Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận Luật Dân sự: diện và hàng thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.92 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 2
B. NỘI DUNG...................................................................................................................3
I. Những vấn đề lý luận chung về thừa kế...................................................................3
1.1. Khái niệm thừa kế.................................................................................................3
1.2. Khái niệm quyền thừa kế.......................................................................................3
1.3. Các nguyên tắc cơ bản của quyền thừa kế.............................................................4
1.4. Thừa kế theo pháp luật, phân biệt thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc 5
1.5. Khái niệm diện thừa kế và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam...8
1.6. Ý nghĩa của việc phân chia diện và hàng thừa kế..................................................8
II. Diện thừa kế và hàng thừa kế trong quy định của Bộ luật Dân sự 2015..............9
2.1. Diện thừa kế..........................................................................................................9
2.2. Hàng thừa kế.......................................................................................................11
III. Những điểm hạn chế, nguyên nhân về tranh chấp, giải quyết tranh chấp về
thừa kế theo diện và hàng thừa kế và một số phương hướng hoàn thiện quy định
về diện và hàng thừa kế theo pháp luật.....................................................................15
3.1. Hạn chế của một số quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật.................15
3.2. Nguyên nhân.......................................................................................................16
3.3. Một số phương hướng nhằm hoàn thiện quy định về diện và hàng thừa kế trong
pháp luật.....................................................................................................................18
C. KẾT LUẬN.................................................................................................................19

Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


A. MỞ ĐẦU
Con người khi chết đi, những tài sản thuộc sở hữu còn lại của họ sẽ được
dịch chuyển cho người khác. Quá trình dịch chuyển tài sản này được gọi là thừa kế.
Thừa kế là một hiện tượng xã hội và xuất hiện trong mọi chế độ xã hội, nơi nào có
sở hữu thì nơi đó có thừa kế. Việt Nam ta có nền văn hóa với các truyền thống đạo
đức lâu đời. Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục,


tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng đã khiến cho khơng ít người bỏ qua việc đảm
bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có
những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những
bản di chúc này không rõ ràng, dẫn đến những người thừa kế phải nhờ pháp luật
phân xử hộ làm rạn nứt đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Vì lẽ đó, phần
lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong những giai đoạn phát triển của quá trình lập pháp ở Việt Nam nói
chung và dân luật Việt Nam nói riêng, các quan hệ thừa kế ln là một trong những
mối quan hệ quan trọng, và thực tế đã cho thấy: rất nhiều BLDS được ra đời đều có
những phương pháp điểu chỉnh riêng, tùy theo hồn cảnh, và các bộ luật ra đời sau
có xu hướng hồn chỉnh, chặt chẽ hơn. Trong số đó, diện và hàng thừa kế ln là
vấn đề tốn khơng ít giấy mực của các nhà làm luật. Sự dịch chuyển tài sản của
người chết cho những người còn sống theo hàng thừa kế, trình tự pháp luật tưởng
chừng như đơn giản, nhưng lại chứa đựng nhiều luồng ý kiến khác nhau. Trong
việc xác định diện và hàng thừa kế, chúng ta có thể thấy: đề ra được những điều
luật điều chỉnh một cách triệt để những vấn đề nảy sinh là không hề đơn giản. Để
mở rộng kiến thức cho bản thân về vấn đề này, em tâm huyết thực hiện bài tiểu luận
cá nhân với đề tài “Diện và hàng thừa kế theo pháp luật quy định của BLDS 2015”.

Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận chung về thừa kế.
1.1. Khái niệm thừa kế
Thừa kế là một chế định dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc
theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi, quyền nghĩa vụ và phương
thức bảo vệ các quyền nghĩa vụ của người thừa kế.
Đặc tính của thừa kế:

Thứ nhất, gắn bó chặt chẽ với sở hữu, sở hữu và thừa kế có quan hệ biện
chứng với nhau. Sở hữu là cơ sở làm xuất hiện vấn đề thừa kế, thừa kế là cách thức
để duy trì và củng cố vấn đề sở hữu.
Thứ hai, là hiện tượng mang tính khách quan, tất yếu hình thành và tồn tại
trong mọi hình thái kinh tế - xã hội.
Có hai dạng thừa kế: Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
1.2. Khái niệm quyền thừa kế
Việc thừa kế có sự điều chỉnh của pháp luật được gọi là quyền thừa kế. Mỗi
chế độ khác nhau thì có sự khác nhau trong quy định của pháp luật về quyền thừa
kế. Thậm chí, ngay trong cùng một chế độ xã hội nhưng ở mỗi giai đoạn khác nhau
cũng có sự khác nhau trong quy định của pháp luật về quyền thừa kế.
Với góc độ là một phạm trù pháp lí thì quyền thừa kế được hiểu trên hai
phương diện khách quan và phương diện chủ quan.
Ở phương diện khách quan, quyền thừa kế được hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và thừa nhận nhằm điều chỉnh quá trình
dịch chuyển tài sản từ người chết cho những người thừa kế.
Ở phương diện chủ quan, theo BLDS 2015 quy định tại điều 609: “Cá nhân
có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho
người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.”
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


