HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV
*
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
SBD
18
TIỂU LUẬN
-----
Mơn: TƠN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG
Lớp Cao cấp lý luận chính trị, hệ tập trung: A83
Họ và tên (viết bằng chữ in hoa): PHAN VĂN CÔNG LUẬN
Ngày tháng năm sinh: 04/12/1985
ĐIỂM KẾT LUẬN CỦA
BÀI VIẾT TIỂU LUẬN
Ghi bằng số
GV chấm thứ 1
GV chấm thứ 2
15 trang (ghi
bằng số)
Ghi bằng chữ
mười lăm
trang (ghi
bằng chữ)
Tên bài: Đồng chí hãy phân tích thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín
ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Liên hệ thực trạng và đề xuất giải pháp thực hiện tốt
hoạt động của hai tín ngưỡng này ở địa phương đồng chí.
Cần Thơ, ngày 31/05/2021
NỘI DUNG CỦA TIỂU LUẬN
----I. LỜI MỞ ĐẦU
Tín ngưỡng dân gian của người Việt là tín ngưỡng đa thần, dựa trên quan niệm
vạn vật hữu linh. Trong quan niệm của xã hội truyền thống, xung quanh con người là
thế giới thần linh bao bọc, nó có thể mang tới điều tốt lành hay rủi ro cho con người.
Mọi hành động của con người đều hướng tới việc cầu xin các lực lượng siêu nhiên này
trợ giúp, che chở, để cầu lành tránh dữ. Tín ngưỡng dân gian của người Việt gắn liền
với hệ thống các thần thoại, truyền thuyết, thần tích, các di tích đền miếu, các nghi lễ,
phong tục và lễ hội, tạo thành một hệ thống văn hóa vừa mang tính vật thể và phi vật
thể. Cũng vì vậy nó gắn chặt với đời sống văn hóa của cộng đồng, đảm bảo tính bền
chắc, bền vững. Nhiều hình thức tín ngưỡng, như thờ cúng Tổ tiên, thờ anh hùng dân
tộc,… có khả năng tự đổi mới để thích ứng với những điều kiện xã hội mới, kể cả xã
hội hiện đại.
Quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân ta là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm và đã trở thành chính sách nhất quán, xuyên suốt. Một trong những cơ sở của
chính sách ấy là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tự do tín ngưỡng. Phải khẳng định rằng trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của các tầng lớp nhân dân, đáp
ứng phần nào nhu cầu tâm linh của nhân dân. Các hình thức sinh hoạt văn hóa truyền
thống, như các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, thờ anh hùng dân tộc được khôi phục và phát
triển. Nhằm khai thác kế thừa truyền thống và phát huy những giá trị văn hóa đã được
chung đúc từ hàng nghìn năm nay.
Nhưng đồng thời cũng cần phải thừa nhận rằng thực hành tín ngưỡng dân gian
hiện nay khơng chỉ hồn tồn mang tính tích cực mà cũng tồn tại nhiều mặt tiêu cực, vì
thế tín ngưỡng dân gian cũng có vai trị nhất định trong việc tạo ra/gây ra khơng ít các
hệ lụy cho xã hội. Vì vậy, bên cạnh việc khẳng định những giá trị, vai trị của tín
ngưỡng dân gian trong đời sống xã hội hiện nay thì cũng cần phải làm rõ ranh giới giữa
niềm tin tín ngưỡng và hiện thực cuộc sống.
Do đó, việc nghiên cứu nội dung: “Phân tích thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên và tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Liên hệ thực trạng và đề xuất giải pháp
thực hiện tốt hoạt động của hai tín ngưỡng này ở địa phương ” là rất cần thiết đối với
học viên Cao cấp Lý luận chính trị nói riêng, tồn thể cán bộ cơng chức, viên chức
trong nhà nước và nhân dân nói chung. Thơng qua tiểu luận này, giúp cho bản thân
củng cố lại kiến thực đã học, đó là những kiến thức về cơ sở lý luận, những đánh giá
tổng kết thực tiển, những giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG, TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ
TIÊN VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ ANH HÙNG DÂN TỘC
1
1. Các khái niệm
- Tín ngưỡng: là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi
gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống mang lại sự bình an về tinh thần cho cá
nhân và cộng đồng (Luật tín ngưỡng, tơn giáo số 02/2016/QH14 do Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 18/11/2016, hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2018). Mặc dù vẫn còn nhiều quan điểm trái chiều nhưng các nhà khoa học
và nhà quản lý thống nhất một nhận định chung: Tín ngưỡng là khái niệm dùng để chỉ
những hiện tượng tôn giáo xuất hiện trong thời kỳ công xã thị tộc, bộ lạc; những hành
vi cúng tế trong dân gian, sùng bái đa thần, không tuân theo một nghi thức nhất định
(tùy theo từng vùng, từng phong tục địa phương có những nghi lễ khác nhau); khơng có
giáo chủ/ người khai đạo, khơng có giáo lý, giáo luật và khơng có tín đồ hoặc tín đồ
khơng ổn định.
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (TNTCTT): hiện được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa
hẹp, TNTCTT là sự thờ cúng cha mẹ, ông bà và các thế hệ tổ tiên đã chết có cùng huyết
thống với chủ thể thờ cúng. Nghĩa rộng, TNTCTT khơng chỉ mở rộng huyết thống từ
gia đình đến họ tộc mà còn mở rộng ra cả tổ tiên làng xã, đất nước bao gồm những
người có cơng lập làng, giữ nước và những vị thần linh liên quan đến cuộc sống thường
nhật của con người.
- Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc (TNTAHDT): được hiểu là tín ngưỡng thờ
thần, đó là những nhân vật khi cịn sống có cơng trạng to lớn đối với đất nước, dân tộc
và khi qua đời, họ được nhà nước phong kiến sắc phong thần, kèm theo những quy định
về thiết chế thờ cúng cụ thể.
2. Đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thờ anh hùng dân tộc ở Việt
Nam
- Đặc trưng của tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên của người Việt được biểu hiện qua
hệ thống 3 cấp độ:
+ Ở cấp độ gia đình - dịng họ, người Việt Nam thờ cúng ông bà, cha mẹ,… là
những người cùng huyết thống đã chết (từ 5 đời trở xuống). Đã là người Việt Nam, dù
sang hèn, giàu nghèo khác nhau ai cũng thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên của mình. Đây
khơng chỉ là vấn đề tín ngưỡng mà còn là vấn đề đạo lý, phản ánh lòng biết ơn của con
cháu đối với công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Nơi thờ cúng là ở
gia đình và nhà thờ họ.
+ Ở cấp độ làng xã, người Việt cịn thờ những ơng tổ nghề, người có cơng khai
phá vùng đất mới, dựng làng, lập ấp, đánh giặc cứu dân,.v.v.. được dân làng tôn vinh là
Thành hồng và nơi thờ cúng ở đình làng.
