế quốc Pháp còn có mâu thuẫn giữa dân tộc Việt nam với liên minh đế quốc và bọn tay sai. Vì vậy, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi trong khi đồng thời chống đế quốc và phong kiến phải ưu tiên đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến), nhằm giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Vì có giành được độc lập, dân tộc mới có thể tiến hành cuộc cách mạng XHCN và đi lên CNXH. 3)- Về lực lượng cách mạng : Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước nhằm tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là CNĐQ Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Về lực lượng CM Đảng ta xác định : Mọi người Việt Nam đều là con Lạc, cháu Hồng. Ai cũng chịu cái khổ, cái nhục của họa mất nước. Vì vậy, việc cứu nước là việc của mọi người, không phụ thuộc vào địa vị xã hội, vào hoàn cảnh kinh tế, vào năng lực cá nhân. Trong đó xác định giai cấp công nông là động lực chính của CMVN. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ :công nông là gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ… chỉ là bầu bạn của cách mệnh công nông. Đảng phải thu phục cho được công nông và làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được đông đảo quần chúng; ngoài lực lượng công nông là chính, phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ về phía vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ. Trong khi liên lạc tạm thời với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của giai cấp công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp. Tư tưởng này của Nguyễn Ái Quốc khác với luận cương 10/30 là : Luận cương tư sản dân quyền cách mạng tháng 10/1930 chưa xác định đầy đủ tính chất giai cấp của xã hội đương thời, lực lượng cách mạng chỉ dựa vào công nông và thành phần lao khổ thành phố (như là bọn bán rao ngoài đường, bọn thủ công nghiệp nhỏ không mướn thợ, bọn trí thức thất nghiệp,…), phủ nhận và phủ định những mặt tích cực của các thành phần yêu nước khác (thành phần tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tư sản dân tộc…) và chủ trương không thành lập mặt trận, nên không lợi dụng và huy động được sức mạnh của cả dân tộc tham gia cách mạng. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng cho rằng tất cả những người yêu nước Việt Nam đều có khả năng trở thành cộng sản, và người cộng sản chân chính là người có tinh thần yêu nước triệt để. Chính sách Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, là nhân tố cơ bản và quyết định thắng lợi của CMVN. Chính sách Đại đoàn kết là truyền thống yêu nước của dân tộc ta đã thực hiện trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như : Hội nghị Diên Hồng, Hội nghị Bình Than thời nhà Trần đã tập hợp được lòng yêu nước của nhân dân đánh bại quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được mọi tầng lớp quần chúng nhân dân lao động đánh đuổi đế. quốc Pháp xâm lược với cách mạng 8/1945 thành công xây dựng nên Nước VNDCCH, chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm 1954, miền Bắc hoàn thành cuộc cách mạng DTDC tiến lên CNXH. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất nước nhà, hoàn thành CMDTDCND ở miền Nam, cả nước cùng tiến lên xây dựng CNXH. 4)- Xác định giai cấp lãnh đạo CMVN là giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiền phong của họ là Đảng cộng sản Việt Nam, và khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, cho nên Đảng có trách nhiệm thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày (lúc này Việt Nam trên 90% là nông dân) và phải dựa chắc vào dân cày nghèo, phải liên lạc với các giai cấp cách mạng và các tầng lớp yêu nước để đoàn kết họ lại. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. đảng viên phải : hăng hái tranh đấu cẩn thận và dám hi sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng. Từ thực tiễn các phong trào đấu tranh từ năm 1919-1925, đã có nhiều cuộc đấu tranh của phong trào công nhân như : 8/3/1920 226 thủy thủ ở Sài Gòn bãi công đòi phụ cấp đắt đỏ, 1924 thợ nhuộm Sài Gòn - Chợ Lớn bãi công, 27/2/1924 công nhân nhà máy dệt Nam Định bãi công… nhưng các cuộc bãi công này vẫn mang tính chất tự phát, chỉ đưa yêu sách kinh tế chứ chưa có tổ chức chỉ đạo chặt chẽ và chưa nêu được khẩu hiệu chính trị (chưa giác ngộ chính trị, chưa có ý thức tổ chức kỷ luật). Từ 1926, khi tổ chức VNTN phát triển mạnh ở trong và ngoài nước, thì giai cấp công nhân được nhận thức chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời khi có Đảng tiền phong của GCCN ra đời đã kết thúc giai đoạn đấu tranh tự phát, đạt đến trình độ đấu tranh tự giác ngày càng cao đưa cuộc đấu tranh dân tộc kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh giai cấp tiến lên giành thắng lợi. Chính vì vậy, GCCN Việt Nam đã đảm nhận được vai trò lịch sử, thông qua đội tiền phong của họ là Đảng CSVN (Đảng lấy chủ nghĩa Lênin làm kim chỉ nam, Đảng có vững cách mạng mới thành công) và trở thành giai cấp lãnh đạo CMVN. 5)- Đảng chủ trương giành chính quyền bằng phương pháp bạo lực cách mạng, thiết lập chính quyền mới của GCCN. Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định CMVN phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến làm cho nước nam hoàn toàn được độc lập, rồi dựng nên chính quyền công, nông, binh chứ không phải bằng con đường cải lương, thỏa hiệp. Kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười Nga, sau cách mạng DCTS tháng 2/1917, tồn tại song song hai chính quyền : Chính phủ tư sản lâm thời và chính quyền Xô viết, hai nền chuyên chính với hai bản chất giai cấp đối lập nhau không thể cùng tồn tại trong một nước. Lênin chủ trương thực hiện 2 phương án hòa bình & vũ trang. Phương án đấu tranh hòa bị thất bại, Đảng cộng sản Bônsêvích phải rút vào hoạt động bí mật và Đảng đã tổ chức lãnh đạo hoạt động cách mạng bằng phương pháp đấu tranh vũ trang và đã giành được thắng lợi. Vì vậy, Đảng ta đã rút ra kinh nghiệm là do bản chất của CNĐQ và giai cấp tư sản với hai bản chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là một cuộc chiến đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng đánh đổ bạo lực phản cách mạng mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh trong quá trình dựng nước và giữ nước; cách mạng tháng 8/1945 thành lập nước VN.DCCH, trận Điện Biên Phủ 1954 buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị ký kết hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, và 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất tổ quốc; Đảng ta đã dùng bạo lực cách mạng đánh đuổi lần lượt đế quốc Pháp, Nhật,. Mỹ và tay sai hoàn thành cuộc cách mạng DTDC nhân dân, cả nước cùng tiến lên xây dựng chế độ CNXH. 6)- Dùng chủ trương liên minh - đoàn kết với giai cấp vô sản bị áp bức của các dân tộc thuộc địa trên thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của Việt Nam trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh cho rằng : Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn sống của bọn tư bản mà còn là cái nền móng của CNĐQ. Do đó, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng vô sản mang tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này. Vì thế phải CMVN phải đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản quốc tế, nhất là giai cấp công nhân Pháp. Cách mạng giải phóng dân tộc không tách rời cách mạng vô sản nhưng chỉ có thể thực hiện bằng nỗ lực của bản thân các dân tộc thuộc địa; và Người cho rằng CMVN phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam mới mang đến thắng lợi hoàn toàn. Thực tế đã chứng minh rằng, phong trào vô sản thế giới đã giành được nhiều thắng lợi; sau chiến tranh thế giới II hệ thống XHCN hình thành, và thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong đó có sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các nước XHCN và phong trào liên minh đoàn kết với giai cấp vô sản bị áp bức của các dân tộc thuộc địa trên thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc. Ngoài ra, theo quan điểm Hội nghị tháng 10/1930 việc đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương là bao gồm được Cao Miên và Lào. Việt Nam, Cao Miên, Lào tuy tiếng nói, phong tục và nòi giống khác nhau nhưng về mặt chính trị và kinh tế thì phải liên hệ mật thiết với nhau; xứ Đông Dương là một xứ thuộc địa để khai khẩn của đế quốc chủ nghĩa Pháp. Bởi vậy kinh tế Đông Dương bị phụ thuộc vào kinh tế của đế quốc chủ nghĩa Pháp; xứ Đông Dương cần phải phát triển độc lập, nhưng vì là thuộc địa nên không phát triển độc lập được; các mâu thuẫn về giai cấp và kinh tế ở các nước Đông Dương đều giống nhau… việc đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam bỏ qua Ai Lao và Cao Miên là không đúng. Về việc đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương của Luận cương tháng 10/1930 nhìn ở một khía cạnh nào đó thì phản ánh đúng. Tuy nhiên, theo quan điểm của Nguyễn Ái Quốc, việc đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam là đúng hơn. Đó là do sự hiểu biết đúng đắn về tình hình, đặc điểm, tâm lí dân tộc của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên, Lào), việc đặt tên Đảng còn mang tính khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin. Những căn cứ đúng đắn để đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam được thể hiện ở các đặc điểm sau : . Theo LêNin, các dân tộc bị lệ thuộc sau khi độc lập được tách ra để xây dựng độc lập dân tộc và có quyền tự quyết. . Cách mạng ba nước Việt Nam, Cao Miên, Lào sông liền sông - núi liền núi, không nhất thiết phải thành lập Liên bang Đông Dương. . Xuất phát từ tư tưởng, tâm lí dân tộc đã hình thành và ăn sâu vào tư tưởng nhận thức của từng con người ở từng quốc gia về lãnh thổ và ranh giới. Khi đã giành được độc lập thì tùy theo yêu cầu cụ thể mà có thể liên hiệp thành Liên bang Đông Dương. Cương lĩnh chính trị của Đảng ta ra đời sau Nghị quyết đại hội quốc tế cộng sản lần thứ VI khoảng một năm rưỡi. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu nhiều tư tưởng đúng đắn, đồng thời đã không chịu ảnh. hưởng một số quan điểm tả của quốc tế cộng sản. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lenin, đường lối của quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng XHCN ở nước thuộc địa nửa phong kiến. Sở dĩ có những vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Ngyễn Ái Quốc soạn thảo và Chính cương 10/1930 là vì không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn các yếu tố dân tộc trong CMVN. Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn CMVN đã chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử CMVN. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sau đại hội VII quốc tế cộng sản, 7/1936, tại Hương Cảng, đ/c Lê Hồng Phong chủ trì hội nghị BCHTW đã vạch ra những chủ trương mới về CMVN. Đặc biệt là bắt đầu xem xét lại quan điểm chỉ đạo chiến lược của hội nghị 10/1930 và đưa ra những quan điểm mới đúng đắn, phù hợp với tư tưởng chiến lược của cương lĩnh 2/1930, và nó mở đường cho chiến lược của Đảng ta về sau này. Hội nghị BCHTW 5/1941 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo đã đi đến quyết định điều chỉnh lớn về chiến lược Cách mạng tư sản dân quyền mà nội dung là nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Đông Dương, xác định cách mạng Đông Dương trong giai đoạn đầu là cách mạng giải phóng dân tộc. Đây chính là sự kế tục và phát triển hoàn chỉnh hơn nữa tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã vạch ra trong cương lĩnh 2/1930, là một bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về lãnh đạo chính trị, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, có ý nghĩa quyết định thành công của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945… C. Tóm lại : Thắng lợi của CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN là bằng chứng không thể bác bỏ tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp bằng con đường đi lên CNXH. Đó là cương lĩnh đúng đắn của Đảng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước của CMVN, mở ra giai đoạn mới, giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc. Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để trên nền móng đó phát huy sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> 6-2. Câu 2 : Phân tích cao trào cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến giai đoạn 1930-1945 ? BÀI LÀM Trong thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, lực lượng chính của dân tộc là nông dân đã bị mòn mỏi sau các cuộc chiến tranh Nam Bắc Triều, rồi Trịnh Nguyễn phân tranh; triều đình nhà Nguyễn lại thối nát, đầu hàng, nên đế quốc Pháp đã đặt được ách thống trị lên đầu lên cổ nhân dân Việt Nam. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã nổ ra rất mãnh liệt, song đều thất bại vì không có đường lối đúng. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời năm 1930 đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam, mở đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Bắt đầu từ đó một đường lối, chiến lược cách mạng rõ ràng, đúng đắn được xác định và đưa hoạt động cách mạng của nhân dân VN đi đến thành công, đặc biệt là trong cao trào cách mạng chống đế quốc Pháp và phong kiến 19301945. Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương chính trị, Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn: trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam và đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Cương lĩnh chính trị (tháng 2/1930) và Luận cương chính trị (tháng 10/1930) đều khẳng định : dưới thời Pháp thuộc, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Cụ thể hơn, Đảng nhận định nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm hơn 90% số dân, chủ nghĩa đế quốc dựa vào chế độ phong kiến để bóc lột nhân dân, chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện vọng tha thiết và trực tiếp của nông dân là dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Từ đó chỉ ra con đường cách mạng VN là “tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới XH cộng sản”; bằng bạo lực cách mạng đánh đuổi đế quốc Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến VN, tiến đến cách mạng XHCN bỏ qua phát triển TBCN. Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến để có thể phát huy cao độ yếu tố dân tộc là vấn đề phức tạp, Đảng ta đã phải mất một thời gian tương đối dài mới đạt được sự nhất trí cao. Luận cương chính trị có hạn chế là chưa vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến; đặt nhiệm vụ chống phong kiến lên hàng đầu, chống đế quốc là hàng thứ yếu, cho việc phân loại địa chủ là một sai lầm. Ngược lại với chính cương vắn tắt cho rằng: Mâu thuẩn giữa dân tộc và đế quốc là mâu thuẩn cơ bản của xã hội nhưng đồng thời là mâu thuẩn chủ yếu của xã hội, thì phải giải quyết nó trước hết; từ đó Đảng phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc - giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ dân chủ; chống phong kiến được rải ra từng bước, chia ra 3 loại địa chủ: tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ để có sách lược phù hợp với từng đối tượng, nhằm lôi kéo tranh thủ tập hợp lực lượng CM. Hai nhiệm vụ chiến lược trên phải được tiến hành khǎng khít với. nhau, không được tách rời. Đó là tư tưởng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược, sách lược của Đảng ta. Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh dân tộc, dân chủ tạo nên cao trào CM 1930-1931, xây dựng lực lượng ctrị với nòng cốt là công – nông… với đỉnh cao là phong trào Xô viết - Nghệ tĩnh, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của CM VN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đem lại cho Đảng một số kinh nghiệm về xác định mục tiêu đấu tranh, lựa chọn phương pháp CM phù hợp với giai đoạn CM và về tập hợp lực lượng CM. Từ giữa năm 1935, Đảng tập trung củng cố và phát triển Đảng trong các xí nghiệp, hầm mỏ và nông thôn…; đẩy mạnh công tác vận động, thu phục quần chúng và mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh. Suốt giai đoạn thực hiện phong trào vận động dân chủ (1936 - 1939), vận dụng nghị quyết của quốc tế cộng sản vào đông dương, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến của CM VN là không hề thay đổi. Tháng 7/1936, CM VN chuyển hướng chỉ đạo chiến lược; đề ra nghị quyết đấu tranh chống phát xít và bọn phản động nội địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị, tôn giáo và dân tộc. Chuyển hướng hình thức tổ chức từ bí mật, bất hợp pháp là chủ yếu chuyển sang đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp là chủ yếu như: hội cày, hội cấy, hội đá banh…để đấu tranh. Cao trào CM dân chủ phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục bổ sung chủ trương và biện pháp để chỉ đạo phong trào, tháng 3-1938, TW họp quyết định tổ chức thực hiện Mặt trận thống nhất dân chủ và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Thời gian này, Đảng còn sử dụng báo chí công khai làm vũ khí đấu tranh CM; xuất bản nhiều sách giới thiệu về đấu tranh giai cấp, về CNXH, CNCS. Cao trào dân chủ 1936-1939 là thắng lợi