Nghĩa là dưới góc độ chủ quan, quyền thừa kế được hiểu là quyền để lại di sản thừa
kế và quyền hưởng thừa kế của một cá nhân.
1.3. Các nguyên tắc cơ bản của quyền thừa kế
 Nguyên tắc bảo hộ về quyền thừa kế của cá nhân
Pháp luật đã ghi nhận và bảo hộ quyền thừa kế của cá nhân trên cả hai
phương diện, đó là quyền để lại di sản thừa kế và quyền hưởng di sản thừa kế.
Ở khía cạnh là quyền để lại di sản thừa kế, cá nhân có quyền định đoạt tài
sản của mình cho người khác sau khi người đó chết theo ý chí của họ được thể hiện

trong di chúc, và khơng ai có quyền ngăn cản, cưỡng ép hay đe dọa việc định đoạt
này. Tuy nhiên, nếu cá nhân trước khi chết khơng muốn lập di chúc thì pháp luật
cũng khơng bắt buộc họ phải lập di chúc. Trường hợp này, khi người đó chết đi, di
sản thừa kế sẽ chia cho những người thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
Ở phương diện là quyền hưởng di sản thừa kế, pháp luật bảo đảm cho cá
nhân có quyền hưởng di sản thừa kế do người chết để lại theo di chúc hoặc theo
pháp luật, trừ trường hợp họ bị truất quyền hưởng di sản hoặc khơng có quyền
hưởng di sản.
 Nguyên tắc bình đẳng về quyền thừa kế
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, khơng phân biệt nam nữ tuổi
tác, thành phần tôn giáo, dân tộc, địa vị chính trị xã hội… đều có quyền để lại di
sản thừa kế và hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
 Nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của chủ thể trong quan hệ thừa
kế.
Thứ nhất, tôn trọng quyền định đoạt của người để lại di sản. Theo đó, cá
nhân đã có đủ năng lực chủ thể đều có quyền bằng ý chí của mình quyết định
khơng lập hoặc lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Việc tơn
trọng quyền định đoạt còn thể hiện ở việc người để lại di sản có quyền sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ di chúc mình đã lập bất cứ khi nào người đó cịn sống.
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


Thứ hai, tơn trọng ý chí của người thừa kế. Theo đó, pháp luật quy định
người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp
luật hoặc từ chối nhận di sản cả theo di chúc và theo pháp luật. Pháp luật tôn trọng
việc từ chối nếu việc từ chối không nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, đồng thời
việc từ chối phải đúng trình tự, thủ tục, hình thức, thời hạn pháp luật quy định.
1.4. Thừa kế theo pháp luật, phân biệt thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo
di chúc
Ta biết rằng, sự dịch chuyển di sản từ một người đã chết sang người còn sống

được thực hiện theo hai căn cứ là ý chí của người thừa kế để lại di sản và quy định
của pháp luật.
Nếu sự dịch chuyển của di sản đó căn cứ vào ý chí của người đã chết để lại
thì được gọi là thừa kế theo di chúc, nếu sự dịch chuyển tài sản của người chết sang
người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật thì được gọi là thừa kế theo pháp
luật. Theo quy định thực định tại Việt Nam, khái niệm thừa kế theo pháp luật quy
định tại điều 619 BLDS 2015, theo đó: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo
hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.Sau đây là
những điểm khác nhau cơ bản giữa thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật:
Điểm

Thừa kế theo di chúc

Thừa kế theo pháp luật

khác
1. Khái

Là thừa kế theo ý chí Là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện

niệm

nguyện vọng của người để và trình tự thừa kế do pháp luật quy định

2. Đối

lại di sản trước khi chết
(Điều 649 BLDS 2015)
Những cá nhân, tổ chức - Các cá nhân có quan hệ huyết thống


tượng

được người lập di chúc đề hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di

được

cập là người nhận di sản sản (Điều 651)

thừa kế

trong di chúc và đủ các - Cha mẹ, vợ chồng, con chưa thành niên
điều kiện theo quy định hoặc con đã thành niên nhưng mất khả
của pháp luật

năng lao động được pháp luật bảo vệ

Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


quyền thừa kế mà không phụ thuộc vào
nội dung di chúc (Điều 664)
- Con riêng và bố dượng, mẹ kế (Điều
3. Hình

654)
Phải được lập bằng văn - Văn bản thỏa thuận có cơng chứng về

thức

bản, nếu khơng lập được việc phân chia di sản của các đồng thừa

di chúc bằng văn bản thì kế
có thể lập di chúc bằng - Nếu có tranh chấp thừa kế thì theo quyết

4. Thừa

miệng (Điều 627)
Khơng có thừa kế thế vị

định của tịa án về phân chia di sản
Có thừa kế thế vị, quy định tại điều 652

kế thế

BLDS 2015

vị
5. Thứ

Thừa kế theo di chúc được ưu tiên áp dụng trước. Thừa kế theo pháp

tự áp

luật chỉ được áp dụng khi rơi vào các trường hợp sẽ được phân tích

dụng
sau đây.
Các trường hợp chia thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp quy định tại
Điều 650, BLDS 2015. Và từ những quy định cụ thể này, ta có thể xác định những
trường hợp chia thừa kế theo pháp luật bao gồm:

