Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Cấu trúc ngữ nghĩa của kết cấu x + bộ phận cơ thể người trong tiếng việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận (so sánh với tiếng anh)(luận án tiến sĩ ngôn ngữ học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 170 trang )

1

DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong tiếng Việt, có rất nhiều kết cấu thuộc dạng “X + bộ phận cơ thể người
(BPCTN)”. Chúng là một đơn vị ngôn ngữ có hình thức cấu tạo riêng và có tầm
quan trọng trong cấu tạo ngữ tiếng Việt. Khái niệm của ngữ cớ định và đặc điểm
của nó trong sự phân biệt với các đơn vị ngôn ngữ khác trong tiếng Việt cũng là
một chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam.
Các từ chỉ BPCTN là một trường từ vựng phong phú trong tiếng Việt. Theo
Nguyễn Văn Chiến (2004; tr.256-259), cách gọi tên các BPCTN trong tiếng Việt có
ng̀n gớc dựa trên cơ sở văn hóa cái mà được hình thành dựa trên hai nguyên lý
tương tác căn bản sau đây: con người là một tiểu vũ trụ trong mối quan hệ với đại
vũ trụ nhưng lại là vũ trụ trung tâm; con người tự nhận thức chính bản thân mình
trong tính trung tâm của nó – tự giải phẫu cơ thể mình rời hướng ra đại vũ trụ và
ngược lại, nhìn từ đại vũ trụ để nghiệm ra hay soi rọi chính mình trong quá trình
nhận thức ấy. Nguyễn Văn Chiến cũng liệt kê các đặc trưng về hình thức và cấu trúc
ngữ nghĩa của trường từ vựng chỉ BPCTN tiếng Việt như sau: thứ nhất, chúng đều
có ý nghĩa định danh biểu vật các BPCTN từ trên xuống dưới, từ trái qua phải và từ
ngoài vào trong cơ thể; thứ hai, dựa trên cơ chế chuyển nghĩa, các từ vựng chỉ
BPCTN tiếng Việt đều có thêm mợt hay nhiều ý nghĩa biểu trưng (là ý nghĩa xã
hội); thứ ba, cái ý nghĩa xã hội này nhiều khi lại làm cho từ chỉ BPCTN chuyển loại
hẳn thành một từ đồng âm khác nghĩa; thứ tư, một số lượng lớn các từ chỉ BPCTN
với ý nghĩa biểu trưng của mình đã kết hợp với nhau tạo thành những từ ghép có từ
hai yếu tớ trở lên, có tính biểu trưng cao, chứa đựng những đặc trưng văn hóa dân
tợc; thứ năm, mợt sớ lớn các từ chỉ BPCTN đã trở thành các vật chiếu để cấu tạo các
từ vựng mới, biểu chỉ những khái niệm mới, rộng lớn hơn, liên quan đến thế giới
khách quan của con người. Còn theo Nguyễn Đức Tồn (2002; tr.405-421), hiện
tượng trong tiếng Việt lấy một số bộ phận cơ thể, thường là cơ quan nội tạng, để
biểu trưng cho thế giới tâm lý, tình cảm của con người Việt là một hiện tượng khá
lý thú. Theo ông, người Việt hết sức coi trọng trục tâm – thận và lấy “lòng” làm


biểu tượng cho tình cảm nói chung, tình u nói riêng. Thế giới tâm lý, tình cảm
của người Việt được biểu trưng bằng BPCTN là hết sức đa dạng và phong phú,
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Nguyễn Đức Tồn cho rằng, về phương diện lý
thuyết, mỡi dân tợc theo quan niệm của mình có thể gán mợt sớ hiện tượng tâm lý
nào đó cho một số BPCTN nhất định và ngược lại, cùng một BPCTN có thể được


2

phân cơng có chức năng biểu trưng cho những hiện tượng tâm lý hay tình cảm khác
nhau. Ơng đã thớng kê được trong tiếng Việt đã sử dụng 397 đơn vị để gọi tên 289
BPCTN khác nhau (2002; tr.20-54).
Còn theo Kovecses (2010; tr.18-54), các BPCTN là một miền nguồn lý tưởng
cho chúng ta, thơng qua phép ẩn dụ, để có thể hiểu được thấu đáo những miền đích
trừu tượng. Kovecses dẫn sớ liệu từ cơng trình nghiên cứu được thực hiện bởi một
học trò của ông là Réka Benczes, trong đó thớng kê rằng trong sớ 12.000 thành ngữ
tìm kiếm được có sử dụng phương tiện ẩn dụ thì đã có hơn 2.000 thành ngữ có bao
gờm BPCTN. Điều này cho thấy rằng, một số lượng rất lớn các ẩn dụ ý niệm đến từ
trải nghiệm thực tế của chúng ta với cơ thể con người.
Ngôn ngữ học tri nhận (NNHTN) là một ngành học đang phát triển tại Việt
Nam trong thời gian gần đây và hứa hẹn vẫn sẽ còn nhiều tiềm năng to lớn mà trong
chừng mực nào đó chúng ta chưa thể nghiên cứu hết được. NNHTN, cũng giống
như các ngành khoa học ngôn ngữ khác, nghiên cứu để có thể miêu tả và giải thích
mợt cách chính xác nhất tính hệ thống của ngôn ngữ, cấu trúc và chức năng của nó,
cũng như trả lời cho câu hỏi bằng cách nào mà chức năng này được ngôn ngữ thể
hiện. Tuy nhiên, lý do quan trọng nhất để khởi ng̀n cho sự xuất hiện của NNHTN
đó là nó phải tìm ra câu trả lời cho câu hỏi liệu ngơn ngữ có phản ánh các mơ hình
tư duy của chúng ta hay khơng? Liệu ngơn ngữ có phản ánh những thuộc tính và
những nét khu biệt cơ bản trong kiểu mẫu tư duy của con người hay không? Nói
cách khác, nghiên cứu ngơn ngữ dưới cách nhìn của NNHTN phải liên hệ với sử

dụng, với cách thức mà con người ý niệm hóa và phạm trù hố. Mợt lý do nữa làm
cho NNHTN có điểm riêng so với các ngành khoa học ngơn ngữ khác đó là u cầu
giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy và các trải nghiệm của
con người trong thế giới tự nhiên. Để giải quyết những giả thuyết đã đặt ra,
NNHTN đã dựa trên, xây dựng và phát triển một số các nguyên lý cơ bản nhất bao
gồm nghiên cứu cấu trúc và tổ chức của ngôn ngữ (hay còn được gọi là Ngữ pháp
học tri nhận), nghiên cứu các khía cạnh của tư duy, tổ chức và cấu trúc của ý niệm
(hay còn được gọi là Ngữ nghĩa học tri nhận).
Vì các lý do đó, chúng tơi đã lựa chọn đề tài “Cấu trúc ngữ nghĩa của kết
cấu X + bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngơn ngữ
học tri nhận (so sánh với tiếng Anh)” để làm hướng nghiên cứu cho luận án của mình.