+ Ở cấp độ Nhà nước, người Việt thờ cúng những người có cơng đối với đất nước,
như các Vua Hùng, Thánh Gióng, Trần Hưng Đạo, Hồ Chủ tịch… Vua Hùng được thờ
cúng như là tổ tiên chung của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hiện nay, Quốc tổ
2
Hùng Vương được thờ cúng chính ở Đền Hùng, Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và
1.417 đền thờ Hùng Vương ở khắp các tỉnh thành trong cả nước.
- Đặc điểm của tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở Việt Nam
+ Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở Việt Nam phản ánh sâu đậm quá trình dựng
nước và giữ nước hào hùng và oanh liệt của dân tộc
+ Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở Việt Nam đan xen, hồ đồng với các loại
hình tín ngưỡng, tơn giáo khác
+ Cơ cấu đối tượng thờ anh hùng dân tộc ở Việt Nam có sự hài hồ giữa Nam thần
và Nữ thần
+ Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở Việt Nam mang đậm màu sắc chính trị chính
thống, nhưng nhìn chung phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động
+ Nghi lễ thờ anh hùng dân tộc ở Việt Nam được tiến hành rộng rãi, thường
xuyên, từ quy mô quốc gia cho đến làng xã
III. THỰC TRẠNG TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN VÀ THỜ ANH
HÙNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam
* Về ưu điểm:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam mặc mặc dù có lúc thăng, lúc trầm nhưng
có sức sống lâu bền và từ lâu đã trở thành một nét đẹp trong đời sống cộng đồng của
các dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều thay đổi hiện nay,
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đang có dấu hiệu phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Thờ cúng
tổ tiên ở cấp độ gia đình – dịng họ được chú trọng, hầu hết các gia đình người Việt
Nam đều thờ cúng tổ tiên không kể trưởng thứ, con trai con gái, tôn giáo, thành phần
dân tộc.
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao,
nhu cầu tìm về nguồn cội và nhu cầu tâm linh đồng thời tăng lên. Các dòng họ đua nhau
tu bổ, sửa chữa hoặc xây mới nhà thờ, từ đường, các nghi lễ tế tổ được phục hồi, việc
họ cũng được khôi phục. Ở cấp độ làng xã, hoạt động thờ cúng tổ tiên cũng hết sức sôi
động mỗi khi tết đến xn về. Nhiều ngơi đình thờ thành hoàng cũng đã được phục
dựng lại hoặc được trùng tu, sửa chữa khang trang hơn. Hàng ngàn lễ hội gắn với tín
ngưỡng thờ thành hồng làng nở rộ khắp nơi. Còn ở cấp độ quốc gia, lễ hội giỗ tổ Hùng
Vương hiện nay cũng thu hút được sự quan tâm của đơng đảo nhân dân trong cả nước.
Ước tính, mỗi năm có tới trên 3 triệu người hành hương trẩy hội Đền Hùng (Phú Thọ).
Đó là chưa kể hàng triệu người dân đến thờ cúng Quốc tổ ở các đền thờ Vua Hùng trên
cả nước.
Thờ cúng tổ tiên trong các gia đình, dịng họ hiện nay đã có phần giản đơn, song
phần ý thức tâm linh vẫn được đề cao. Qua đây có thể thấy xuất phát từ những quan
niệm đúng đắn, từ mối liên hệ huyết thống sâu nặng trong gia đình cũng như trong họ
tộc, các nghi lễ thờ cúng tổ tiên đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của
3
người Việt. Đó cũng là việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
chống lại làn sóng xâm lăng về văn hóa khi đất nước vận hành cơ chế thị trường.
Nhìn chung, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam hiện nay đang được phục hồi
và phát triển nhưng cũng có những biến đổi do sự tác động bởi các điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội… song về cơ bản vẫn giữ được bản chất và giá trị của nó trong đời
sống xã hội.
* Những vấn đề đặt ra:
Tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt là một loại hình tín ngưỡng dân gian đậm
tính nhân bản, tuy có mặt tích cực về phương diện đạo đức làm người và là một truyền
thống văn hóa tốt đẹp của người Việt, nhưng ngược lại cũng bộc lộ sự mê tín, huyễn
hoặc, khi tin rằng tổ tiên đã chết có quyền lực che chở phù hộ cho con cháu. Tập tục
này cũng gây nhiều khó khăn và hao phí tiền của, cơng sức của con cháu. Vì trong thực
tế, trong một xã hội văn minh như hiện nay, ai ai cũng đều hiểu người chết không thể về
ăn những mâm cỗ cúng của con cháu. Làm giỗ cũng có khi chỉ là để “trả nợ miệng” cho
nhau và cũng để không bị miệng đời đàm tiếu cho rằng con cháu bất hiếu để cho ông bà
tổ tiên phải đói lạnh . Cụ thể, trong phạm vi gia đình, dịng tộc, ở nhiều địa phương, từ
khu vực thành thị tới nông thôn, hiện tượng tế lễ, phúng điếu linh đình, cầu kỳ, tốn kém
trong ma chay, giỗ chạp; hoạt động xem ngày, kén giờ để cử hành các nghi lễ tang, ma;
mời thầy cúng lập 5 đàn cúng tế, lập ban thờ, xem hướng đặt mồ mả…diễn ra khá phổ
biến.
Cùng với đó là phong trào xây dựng mồ mả, từ đường dù hoàn cảnh kinh tế của
nhiều gia đình cịn rất khó khăn. Sự phục hồi sơi động của TNTCTT cũng phát sinh
khơng ít các tiêu cực khác như mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia
đình, dịng họ về đất đai, về các khoản đóng góp…
2. Thực trạng tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở Việt Nam
* Về ưu điểm:
TNTAHDT ở Việt Nam xuất hiện từ rất sớm, phản ánh sâu đậm về một quá trình
dựng nước, giữ nước hào hùng và oanh liệt của dân tộc. Tín ngưỡng này đan xen, hịa
đồng vào các loại tín ngưỡng, tơn giáo khác (vừa mang nghi lễ của Nho giáo, lại vừa
đan xen nghi lễ Phật giáo), luôn gắn với lễ hội lớn, như: Lễ hội Đức Thánh Gióng, An
Dương Vương, các Vua Hùng, Trần Hưng Đạo,… Sự đan xen, hòa đồng của
TNTAHDT với các hình thức tơn giáo, tín ngưỡng khác cũng thể hiện rõ ở nơi đình,
đền, miếu thờ Thành hồng, mà đa số Thành hoàng là các vị anh hùng dân tộc. Cơ cấu
đối tượng thờ anh hùng dân tộc ở Việt Nam có sự hài hịa giữa nam thần và nữ thần. Nữ
thần chiếm khoảng 25%, tên tuổi, công trạng và cả sự hiển linh của họ sánh ngang với
các vị nam thần. Như trong lịch sử có Hai Bà Trưng, Bà Triệu và các nữ tướng của các
bà; thời cận hiện đại có bà Nguyễn Thị Minh Khai, bà Ba Định, anh hùng Võ Thị Sáu...