to lớn, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào CM VN. Qua phong trào, Đảng và các lực lượng CM VN trưởng thành nhanh chóng. Cao trào 3639 là cuộc tổng diễn tập lần thứ 2 cho tổng khởi nghĩa sau này. Để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý giá về: xác định kẻ thù và mục tiêu đấu tranh trước mắt; tập hợp lực lượng rộng rãi trên cơ sở động viên sự tham gia của mọi tầng lớp XH; để lãnh đạo được mặt trận, Đảng phải vững mạnh về chính trị và tổ chức, phải xây dựng khối liên minh công – nông làm nòng cốt; phải biết sử dụng linh hoạt nhiều hình thức đấu tranh. Giai đoạn 1939 – 1945 trước những biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước, Đảng quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tiếp tục hoàn chỉnh mối quan hệ 2 nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến. Thể hiện qua Nghị quyết TW 6 (11/1939); NQ TW 7 (11/1940); NQ TW 8 (5/1941). Các nghị quyết đều khẳng định những nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến của CM nước ta là không thay đổi, nhưng mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu CM ruộng đất, thay vào đó là khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và tai sai chia cho dân cày. Lợi dụng Pháp thua Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật vào chiếm nước ta, buộc Pháp thỏa hiệp với Nhật cùng cai trị VN. Nhân dân ta chịu một cổ hai tròng. Xu hướng đấu tranh vũ trang phát triển mạnh trong nhân dân, mở đầu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, tiếp theo là khởi nghĩa Nam Kỳ (11/1940), khởi nghĩa Đô Lương. (1/1941) đã thức tỉnh nhân dân cả nước vùng lên tranh đấu. Hội nghị lần thứ tám BCH TW (5/1941), Đảng chủ trương thành lập Mặt trận VN độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, thành lập Chính phủ nhân dân của nước VN dân chủ cộng hòa. Trên cơ sở lực lượng chính trị được xây dựng, Đảng chỉ đạo tổ chức lực lượng vũ trang CM gồm Hội cứu quốc quân, Đội VN tuyên truyền giải phóng quân; thành lập các khu căn cứ địa CM; xác định khởi nghĩa từng phần tiến đến tổng khởi nghĩa, xác định kẽ thù của CM là Phát Xít Nhật và thực dân Pháp. Đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động trên mặt trận văn hóa tư tưởng, xây dựng Đảng…chờ đợi thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương; cũng đêm đó BTV TW Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) quyết định và Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; chỉ rõ phát xít Nhật giờ đây là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và nêu các khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “Thành lập chính quyền CM của nhân dân” để chống lại chính phủ bù nhìn tay sai của Nhật, phát động cao trào kháng Nhật, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Giữa tháng 8-1945, tình thế trực tiếp CM đã xuất hiện, khi chính phủ Nhật đầu hàng Liên Xô và quân đồng minh vô điều kiện, quân đội Nhật ở Đông Dương bị tê liệt hoàn toàn. Cơ hội ngàn năm cho dân tộc ta vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã tới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Và ngày 2/9/1945 tại Quảng Trường Ba Đình Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đọc bảng Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- mở đầu một kỷ nguyên mới kỷ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH cho dân tộc VN. Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân ta; là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu sự biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, từng cống hiến to lớn về lý luận và thực tiễn đối với CM thế giới, đặt biệt là CM giải phóng dân tộc. Nói lên sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và tinh thần quật khởi mạnh mẽ của toàn dân. Nhưng với dã tâm đế quốc, thực dân pháp đã không từ mọi thủ đoạn, đã quay lại tái xâm lược nước ta một lần nữa. Nhưng với bản lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền đã trãi qua thử thách trong thực tiễn đấu tranh trên mọi lĩnh vực để giải phóng dân tộc, một lần nữa Đảng ta lãnh đạo nhân dân đi vào đấu tranh ở giai đoạn mới với hình thức, tính chất và quy mô ác liệt hơn. Chủ tịch HCM ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Đảng ta khẳng định đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của ta là: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính; tuy lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Đại hội Đảng lần thứ II (2/1951), Đảng đổi tên là Đảng lao động Việt Nam (được tách ra từ ĐCS Đông Dương) và ra hoạt động công khai. Đảng đã xác định đối tượng của CM Việt Nam lúc là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp can thiệp Mỹ, phong kiến phản động làm tay sai cho đế quốc là đối tượng thứ 2 của CM. Vạch ra 3 nhiệm vụ cơ bản của CM Việt Nam là đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc; xóa bỏ di tích phong kiến, làm cho người cày có ruộng phát triển chế độ dân chủ nhân dân; xây dựng cơ sở vật chất CNXH. Nhiệm vụ chính vẫn là hoàn thành giải phóng dân tộc. Động lực của cuộc kháng chiến CM dân tộc dân chủ nhân dân là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản tri thức và tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những nhân sĩ yêu nước và tiến bộ. Người lãnh đạo CM. là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của giai cấp công nhân là Đảng Lao Động Việt Nam. Song, đồng thời Đảng chỉ đạo thực khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, tiến hành cải cách ruộng đất ở vùng tự do và phát động quần chúng triệt để giảm tô ở các vùng địch chiếm đóng. Các hội nghị TW 1 (tháng 3/1951), TW 2 (10/51), TW 3 (4/52), TW 4 (tháng 1/1953) và đặc biệt là hội nghị TW 5 (tháng 11/191953) đều trực tiếp chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ trên. Quá trình thực hiện CM ruộng đất diễn ra đồng thời với cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, quân dân ta đã đánh bại hoàn toàn mọi cố giắng quân sự của Pháp ở VN. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7/1954), hòa bình lập lại ở Miền Bắc. Phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về tính không tách rời của hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải thực hiện những yêu cầu dân chủ đối với nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và thay khái niệm "cách mạng tư sản dân quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân". Nhận thức của Đảng đã rõ ràng. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện, Đảng đã phạm sai lầm hữu khuynh, có lúc quá chú trọng tranh thủ tầng lớp trên, coi nhẹ phát triển lực lượng công nhân, và sai lầm tả khuynh trong cải cách ruộng đất. Từ những thành công cũng như sai lầm nghiêm trọng dù là tạm thời, Đảng đã rút ra bài học quan trọng về mối quan hệ giữa chiến lược và sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: "nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" và "người cày có ruộng", Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên được các tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyến cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa trên sự phân tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng lúc một. Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến". Như vậy về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn, diễn đạt rõ ràng hơn, có tính lý luận sâu sắc và bảo đảm cho Đảng tránh mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp của Mỹ đã kết thúc thắng lợi, đã đi vài lịch sử dân tộc như một chiến công hiển hách. Với thắng lợi của kháng chiến chống Pháp, nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ mà Đảng ta đã vạch ra trong cương lĩnh chính trị đầu tiên đã căn bản hoàn thành trên một nửa nước, mở đường cho miền Bắc bước lên thời kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng hậu phương vững mạnh để nhân dân tiếp tục đấu tranh hoàn thành CM dân tộc, đưa chủ trương cả nước, giải phóng miền nam, thực hiện thống nhất đất nước đi lên xây dựng CNXH, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân. hướng XHCN; các bài học rút ra từ công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay. BÀI LÀM Nắm vững ngọn cờ Ðộc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là bài học kinh nghiệm xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta từ khi có Ðảng, là nguồn gốc thắng lợi của Cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tổng kết kinh nghiệm thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công trong thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta và các nước khác, đặc biệt là những kinh nghiệm của những năm đổi mới, Ðảng ta đã nêu ra những phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở nước ta ngày càng rõ ràng hơn thông qua Nghị quyết qua các kỳ đại hội đặc biệt giai đọan từ năm 1986 đến nay. Trong chặng đường này, nhận thức của Đảng có thể khái quát hóa qua các giai đọan : Giai đọan 1975-1985 là một chặn đường đầy thử thách. Bên cạnh những thắng lợi giành được, chúng ta đã mắc một số khuyết điểm và sai lầm. Cách mạng nước ta có những nhân tố thuận lợi mới nhưng cũng đang đứng trước nhiều khó khó khăn gay gắt nhưng cốt lõi là mô hình kinh tế mới về cơ bản đã hình thành. Đại hội VI (12-1986) của Đảng, đây là đại hội đổi mới toàn diện, Đại hội dựa trên cơ sở phân tích sâu sắc cụ thể tình hình quốc tế và trong nước và tổng kết quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1975 đến 1985 bằng việc nhìn thẳng và nói đúng sự thật. Đảng ta đã rút ra bốn bài học lớn về lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa : Một là, trong tòan bộ họat động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN. ĐH VI đã xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặn đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế – xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN trong chặn đường tiếp theo. Khẳng định là ĐH đổi mới tòan diện, nhận thức mới của Đảng đã thể hiện xuyên suốt trong tòan bộ Nghị quyết. Đó là : Nguyên tắc tiến hành đổi mới là đổi mới toàn diện, sâu sắc bắt đầu từ đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy về kinh tế, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ. Tập trung phát triển kinh tế, cải cách chính trị thực hiện từng bước nhằm bảo đảm giữ vững trật tự an ninh, an toàn xã hội phục vụ phát triển kinh tế. Về kinh tế là: Sử dụng các thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng tồn đọng trong xã hội. Xây dựng kinh tế thị trường với cơ chế một giá. Tập trung đầu tư để thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Cải tạo quan hệ sản xuất phải được thực hiện thường xuyên và đảm bảo đúng quy luật. Về chính trị là cải cách dân chủ phải được thực hiện từng bước và phù hợp với trình độ dân trí dưới sự lãnh đạo của đảng đảm bảo giữ vững trật tự an toàn xã hội. Tiến hành cải cách hệ thống. 