3

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là vận dụng các lý thuyết của NNHTN để
tìm hiểu và phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt và
tiếng Anh; phân tích các ánh xạ ý niệm của các ẩn dụ ý niệm (ADYN) và hoán dụ ý
niệm (HDYN) trong các kết cấu này; tìm ra cơ chế tri nhận và mơ hình tri nhận của
các ADYN và HDYN; mối tương tác giữa ADYN và HDYN trong phạm vi được
khảo sát; so sánh để góp phần chỉ ra những sự tương đờng và khác biệt giữa hai dân
tộc Việt và Anh trong tư duy và đặc trưng văn hóa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án thể hiện ở những
vấn đề được đặt ra qua các câu hỏi nghiên cứu sau đây:
a. Các mô hình ánh xạ, cơ chế tri nhận và mơ hình tri nhận của các ADYN và
HDYN trong các kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt và tiếng Anh được biểu hiện cụ
thể như thế nào?

b. Ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm có vai trò như thế nào trong quá trình ý
niệm hóa của các kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt và tiếng Anh?
c. Mơ hình tri nhận và đặc trưng văn hóa dân tợc của người Việt và người Anh
có gì khác biệt?
3. ĐỚI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt; kết cấu “X
+ BPCTN” tiếng Anh; ADYN và HDYN trong các kết cấu này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tiến hành khảo sát ngữ liệu là kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt và
tiếng Anh. Về giới hạn nghiên cứu, trên ngữ liệu tiếng Việt, đối tượng khảo sát của
luận án là các kết cấu có hai hình tiết; bên cạnh đó, trong khi miêu tả ngữ liệu để
phân tích, luận án có kết hợp liên hệ đến các kết cấu có bớn hình tiết, thực chất là
các ngữ đoạn hai hình tiết kép về mặt kết cấu và có quan hệ với nhau về mặt nghĩa
để biện giải. Còn trong tiếng Anh, ngữ liệu nghiên cứu là các kết cấu “X + BPCTN”
bao gồm hai hoặc nhiều đơn vị từ trong đó bao gờm yếu tớ X kết hợp với một từ chỉ
BPCTN và được cấu trúc thành mợt cụm từ hoặc mệnh đề.
Ngồi ra, luận án chỉ lựa chọn tập trung khảo sát mợt nhóm các BPCTN có
liên quan, chứ khơng khảo sát hết tồn bộ các BPCTN thuộc lục phủ, ngũ tạng theo


4

giải phẫu sinh lý học. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính điển mẫu và xác suất trong
thống kê, luận án chỉ thống kê và nghiên cứu các BPCTN (cả trong tiếng Việt lẫn
tiếng Anh) có tần suất xuất hiện tương đới phù hợp.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NG̀N NGỮ LIỆU
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính bao gờm:
- Phương pháp miêu tả: phân tích các miền ý niệm nguồn và đích để phân tích

ngữ nghĩa tri nhận của các yếu tố chỉ BPCTN trong kết cấu.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: là phương pháp đặc trưng để nghiên cứu
ngữ nghĩa, cấu trúc và cơ chế xây dựng ngữ nghĩa của đối tượng.
- Phương pháp đối chiếu trường từ vựng – ngữ nghĩa: là phương pháp phân
tích trường từ vựng – ngữ nghĩa của kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt và tiếng Anh,
từ đó tìm ra những tương đờng và khác biệt trong văn hoá, tư duy của người Việt và
người Anh.
- Phương pháp đối chiếu: đây là một phương pháp không thể thiếu để tìm ra
những tương đờng và khác biệt trong văn hoá, tư duy của người Việt và người Anh:
lấy tiếng Việt làm trung tâm của nghiên cứu và phân tích, còn tiếng Anh là ngôn
ngữ được liên hệ để so sánh, đới chiếu.
4.2. Ng̀n ngữ liệu
- Để có tư liệu nghiên cứu, luận án đã tiến hành khảo sát và thu thập ngữ liệu
từ 29 tác phẩm văn chương nhiều tập, trong đó có 18 tác phẩm văn chương Việt
Nam, 3 tác phẩm văn chương Anh (Mỹ) và 8 tác phẩm dịch (bao gồm 3 tác phẩm
tiếng Anh (Mỹ) được dịch ra tiếng Việt và 5 tác phẩm tiếng Việt được dịch ra tiếng
Anh).
- Ngoài ra, luận án còn tiến hành khảo sát và thu thập ngữ liệu từ 8 cuốn Từ
điển tiếng Việt và tiếng Anh, bao gồm 2 ćn tiếng Việt và 6 ćn tiếng Anh (trong
đó có 4 Từ điển trực tuyến).
- Phần Phụ lục của luận án thống kê 1242 ngữ cảnh trích từ các nguồn ngữ liệu
nêu trên; trong đó có 796 ngữ cảnh trích từ các nguồn ngữ liệu tiếng Việt và 446
ngữ cảnh trích từ các nguồn ngữ liệu tiếng Anh.
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Luận án góp phần làm rõ lý luận cho khoa học NNHTN, đặc biệt là trong xác
định cấu trúc ngữ nghĩa tri nhận của các kết cấu cố định.


5


- Luận án giúp xác định các tiêu chí để nhận diện và phân loại kết cấu “X +
BPCTN” tiếng Việt và tiếng Anh; chỉ ra các đặc điểm về hình thức cũng như ngữ
nghĩa của kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt và tiếng Anh.
- Luận án cung cấp một nguồn ngữ liệu các kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt
cũng như tiếng Anh cùng với ngữ nghĩa tri nhận của chúng để có thể sử dụng vào
trong giảng dạy tiếng Việt, giảng dạy tiếng Anh hay trong biên soạn từ điển.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài các phần Dẫn nhập, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận án gồm 4
chương (158 trang), cụ thể như sau:
Chương 1: TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN (32 trang)
Chương này trình bày về những vấn đề lý luận cơ bản nhất của NNHTN có
liên quan đến luận án cụ thể là tổng quan về NNHTN, ý nghĩa của từ và sự đa
nghĩa, quan niệm của NNHTN về kết cấu cố định, tri nhận nghiệm thân luận, các cơ
chế và mô hình tri nhận ADYN và HDYN và ći cùng là một số tương tác thường
gặp giữa ADYN và HDYN.
Chương 2: CẤU TRÚC NGỮ NGHĨA CỦA KẾT CẤU “X + BỘ PHẬN
CƠ THỂ NGƯỜI” TIẾNG VIỆT (54 trang)
Chương này trên cơ sở khung lý thuyết đã được trình bày trong chương một
phân tích các ADYN và HDYN trong các kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt; phân
tích các ánh xạ ý niệm và các mơ hình tri nhận ADYN và HDYN, cơ sở tri nhận
luận của chúng và cách thức mà các BPCTN tiếng Việt đã được ý niệm hóa.
Chương 3: CẤU TRÚC NGỮ NGHĨA CỦA KẾT CẤU “X + BỘ PHẬN
CƠ THỂ NGƯỜI” TIẾNG ANH (44 trang)
Chương này trên cơ sở khung lý thuyết đã được trình bày trong chương một
phân tích các ADYN và HDYN trong các kết cấu “X + BPCTN” tiếng Anh; phân
tích các ánh xạ ý niệm và các mơ hình tri nhận ADYN và HDYN, cơ sở tri nhận
luận của chúng và cách thức mà các BPCTN tiếng Anh đã được ý niệm hóa.
Chương 4: SO SÁNH CẤU TRÚC NGỮ NGHĨA CỦA KẾT CẤU “X +
BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI” TIẾNG VIỆT VỚI TIẾNG ANH (28 trang)
Chương này, trên cơ sở so sánh và đối chiếu giữa tiếng Việt và tiếng Anh, lấy

tiếng Việt làm trung tâm của nghiên cứu và phân tích còn tiếng Anh là ngôn ngữ
được liên hệ để so sánh, đối chiếu, luận án so sánh giữa hai ngôn ngữ Việt và Anh,
từ đó, góp phần chỉ ra những sự tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ cũng


6

đồng thời là sự tương đồng và khác biệt giữa hai nền văn hóa và tư duy của hai dân
tợc Việt và Anh.
Kèm theo phần chính văn của luận án là Phụ lục dài 251 trang, gồm 3 tiểu phụ
lục: Phụ lục 1 CẤU TRÚC NGỮ NGHĨA CỦA KẾT CẤU “X + BỘ PHẬN CƠ
THỂ NGƯỜI” TIẾNG VIỆT (79 trang), Phụ lục 2 CẤU TRÚC NGỮ NGHĨA CỦA
KẾT CẤU “X + BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI” TIẾNG ANH (57 trang) và Phụ lục
3 NGUỒN VÀ NGỮ CẢNH TRÍCH DẪN CỦA CÁC VÍ DỤ TRONG LUẬN ÁN
(115 trang).