Lớp đối tượng nữa là thờ các bà mẹ, người vợ của các anh hùng dân tộc, khi sống họ có
cơng lao giúp chồng, còn lập nên sự nghiệp anh hùng. Nghi lễ thờ anh hùng dân tộc ở
4
Việt Nam được tiến hành rộng rãi, thường xuyên, từ quy mô quốc gia cho đến làng xã.
Ở các tỉnh thành khắp cả nước đều có đình, đền, miếu, phủ,….thờ các vị có cơng với
dân, với nước. Trong đó có những vị tướng lĩnh dũng cảm, kiên cường trong trận mạc
như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,…Lại cả các bậc danh nhân văn hóa như Chu
Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du,…những ông vua tài ba, đức
độ như Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tơng,… Ngày nay, tín
ngưỡng thờ cúng anh hùng dân tộc ở Việt Nam vẫn được các thế hệ người dân chăm lo,
giữ gìn và khơng ngừng phát triển, nhằm kế thừa truyền thống “uống nước nhớ nguồn,
ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, mang đậm nét nhân văn, cùng với niềm tự hào của dân Ở
nhiều địa phương trên cả nước, các cơ sở thờ tự của tín ngưỡng thờ cúng anh hùng dân
tộc được quan tâm khôi phục, tu bổ và xây dựng; tấm gương, công trạng của các vị anh
hùng dân tộc, các nghi lễ, thiết chế lễ hội của TNTAHDT được nghiên cứu, phổ biến tổ
chức thực hiện.
Như vậy, có thể thấy TNTAHDT là một loại hình tín ngưỡng mang tính phổ biến
của dân tộc, đáp ứng nhu cầu tâm linh của Nhân dân, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của xã hội và chính trị. So với các hình thức tín ngưởng khác, TNTAHDT có sự ưu
trội, khơng chỉ ở thực hành nghi lễ, mà cịn ở sự thống nhất cao của các yếu tố hợp
thành một hình thức tín ngưỡng.
* Những vấn đề đặt ra:
Tuy nhiên, sinh hoạt tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở một số địa phương cịn
phát sinh khơng ít những hoạt động tiêu cực. Đó là các hiện tượng bn thần bán thánh,
mê tín dị đoan; quan niệm mọi chuyện đều do trời, thần sắp đặt khiến con người ỷ lại;
hành vi thờ cúng có phần thái quá, rườm rà, gây lãng phí thì giờ và tốn kém tài lực của
Nhà nước cũng như của người dân, ảnh hưởng đến một số sinh hoạt cộng đồng. Thực tế
đó đặt ra u cầu cơng tác tơn giáo, tín ngưỡng của hệ thống chính trị cần quan tâm hơn
nữa cho việc phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt hạn chế của tín ngưỡng này.
Một bộ phận khơng nhỏ người dân tham gia vào các hoạt động tín ngưỡng khơng
bằng tâm thành kính, hướng về cội nguồn, mà mang tính chất vụ lợi, thực dụng. Tâm lý
trông chờ vào sự trợ giúp của thần, thánh xuất hiện ở nhiều người và nhiều tầng lớp
người trong xã hội. Lễ khai Ấn đền Trần (Nam Định) từ ý nghĩa là lễ khai mở cửa đền
của thủ nhang, giờ đây lễ hội này đã bị biến đổi ý nghĩa thành lễ khai ấn để cầu thăng
quan, tiến chức. Trần Hưng Đạo từ một anh hùng dân tộc cũng trở thành vị thánh siêu
phàm, cầu gì được nấy.
Hoạt động lễ hội, tín ngưỡng sơi động trở lại nhưng nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc được dung nạp, duy trì hàng nghìn năm trong hệ thống tín ngưỡng
đang bị phát triển thiên lệch. Sinh hoạt TNTAHDT ở một số địa phương còn để phát
sinh khơng ít những bất cập, những hành vi tiêu cực. Đó là hiện tượng bn thần bán
thánh, mê tín dị đoan; quan niệm mọi chuyện đều do trời, thần sắp đặt khiến con người
ỷ lại; hành vi, nghi lễ thờ cúng có phần thái quá, rườm rà, gây lãng phí thì giờ và tốn
5
kém tài lực của Nhà nước cũng như của Nhân dân, ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của
người dân, sinh hoạt động đồng.
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025,
Đảng ta đã đánh giá những hạn chế liên quan đến tín ngưỡng, tơn giáo: “Quản lý Nhà
nước về văn hóa, nghệ thuật, tơn giáo, tín ngưỡng có mặt cịn hạn chế. Có hiện tượng
thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo ở một số nơi” . Các dịch vụ như
bói quẻ, xin xăm, tử vi, tướng số, xem tuổi, đoán vận và một số dịch vụ hiện đại như:
cho thuê đồ lễ, sắp lễ thuê, mang vác đồ lễ thuê và thậm chí là khấn thuê… nở rộ ở
nhiều lễ hội. Không gian thiêng của lễ hội cịn bị thương mại hóa bởi nạn tiền lẻ vung
vãi khắp trên các ban thờ, tượng thờ, thậm trí vương vãi khắp cả sân đình, đền, miếu,
phủ. Bên trong cơ sở thờ tự hịm cơng đức bày la liệt, cùng với đó ở nhiều nơi cịn có
thêm những bàn ghi nhận cơng đức làm cho khơng gian thiêng của tín ngưỡng ngày
càng nặng màu sắc thương mại.
Công tác quản lý hoạt động tín ngưỡng là nhiệm vụ song trùng của hai ngành văn
hóa và tơn giáo. Trên thực tế, vì thiếu những quy định pháp luật rõ ràng và sự chồng
chéo của các cơ quan quản lý dẫn đến tình trạng có những nội dung thì hai ngành cùng
quản lý nhưng cũng có những nội dung lại khơng được ngành nào quan tâm. Trong sự
tác động tự phát bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường, đây cũng là một nguyên nhân
dẫn đến sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội có sự phát triển thiên lệch, vượt ra ngồi khn
khổ quy định của pháp luật, đặc biệt là hoạt động lễ hội ngày càng xô bồ, bát nháo.