6-4 54. chính trị cả nước trên 3 lĩnh vực trọng tâm: đổi mới phương thức, phong cách lãnh đạo của đảng; cải cách hành chính công để giảm phiền hà đối với dân chúng; đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức dân cử để đảm bảo quyền lợi của người dân. Trên lĩnh vực ngoại giao chủ trương thực hiện chính sách mở cửa làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị. Tóm lại, tư tưởng chỉ đạo cốt lỏi của ĐH VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng hiệu quả sự giúp đở của quốc tế, phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và cũng cố quan hệ sản xuất XHCN. Trong tổ chức thực hiện Nghị quyết đại hội VI của Đảng. Đảng và Nhà nước vừa tập trung đề ra các chính sách mới, vừa giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách đặc biệt là Nghị quyết 10 năm 1988 của Bộ chính trị về hoàn thiện cơ chế khoán, trong đó lần đầu tiên hộ gia đình được xem là đơn vị kinh tế. Nghị quyết Trung ương 6 khóa 6 năm 1989 đã đề ra những quan điểm và phương hướng chỉ đạo công cuộc đổi mới với những nguyên tắc cơ bản về đổi mới như sau : Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà làm cho mục tiêu ấy thực hiện tốt hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và bước đi thích hợp. Hai là, Đổi mới không phải là xa rời Chủ nghĩa Mác –Lênin mà là vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin và khắc phục những quan niệm không đúng về học thuyết đó. Ba là, Đổi mới tổ chức và phương thức họat động của hệ thống chính trị phải nhằm tăng cường chứ không phải là làm suy yếu sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản. Bốn là, Xây dựng nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH, song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ với nhân dân nhưng phải chuyên chính với kẻ địch. Năm là, kết hợp Chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Qua thực tiễn 5 năm đổi mới kể từ sau đại hội VI, đại hội VII năm 1991 của Đảng đã có điều kiện xem xét, khẳng định rõ hơn những vấn đề đã được đặt ra từ đại hội VI tiếp tục bổ sung và hoàn thiện nhận thức. Đại hội VII khẳng định quyết tâm không gì lay chuyển nổi của Đảng và nhân dân Việt Nam kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới. Đại hội VII đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh vạch rõ : Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cùng xu hướng quốc tế nền kinh tế thế giới là thời cơ để các nước phát triển có thể phát triển nhanh hơn. Do đó, phải coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu; trong quá trình xây dựng CNXH phải phát huy ý chí tự lực tự cường, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Đồng thời Cương lĩnh cũng đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội gồm 6 đặc trưng cơ bản là: Xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động; kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực và hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc sống trong quốc gia Việt Nam bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau tiến bộ. Thực hiện chính sách làm bạn với nhân dân tất cả các nước trên thế.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> giới. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để đạt được mục tiêu trên đảng chủ trương phát triển kinh tế, cải cách xã hội đẩy lùi 4 nguy cơ: Tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trong khu vực. Chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Nguy cơ diễn biến hòa bình. Cương lĩnh cũng đã nêu 7 biện pháp chiến lược để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân và quản lý mọi mặt của xã hội một cách hữu hiệu dựa trên cơ sở luật pháp; Phát triển lực lượng sản xuất, thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua cách mạng khoa học công nghệ; Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động; Thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc và chính sách đối ngoại hòa bình hữu nghị hợp tác với tất cả các nước; Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng : xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa; Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằm nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm với nhiệm vụ trong giai đoạn mới. ĐH VIII : 6-1996 Sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết, đánh giá thành công cũng như thất bại và rút ra những bài học kinh nghiệm. Điểm nổi bật là Đại hội VIII đã khẳng định một số nhận thức về xây dựng cơ chế quản lý mới : Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc XD CNXH; Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, thị trường theo định hướng XHCN là thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế họach, kế họach chủ yếu mang tính định hướng còn thị trường trực tiếp hướng dẫn, lựa chọn lĩnh vực họat động, tổ chức sản xuất và kinh doanh. Do vậy, cơ chế thị trường phải có sự điều tiết ủa Nhà nước, vì thế cần nâng cao quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, Đại hội VIII đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam đến năm 2020:” tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước .. từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”. Đến Đại hội IX (4-2001) nhận thức con đường đi lên CNXH được Đảng ta bổ sung và hoàn thiện. Đó là : Thứ nhất, về mục tiêu lý tưởng của Đảng “Độc lập dân tộc gắn liền CNXH” là nguyên tắc, là sự chỉ đạo xuyên suốt tòan bộ đường lối cách mạng nước ta. Thứ hai, về thời kỳ quá độ báo cáo chính trị đã chỉ ra con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng XHCN nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu của nhân lạoi đặc biệt là khoa học & công nghệ. Thứ ba, Về mô hình kinh tế tổng quát vẫn xác định “kinh tế thị trường định hướng XHCN” có bổ sung thêm thành phần kinh tế thứ 6 có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ tư, về đấu tranh gia cấp là động lực phát triển đất nước. Trong đó động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đòan kết tòan dân dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp CN, ND và trí thức do Đảng lãnh đạo.. Thứ năm, về nền tảng tư tưởng : Đại hội đã làm rõ khái niệm và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tóm lại, từ những bài học của cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua, nhất là những kinh nghiệm thu được trong những năm đổi mới, chúng ta có cơ sở khoa học để tin tưởng rằng: Với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quý báu của dân tộc ta, với tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta, lại có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cách mạng kiên cường, với sự giúp đỡ và hợp tác của bạn bè quốc tế, nhân dân ta có đủ khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội... Câu 3a: Quan điểm của Đảng từ năm 1986 đến nay về CNH- HĐH, KTTT định hướng XHXCN các bài học rút ra từ công cuộc đổi mới. Bài làm Công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo năng suất lao động xã hội cao. I/ Quan niệm Công nghiệp hóa – hiện đại hóa trước đổi mới: Nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với quá trình đổi mới cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; Công nghiệp hóa diễn ra trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại; Công nghiệp hóa trong bối cảnh xu thế quốc tế hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ; Công nghiệp hóa diễn ra trong điều kiện thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau và cùng tác động. Như vậy, bản chất cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chuyển tính chất và trình độ lao động xã hội từ thủ công năng suất thấp sang lao động với các phương tiện, phương pháp công nghệ tiên tiến có năng suất cao. Vì vậy, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yết khách quan, là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ lên XHCN. Từ những năm 60 , Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ và đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên , trong quá trình tiến hành chúng ta cũng phạm phải một số sai lầm thiếu sót. Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nêu: “ Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cơ sở nhận định đúng những đặc điểm cơ bản của tình hình cách mạng nước ta, Đảng ta đã kịp thời quyết định thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên CNXH, đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế trong cả thời kỳ quá độ. Nhưng việc đánh giá tình hình tình hình cụ thể về các mặt kinh tế , xã hội của đất nước, đã có nhiều thiếu sót” . Trong năm năm 1976-1980, trên thực tế, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời. Trong thời gian này đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp. Trên cơ sở bước đi của công nghiệp hóa, Đại hội V chủ trương năm năm 1980-1985 phải vừa phát triển, vừa sắp xếp lại sản xuất, bố trí lại xây dựng cơ bản để nâng cao hiệu quả đầu tư, nhẳm ổn định tình hình kinh tế – xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tạo tiền đề đầy mạnh công nghiệp hóa. Nhưng chúng ta đã không thực hiệm nghiêm chỉnh, mà Đại hội VI nêu những khuyết điểm sau: Nông nghiệp chưa thật sự coi là mặt trần hàng đầu, không được đảm bảo những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng , kể cả tiểu thủ công nghiệp. vẫn bị coi nhẹ về tổ chức đầu tư, chính sách. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Một khuyết điểm lớn là đã hầu như không sắp xếp lại các cơ sở sản xuất để khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý . . . Mặt khác trong xây dựng cơ bản , tuy đã đình hoãn các công trình tương đối lớn, tập trung vào các công trình trọng điểm, nhưng về căn bản vẫn chưa điều chỉnh hợp lý, không kiên quyết . . . Về cải tạo XHCN, củng cố quan hệ sản xuất mới, sử dụng các thành phần kinh tế, nhưng chúng ta chưa x1c định rõ ràng nhất quán những quan điểm , chủ trương chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo XHCN. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thanh kinh tế quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa , ít chú ý để lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất thích hợp, có xu hướng muốn tổ chức ngay các HTX có quy mô lớn , không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý về năng lực của cán bộ. Việc sử dụng các nguồn vốn vay kém hiệu quả. Chúng ta đã tiêu dùng cả một phần quan trọng nguồn vốn từ bên ngoài và quỹ khấu hao cơ bản. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách, là nguyên nhân trực tiếp gây ra lam phát trầm trọng. Việc giải quyết vấn đề giá – lương – tiền đã phạm sai lầm. Thiếu biện pháp đồng bộ, có hiệu quả để nhà nước nắm được hàng và tiền. “ Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiệm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Quan niệm Công nghiệp hóa – hiện đại hóa sau đổi mới: Mục tiêu của CNH-HĐH là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của LLSX , đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, ANQP được giữ vững, nền kinh tế độc lập tự chủ, xã hội công bằng dân chủ văn minh, mục tiêu chính gồm: Mục tiêu dài hạn là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Mục tiêu trung hạn là tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu trước mắt là đẩy mạnh CNH-HĐH để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kế hoạch kinh tế xã hội hàng năm, 5 năm, 10 năm (2001-2010). Văn kiện Đại hội VI, nêu rõ: “ Để thực hiện ba chương trình kinh tế lớn (Lương thực thực phẩm , hàng thiêu dùng, hàng xuất khẩu), tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặn đường tiếp theo, cần phát triển một số ngành công ghiệp nặng và kết cấu hạ tầng cần thiết phù hợp với khả năng trước mắt. Đó là năng lượng, một số cơ sở cơ khí và nguyên vật liệu , giao thông vận tải thông tin bưu điện – những cơ sở vật chất – kỹ tuật tối thiểu trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH ” . Như vậy ngay từ đầu phải kết hợp chặt chẽ về phát triển nông ngiệp và công