 Trường hợp khơng có di chúc hoặc được coi là khơng có di chúc
Đây là trường hợp người có tài sản khơng lập di chúc trước khi chết hoặc
mặc dù trước khi chết có lập di chúc nhưng người đó đã hủy bỏ di chúc đã lập.
Ngoài ra các trường hợp quy định tại điều 642 và điều 648 của BLDS 2015 cũng
được coi là khơng có di chúc.
 Trường hợp di chúc khơng hợp pháp
Trường hợp này trước khi chết, người để lại di sản có để lại di chúc nhưng di
chúc đó vơ hiệu do vi phạm điều kiện về tính hợp pháp của di chúc. Di chúc vơ
hiệu có hai trường hợp là di chúc vơ hiệu tồn bộ hoặc di chúc vơ hiệu một phần.

Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


 Trường hợp những người thừa kế theo di chúc chết hoặc chết cùng thời
điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế khơng cịn tồn
tại vào thời điểm mở thừa kế
Tại thời điểm mở thừa kế, tất cả cá nhân được chỉ định là người thừa kế theo
di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản; tất cả các
cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế trong di chúc đều khơng cịn tồn
tại thì toàn bộ di sản của người chết ấy được chia cho những người thừa kế theo
pháp luật của người đó. Trường hợp nếu chỉ có một hoặc một số người được thừa
kế được chỉ định trong di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại
di sản, một hoặc một số cơ quan, tổ chức được chỉ định trong di chúc khơng cịn
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ có phần di sản liên quan đến cá nhân, cơ
quan, tổ chức này khơng có giá trị pháp luật và được chia thừa kế theo pháp luật.
 Trường hợp những người được chỉ định làm người thừa kế lại di chúc mà
khơng có quyền hưởng di sản
Đây là trường hợp người chết có để lại di chúc và di chúc ấy là hợp pháp cho
người được nhận thừa kế. Tuy nhiên, người được nhận quyền thừa kế ấy vi phạm
Khoản 1, Điều 621, BLDS 2015 và bị pháp luật tước quyền hưởng di sản. Nếu tất

cả những người được chỉ định thừa kế trong di chúc đều bị truất quyền thừa kế thì
tồn bộ di sản do người chết để lại được chia thừa kế cho những người thừa kế theo
pháp luật của người này. Trường hợp chỉ có một hoặc một số người thừa kế khơng
có quyền hưởng di sản thì chỉ áp dụng chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di
sản liên quan đến những người này.
 Trường hợp những người thừa kế theo di chúc từ chối quyền nhận di chúc
Việc từ chối quyền nhận di chúc của cá nhân, tổ chức được người chết chỉ
định quyền thừa kế là hợp pháp và trong thời hạn luật định. Theo đó, nếu tất cả cá
nhân, cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế trong di chúc đều từ chối
quyền hưởng di sản thì tồn bộ di sản của người chết được chia theo pháp luật.
Trường hợp chỉ có một hoặc một số cá nhân, cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


thừa kế trong di chúc từ chối quyền nhận di sản thì chỉ có phần di sản liên quan đến
những cá nhân, cơ quan, tổ chức này được chia thừa kế theo pháp luật.
 Trường hợp phần tài sản được định đoạt trong di chúc
Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ lập di chúc định đoạt một phần tài
sản của mình trước khi chết thì chỉ phần tài sản này được chia thừa kế theo di chúc.
Phần di sản không được định đoạt trong di chúc sẽ thừa kế theo pháp luật.
1.5. Khái niệm diện thừa kế và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
a. Khái niệm diện thừa kế
Diện thừa kế được hiểu là phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa
kế của người chết theo quy định pháp luật. Diện thừa kế bao gồm cá nhân cịn sống
có quan hệ hơn nhân, huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được
tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn sống
tại thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
b. Khái niệm hàng thừa kế
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế dựa trên sự phỏng đốn ý chí của người để

lại di sản. Theo đó, các nhà làm luật phỏng đoán rằng, di sản của người chết để lại
phải được dịch chuyển cho người thân thích của người đó, những người này được
gọi là diện thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, mức độ thân thích, gần gũi của mỗi
người trong diện thừa kế với người chết là khác nhau. Chính vì điều này, gây ra sự
tranh cãi khi một người chết thì việc chia thừa kế có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh
vì người ấy có q nhiều mối quan hệ thân thích, dễ gây ra mâu thuẫn và hiểu lầm
khơng đáng có. Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ
thân thích, gần gũi với người chết và vì thế họ cùng được hưởng phần di sản do
người chết để lại ngang nhau.

Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


1.6. Ý nghĩa của việc phân chia diện và hàng thừa kế
Thứ nhất, việc phân chia diện và hàng thừa kế tạo ra sự chủ động cho cơ
quan xét xử trong quá trình áp dụng các chế định pháp luật về thừa kế để giải quyết
những tranh chấp từ quan hệ ấy. Mang tính khái quát cao, vừa khoa học lại phù hợp
với đời sống thực tiễn cần giải quyết những tranh chấp liên quan đến thừa kế.
Thứ hai, việc phân chia diện và hàng thừa kế cũng có ý nghĩa thiết thực, bảo
đảm để những người thừa kế cùng hàng hưởng phần di sản bằng nhau. Tránh được
những mâu thuẫn phát sinh phức tạp và chia rẽ giữa những người có mối quan hệ
gần gũi thân thuộc với nhau.
Thứ ba, việc phân chia này là căn cứ bảo vệ quyền sở hữu và quyền thừa kế
của công dân một cách triệt để nhất phù hợp với đạo lý trong quan hệ huyết thống
và dòng tộc của người đã khuất.
II. Diện thừa kế và hàng thừa kế trong quy định của Bộ luật Dân sự 2015
2.1. Diện thừa kế
Pháp luật thực định Việt Nam không trực tiếp đưa ra quy định cụ thể về diện
thừa kế theo pháp luật nhưng từ quy định cụ thể về hàng thừa kế theo pháp luật tại
Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 có thể hiểu, diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi

những người có ít nhất một trong ba mối quan hệ: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Ba mối quan hệ này giữa người
để lại di sản và người thừa kế chỉ là căn cứ xác định phạm vi những người thừa kế
theo pháp luật. Phạm vi diện những người thừa kế theo pháp luật thừa kế ở nước ta
và được được thể hiện ở những mặt sau:
Đầu tiên, diện những người thừa kế được mở rộng theo số lượng hàng thừa
kế theo pháp luật đã bảo đảm cho việc phân chia di sản thừa kế của công dân được
thực hiện triệt để nhất. Di sản của người chết để lại phải được chia cho những
người có quan hệ huyết thống gần gũi với người để lại di sản. Việc áp dụng thừa kế
theo pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả hơn, hợp lí hơn và thuyết phục hơn.
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


Thứ hai, phạm vi thừa kế trong ba mối quan hệ là quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng đã giải quyết được nhiều tranh chấp dân sự có
liên quan đến lĩnh vực thừa kế theo pháp luật ở nước ta.
Thứ ba, diện thừa kế theo pháp luật mở rộng là phù hợp với thực tiễn của đời
sống kinh tế - xã hội. Góp phần làm hạn chế sự áp đặt khách quan, thiếu toàn diện
trong đời sống xã hội và quan hệ huyết thống giữa những người trong cùng dòng
tộc.
2.1.1. Diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân
Quan hệ hôn nhân là quan hệ của vợ chồng cho tới thời điểm mở thừa kế và
phải được xác định là hôn nhân hợp pháp. Để được thừa nhận là quan hệ hơn nhân
hợp pháp thì về nguyên tắc, việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện kết hôn và thủ
tục kết hôn theo quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình của từng thời kì. Sự
thừa nhận của pháp luật đối với một cuộc hơn nhân chính là cơ sở tiền đề để bảo vệ
lợi ích chính đáng của vợ và chồng trong việc quản lí tài sản chung, nghĩa vụ của
vợ chồng đối với con cái, trách nhiệm của vợ hoặc chồng trong quan hệ với người
thứ ba. Hơn nữa, đây còn là cơ sở để xác định chủ thể sở hữu tài sản, về nghĩa vụ
và trách nhiệm dân sự mà vợ chồng phát sinh từ quan hệ đó.

2.1.2. Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có chung dịng máu theo
trực hệ hoặc theo bảng hệ trong phạm vi mấy đời theo quy định của pháp luật. Trực
hệ là quan hệ họ hàng theo hàng dọc, trong đó người này sinh ra người kia kế tiếp
nhau. Bảng hệ là quan hệ họ hàng theo hàng ngang trong đó người này khơng sinh
người kia nhưng cùng sinh ra từ một “gốc” như quan hệ anh, chị, em, với nhau…
Quan hệ huyết thống là cơ sở pháp lý cũng như căn cứ quan trọng để xác định diện
thừa kế theo quy định của pháp luật, góp phần bảo vệ hiệu quả hơn quyền thừa kế
của cơng dân. Ngồi ra, việc xác định thừa kế theo pháp luật trong quan hệ huyết
thống góp phần làm xã hội đất nước ổn định và củng cố nền móng đồn kết tồn
dân – vốn được hình thành từ những tế bào gia đình với nhau.
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