7

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận
 Tởng quan về ngơn ngữ học tri nhận
Có thể nói, mợt trong những cơng trình đầu tiên giới thiệu về NNHTN và làm
cho nó được chính thức thừa nhận như là mợt ngành khoa học đợc lập đó là cơng
trình Metaphores We Live By do Lakoff và Johnson (1980) nghiên cứu và công bố,
tái bản vào năm 2003. Cơng trình này cung cấp cho chúng ta những tri thức ban đầu
nhưng rất quan trọng của NNHTN, đặc biệt là lý thuyết về ẩn dụ ý niệm, đã đặt nền
tảng cho các nghiên cứu về sau như ý niệm, cấu trúc của ý niệm, các loại ẩn dụ ý

niệm, nhân cách hóa, hoán dụ ý niệm, bản chất của cấu trúc ẩn dụ ý niệm, cơ sở của
cấu trúc ẩn dụ ý niệm v.v...
Tiếp sau cơng trình này thì có các tác giả Langacker (1987) với các cơng trình
Foundations of Cognitive Grammar Ćn 1 và 2 trình bày các nội dung lý thuyết về
ngữ pháp học tri nhận cái mà cũng đã đặt nền tảng cho những cơng trình về sau này.
Trong đó ơng đã chỉ ra rằng, ngun nhân cơ bản làm xuất hiện các cấu trúc ngữ
pháp là các quá trình tri nhận.
Về sau đó có nhiều tác giả khác bắt đầu phát triển và nghiên cứu các vấn đề
tổng quan về NNHTN, trong sớ đó tiêu biểu có Croft và Cruse (2004) với Cognitive
Linguistics; Evans và Green (2006) với Cognitive Linguistics: An Introduction hay
Geeraerts và Cuyckens (2007) với The Oxford Handbook of Cognitive Linguistics v.v...
Croft và Cruse (2004; tr.1-4) cho rằng, NNHTN là một ngành học nghiên cứu
về ngôn ngữ bắt đầu xuất hiện từ những năm 1970 và trở nên phổ biến từ những
năm 1980 với rất nhiều những cơng trình nghiên cứu có liên quan, đầu tiên là về
ngữ nghĩa học, cú pháp học và từ vựng học; về sau còn có thêm thụ đắc ngôn ngữ,
ngữ âm học và ngôn ngữ học lịch sử.
Evans và Green (2006; tr.5) khi trình bày các nghiên cứu tổng quan về
NNHTN cũng cho rằng, một trong những lý do quan trọng tại sao chúng ta lại
nghiên cứu về NNHTN là vì chúng ta cho rằng, ngơn ngữ chính là những mơ hình
tư duy. Vì thế, theo quan điểm của NNHTN, nghiên cứu ngôn ngữ chính là nghiên
cứu các mơ hình ý niệm hoá. Điểm khác biệt quan trọng nhất của NNHTN so với


8

các ngành nghiên cứu ngơn ngữ khác đó là NNHTN thừa nhận rằng ngôn ngữ phản
ánh các thuộc tính cơ bản, cụ thể và các nét khu biệt trong sắp xếp của tư duy con người.
Cũng nghiên cứu về những vấn đề cơ bản nhất, tổng quát nhất về NNHTN,
Geeraerts và Cuyckens (2007; tr. 3) đã kết luận rằng, NNHTN gắn chặt với khả
năng tri nhận phổ quát của con người. NNHTN đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng

là tiến hành phân tích các cơ sở ý niệm và kinh nghiệm luận của các phạm trù ngôn
ngữ học: các cấu trúc ngơn ngữ hình thức được nghiên cứu khơng phải vì tính tự trị
của chúng mà là vì sự phản ánh các cấu trúc ý niệm phổ quát, các nguyên lý của
phạm trù hoá, cơ chế xử lý thông tin và các tác động đến từ môi trường và kinh
nghiệm luận. Vì lý do đó, NNHTN thường quan tâm nghiên cứu các chủ đề bao
gồm: đặc điểm cấu trúc hoá của quá trình phạm trù hoá ngơn ngữ (như là tính
ngun mẫu, sự đa nghĩa của từ, các mơ hình tri nhận, các hình ảnh tinh thần và ẩn
dụ); nguyên tắc hành chức của cấu trúc ngôn ngữ học (như là tính điển dạng và tính
tự nhiên); sự phân giới ý niệm giữa cú pháp và ngữ nghĩa học; các điều kiện về mặt
kinh nghiệm luận và ngữ dụng học của sử dụng ngôn ngữ; và mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và tư duy.
Ngoài các tác giả trên đây còn có nhiều tác giả khác cũng nghiên cứu tổng
quan về NNHTN trong sớ đó có Ibanez và Pena (2005) với Cognitive Linguistics:
Internal Dynamics and Interdisciplinary Interaction, Geeraerts (2006) với
Cognitive Linguistics: Basic Readings, Ibanez, Dirven, Kristiansen và Achrad
(2006) với Cognitive Linguistics: Current Applications and Future Perspectives,
Ungerer và Schmid (2006) với An Introduction to Cognitive Linguistics hay
Tabakowska, Choinski và Wiraszka (2010) với Cognitive Linguistics in Action
From Theory to Application and Back.
Bên cạnh các cơng trình trên đây còn có nhiều bài báo khoa học khác nghiên
cứu về NNHTN mà tiêu biểu trong sớ đó là các bài báo của Ibanez, Sandra và
Cervel (2005) Cognitive Linguistics: Internal Dynamics and Interdisciplinary
Interaction và tuyển tập các bài báo khoa học do Ibanez, Dirven, Kristiansen và
Achrad (2006) biên tập, Cognitive Linguistics: Current Applications and Future
Perspectives cũng đưa ra các quan điểm cụ thể về NNHTN, về nợi hàm cũng như là
về các đặc điểm của nó, về những đóng góp mới mà NNHTN có thể mang lại cho
ngôn ngữ học. Đồng thời với tuyển tập này còn có tuyển tập do Geeraerts (2006)
thực hiện, Cognitive Linguistics: Basic Readings, đã cung cấp những cơng trình



9

nghiên cứu mang tính giới thiệu về các khuynh hướng đang phát triển của NNHTN
cũng như là tương lai của nó.
 Những nghiên cứu cụ thể về ngơn ngữ học tri nhận
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu tổng quan trên đây còn có các cơng trình
khác đi sâu vào nghiên cứu cụ thể, chi tiết các vấn đề có liên quan quan đến
NNHTN trong đó đáng chú ý là cơng trình của Fauconnier (1994) Mental Spaces
trình bày lý thuyết về khơng gian tinh thần, mợt lý thuyết có vai trò quan trọng
trong ngành khoa học NNHTN. Thuyết không gian tinh thần là lý thuyết ngữ nghĩa
học tri nhận quy định vị trí của ngữ nghĩa trong những biểu tượng tinh thần của
người nói và khảo sát những cấu trúc ngơn ngữ như là những nhân tớ kích thích
người nói sắp xếp các yếu tớ trong cấu trúc có liên quan. Lý thuyết về không gian
tinh thần đã cung cấp cho chúng ta nhiều hiểu biết mới trong NNHTN, giúp soi rọi
nhiều hiện tượng ngơn ngữ, trong đó tiêu biểu có phương thức quy chiếu, tính điều
kiện, ẩn dụ và tính hợp tớ. Mơ hình khơng gian tinh thần là mợt cơng cụ lý thuyết
đắc lực của NNHTN, nó cung cấp cho chúng ta một cách giải thích đúc kết từ việc
quan sát các hiện tượng đa dạng, bao gồm cả những hiện tượng hình thức lẫn những
hiện tượng ngữ nghĩa.
Các cơng trình nghiên cứu về các mơ hình tri nhận ADYN và HDYN, chẳng
hạn như các tác giả Dirven và Pörings (2002) với Metaphor and Metonymy in
Comparison and Contrast và Barcelona (2003) với Metaphor and Metonymy At The
Crossroads: A Cognitive Perspective. Các cơng trình này đã đi sâu nghiên cứu nợi
hàm của các mơ hình tri nhận ADYN và HDYN; điểm giống nhau và khác nhau
giữa ADYN và HDYN và đáng chú ý hơn nữa là sự tương tác của chúng trên thực
tế. Barcelona cho rằng sự liên hệ và tương tác giữa hai cơ chế tri nhận chủ yếu theo
lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, ADYN và HDYN, là hết sức phức tạp và trong
nhiều trường hợp là khơng có ranh giới rõ ràng. Ơng cũng nhấn mạnh thêm rằng,
cái khái niệm trung gian ẩn - hoán dụ sẽ khắc phục được mợt phần khó khăn gây ra
bởi sự giới hạn trong nghiên cứu từng loại phạm trù tương ứng. Thay vì lúc nào

cũng tách biệt giữa ADYN và HDYN, chúng ta cũng có thể suy nghĩ về một phổ
AD-HD ý niệm với các trường hợp mờ nghĩa hay có nghĩa khơng thật sự rõ ràng
chen vào trong đó. Còn ADYN và HDYN thì có thể được xem như các phạm trù
điển dạng ở hai đầu của phổ. Ẩn - hoán dụ sẽ làm rõ dãy mờ ở chính giữa phổ;
chúng có thể nằm ở gần đầu ADYN hay HDYN hơn của phổ. Dirven và Pörings
giới thiệu các cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau trong đó tập trung