nghiệp ( nhẹ và nặng hợp lý), không tách rời nông nghiệp với công nghiệp, ưu tiên và hướng công nghiệp nặng sản xuất TLSX phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp nhe, từng bước khắc phục kết cấu cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Về lĩnh vực khoa học kỹ thuật, Văn kiện Đại hội VI, nêu rõ: “ Khoa học kỹ thuật là một động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế và xã hội. Trong những năm tới , phải vận dụng khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật trong việc nghiên cứu chiến lược phát triễn kinh tế, xã hội, trong việc xác định chủ trương, chính sách trong tổ chức quản lý kinh tế và xã hội. Đặc biệt cần tập trung lực lượng khoa học kỹ thuật của cả nước nghiên cứu và nhanh chóng áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật phục vụ ba chương trình lớn :. Lương thực - thực phẩm , hàng thiêu dùng, hàng xuất khẩu” Đến Đại hội VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng đã nêu: “ Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu lên cơ cấu kinh tế hiện đại, nền kinh tế quốc dân sẽ bao gồm nhiều ngành, nghề, quy mô, nhiều trình độ công nghệ. Phát triển nông lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định nền kinh tế xã – hội. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là các ngành phục vụ nông nghiệp”. Và cũng đã xác định: “ Khoa học và công nghệ giữa vai trò then chốt trong sự phát triển LLSX và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Các chiến lược khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiến tiến của thế giới. Sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển giáo dục và văn hóa nâng cao dân trí”. Tại Đại hội VII, Đảng ta đã đưa ra chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, cụ thể tập trung thực hiện cơ cấu kinh tế, gồm: - Nông – lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. - Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. - Công nghiệp tư liệu sản xuất và khai thác chế bến khoán sản. - Kinh tế dịch vụ. - Kế cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Báo cáo chính trị của BCH TW khóa VII – Giữa nhiệm kỳ, Đảng ta tiếp tục phân tích và khẳng định: “ Những tiến bộ kinh tế và xã hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước và các tổ chức quốc tế cho phép chúng ta đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm , đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọnh hàng đầu trong thời gian tới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa” “ Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắc, đón đầu hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học – công nghệ thế giới” “ Từ nay đến cuối thập kỷ , phải rất quan tâm đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm , ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại khác. Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chât ở những khâu ách tắc nhất, đang cản trở sự phát triển. Xây dựng chọn lọc một cơ sở công nghiệp nặng trong nghững ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi cấp bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao. Phát triển sự nghiệp nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ giáo dục và đào tạo, y tế, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lân dài”. “Các ngành khoa học và công nghệ phải tập trung nghiên cứu ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, phục vụ yêu câu chuyên dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng đòi hỏi đổi mới trang bị trong nền kinh tế quốc dân, nâng cao trình độ công nghệ hiện có, hiện đại hóa những công nghệ truyền thống và tiếp thu công nghệ mới một cách thích hợp. Góp phần thẩm định chặt chẽ công nghệ nhập khẩu. Chú trọng phát triển các lĩnh vực điện tử- tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới” Báo cáo chính trị của BCH TW tại Đại hội Đảng lần thứ VIII: Tiếp tục nhấn mạnh và nêu cao các trọng điểm quan trọng về công nghiệp hóa và hiện đại hóa mà Đại hội VII và báo cáo giữa nhiệm kỳ khóa VII nêu làm mục tiêu đến năm 2020 và khẳng định: “ Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.” “ Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nhgiệp” Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã đưa ra chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gồm: ( Trang 470 đến 476) - Công nghiệp hóa , hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. - Phát triển công nghiệp. - Xây dựng kết cấu hạ tầng. - Phát triển nhanh du lịc – các dịch vụ. - Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Báo cáo chính trị của BCH TW tại Đại hội Đảng lần thứ IX: Tiếp tục xác định mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa mà Đại hội VIII nêu, và xác định Đường lối và chiến lược phat triển kinh tế xã hội: - Phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm. “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có nhảy vọt. Phat huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến , đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng này càng nhiều hơn , ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bức phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh của tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đạo tao khoa học công nghệ là nền tang và động lực của sư nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoa” (Trang 640). Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần: Gồm 6 thành phần gồm, Kinh tế nhà nước – Kinh tế tập thể - Kinh tế cá tể tểu chủ – Kinh tế tư bản tư nhân – Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài – Kinh tế tư bản nhà nươc..

<span class='text_page_counter'>(4)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×