2.1.3. Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa bố, mẹ nuôi với con nuôi. Việc nhận
con nuôi phải tuân thủ điều kiện của pháp luật Hơn nhân và gia đình tại thời điểm
nuôi dưỡng. Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, ni
dưỡng nhau giữa các người thân thuộc theo quy định của pháp luật. Đó là quan hệ
giữa người có nghĩa vụ ni dưỡng và người được nuôi dưỡng theo quy định của
pháp luật. Quan hệ ni dưỡng cịn được thể hiện giữa anh chị em ruột đối với nhau
trong hồn cảnh mồ cơi cha mẹ hoặc cha mẹ cịn nhưng khơng có khả năng lao
động hoặc khơng có năng lực hành vi dân sự. Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông, bà nội
ngoại và các cháu nội, ngoại. Điều 104 Bộ luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy
định: “Ơng bà có nghĩa vụ ni dưỡng, giáo dục cháu chưa thành niên trong trường
hợp cháu không có cha mẹ. Cháu đã thành niên có nghĩa vụ ni dưỡng ơng bà
trong trường hợp ơng bà khơng cịn con”.
2.2. Hàng thừa kế
Hàng thừa kế là phạm vi những người thừa kế di sản được xác định thông
qua các mối quan hệ nói trên và được quyết định thành từng hàng thừa kế theo trật

tự. Do đó pháp luật về thừa kế quy định về hàng thừa kế tại khoản 1 điều 651 Bộ
luật dân sự năm 2015 chia những người trong diện thừa kế thành ba hàng, cụ thể
như sau:
2.2.1. Hàng thừa kế thứ nhất
Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ
giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau. Mối quan hệ thừa kế của vợ
chồng: Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân.
Theo khoản 2 Điều 3 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2014 thì "Hơn nhân là
quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hơn". Ta có thể thấy rằng quan hệ thừa kế
giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay cịn gọi là “thừa
kế đối nhau”, “thừa kế của nhau”, nghĩa là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


người thừa kế ở hàng thứ nhất và ngược lại. Khi xác định quan hệ thừa kế theo
pháp luật giữa vợ và chồng cần lưu ý các trường hợp sau đây:
 Trường hợp thứ nhất, vợ chồng đã chia tài sản chung hoặc sống ly thân
hoặc một người đã bỏ đi sống với người khác một cách bất hợp pháp nhưng chưa ly
hôn, về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân vẫn cịn tồn tại. Do đó người cịn sống vẫn
được thừa kế di sản của người đã chết.
 Trường hợp thứ hai, người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời
điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hơn với người khác hoặc sống chung với
người khác như vợ chồng vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
 Trường hợp thứ ba, khi một bên chết, dù người cịn sống kết hơn hoặc kết
hơn với người khác như vợ chồng thì người đó đã được hưởng di sản của người đã
chết.
 Trường hợp thứ tư, vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án chấp
nhận hoặc đã được chấp nhận nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hơn chưa có
hiệu lực pháp luật thì một người chết.Khi đó người cịn lại vẫn được quyền hưởng

di sản của người chết.
 Trường hợp thứ năm, nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn
nhân đều tiến hành trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc (ngày luật hôn
nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực ở miền Bắc) và trước ngày 25 tháng 3 năm
1977 ở miền Nam (ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên tồn quốc)
thì việc người đó có nhiều vợ vẫn được chấp nhận. Do đó khi người này chết thì tất
cả các bà vợ (cịn sống vào thời điểm đó) đều có quyền hưởng thừa kế theo hàng
thứ nhất và ngược lại người chồng có thể hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất khi các bà
vợ qua đời.
 Trường hợp thứ sáu, nếu cán bộ chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập
kết ra miền Bắc, lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau khơng bị hủy bỏ bằng một

Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thứ
nhất của người chồng và ngược lại.
 Trường hợp thứ bảy, đối với các trường hợp hơn nhân khơng đăng kí kết
hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế (gồm các cuộc hôn nhân tiến hành
trước ngày luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều kiện
kết hơn nhưng khơng đăng kí kết hơn) thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa
nhận nên họ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất của nhau.
 Trường hợp thứ tám, hai vợ chồng đã ly hơn nhưng sau đó quay lại sống
chung với nhau trước ngày luật Hôn nhân gia đình 1986 có hiệu lực mà cuộc sống
chung đó khơng bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực thì quan hệ vợ chồng đó
vẫn được chấp nhận. Và họ vẫn là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau.
Mối quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con cũng là thừa kế mang tính hai
chiều. Quan hệ này được xác định theo một trong hai căn cứ:
Căn cứ vào quan hệ huyết thống giữa những người cùng dòng máu trực hệ
trong phạm vi hai đời liền kề nhau, trong đó cha mẹ đẻ là người đã sinh ra người đó