Phong trào rầm rộ khơi phục các lễ hội và các di tích lịch sử - văn hóa gắn với
TNTAHDT những năm gần đây, do không được hướng dẫn, quản lý chặt chẽ bởi các
ngành chức năng đã nảy sinh khơng ít những vấn đề phức tạp. Nhiều cơng trình tín
ngưỡng được xây dựng theo mơ típ xa lạ với giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống;
nhiều di tích được trùng tu, tơn tạo nhưng lại mất đi vẻ cổ kính, trang nghiêm, làm mai
một hoặc sai lệch các giá trị nghệ thuật. Hiện tượng cơ sở tín ngưỡng là di tích lịch
sửvăn hóa bị xuống cấp chưa được quan tâm đúng mức hay cơ sở tín ngưỡng bị mất sắc
phong, đồ thờ tự hoặc bị chiếm dụng đất đai vẫn còn diễn ra ở một số địa phương.
Trong một số lễ hội, tình trạng lộn xộn, tệ nạn trộm cắp, cờ bạc, ăn xin, bói tốn,
tệ chèo kéo, lừa bịp khách hành hương, xả rác bừa bãi... diễn ra khá phổ biến. Các khâu
như đảm bảo giao thông, y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm, hướng dẫn khách thăm quan,
duy trì an ninh trật tự... là mối lo chung của nhiều địa phương vào mỗi mùa lễ hội. Thực
trạng trên đặt ra vấn đề là cần có những quy định pháp lý rõ ràng cho việc quản lý các
hoạt động tín ngưỡng, lễ hội; cần có sự phân cấp và có những quy định chặt chẽ, sự
phối kết hợp giữa các cơ quan chuyên ngành và liên ngành trong quản lý hoạt động tơn
giáo, tín ngưỡng, văn hóa lễ hội nhằm đưa sinh hoạt tín ngưỡng lễ hội vào nề nếp, định
hướng các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội theo hướng phát huy những giá trị tốt đẹp về
6
văn hóa, đạo đức truyền thống trong hệ thống tín ngưỡng, đưa sinh hoạt tơn giáo, tín
ngưỡng trở lại đúng với tinh thần nhân văn, nhân bản vốn có của nó.
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ
TIÊN VÀ THỜ ANH HÙNG DÂN TỘC Ở TỈNH BẠC LIÊU
Bạc Liêu là vùng đất địa linh nhân kiệt, rất giàu bản sắc văn hóa và truyền thống
cách mạng; dân số trên 900 ngàn người, trong đó có trên 90 ngàn người đồng bào dân
tộc thiểu số, chiếm 10,13% dân số toàn tỉnh. Mỗi dân tộc trên địa bàn tỉnh đều có sắc
thái bản sắc văn hóa riêng, hịa quyện vào nhau tạo nên nét văn hóa riêng của Bạc Liêu,
với phong cách phóng khống, nghĩa tình đặc trưng của vùng Nam bộ, tạo nên sự đa
dạng, phong phú của nền văn hóa tỉnh nhà.
Với những niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên, tín ngưỡng dân gian trong đời sống
tinh thần của người dân Bạc Liêu xảy ra trong lao động sản xuất hàng ngày đã tác động
trực tiếp đến đời sống và ngày càng trở nên phong phú. Những hình thức tín ngưỡng
dân gian từ xưa đến nay đã góp phần hình thành nét văn hóa của người dân nơi này;
những tín ngưỡng ảnh hưởng nhiều đến đời sống người dân Bạc Liêu chính là tín
ngưỡng phồn thực với nhiều nghi lễ, Lễ hội, nhưng bên cạnh đó tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên và thờ anh hùng dân tộc cũng mang tính phỗ biến và mang nhiều nét đặc trưng của
vùng đất này.
1. Thực tiễn hoạt động tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Bạc Liêu
* Về ưu điểm
Đây được xem là nét đẹp văn hóa tâm linh của người dân Bạc Liêu, thể hiện sự tri
ân đối với công ơn của tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã khuất, thể hiện lịng thành kính, lịng
biết ơn đối với các thế hệ đã có cơng sinh thành và ni dưỡng… Qua đó, giúp các thế
hệ con cháu biết ơn tổ tiên, dịng họ của mình; đối với loại hình tín ngưỡng này phổ
biến hầu hết ở các làng quê của tỉnh Bạc Liêu. Nhìn chung cách cúng thờ ông bà, tổ tiên
của đồng bào nơi đây không có gì khác biệt so với các vùng khác trong cả nước, bởi
đều có cùng cội nguồn dân tộc.
+ Ở cấp độ gia đình - dịng họ: Qua khảo sát nhiều nơi trong tỉnh, có thể thấy mỗi
gia đình đều có bàn thờ gia tiên. Có khác nhau chăng ở cách bố trí nơi thờ tự ở trong
nhà và việc bày biện các đồ thờ trên bàn thờ giữa những gia đình giàu có, trong những
ngơi nhà xưa hay trong những ngôi nhà xây cất hiện đại ngày nay, giữa những nhà khá
giả và những nhà bình dân. Ở Bạc Liêu cũng như nhiều tỉnh khác ở Nam Bộ, rất ít thấy
nhà thờ tộc (họ) như ở miền Trung và miền Bắc. Tuy nhiên, ở những gia đình, dịng họ
lớn, con cháu chung nhau làm nhà thờ (như nhà Thờ họ Vũ - Võ ở xã Lonh Thạnh,
huyện Vĩnh Lợi) hoặc duy trì ngơi nhà xưa của ơng bà để lại làm nơi thờ cúng, gọi là từ
đường. Nhiều gia đình vẫn còn giữ được những bản gia phả, hoặc bằng chữ Hán, hoặc
phiên thành chữ quốc ngữ ghi chép lại nguồn gốc, quá trình di chuyển từ nơi này sang
nơi khác, chức tước, công trạng, nghề nghiệp của người xưa v.v... Chính nhờ những
nguồn tài liệu quý giá này, mà ngày nay chúng ta hiểu rõ được con đường, cách thức di
7
chuyển, những nơi dừng chân, địa bàn cư trú của những lớp lưu dân ở vùng đất này.
Cũng không hiếm trường hợp thay đổi tên họ do những biến động về chính trị, hay để
tránh những cuộc truy bức, khủng bố của bên này hay bên kia, kể cả thực dân đế quốc.