10

đi sâu làm rõ sự khác biệt giữa hai mô hình tri nhận ADYN và HDYN và mới tương
tác giữa chúng; trên cơ sở đó đề xuất các mơ hình tương tác cụ thể của ADYN và HDYN.
Các cơng trình nghiên cứu về chủ nghĩa kinh nghiệm và nghiệm thân cơ thể
người cũng có mợt vị trí quan trọng trong ngành khoa học NNHTN. Trong sớ đó,
phải kể đến cơng trình đầu tiên của Lakoff và Johnson (1999), Philosophy In The
Flesh: The Embodied Mind And Its Challenge To Western Thought đã cho rằng, tất
cả các phép ẩn dụ trong hệ thớng ẩn dụ mà chúng ta đang có đều thể hiện một hiện
tượng phổ biến: mỗi một kinh nghiệm là một sự nghiệm thân trong hầu như tất cả
các hành vi hay nhận thức của chúng ta, thông qua tương tác tối đa với môi trường
sống tự nhiên bằng các bộ phận cơ thể của sự nhận thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, da
v.v…). Dựa trên cơ sở của sự trải nghiệm, nhất là sự trải nghiệm từ cơ thể người với
thế giới chung quanh, các ý nghĩa được tạo nên và quyết định phương thức con
người hiểu biết thế giới; như vậy, cơ sở tri nhận của con người phải được hiểu qua
tính nghiệm thân. Cùng quan điểm này với Lakoff và Johnson còn có các tác giả
Evans và Green (2006; tr.157) khi cả hai đều có đờng quan điểm rằng, cấu trúc ý
niệm mang tính nghiệm thân: bản chất của sự cấu thành ý niệm xuất phát từ kinh
nghiệm nghiệm thân, do vậy, sự trải nghiệm của cơ thể chính là một trong những
yếu tố tạo nên cấu trúc ý niệm, gắn liền và không thể tách rời được với các cấu trúc
ý niệm. Trong mợt mơ hình tri nhận, các ý niệm sơ đờ hình ảnh là điển hình cho các
trường hợp mà kinh nghiệm nghiệm thân đã sinh ra các ý niệm ngữ nghĩa. Nói cách

khác, tri thức về sự hiểu biết của con người được hình thành thông qua trung gian là
các BPCTN. Bên cạnh các cơng trình mang tính tổng quan như trên còn có thể kể
đến tuyển tập các bài báo khoa học được biên tập và giới thiệu bởi Geeraerts,
Dirven và Taylor (2007) “Body, Language and Mind - Volume 1: Embodiment”
trình bày những luận điểm khác nhau về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy và văn
hóa trong đó đã cung cấp nhiều kiến thức và các kiến giải cụ thể liên quan đến sự
nghiệm thân, cơ sở kinh nghiệm luận của các ý niệm ngôn ngữ, nguồn gốc lịch sử
của chủ nghĩa kinh nghiệm luận hay thảo luận sâu về các quan điểm liên quan tới
mối quan hệ giữa cơ thể, tư duy và văn hóa.
Cơng trình của Kovecses (2010), Metaphor: A Practical Introduction, là mợt
cơng trình nghiên cứu khá tồn diện và chuyên sâu về ADYN bao gồm những lý
luận cơ bản nhất về ADYN, về cơ sở tri nhận luận của ADYN, về các ánh xạ ý niệm
và bản chất của ánh xạ ý niệm, về các miền nguồn và đích thông dụng nhất của


11

ADYN, về HDYN, về các mơ hình tri nhận, về tính phổ quát của ADYN và cuối
cùng là sự đa dạng và khác biệt về văn hóa trong các ADYN và HDYN.
Ngồi các cơng trình trên đây còn có rất nhiều bài báo khoa học khác trình bày
về các nghiên cứu cụ thể hay ứng dụng lý thuyết của NNHTN. Có thể kể đến các
cơng trình đó như bài báo của Fillmore, Kay và O’Connor (1988) “Regularity And
Idiomaticity In Grammatical Constructions: The Case of Let Alone”, bài báo của
Nunberge, Sag và Wason (1994) “Idioms, Language”, trong đó trên cơ sở đi sâu
nghiên cứu chi tiết về cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng học của một cấu trúc cụ thể,
“let alone”, đã đưa ra những quan điểm về tính cố định và tính thành ngữ trong các
cấu trúc ngữ pháp.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến từ chỉ bộ phận cơ thể người
dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận
Trên thế giới cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về các nợi dung có liên

quan đến từ chỉ BPCTN dưới góc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận, đặc biệt là liên
quan đến mối liên hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa, giữa ngơn ngữ và tư duy.
Trong cơng trình Culture, Body and Language: Conteptualizations of Internal
Organs Across Cultures and Languages, Sharifian, Dirven, Yu và Niemeier (2008)
đã giới thiệu kết quả nghiên cứu của các tác giả khác nhau nghiên cứu về các từ chỉ
BPCTN dưới góc nhìn của NNHTN, về biểu trưng ý niệm của từ chỉ BPCTN trong
các nền văn hóa khác nhau, về cơ chế tri nhận, mơ hình tri nhận, các ánh xạ ý niệm,
các miền đích khác nhau mà được miền nguồn là từ chỉ BPCTN ánh xạ đến và đặc
biệt là các nghiên cứu có liên quan trong việc chỉ ra những nét đặc thù trong văn
hóa, trong tư duy của mỡi dân tợc. Trong đó có mợt sớ kết quả tiêu biểu sau đây.
Siahaan đã trình bày mơ hình văn hóa của ý niệm “LIVER (gan)” trong tiếng
Indonesia. Ơng chỉ ra rằng, trong văn hóa của người Indonesia, “gan” đóng vai trò
là trung tâm của cảm xúc và các trạng thái tinh thần khác. Ông cũng nhấn mạnh
rằng, từ “hati”, tương đương với “gan” trong tiếng Anh, không chỉ biểu trưng cho ý
niệm “gan” trong văn hóa của người Indonesia mà còn có thể biểu trưng cho các ý
niệm như “HEART (tim)” và “MIND (tâm trí)” trong tiếng Anh.
Cliff Goddard thì trình bày những nghiên cứu đới chiếu của mình về ngữ
nghĩa và tâm lý văn hóa của hai từ chỉ BPCTN “HEART (tim)” trong tiếng Anh và
từ “hati”, tương đương với “gan”, trong tiếng Mã lai. Ông đã khẳng định rằng, trong
tiếng Anh, “HEAD (đầu)” được xem như là biểu tượng cho lí trí, suy nghĩ và tư duy