nên được pháp luật qui định ở hàng thừa kế thứ nhất.
Căn cứ vào quan hệ ni dưỡng thì đó là những quan hệ ni dưỡng lẫn nhau
giữa cha mẹ và con. Mối quan hệ nuôi dưỡng ở đây có thể là của bố mẹ đẻ với con
đẻ cũng có thể là của bố mẹ ni với con ni và ngược lại. Trong trường hợp
người này có con ni mà chưa đăng kí việc nhận con ni theo đúng qui định của
pháp luật thì quyền thừa kế giữa họ sẽ khơng được cơng nhận cho đến khi họ đăng
kí. Quan hệ nuôi dưỡng phải tồn tại cho đến thời điểm mở thừa kế. Vì vậy, nếu việc
ni con ni chấm dứt trước thời điểm mở thừa kế thì giữ họ không được hưởng
di sản của nhau nữa.
Mối quan hệ giữa cha mẹ và các con dâu con rể. Theo qui định của pháp luật
thì con dâu, con rể khơng nằm trong diện thừa kế. Nhưng trong trường hợp con
dâu, con rể tham gia lao động chung trong gia đình, xây dựng khối tài sản trong gia
đình cha, mẹ thì khi cha mẹ chết đi họ vẫn được hưởng một phần tài sản xứng đáng
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


với công sức mà họ bỏ ra nhưng không phải với tư cách người thừa kế mà là người
đồng sở hữu tài sản.
Đối với mối quan hệ của “con riêng với bố dượng, mẹ kế”. Nếu như đối với
trường hợp con ni ta có thể khẳng định đó là mối quan hệ ni dưỡng thì trong
trường hợp này có nhiều điểm cần lưu ý:
Trường hợp mẹ kế sống với bố còn con riêng sống với mẹ đẻ như vậy hai
người này khơng có quan hệ huyết thống mà cũng chẳng có quan hệ ni dưỡng;
Các trường hợp con riêng sống với bố dượng, mẹ kế nhưng bị ghét bỏ, không nhận
được sự quan tâm, chăm sóc ni dưỡng (các trường hợp này rất phổ biến ở nhiều
nước) nên việc cho con riêng, bố dượng, mẹ kế thừa kế của nhau trong các trường
hợp này là khơng hợp lý.
Vì thế điều 654 Bộ luật dân sự 2015 đã qui định: “Con riêng và bố dượng,
mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc ni dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được
thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo qui định tại điều 652 và

653 của bộ luật này.”
2.2.2. Hàng thừa kế thứ hai
Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: Ơng nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Hàng thừa kế thứ hai có hai mối quan hệ sau
đây
Mối quan hệ thừa kế giữa ông bà và cháu: Theo điểm b, Khoản 1, Điều 651
Bộ luật dân sự 2015 thì căn cứ để xác định mối quan hệ này là quan hệ huyết thống
mà không dựa vào quan hệ nuôi dưỡng. Do đó việc thừa kế của ơng bà khi cháu
chết và cháu nhận thừa kế khi ông bà qua đời là đương nhiên theo luật. Nhưng một
người có thể có nhiều ông bà hoặc nhiều cháu nên điều này cũng đã qui định rất rõ
là ông bà là ông bà nội hoặc ơng bà ngoại. Cịn cháu phải là cháu ruột của người
đó. Đối với trường hợp cháu ni thì pháp luật Việt Nam không thừa nhận quyền
thừa kế của họ.
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


Mối quan hệ thừa kế giữa anh, chị, em ruột: căn cứ để phát sinh quyền thừa
kế giữa những người này cũng là mối quan hệ huyết thống. Anh, chị, em ruột là
những người cùng huyết thuyết thống về đằng cha hoặc đằng mẹ hoặc cả đằng cha,
đằng mẹ. Con trong giá thú hay con ngoài giá thú miễn là họ có chung dịng máu
của người sinh ra mình thì đương nhiên theo pháp luật họ được quyền hưởng thừa
kế ở hàng thứ hai của nhau. Ngoài ra pháp luật cịn qui định rõ con riêng của vợ
hoặc chồng khơng phải là anh em ruột của nhau; Con nuôi không phải là anh chị
em ruột đối với con đẻ của bố hoặc mẹ nuôi nên không được nhận thừa kế từ những
anh chị em đó nhưng vẫn được nhận thừa kế từ anh chị em ruột của chính mình và
ngược lại.
2.2.3. Hàng thừa kế thứ ba
Hàng thừa kế thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người

chết là bác ruột, chú ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột; cháu ruột của người chết mà
người chết là ông bà nội ngoại, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.
Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột với cháu
ruột: Quan hệ thừa kế giữa những người này với nhau cũng là dựa trên mối quan hệ
huyết thống. Những người này theo pháp luật được xếp hưởng thừa kế vào hàng
thứ ba của nhau. Tuy nhiên cần lưu ý ở mỗi vùng miền có nhiều cách định nghĩa
khác nhau về mối quan hệ này.
Quan hệ thừa kế giữa cụ và chắt: cụ nội là người thân sinh ra ông nội hoặc bà
nội, cụ ngoại là người thân sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại người chết. Nên mối
quan hệ giữa cụ nội cụ ngoại và chắt là mối quan hệ huyết thống. Những người này
được hưởng thừa kế ở hàng thứ ba của nhau.

Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


III. Những điểm hạn chế, nguyên nhân về tranh chấp, giải quyết tranh chấp về
thừa kế theo diện và hàng thừa kế và một số phương hướng hoàn thiện quy
định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
3.1. Hạn chế của một số quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật
 Thứ nhất, đó là việc pháp luật nước ta chưa có khái niệm thống nhất về
diện thừa kế nên người dân với trình độ dân trí chưa cao chưa thể có một cái nhìn
tổng qt về diện và hàng thừa kế. Do đó trong quá trình giải quyết tranh chấp
thường gây ra mâu thuẫn giữa mối quan hệ huyết thống và mối quan hệ nuôi
dưỡng.
 Thứ hai, là ở hàng thừa kế thứ hai cháu chỉ được thừa kế của ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại khi ở hàng thừa kế thứ nhất có một người thừa kế là cha đẻ
(mẹ đẻ) bị mất quyền hưởng di sản hoặc có nhiều người thừa kế nhưng tất cả đều
khơng có quyền hưởng di sản hoặc khơng nhận di sản, thì cháu cùng với anh chị em
ruột của người chết sẽ được hưởng di sản của ông bà. Như vậy là không công bằng

về việc thừa kế giữa ơng và cháu vì trên thực tế trường hợp này rất khó xảy ra. Mặt
khác, mối quan hệ giữa cháu nội với ông nội, bà nội là quan hệ huyết thống trực hệ.
Xét theo phong tục tập quán Việt Nam thì cháu có trách nhiệm ni dưỡng và thờ
cúng ông bà, cho nên cháu cần được hưởng di sản trước anh chị em ruột của người
chết.
 Thứ ba, đó là việc pháp luật khơng chia thừa kế cho con dâu, con rể là chưa
hợp lí. Vì xét theo quan hệ ni dưỡng thì đây là mối quan hệ hết sức gắn bó, thân
mật trên thực tế vì vậy nên xét đến việc thừa kế của những người này.
 Thứ tư, pháp luật chia thừa kế chưa rõ ràng giữa hai mối hệ là mối quan hệ
huyết thống và mối quan hệ nuôi dưỡng, người dân họ không biết đến luật và
khơng sử dụng luật. Ví dụ về quan hệ thừa kế giữa con riêng của chồng với mẹ kế,
tuy nhiên như thế nào là có quan hệ “chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ
con” là một vấn đề hết sức khó khăn trong thực tiễn.
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


 Thứ năm, theo khoản c, điều 651 BLDS 2015 thì luật chỉ quy định rằng khi
chắt đứng vào hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của cụ thì phải là “chắt ruột của
người chết”, cịn khi cụ ở hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của chắt thì luật
chưa xác định cụ có phải cụ ruột hay khơng. Từ đó chúng ts thấy việc xác định giữa
cụ và chắt có quan hệ thừa kế với nhau trong trường hợp nào là điều hết sức khó
khăn.
3.2. Nguyên nhân
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng việc xét xử các vụ án tranh chấp thừa
kế nói chung và các vụ tranh chấp theo diện, hàng thừa kế của tịa án có hiệu quả
giải quyết án chưa cao, cịn chậm, cịn có vụ án bị kéo dài. Bởi những nguyên nhân
sau:
 Thứ nhất, trình độ hiểu biết về pháp luật của nhân dân còn thấp. Nhiều nơi
chịu nhiều ảnh hưởng của các phong tục tập quán lạc hậu. Ví dụ: trong suy nghĩ
của mọi người, người con trưởng đương nhiên sẽ thừa kế tất cả đất đai, nhà cửa do

cha mẹ để lại; những người con gái đã lập gia đình hoặc chưa lập gia đình thường
khơng biết họ là người đứng cùng hàng thừa kế với người anh trai hoặc em trai và
cùng được hưởng phần di sản như nhau. Nên việc xác định giá trị di sản, phân chia
di sản, xác định người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gặp rất nhiều khó khăn, thời
gian giải quyết vụ án bị kéo dài.
 Thứ hai, nguyên nhân từ các chủ thể trong quan hệ thừa kế. Người dân còn
e ngại vào việc tham gia tố tụng dân sự, do thời gian tố tụng kéo dài, tốn kém về
tiền bạc, thời gian làm việc. Mặt khác các tranh chấp về thừa kế nói chung thừa kế
theo pháp luật nói riêng khơng chỉ gây thiệt hại về vật chất mà cịn gây thiệt hại sâu
sắc về tình cảm của các thành viên trong gia đình do truyền thống của nhân dân do
vậy các tranh chấp thường được giải quyết bằng yếu tố tình cảm.
 Thứ ba, con người ngày càng coi trọng giá trị của đồng tiền hơn. Điều đó
tác động tới các quan hệ thừa kế liên quan đến di sản có giá trị lớn nên khi Tịa án
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


các cấp đưa vụ án ra xét xử, quyết định của bản án có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền
lợi của những người thừa kế, do đó khơng tránh khỏi hiện tượng phần lớn các
đương sự tìm cách chống đối, nhằm mục đích làm thay đổi quyết định của bản án
hoặc kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Trong khi chế tài áp dụng khi giải quyết
các tranh chấp dân sự cịn đơn giản thì hiện tượng nêu trên cũng tạo thêm sự phức
tạp, kéo dài trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế.
 Thứ tư, hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ thừa kế nói chung, diện
và hàng thừa kế nói riêng cịn nhiều bất cập. Chế độ tài sản ở Việt Nam chưa minh
bạch đặc biệt là pháp luật đất đai, dẫn đến đường lối giải quyết các tranh chấp lúng
túng, gây mất thời gian và tiền bạc.
 Thứ năm, công tác quản lý nhân thân cịn sai xót, chồng chéo giấy tờ khai
sinh, khai tử, thất lạc hoặc cấp đi cấp lại, thay đổi họ tên thiếu thống nhất. Dẫn đến
tình trạng xác định nguồn gốc di sản, xác định diện và hàng thừa kế của những
người thừa kế gặp rất nhiều khó khăn.