Ở nơng thơn, nhà dù khó khăn, khơng sắm được chiếc bàn bằng gỗ, thì cũng đóng một
chiếc chõng tre, hay bằng tầm vông, cao ngang ngực, trên mặt đan vỉ hay ken tre, trên
cùng trải chiếc chiếu con, người bình dân quen gọi là giường thờ. Trên giường thờ cũng
đặt bánh hương, chân đèn bằng sành, để đĩa đựng dầu thắp, lọ cắm hoa v.v... Đối với
người giàu cũng như người nghèo, ngày giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ là “ngày tang trong
suốt đời” (chung thân chi tang) để con cháu và người thân tưởng nhớ đến người đã
khuất. Vì vậy, người dân có tập qn dành những món ngon nhất, tốt nhất, từ vật ni
đến trái cây theo mùa vụ, cân nếp, cân đậu (dùng để nấu xơi, gói bánh) cho đám giỗ
người thân. Nếu phải đi mua từ ngồi chợ, thì cũng phải chọn miếng thịt tươi, con cá
ngon, con gà béo tốt để về làm thức dâng cúng. Vì mỗi năm chỉ cúng giỗ một lần, cho
nên mọi người đều cho lễ giỗ là trọng, từ bà con xa gần đến cả đồng hương, đồng 9
xóm, cũng như bạn bè thân thích. Dù làm việc ở nơi đâu, gần hay xa con cháu trong gia
đình phải nhớ ngày mà về. Những gia đình khá giả thường làm lễ cúng tiên thường với
lễ vật đơn sơ, gọn nhẹ từ nhiều hôm trước (như hàm ý mời gọi người thân đã quá cố
hãy vui vẻ mà về với con cháu). Ngày hôm sau mới là ngày giỗ chính. Thường thì giỗ
cha, giỗ mẹ, con cái làm lễ to, rồi trở lên mỗi đời xa hơn thì lễ giỗ tổ chức đơn giản
hơn, khơng mời mọc nhiều người. Bà con, bạn bè đến ăn giỗ thường mang theo hương
hoa, trái cây, rượu, bánh, trà để dâng cúng và lễ lạy trước bàn thờ người đã khuất, sau
đó mới ngồi vào dự tiệc.
Tín ngưởng thờ cùng tổ tiên ở Bạc Liêu phái nói đến Lễ hội Thanh Minh (lễ tảo
mộ), thời gian diễn ra từ cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3 Âm lịch, kéo dài một tháng (tùy
theo năm). Đây là dịp để con cháu hướng về tổ tiên, cội nguồn, trong tháng này con
cháu dù ở xa cũng tụ tập về quê để làm mả (mộ) ông, bà hoặc cha mẹ quá cố cho thật
đẹp và tổ chức cúng vào một ngày nào đó trong dịp Thanh Minh. Ngoài ý nghĩa tưởng
nhớ người đã khuất, đề cao sự hiếu thảo của con cháu mà còn mang đậm tính cộng
đồng, đó chính là khơng gian của ngày lễ diễn ra tại các khu nghĩa địa, nghĩa trang,
ngồi bà con dịng họ ruột thịt, cịn có bạn bè thân thiết, hàng xóm láng giềng cũng góp
mặt, cùng tham gia ăn uống, hát hò tại mả của người thân, đây thật sự là nét đẹp văn
hóa khơng phải nơi nào cũng có.
+ Ở cấp độ làng xã: Bạc Liêu có đường bờ biển dài 54km, chạy qua 3 đơn vị
hành chính cấp huyện gồm: thành phó Bạc Liêu, Hịa Bình và Đơng Hải, do đó tín
ngưỡng Thờ cúng tổ tiên của người Bạc Liêu ở cấp độ làng xã thể hiện qua nhiều lễ hội
gắn liền với biển, mà điển hình là Lễ hội Nghinh Ơng thời gian từ ngày 8 - 10 tháng
Giêng hàng năm tại Lăng Ơng Dun Hải, xã Vĩnh Thịnh, huyện Hịa Bình và từ ngày 9
- 11 tháng 3 Âm lịch hàng năm tại Lăng Ơng, thị trấn Gành Hào, huyện Đơng Hải. Đây
là Lễ hội văn hóa tâm linh truyền thống mang tính cộng đồng của ngư dân, cầu mong
8
một mùa đánh bắt thuận lợi, bình an nơi biển cả; đồng thời tưởng nhớ loài cá voi - vị
thần của biển cả, đã khơng ít lần giúp dân đi biển vượt qua sóng to, gió lớn, đem lại
điềm lành, hạnh phúc cho ngư dân. Lễ hội cũng là dịp để người dân giao lưu văn hóa,
gắn kết cộng đồng ngư dân và dân cư ở địa phương. Ngoài tham gia nghi thức cúng lễ,
người dân còn được tham gia nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc sắc như biểu diễn
nghệ thuật, hát cải lương, tuồng cổ, tổ chức các trò chơi dân gian, hội thi ẩm thực, hội
chợ, múa lân sư rồng, thi đấu thể thao... Lễ hội Kỳ Yên (hay cầu an) là một trong những
lễ hội được nhân dân tổ chức quy mô, long trọng nhất trong mỗi một ngơi đình làng.
Mục đích của lễ hội là cầu cho mưa thuận, gió hồ, mùa màng bội thu, xóm làng yên
vui, dân giàu nước mạnh. Cũng như nhiều lễ hội truyền thống được tổ chức tại các địa
phương ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Lễ hội Kỳ Yên ở Bạc Liêu được tổ chức
gồm 2 phần: lễ và hội. Trong phần lễ có các nghi thức rước sắc thần về đình; tế túc yết:
dâng hương, dâng rượu, dâng trà và đọc bài văn tế cầu nguyện và cảm tạ các thần
Thành Hoàng, Tiên hiền, Hậu hiền, thần Nông, thần Hổ... đã phù hộ cho dân làng có
được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đặc biệt, trong phần hội của Lễ hội Kỳ n có
chương trình hát bội với nhiều tuồng tích xưa như: Chung Vơ Diệm, Thần Nữ Ngũ Linh
Kỳ, Trảm Trinh Ân, Lưu Kim Đính, Tiết Đinh San...Ngoài các Lễ hội nêu trên, tại Bạc
Liêu cịn có các Lễ hội lớn có tính tương đồng với các tỉnh trong khu vực như: Óc-OmBoc, Chol-Chnam-Thmay, Đol-ta, Lễ hội đua ghe ngho, ... vô cùng phong phú và độc
đáo.