12

của người Anh; và đới lập với nó là ‘tim” được xem như là biểu tượng cho cảm xúc
của người Anh.
Ibarretxe-Antano thì giới thiệu cơng trình nghiên cứu của mình về quá trình
ý niệm hóa bớn cơ quan nợi tạng trong ngôn ngữ xứ Basque ở Tây Ban Nha bao
gồm “BIHOTZ (heart - tim)”, “GIBEL (liver – gan)”, “URDAIL (stomach - dạ
dày)” và “HESTE (intestine - ruột) và cách sử dụng chúng trong các từ ghép và các

biểu thức thành ngữ. Ơng đã phát hiện rằng, có ít nhất ba nhóm ý niệm khác nhau
mà các từ này biểu trưng: (i) nếu phóng chiếu bên trong, chúng là những bợ phận
nợi tạng; (ii) nếu phóng chiếu ra bên ngồi, chúng biểu trưng cho chức năng của
BPCTN và (iii) biểu trưng cho cảm xúc. Ông cũng khẳng định rằng cơ sở của
những ý niệm này có ng̀n gớc từ nghiệm thân văn hóa, là những quy ước của
cợng đờng diễn ngơn.
Bên cạnh đó, BPCTN “tim” cũng được nhiều nhà nghiên cứu khác quan tâm
và dành sự chú ý lớn. Trong số đó có Ning Yu, nhà ngơn ngữ học tri nhận người
Trung Quốc. Trên cơ sở nghiên cứu về BPCTN “tim”, ông chứng minh rằng, trong
tiếng Trung, xuất phát từ triết học cổ đại Trung Quốc, trái tim vừa được coi là cơ
quan của suy nghĩ và lý luận, vừa là trung tâm của cảm xúc con người. Ông minh
chứng rằng, mợt nghiên cứu lịch sử về sự tiến hóa của ý niệm “tim” trong tiếng Anh
đã chỉ ra rằng, tri nhận về trái tim của người Trung Quốc trên thực tế là khá giống
với quan niệm của người Anh trong thời kỳ cổ đại và trung đại, khi đó trái tim trong
tiếng Anh cũng được ý niệm hóa là trung tâm của cả suy nghĩ và cảm giác.
Bên cạnh Ning Yu còn có mợt sớ nhà ngơn ngữ học tri nhận phương Đơng
khác tiến hành các cơng trình nghiên cứu về “tim” như Yoshihiko Ikegami hay
Debra J. Occhi người Nhật Bản hay Kyung-Joo Yoon người Hàn Q́c. Các cơng
trình này của các ông đều đã chỉ ra rằng, trong văn hóa của các nước phương Đơng,
“tim” vừa được coi là cơ quan của suy nghĩ và lý luận, vừa là trung tâm của cảm xúc
con người.
Chuyển sang nền văn hóa phương Tây, một số các nhà ngôn ngữ học tri nhận
bao gờm Sharifian, Geeraerts, Gevaert hay Niemeier đều có cùng quan điểm rằng,
“đầu” trong tiếng Anh luôn được ý niệm hóa như là trung tâm của lý trí và tư duy
của người Anh trong sự tương phản với vai trò của “tim”, là trung tâm của cảm xúc.
Ý niệm hóa này mang đậm nét bản sắc dân tộc của người Anh nói chung và người
phương Tây nói riêng xuất phát từ nền văn hóa của người Anglo-Saxon và cơ sở tri
nhận luận của ý niệm này có ng̀n gớc từ rất lâu đời dựa trên tư duy triết học.



13

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu về ngơn ngữ học tri nhận
Trên bình diện lý thuyết, nghiên cứu về các quan điểm chung nhất, các nguyên
lý cơ bản và các nội hàm quan trọng khác của ngôn ngữ học tri nhận như là một
ngành khoa học mới xuất hiện ở Việt Nam có cơng trình nghiên cứu đầu tiên về
NNHTN là của Lý Tồn Thắng (2005) với Ngôn ngữ học tri nhận _ Từ lí thuyết đại
cương đến thực tiễn tiếng Việt; sau đó có Trần Văn Cơ (2006) với “Ngơn ngữ học
tri nhận là gì”, Lê Quang Thiêm (2006) với “Về khuynh hướng ngữ nghĩa học tri
nhận”, Trần Văn Cơ (2007) với “Ngôn ngữ học tri nhận: ghi chép và suy nghĩ” và
“Nhận thức, tri nhận – hai hay mợt (Tìm hiểu thêm về ngôn ngữ học tri nhận)”,
Diệp Quang Ban (2008) với “Cognition: Nhận tri và nhận thức”; “Concept: Ý niệm
hay khái niệm”; Nguyễn Thiện Giáp (2011) với “Về ngôn ngữ học tri nhận” và
Trịnh Sâm (2011) với “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Việt” hay
cơng trình dịch của Nguyễn Văn Hiệp và Nguyễn Hoàng An (2014) Dẫn luận ngôn
ngữ học tri nhận (sách dịch) v.v... Các công trình này, trên cơ sở nghiên cứu các
cơng trình của thế giới đã giới thiệu những nguyên lý và nội dung cơ bản nhất của
NNHTH, các nội hàm của NNHTH, các cơ sở lý thuyết, các công cụ và phương tiện
của nó đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về NNHTH ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng trên bình diện lý thuyết còn có các luận án tiến sĩ đi sâu
nghiên cứu về các quan điểm, các nguyên lý cơ bản và một số nội hàm khác của
NNHTH trong thực tế của tiếng Việt, hay nói cách khác là nghiên cứu để soi rọi về
những vấn đề lý thuyết của NNHTH vận hành và áp dụng trong tiếng Việt như thế
nào có luận án Tiến sĩ của Phan Thế Hưng (2009), Ẩn dụ dưới góc độ ngơn ngữ học
tri nhận (trên cứ liệu tiếng Việt và tiếng Anh) đi sâu phân tích về ADYN, vai trò của
tư duy đối với ADYN và trên cơ sở cứ liệu trong tiếng Việt và tiếng Anh đã so
sánh, đối chiếu để làm rõ những sự tương đồng và khác biệt trong ngôn ngữ, văn
hóa và tư duy của hai dân tợc Việt và Anh; Luận án Tiến sĩ ngữ văn của Nguyễn
Văn Hán (2012), Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngơn ngữ học

tri nhận (so sánh với tiếng Anh) nghiên cứu và đề xuất năm phương thức định vị thời
gian trong tiếng Việt, mối quan hệ ngữ nghĩa giữa không gian và thời gian trong tiếng
Việt; Luận án tiến sĩ của Lê Thị Thanh Tâm (2010), Cơ sở tri nhận của hiện tượng
chuyển nghĩa trong tiếng Việt, nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tri nhận ở
hiện tượng chuyển nghĩa của các từ đa nghĩa; luận án đi sâu nghiên cứu các từ chỉ
hướng không gian bao gờm hai nhóm: các từ chỉ chuyển đợng có hướng và các từ


14

chỉ sự định hướng và phương vị trong không gian; luận án Tiến sĩ ngữ văn của Hà
Thanh Hải (2011), Đới chiếu phương thức ẩn dụ nhìn từ lý thuyết ngơn ngữ học tri
nhận trên cứ liệu báo chí kinh tế Anh – Việt, nghiên cứu về ADYN trong các bản tin
kinh tế tiếng Việt và tiếng Anh.
Ở bình diện thực hành, trên cơ sở áp dụng các quan điểm, nguyên lý cơ bản và
các nội hàm quan trọng khác của ngơn ngữ học tri nhận, nghiên cứu vào tình hình
cụ thể của tiếng Việt có các cơng trình: Nguyễn Đức Tờn (1993, 2008, 2009), Lê
Văn Thanh, Lý Tồn Thắng (2002), Lê Quang Thiêm (2006), Trần Văn Cơ (2006
và 2007), Lý Toàn Thắng (2008), Lê Thị Kiều Vân (2008), Phan Thế Hưng (2008),
Nguyễn Đức Dân (2009), Nguyễn Thiện Giáp, (2011), Trịnh Sâm (2011, 2013,
2015, 2016, 2018, 2019) và Nguyễn Tiến Long (2019). Các bài báo này nghiên cứu
các nội dung khác nhau có liên quan đến NNHTN bao gờm các lý thuyết cơ bản của
NNHTN, đặc điểm của NNHTN, các cơ chế tri nhận, lý thuyết về các mơ hình tri
nhận, các mơ hình ánh xạ, ADYN hay HDYN và các vấn đề khác có liên quan. Các
cơng trình này đã cho chúng ta những hiểu biết sâu hơn về NNHTN và vận dụng
nghiên cứu NNHTN vào thực tiễn tiếng Việt; đưa ra các trường hợp nghiên cứu cụ
thể trong tiếng Việt, góp phần soi rọi lý thuyết của NNHTN trong tiếng Việt.
Cũng trên bình diện thực hành còn có các luận án tiến sĩ, thông qua nghiên
cứu về các cơ chế tri nhận, cách thức tri nhận, quá trình ý niệm hóa của người Việt
đã đi sâu phân tích và so sánh với tiếng Anh trong một số ý niệm cụ thể giữa hai