 Thứ sáu, việc áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn cịn thiếu
thống nhất, thiếu tính linh hoạt, mềm dẻo. Bên cạnh đó trình độ hiểu biết pháp luật
của các cơ quan áp dụng pháp luật chất lượng còn kém, đặc biệt là các quận, huyện
vùng sâu vùng xa, chưa bắt kịp với nhu cầu thực tế phát sinh. Do vậy ảnh hưởng
trực tiếp tới giải quyết tranh chấp pháp sinh trong thực tế.
3.3. Một số phương hướng nhằm hoàn thiện quy định về diện và hàng thừa kế
trong pháp luật
Để có thể áp dụng tốt hơn về việc chia thừa kế theo pháp luật và để người
dân có cái nhìn khái qt hơn về thừa kế theo pháp luật sau đây em xin trình bày
một số quan điểm nhằm hoàn thiện hơn một số quy định về diện và hàng thừa kế
theo pháp luật:
 Thứ nhất, cần làm rõ khái niệm về diện thừa kế theo pháp luật hợp lí nhất,
mang tính rõ ràng khái quát hơn chứ không để khái niệm này một cách mơ hồ.
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


 Thứ hai, cần ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn xử lý và giải quyết
dứt điểm các tranh chấp còn tồn tại về diện và hàng thừa kế. Diện và hàng thừa kế
theo pháp luật có liên quan trực tiếp đến nhiều ngành luật như Luật nuôi con ni,
Luật Hơn nhân và gia đình từ đó nghiên cứu đồng bộ tất cả các văn bản có liên
quan để có hệ thống văn bản pháp luật thống nhất.

 Thứ ba, cần bổ sung con dâu (con rể) vào hàng thừa kế vì trên thực tế, họ
tham gia lao động chung cùng gia đình vợ (chồng) thì họ phải có quyền hưởng tài
sản tương xứng với cơng sức đóng góp với khối tài sản chung hiện có với tư cách là
một đồng chủ sở hữu. Bên cạnh đó, quan hệ thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất cần có
những văn bản hướng dẫn cụ thể kèm theo rõ ràng hơn đối với trường hợp cha
nuôi, mẹ nuôi với con cái trong nhận định “quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau
như cha con, mẹ con” hay trong trường hợp dù chung một nhà nhưng “bằng mặt mà
khơng bằng lịng” nhưng họ có chăm sóc nhau như “cha con, mẹ con” hay khơng

thì vấn đề này hết sức khó khăn.
 Thứ tư, đối với di sản là đất đai và tài sản gắn liền với đất đai như nhà ở,
cây lâu năm…, các cơ quan nhà nước nói chung và các UBND các cấp thực hiện
tốt công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu về đất đai, làm cơ sở cho đương sự thu thập
chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

C. KẾT LUẬN
Trong bất kỳ chế độ xã hội nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng
trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của
cơng dân. Mỗi nhà nước dù có xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là
một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến Pháp. Với bản chất là
một quan hệ tài sản, quan hệ thừa kế dưới tác động của nền kinh tế thị trường cũng
trở nên phong phú và phổ biến trong các giao lưu dân sự. Chính vì vậy chế định
thừa kế có vị trí quan trọng và thực sự cần thiết trong hệ thống các quy phạm pháp
Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


luật dân sự Việt Nam nên cần tìm hiểu và nghiên cứu kĩ vấn đề này. Đặc biệt diện
và hàng thừa kế là cơ sở để xác định phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, do
vậy nhà làm luật cần xác định rõ diện và hàng thừa kế nhằm giải quyết đúng đắn
các vụ việc liên quan đến việc phân chia di sản thừa kế theo diện và hàng thừa kế.
Qua quá trình tìm hiểu về đề tài, chắc hẳn em khơng tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong những ý kiến đóng góp của q thầy cơ. Em xin chân thành cảm ơn!


Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 1, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Nxb

Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016.
2. Bộ luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2017), Nxb Lao động.
3. Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Hội Luật
gia Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh, 2016.
4. Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, TS. Phạm Văn Tuyết,
TS. LS Lê Kim Giang, Nxb Tư pháp Hà Nội-2013.
5.

Đề tài: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam, Nguyễn Thị Huế, Đại
hoc Quốc gia Hà Nội, 2014.

Lê Thanh Tín – Lớp K6B – MSSV: 183801010054



×