+ Ở cấp độ Nhà nước: Di tích Đền thờ Bác (Địa điểm xây dựng ở ấp Bà Chăng A
- Xã Châu Thới - Huyện Vĩnh Lợi), năm 1998, đã được Bộ Văn hóa thơng tin cơng nhận
là di tích lịch sử - văn hóa., Di tích này biểu thị tinh thần anh dũng và sự mưu trí của
quân dân Châu Thới, cũng như nhân dân Bạc Liêu nói chung thông qua những hiện vật
được trưng bày tại di tích, những chiến sĩ đã từng khơng tiếc sinh mạng mình để bảo vệ
Đền thờ, và họ vẫn tiếp tục qng đời cịn lại của mình bảo vệ Đền thờ Bác. Sau ngày
giải phóng đến nay Đền thờ thường xuyên là địa điểm để tổ chức những hoạt động xã
hội, là nơi họp mặt những ngày truyền thống. Thời gian từ ngày 11 -15 tháng 8 Âm lịch
hàng năm, tại Khu lưu niệm Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu,
đường Ninh Bình, phường 2, thành phố Bạc Liêu, lễ hội nhằm tưởng nhớ, tri ân công
lao của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, người đã có cơng đóng góp cho q trình ra đời và
phát triển của bản vọng cổ ngày nay. Lễ hội không chỉ nhằm tôn vinh cố Nhạc sĩ Cao
Văn Lầu và tơn vinh bản Dạ Cổ Hồi Lang, mà cịn để tơn vinh những nghệ sĩ, nghệ
nhân đã có cơng lao đóng góp nhằm duy trì, phát triển và làm phong phú thêm cho vốn
âm nhạc truyền thống Nam Bộ. Các hoạt động diễn ra trong lễ hội bao gồm các chương
trình biểu diễn nghệ thuật, giao lưu đờn ca tài tử, lễ giỗ tổ cổ nhạc, trưng bày hiện vật,
hình ảnh nhạc sĩ Cao Văn Lầu và các sản phẩm nghề truyền thống…
* Những vấn đề đặc ra:
9
Một là, đại bộ phận người dân, trong đó có các cán bộ, đảng viên có xu hướng đề
cao việc thờ cúng tổ tiên bằng cách tổ chức thờ cúng với nhiều hình thức phơ trương
hơn. Ngày càng có nhiều ngơi mộ hồnh tráng, bề thế, lát đá hoa cương, cẩm thạch
được xây cất trong các nghĩa trang. Ngày càng có các đám giỗ mà khách mời lên đến
vài chục thậm chí cả trăm người. Thực hiện những việc này, bên cạnh sự tưởng nhớ, sự
đền ơn đáp nghĩa cho tổ tiên thì cịn cả sự “sĩ diện” của những người đang sống”. Sự
phô trương trong việc thờ cúng tổ tiên đã dẫn đến sự ganh đua, cạnh tranh lẫn nhau giữa
các gia đình, dịng họ để chứng tỏ sự khá giả về kinh tế dẫn tới sự mất đoàn kết, ghen
tức, đố kỵ lẫn nhau. Hoạt động xem ngày, kén giờ để cử hành các nghi lễ tang, ma; mời
thầy cúng lập đàn cúng tế, lập ban thờ, xem hướng đặt mồ mả… vẫn còn diễn ra.
Hai là, TNTCTT bị biến dạng, khơng cịn ngun nghĩa của đạo lý “uống nước
nhớ nguồn”. Hiện nay, nhiều người, trong đó có cán bộ, đảng viên thờ cúng tổ tiên theo
thói quen, thậm chí chỉ mang mục đích vụ lợi, cầu xin thần thánh, tổ tiên ban cho tiền
tài, chức tước, địa vị... Khơng ít cán bộ, đảng viên chưa phân biệt được giá trị văn hóa
đích thực và những yếu tố mê tín, hủ tục hay bị biến tướng, bị lợi dụng nên khơng phát
huy được giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp trong TNTCTT. Hiện tượng băng hoại đạo đức
vẫn tồn tại, như: con cái bất hiếu, khi cha mẹ sống khơng quan tâm, chăm sóc, khi chết
thờ cúng linh đình; con cháu thờ ơ, khơng quan tâm tới ngày giỗ tổ, giỗ ông bà, cha mẹ;
đùn đẩy trách nhiệm tang ma, chôn cất ông bà, cha mẹ;...
2. Thực tiễn tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở Bạc Liêu
* Về ưu điểm
Để bày tỏ lịng thành kính đối với các bậc tiền nhân, người dân và chính quyền đã
lập nhiều ngôi đền, khu tưởng niệm phụng thờ. Điển hình là đền thờ Chủ tịch Hồ Chí
Minh, vừa là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở cấp độ nhà nước vừa là nơi cho hoạt động
tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở Bạc Liêu, Đền thờ Bác Hồ Bạc ở xã Châu Thới vừa
là di sản văn hóa tinh thần của người dân ở địa phương, vừa là điểm sáng để giáo dục
truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của ông cha ta cho thế hệ hôm nay và
mai sau. Và nay còn là địa điểm du lịch Bạc Liêu thu hút đơng khách trong và ngồi
tỉnh Bạc Liêu đến tham quan, viếng Bác, tỏ lòng biết ơn sâu sắc công lao vô cùng to lớn
của Người. Một cơng trình khác đó là tượng đài liệt sỹ chiến thắng Mậu Thân 1968,
Tượng đài được xây dựng nhằm ghi dấu hình tượng những người con anh hùng xứ sở
Bạc Liêu từ giai đoạn mở cõi, chống Pháp cho đến chống Mỹ và cuối cùng là xây dựng
– phát triển, tượng đài liệt sỹ là một cơng trình lớn nằm trong khuôn viên của Quảng
trường Hùng Vương. Đồng thời, quảng trường Hùng Vương cũng được đánh giá là
Quảng trường tiêu biểu và lớn nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với hơn 10.000
lượt khách du lịch ghé thăm mỗi tháng. Cơng trình tượng đài nữ anh hùng liệt sĩ Lê Thị
Riêng (tọa lạc tại Công viên Lê Thị Riêng, TP Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu). Di tích Đồng
Nọc Nạng là di tích được Bộ Văn hóa - Thơng tin cơng nhận là di tích lịch sử - văn hóa,
di tích này nằm ở ấp 4, xã Phong Thạnh, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu ngày nay. Di tích
10
này là nơi diễn ra cuộc đấu tranh anh dũng của nơng dân để bảo vệ ruộng đất của mình
trước sự cướp bóc của bọn địa chủ cường hào dựa vào thế lực của bọn thực dân Pháp.
Đã trải qua hơn bảy mươi năm, cánh đồng Nọc Nạng vẫn còn đọng lại khúc ca bi tráng
ngày nào, sự kiện ấy đã đi vào thơ ca hò vè và nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật với
hình tượng người nơng dân Bạc Liêu chất phác thật thà mà đầy nghĩa khí,... Hàng năm,
tại các đền thờ, khu lưu niệm đều diễn ra lễ giỗ danh nhân với sự tham gia đông đảo của
người dân địa phương.
Bên cạnh đó, để ghi nhớ công ơn các anh hùng, liệt sĩ, tỉnh Bạc Liêu có chủ
trương xây dựng đền thờ liệt sĩ. Hiện nay, tất cả các xã, phường, thị trấn trên địa bàn
tỉnh đều có đền thờ liệt sĩ. Hàng năm, kỷ niệm Ngày Thương binh, liệt sĩ 27-7, chính
quyền và nhân dân các cấp tổ chức dâng hương tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ, nhiều
hoạt động đền ơn đáp nghĩa như: khám bệnh, tặng quà, thăm hỏi gia đình liệt sĩ, trao
tặng nhà tình nghĩa… được diễn ra với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”.