ngơn ngữ, từ đó chỉ ra một số đặc điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nền văn
hóa Việt và Anh cũng như cách tư duy của hai dân tợc. Tiêu biểu trong sớ đó có các
luận án tiến sĩ ngơn ngữ học của Nguyễn Thị Dự (2004), Ngữ nghĩa và cơ sở tri
nhận của nhóm tính từ chỉ khơng gian (trên ngữ liệu Anh - Việt), nghiên cứu các
tính từ chỉ kích thước cơ bản; luận án tiến sĩ của Lý Lan (2012), Ngữ nghĩa và cơ sở
tri nhận của các từ biểu đạt tình cảm trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt), nghiên
cứu về phương diện cơ sở tri nhận nghiệm thân trong cách biểu đạt bớn ý niệm tình
cảm cơ bản là HAPPINESS (vui), LOVE (yêu), FEAR (sợ) và ANGER (giận) cũng
như quá trình ý niệm hóa bớn tình cảm ương ứng này thông qua các ánh xạ ADYN
và HDYN; luận án Tiến sĩ ngữ văn của Trần Thị Phương Lý (2012), Ẩn dụ ý niệm
của phạm trù thực vật trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng Anh), nghiên cứu về các
biểu thức ngôn ngữ liên quan đến thực vật trong tiếng Việt; luận án Tiến sĩ ngữ văn
của Lê Thị Kiều Vân (2012), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa và tri nhận của người Việt
thông qua một số từ khóa (so sánh, đới chiếu tiếng Việt với tiếng Anh và tiếng Nga),


15

nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hóa và tri nhận của các ý niệm
“phận”, “mặt”, “hờn” và “quê”; luận án Tiến sĩ ngữ văn của Nguyễn Văn Hải
(2012), Các từ chỉ bộ phận cơ thể người và các từ tương đương trong tiếng Anh, tập
trung nghiên cứu nhóm từ gờm 12 từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt bao gờm “đầu”,
“mình/thân”, “tay”, “chân”, “mắt” “mũi”, “miệng”, “tim”, “gan”, “lòng/dạ” và các
từ tương đương trong tiếng Anh trên các mặt nghĩa định danh, chuyển nghĩa và hàm
nghĩa; luận án Tiến sĩ ngữ văn của Nguyễn Hoàng Phương (2016), Đặc điểm tri
nhận của động từ tri giác tiếng Việt, nghiên cứu phân tích các đợng từ tri giác:
“nhìn”, “nghe”, “ngửi”, “nếm”, “sờ” trong mối tương quan với từ “thấy”; luận án
Tiến sĩ ngữ văn của Trần Vũ Tuân (2016), Đối chiếu ẩn dụ ý niệm quê hương, đất
nước trong tiếng Việt và tiếng Anh, phân tích và làm rõ về hai ý niệm quê hương và
đất nước trong tiếng Việt và tiếng Anh; luận án Tiến sĩ ngữ văn của Trần Thế Phi

(2016), Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ
tiếng Anh) từ bình diện ngữ nghĩa học tri nhận, thơng qua khảo sát thành ngữ tiếng
Việt biểu thị cảm xúc (so sánh với thành ngữ tiếng Anh tương ứng), đã tiến hành
phân loại hệ thống ADYN cảm xúc, hệ thống hóa khái niệm và tiêu chí nhận diện
thành ngữ, xác định đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng
Việt và tiếng Anh, trên cơ sở đó đã chỉ ra những nét chung và đặc thù ngơn ngữ,
văn hóa của thành ngữ biểu thị cảm xúc thể hiện trong tiếng Việt và tiếng Anh; luận
án Tiến sĩ Ngôn ngữ học của Ngô Tuyết Phượng (2017), Ẩn dụ tri nhận trong thành
ngữ, tục ngữ Việt Nam, dưới góc nhìn của NNHTN lý giải những mơ hình của
ADYN trên khối ngữ liệu thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt và tiếng Anh; hay luận án
Tiến sĩ ngôn ngữ học của Nguyễn Tiến Dũng (2019), Ẩn dụ ý niệm trong các diễn
ngơn chính trị (trên tư liệu tiếng Anh và tiếng Việt), trên cơ sở khảo sát các ẩn dụ
cấu trúc trong các diễn ngôn chính trị tiếng Anh và tiếng Việt đã đi sâu nghiên cứu,
khảo sát về các ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể trong các diễn ngôn chính trị tiếng
Việt và tiếng Anh, từ đó đã chỉ ra mợt sớ điểm tương đờng và khác biệt trong văn
hóa cũng như là tư duy giữa hai ngôn ngữ Việt và Anh và cả hai nền văn hóa dân tợc.
Cũng ở bình diện thực hành và cụ thể, nhưng lại lựa chọn đối tượng nghiên
cứu là các chủ thể trong tiếng Anh, thông qua nghiên cứu các cơ chế tri nhận, cách
thức tri nhận, quá trình ý niệm hóa để tiến hành nghiên cứu về cách tri nhận cụ thể
của người Anh và có so sánh với tiếng Việt là luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị
Hương (2017), Ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với
tiếng Việt), tập trung đi sâu nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm ăn và uống trong tiếng Anh.


16

1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu về cấu trúc ngữ nghĩa của từ chỉ bộ phận cơ
thể người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận
Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Vũ (2008), Thành ngữ tiếng Anh và thành
ngữ tiếng Việt có yếu tớ chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngơn ngữ học

tri nhận, có thể nói là mợt trong hai luận án duy nhất bên cạnh luận án của Trịnh
Thị Thanh Huệ sẽ được đề cập ở phần sau, là có đề tài nghiên cứu về từ chỉ BPCTN
dưới góc nhìn của NNHTN. Luận án của Nguyễn Ngọc Vũ tập trung nghiên cứu sâu
về lý luận NNHTN như hoạt động ý niệm hoá, cấu trúc tiền ý niệm, mơ hình tri
nhận lý tưởng, miền ý niệm hay thành ngữ và quan niệm của NNHTN về thành ngữ.
Dữ liệu nghiên cứu của luận án này chỉ giới hạn nghiên cứu ở thành ngữ trong tiếng
Anh và tiếng Việt và chỉ tập trung vào 6 BPCTN (bao gờm nhóm BPCTN tḥc
vùng đầu có “đầu”, “mặt”, “mắt”, “mũi” và “tai” và chỉ có duy nhất mợt BPCTN
bên trong là “tim” được khảo sát). Trên cơ sở nghiên cứu các ADYN và HDYN
trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt có từ chỉ BPCTN, luận án đã chỉ ra những
tương đồng và dị biệt trong ngôn ngữ, tư duy và cả trong đặc trưng văn hóa dân tợc
của người Anh và người Việt. Luận án đặc biệt đi sâu phân tích và khảo sát các mơ
hình tri nhận bao gờm ADYN và HDYN có vai trò quan trọng trong việc tạo nghĩa
cho thành ngữ có chứa yếu tớ chỉ BPCTN tiếng Việt và tiếng Anh. Dựa trên kết quả
này, luận án tiến hành đối chiếu so sánh thành ngữ có chứa yếu tớ chỉ BPCTN tiếng
Việt và tiếng Anh để tìm ra những điểm tương đờng và dị biệt trong văn hóa của hai
dân tợc.
Luận án Tiến sĩ ngữ văn của Trịnh Thị Thanh Huệ (2012), Nghiên cứu so sánh
đối chiếu ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ ngơn ngữ học tri nhận (trên
tư liệu tên gọi bộ phận cơ thể người), bằng cách phân tích cơ sở của việc hình thành
ý nghĩa ẩn dụ của từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt và tiếng Hán, nghiên cứu về sự
giống và khác nhau giữa miền đích và quá trình ánh xạ của ẩn dụ tri nhận BPCTN
trong tiếng Hán và tiếng Việt bao gồm 39 bợ phận cơ thể; luận án cũng nêu ra mơ
hình ánh xạ và mức độ đối ứng của ẩn dụ tri nhận bằng BPCTN trong hai ngôn ngữ
tiếng Hán và tiếng Việt, phân tích các nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng, đối ứng,
cũng như các nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu được đề cập ở trên còn có mợt sớ bài viết
đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có liên quan đến từ chỉ BPCTN của
các tác giả như: Hoàng Văn Hành (1990), Nguyễn Văn Chiến (1994), Phan Thị
Hồng Xuân (1999), Hồng Dĩ Đình (2000), Phan Thị Hờng (2000), Đỡ Hồng Ngân



17

(2002), Trịnh Đức Hiển, Lâm Thu Hương (2003), Tạ Đức Tú (2005), Vũ Đức
Nghiệu (2007), Nguyễn Ngọc Vũ (2008, 2009), Trần Thị Minh (2009), Lý Lan
(2009), Nguyễn Thanh Thủy (2009), Võ Kim Hà (2011), Phạm Ngọc Hàm, Cẩm Tú
Tài (2012), Trần Thị Hồng Hạnh (2012), Trịnh Sâm (2014), Nguyễn Thu Hạnh và
Nguyễn Tiến Long (2019). Các bài báo này nghiên cứu các nợi dung khác nhau có
liên quan đến từ chỉ BPCTN dưới góc nhìn của NNHTN bao gờm các cơ chế tri
nhận và mơ hình tri nhận có liên quan đến NNHTN, các mơ hình ánh xạ bao gờm
miền nguồn là BPCTN ánh xạ lên các miền đích khác nhau, ADYN hay HDYN có
liên quan đến NNHTN, các vấn đề về đặc thù văn hóa và tư duy của tiếng Việt có
so sánh hay liên hệ với mợt sớ ngơn ngữ khác. Các cơng trình này đã trình bày
những khía cạnh nghiên cứu cụ thể khác nhau có liên quan đến từ chỉ BPCTN dưới
góc nhìn của NNHTN và đã đặt nền móng cho những nghiên cứu có thể sau này.
1.1.3. Nhận xét
Các cơng trình nghiên cứu mà chúng tơi đã trình bày ở tiểu mục 1.1.2 mặc dầu
là những cơng trình nghiên cứu chun sâu nhưng vẫn đặt ra những giới hạn và
trong mợt chừng mực nào đó vẫn chưa nghiên cứu hết được về cấu trúc ngữ nghĩa
của từ chỉ BPCTN dưới góc nhìn của NNHTN.
Đới với các luận án Tiến sĩ bao gồm luận án của Nguyễn Ngọc Vũ (2008) thì
giới hạn chỉ nghiên cứu ở thành ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt và chỉ tập trung
vào 6 BPCTN, gần như tuyệt đối chỉ là các từ chỉ BPCTN tḥc vùng đầu; trong
khi đó, luận án Tiến sĩ của Trịnh Thị Thanh Huệ (2012) thì giới hạn chỉ nghiên cứu
ở mơ hình tri nhận ADYN mà chưa nghiên cứu về HDYN. Có hai giới hạn của các
cơng trình này là thứ nhất cả hai đều chưa thực hiện việc mơ hình hóa các tri nhận
trong tiếng Việt với tư cách là các đơn vị phạm vi ý niệm dân tợc và văn hóa dân
tợc; và thứ hai là chưa trình bày chi tiết về mới tương tác giữa ADYN và HDYN
trong hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh.

Đối với các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có liên quan
đến từ chỉ BPCTN, các tác giả chỉ mới giới thiệu và bàn luận mợt cách cơ bản nhất,
có tính gợi mở nhất chứ chưa thực sự có các nghiên cứu đầy đủ và trọn vẹn về các
cơ chế và mô hình tri nhận (cả ADYN và HDYN) của các ý niệm được biểu trưng
bởi các từ chỉ BPCTN dưới góc nhìn của NNHTN.
Như vậy có thể nhận thấy rằng, cho đến nay, trên thế giới và đặc biệt là tại
Việt Nam, mặc dầu đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan đến cấu trúc
ngữ nghĩa của BPCTN dưới góc nhìn của NNHTN nhưng chưa có mợt cơng trình


18

nào nghiên cứu về cấu trúc ngữ nghĩa của kết cấu “X + BPCTN” tiếng Việt với tư
cách là một kết cấu có hai hình vị, có tính chặt và mang tính biểu trưng thành ngữ
dưới góc nhìn của NNHTN và có so sánh với tiếng Anh. Việc nghiên cứu cấu trúc
ngữ nghĩa của kết cấu này và trên cơ sở đó so sánh, đới chiếu với tiếng Anh, do vậy,
sẽ là hết sức cần thiết phải có thêm các cơng trình nghiên cứu khác để làm rõ cơ chế
tri nhận của chúng, các mơ hình tri nhận hóa, cách thức ý niệm hóa và tư duy của
người Việt. Cùng với đó, việc so sánh, đới chiếu với tiếng Anh sẽ góp phần bổ sung
cho các cơng trình nghiên cứu trước đây giúp chỉ ra những tương đồng và khác biệt
giữa hai ngôn ngữ, hai kiểu loại tư duy của dân tộc và rộng hơn là của hai nền văn hóa.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.2.1. Ý nghĩa của từ và sự đa nghĩa (Word meaning and polysemy)
1.2.1.1. Từ vựng là những phạm trù tỏa tia
Evans và Green (2006; tr.331) đề xuất rằng từ vựng biểu trưng cho những
phạm trù tỏa tia. Như chúng ta đã biết, phạm trù tỏa tia là một phạm trù ý niệm mà
phạm vi ngữ nghĩa của nó có thể được mở rợng sang mợt ý niệm ngun mẫu khác.
Hay nói cách khác, mợt từ gắn với mợt khơng gian tinh thần có thể được áp vào một
không gian tinh thần mới; khi đó, từ sẽ được mở rợng nghĩa, tức là, nó thu được một
mạng lưới tỏa tia. Phạm trù tỏa tia sẽ có cùng cấu trúc với các phạm trù ý niệm khác

trong phạm vi có liên quan với ý niệm từ vựng nguyên mẫu: phạm trù ý niệm nào
gần trung tâm hơn sẽ có tính nguyên mẫu hơn và ngược lại. Evans và Green (2006;
tr.331-332) lập luận thêm rằng, trung tâm của lý thuyết này là quan điểm cho rằng
các phạm trù ý niệm tỏa tia sẽ được mô tả bởi các bộ nhớ ngữ nghĩa dài hạn. Theo
quan điểm này, lý do mà chúng ta có thể dùng từ OVER với nghĩa là “KIỂM SOÁT”
(xem ví dụ (1)) là bởi vì ngữ nghĩa này đã được mơ tả bởi bợ nhớ ngữ nghĩa dài
hạn. Có nghĩa là, phạm vi ngữ nghĩa của OVER đã được ước lệ hóa và hầu hết
người Anh đơn giản đều có sự liên tưởng với phạm vi ngữ nghĩa này.
(1). Jane has a strange power over him. (td: Jane kiểm soát được anh ta mợt
cách kỳ lạ).
Với quan điểm đó, mợt phạm trù ý niệm tỏa tia không phải là một công cụ để
sản sinh các nét nghĩa riêng biệt từ một phạm trù ngun mẫu mà nó chỉ là mợt kiểu
mẫu của các ngữ nghĩa khác nhau nhưng có mới liên hệ với nhau và được lưu giữ
trong bộ nhớ ngữ nghĩa của chúng ta. Như vậy, tính đa nghĩa của từ nhìn ở góc đợ
ngơn ngữ học tri nhận xuất phát từ tính đơn nghĩa của từ mà trong đó mợt khái niệm