* Những vấn đề đặc ra:
Một là: Một số sinh hoạt tín ngưỡng chung của cả cộng đồng như thờ Thành
hoàng làng, thờ anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hóa cũng đang bị biến dạng, méo
mó. Từ ý nghĩa tốt đẹp ban đầu, giờ đây các anh hùng, các danh nhân văn hóa, những
người có công với cộng đồng đang dần bị biến thành những vị thánh mang đầy bản chất
thực dụng để đáp ứng mong muốn trần tục của người dân (cầu thăng quan, tiến chức,
cầu phát tài phát lộc).
Hai là: Công tác bảo tồn, trùng tu di tích, khơi phục các loại hình lễ hội, tín
ngưỡng, trong đó có tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc một số nơi trong tỉnh có hiện
tượng làm sai lệch hoặc biến dạng những giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống của
dân tộc. Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng xuống cấp chưa kịp thời duy tu, sửa chữa gây
bức xúc trong cộng đồng (như theo phản ánh của Báo Dân trì: Một phần cơng trình
tượng đài nữ anh hùng liệt sĩ Lê Thị Riêng - tọa lạc tại Công viên Lê Thị Riêng, TP Bạc
Liêu, tỉnh Bạc Liêu có dấu hiệu đang bị xuống cấp, hư hỏng trông rất thảm hại.), một
số vấn đề tiêu cực trong việc xây dựng các cơng trình phục vụ hoạt động tín ngưỡng
này.
Ba là: Ở địa phương có tình trạng mượn danh anh hùng, danh nhân văn hóa dân
tộc để trục lợi cho một số cá nhân, tuyên truyền cho cách thức hành đạo phản văn hoá,
phi đạo đức, đi ngược lại với tinh thần nhân văn, gây những tác động tiêu cực tới xã
hội.
V. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
1. Các nhóm giải pháp chung: Các nhóm giải pháp chung này nhằm thực hiện
tốt hoạt động của các hoạt động tín ngưỡng ở tỉnh, cũng là những giải pháp căn cơ
nhằm thực hiện tốt hơn hoạt động tín ngưỡng thờ cùng tổ tiên và thờ anh hùng dân tộc ở
Bạc Liêu hiện nay:
11
Một là, điều tra, nghiên cứu, hệ thống hóa các giá trị văn hóa, đạo đức trong các
tín ngưỡng truyền thống nói chung, TNTCTT và TNTAHDT nói riêng đang tồn tại trên
địa bàn tỉnh. Trước hết cần có sự điều tra, nghiên cứu, hệ thống hóa lại một cách đầy đủ
các giá trị đạo đức truyền thống được bảo lưu trong hai lại hình tín ngưỡng này. Trên cơ
sở đó, có sự đánh giá khách quan, khẳng định rõ những giá trị tốt đẹp còn phù hợp với
xã hội hiện nay cần bảo tồn, phát huy; những giá trị đã lỗi thời, lạc hậu cần thay đổi;
những yếu tố biến tướng do bị lợi dụng vì mục đích trục lợi và những yếu tố có tính
chất mê tín, dị đoan “ký sinh” trong các hoạt động tín ngưỡng cần loại bỏ.
Hai là, Các cấp ủy đảng, chính quyền cần đẩy mạnh việc tuyền truyền để cán bộ,
đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng về những giá trị tốt đẹp, tích cực của tín
ngưỡng cũng như loại trừ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp với hiện nay. Đặc biệt,
chú ý tuyên truyền để người dân phân biệt rõ sự khác nhau về bản chất giữa tín ngưỡng
và các hiện tượng “đạo lạ” xuất hiện ở nhiều địa phương trong thời gian gần đây. Đồng
thời, tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và người dân hiểu rõ chính sách tơn trọng tự do
tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước, từ đó nâng cao ý thức bảo tồn giá trị tích cực của tín
ngưỡng cũng như tham gia đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng vào mục
đích xấu. Trong tuyên truyền, cùng với việc phát huy vai trị của các tổ chức đồn thể
nhân dân, cần chú ý phát huy tối đa vai trò của hệ thống thông tin đại chúng để định
hướng giá trị và dư luận trong bảo vệ, phát huy các giá trị đạo đức tốt đẹp cũng như phê
phán các hoạt động tín ngưỡng trái pháp luật.
Ba là, tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng. Các cấp ủy đảng
cần lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quy chế phối hợp giữa cơ quan quản lý tín ngưỡng,
tơn giáo và cơ quan quản lý văn hóa, phân định rõ trách nhiệm, tránh sự chống chéo
cũng như “bỏ trống” nhiệm vụ, bảo đảm để các hoạt động tín ngưỡng tuân thủ pháp
luật, phù hợp với nếp sống văn minh, hiện đại.
Bốn là, nâng cao vai trò của những người trực tiếp tổ chức thực hành tín ngưỡng
truyền thống. Các tín ngưỡng truyền thống khơng có tổ chức giáo hội chặt chẽ như tơn
giáo, nhưng bao giờ cũng có những người trực tiếp tổ chức và hướng dẫn sinh hoạt tín
ngưỡng cho cộng đồng, các cấp ủy đảng, chính quyền cần quan tâm đến đội ngũ này,
vận động họ thực hiện đúng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về tín ngưỡng và bảo tồn, phát huy di sản văn hóa tín ngưỡng.
Năm là, gắn kết việc bảo tồn, phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp trong tín
ngưỡng vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, phong trào thi đua yêu nước,
phong trào văn hóa tại cơ sở. Cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương cần xác định
việc bảo tồn, phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp trong tín ngưỡng là một trong
những nội dung của các chương trình xây dựng nông thôn mới cũng như trong kế hoạch
phát triển ngành du lịch. Trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”, với những nơi có cơ sở tín ngưỡng, cần đưa việc sinh hoạt tín
ngưỡng có văn hóa thành một tiêu chí xác định gia đình văn hóa, làng, khu phố văn hóa.
12
Đồng thời, đưa vấn đề sinh hoạt tín ngưỡng có văn hóa vào nội dung các quy ước cộng
đồng hay quy chế tổ chức lễ hội tín ngưỡng để nâng cao ý thức trách nhiệm của người
dân trong bảo tồn, phát huy các giá trị đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng truyền thống, góp
phần xây dựng đời sống tinh thần ngày càng phong phú và tốt đẹp hơn
2. Nhóm giải pháp riêng
- Đối với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Bạc Liêu:
Một là, tăng cường các biện pháp tổ chức, quản lý hành chính kết hợp với tuyên
truyền giáo dục ý thức tự giác của người dân. Sự tồn tại những hoạt động trong các lễ
hội cổ truyền, trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đặc biệt là các hoạt động thương mại
hóa trong lễ hội là một hiện tượng khơng lành mạnh, cần sớm loại bỏ vì nó đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Về phía
nhà nước và các cơ quan chức năng phải có sự quản lý giám sát chặt chẽ các hoạt động
tổ chức, kinh doanh trong lễ hội. Muốn vậy cần phải phân trách nhiệm cụ thể cho từng
cơ quan, ban ngành tránh hiện tượng chồng chéo chức năng nhiệm vụ. Bên cạnh đó,
cũng cần phải giáo dục ý thức của người dân.
Hai là, cần kiên trì giáo dục, hạn chế những yếu tố thiếu lành mạnh, mê tín dị
đoan trong tổ chức tang ma, giỗ chạp, lễ hội như: xem bói, xem quẻ, cúng gọi hồn…;
cần làm cho mọi người thấy rõ những nguy hại của việc lợi dụng chính sách tự do tín
ngưỡng, tơn giáo để hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và Nhà nước Việt Nam
sẽ kiên quyết xử lý, nghiêm trị những kẻ lợi dụng tự do tín ngưỡng tơn giáo để phá vỡ
sự ổn định chính trị - xã hội, gây rối trật tự cơng cộng, chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc.
Ba là, xây dựng mơi trường văn hóa – xã hội lành mạnh. Xây dựng và phát triển
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trên cơ sở đẩy mạnh phong trào thi đua
“Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng mơi trường văn hóa – xã hội lành
mạnh là điều kiện không thể thiếu được và góp phần phát huy những giá trị tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhất là trong nghi lễ thờ
cúng tổ tiên. Giáo dục đạo đức và nếp sống văn hóa gia đình truyền thống cho mọi
người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhằm nâng
cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xóm – tổ
quốc; giáo dục lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, sự tinh tế trong ứng
xử, trong lối sống, cái tiến bộ trong văn hóa của các dân tộc, đi liền với sự đấu tranh
chống cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, lề thói cũ.
Bốn là, chăm lo đời sống vật chất, nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân, đảm
bảo việc làm cho người lao động, cải thiện các điều kiện làm việc cho người lao động,
đồng thời không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Nâng cao đời sống
tinh thần cho nhân dân trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống dân
tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Đối với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở Bạc Liêu:
* Đối với Nhà nước
13
- Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân; Bảo đảm các hoạt động tín
ngưỡng tuân thủ các quy định của pháp luật.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng tạo cơ sở pháp lý
cho công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng. Trong đó, cần có các biện
pháp ngăn chặn, xử lý những hoạt động mê tín, dị đoan, trục lợi trong các hoạt động tín
ngưỡng và xây dựng các cơ sở tín ngưỡng trái pháp luật. Đối với những vấn đề liên
quan đến tín ngưỡng chưa được quy định hoặc chưa được quy định đầy đủ, chậm được
điều chỉnh trong các văn bản pháp lý thì cần tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật về tín ngưỡng tạo cơ sở pháp lý cho cơng tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tín ngưỡng này.
- Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là
cho đội ngũ cán bộ làm cơng tác liên quan đến tín ngưỡng.
- Tăng cường công tác tuyên truyền nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
tốt đẹp của loại hình tín ngưỡng này. Tiếp tục đổi mới phương pháp, cách thức tuyên
truyền trong quản lý hoạt động của tín ngưỡng để thu hút được sự quan tâm, chú ý của
người dân, nâng cao 9 nhận thức cho họ về các giá trị của tín ngưỡng. Đây là nhiệm
chung của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân, nhất là ngành văn hóa các
cấp.
- Tăng cường cơng tác kiểm tra, chủ động nắm tình hình trong quá trình quản lý
nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng này.
- Phân cấp và có những quy định chặt chẽ về sự phối kết hợp giữa các cơ quan
chuyên ngành và liên ngành trong quản lý hoạt động tín ngưỡng nói chung và hoạt động
tìn ngưỡng này nói riêng.
- Định hướng người dân có được những sinh hoạt tín ngưỡng lành mạnh để những
giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống trong tín ngưỡng được duy trì, phát huy, được
thực hành sống động trong xã hội hiện đại, góp phần thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt văn
hóa, tinh thần của người dân.
- Kịp thời, chú trọng hỗ trợ các nguồn lực để trung tu, sửa chữa các di tích, cơng
trình xuống cấp.
* Đối với cơ sở tín ngưỡng
- Khơi phục, trùng tu những cơ sở tín ngưỡng đã bị xuống cấp và xây dựng mới cơ
sở tín ngưỡng, đáp ứng nhu cầu chính đáng của cộng đồng dân cư
- Phối hợp, bổ sung thêm các giá trị văn hóa, nghệ thuật đương đại nhưng vẫn
đảm bảo các giá trị văn hóa, nghệ thuật tín ngưỡng truyền thống.
- Hạn chế dần những mặt tiêu cực nảy sinh trong sinh hoạt tín ngưỡng (như lãng
phí, tài chính bất minh,…) đưa sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội trở lại với những giá trị thực
(giá trị tốt đẹp mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng).
* Đối với nhân dân
14
- Nâng cao nhận thức, phát huy vai trò tự quản của cộng đồng dân cư trong việc tổ
chức hoạt động tín ngưỡng này, giúp cộng đồng thực hiện nếp sống văn minh phát huy
bản sắc văn hóa nhân loại.
- Tham gia các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng đúng mực.
- Hạn chế dần những mặt tiêu cực nảy sinh trong sinh hoạt tín ngưỡng (như mê
tín, lãng phí, ơ nhiễm,…).
V. KẾT LUẬN
Như vậy, qua thực trạng thờ cúng tổ tiên và thờ anh hùng dân tộc của người Việt
nói chung, ở Bạc Liêu hiện nay nói riêng, có thể hai hoạt động tín ngưỡng này đang
được khơi phục và phát triển nhanh từ nông thôn đến thành thị. Song bên cạnh những
giá trị tích cực cần phải giữ gìn và phát. Thì hai hoạt động tín ngưỡng này đang có
nhiều diễn biến phức tạp, tiêu cực cần phải khắc phục như: một bộ phận tuyệt đối hóa
giá trị tâm linh của thờ cúng tổ tiên nên bị lợi dụng vào mục đích mê tín gây lãng phí
tiền bạc của Nhà nước và nhân dân; đề cao quan hệ cộng đồng huyết thống, xem nhẹ
các quan hệ xã hội khác dẫn đến dẫn đến cục bộ, hẹp hòi… Đồng thời du nhập một số
lễ nghi, lễ vật không phù hợp ảnh hưởng đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
như: đua nhau sắm sửa vàng mã trong các dịp lễ, tết; nạn phong bì… làm biến dạng ý
nghĩa nhân văn sâu sắc của truyền thống, tạo điểu kiện cho tư tưởng cơ hội, trục lợi, vì
mục đích bn thần bán thánh. Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cơng tác tơn giáo, tín
ngưỡng của hệ thống chính trị cần quan tâm hơn nữa, đề ra và triển khai hiệu quả nhiều
giải pháp đồng bộ nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt hạn chế của hai hoạt
động tín ngưỡng này trong thời gian tới./.
15