19

từ vựng trừu tượng được lưu trữ với một sự lấp đầy ngữ nghĩa sử dụng trong các
ngữ cảnh khác nhau.
1.2.1.2. Sự đa nghĩa của từ là một hiện tượng ý niệm
Một mối quan tâm rất lớn dành cho các nhà ngữ nghĩa học tri nhận đó là phải
giải thích bằng cách nào mà ngữ nghĩa được sinh ra. Do các nhà ngữ nghĩa học tri
nhận giả định rằng, về mặt nguyên tắc, các phạm trù ngôn ngữ học cũng khơng có
điểm gì khác biệt so với các phạm trù ý niệm, vì vậy, chúng ta có thể thấy rằng, các
phạm trù ngôn ngữ học cũng sẽ được cấu trúc hoá bởi cùng một cơ chế tri nhận
chung giống như các cơ chế đã cấu trúc hoá các phạm trù ý niệm kia. Theo quan
điểm này, Evans và Green (2006; tr.332) cho rằng, quá trình mở rợng ngữ nghĩa,
trong đó bao gồm cả các biến đổi ADYN và sơ đồ hình ảnh, sẽ diễn ra khi những

nét nghĩa gần với nguyên mẫu tạo ra thêm các nét nghĩa khác xa nguyên mẫu hơn.
Những cơ chế này sẽ dẫn đến việc mở rợng có hệ thớng các phạm trù từ vựng, từ đó
sản sinh ra các ch̃i ý nghĩa; đây chính là cơ sở cho hiện tượng đa nghĩa của từ.
Kovecses (2010; tr. 251) thì cho rằng, sự đa nghĩa là trường hợp mợt từ mà có
nhiều nghĩa khác nhau nhưng có liên quan với nhau và đây cũng là quan điểm được
các nhà ngôn ngữ học tri nhận chấp nhận. Nhưng một câu hỏi hết sức quan trọng
được đặt ra là chúng ta nhận thức như thế nào về việc các nghĩa khác nhau nhưng
lại có liên quan với nhau? Bằng cách trả lời thấu đáo cho câu hỏi này, các nhà ngơn
ngữ học tri nhận sẽ góp phần làm rõ hơn lý thuyết về sự đa nghĩa của từ. Chúng ta
có thể giả thuyết rằng, sự đa nghĩa của từ thường được dựa trên phép ẩn dụ và hoán
dụ; hay nói cách khác, trong nhiều trường hợp, sẽ có mợt mới quan hệ ẩn dụ và
hoán dụ có tính hệ thống giữa các ngữ nghĩa khác nhau của một từ.
Theo Kovecses, những ví dụ rõ ràng nhất và dễ nhất để chứng minh cho hiện
tượng sự đa nghĩa của từ thường được dựa trên phép ẩn dụ đó là trường hợp của các
giới từ over, up, down, on, in v.v... Từ “UP” chẳng hạn, sẽ có rất nhiều nghĩa. Hãy
xem xét hai trường hợp cụ thể sau đây:
(2). He went up the stairs, so we can see him (td: Anh ấy đã đi lên lầu, do vậy
giờ chúng ta có thể gặp được anh ấy rời).
(3). He spoke up the stairs, so we can hear him (td: Anh ấy đã nói lớn rời, do
vậy giờ chúng ta có thể nghe anh ấy được rồi).
Trong ví dụ (2), từ “up” có nghĩa là “hướng lên phía trên”, trong khi đó, trong
ví dụ (3), từ “up” có nghĩa là “có cường đợ cao hơn” vậy thì hai ngữ nghĩa này của
từ “up” có liên hệ với nhau như thế nào? Câu trả lời là chúng có mới liên hệ với


20

nhau dựa trên cơ sở tri nhận luận của ẩn dụ MORE IS UP (NHIỀU LÀ HƯỚNG ĐI
LÊN). Trong ví dụ (3), “có cường đợ cao hơn” có thể được hiểu là dung lượng của
âm thanh được nói ra nằm ở một thang độ cao hơn. Như vậy, rõ ràng là ẩn dụ

MORE IS UP đã tạo ra một mối liên kết có tính hệ thớng giữa hai ngữ nghĩa khác
nhau của cùng một từ. Bản chất của lý giải này là từ “up” có mợt nghĩa đen là
“hướng lên phía trên” và nghĩa đen này đã được mở rộng nghĩa thơng qua cơng cụ
là ADYN. Nói cách khác, từ trung tâm đóng vai trò là miền ng̀n để ý niệm hóa
những miền đích mà ngữ nghĩa của chúng sẽ có tính bóng bẩy hơn như là cường đợ
trong ví dụ (3).
1.2.2. Lý thuyết nghiệm thân và cơ thể người (The theory of embodiment
and body organs)
Theo Evans (2007), lý thuyết về sự nghiệm thân được định nghĩa như sau: “Tư
duy của con người và việc tổ chức, sắp xếp các ý niệm là cách thức mà trong đó các
bợ phận cơ thể của chúng ta tương tác với môi trường sớng ở bên ngồi. Nói cách
khác bản chất của các ý niệm và cách thức mà chúng được sắp xếp được giới hạn
bởi kinh nghiệm nghiệm thân của chúng ta”. Mợt mặt, điều này kéo theo là chúng ta
có được mợt cái nhìn đới với thế giới thực thể nhờ vào các bộ phận trên cơ thể con
người; mặt khác, vì ngơn ngữ phản ánh các cấu trúc ý niệm nên nó cũng phản ánh
các kinh nghiệm nghiệm thân. Điều này có nghĩa là, tư duy của con người và các tổ
chức ý niệm được hình thành dựa trên cơ sở là sự tương tác của cơ thể chúng ta với
môi trường sống; bản chất của các ý niệm và cách thức mà chúng được cấu trúc
được quyết định bởi những kiến thức mang tính nghiệm thân của chúng ta; nói cách
khác, sự tri nhận của chúng ta về thế giới khách quan phụ thuộc rất nhiều vào đặc
điểm vốn có của cơ thể. Mợt trong những ví dụ rõ ràng nhất cho chúng ta thấy chủ
nghĩa nghiệm thân ảnh hưởng đến bản chất của kinh nghiệm đó là qua ý niệm màu
sắc. Trong khi con người có ba cơ quan cảm quan để tri nhận màu sắc thì các sinh
vật sớng khác có sớ lượng cơ quan cảm quan rất khác nhau tuỳ tḥc vào mỡi lồi:
có lồi có hai, có lồi có ba, có lồi thì có bớn. Điều đó chứng tỏ rằng cơ quan thị
giác, mợt bợ phận của cơ thể, sẽ góp phần quyết định kinh nghiệm của chúng ta về
màu sắc. Tương tự như vậy, các bộ phận khác của cơ thể người, cái mà luôn tương
tác với môi trường sống chung quanh sẽ quyết định các kinh nghiệm khác của
chúng ta về thế giới. Hiện tượng mà các sinh vật sớng khác nhau có kinh nghiệm
sống khác nhau dựa vào bản chất nghiệm thân của chúng được gọi là sự nghiệm thân

biến thiên.


21

Evans và Green (2006; tr.45) đưa ra quan điểm rằng, tri thức và sự hiểu biết
của chúng ta về thế giới khách quan được hình thành là nhờ vào bản chất vớn có của
các bợ phận cơ thể của con người. Vì vậy, cấu trúc ý niệm cũng sẽ mang tính
nghiệm thân: bản chất của sự cấu thành ý niệm xuất phát từ kinh nghiệm nghiệm
thân, do vậy một phần của các yếu tố tạo nên cấu trúc ý niệm chính là sự trải
nghiệm của cơ thể, cái mà các cấu trúc ý niệm gắn liền với nó.
Theo Trịnh Sâm (2019), có ba dạng thức tương tác có thể xảy ra: tương tác dễ
quan sát nhất là với chính cơ thể con người mà ngôn ngữ học gọi là nghiệm thân
sinh lý. Ví dụ, con người là một thực thể tách biệt trong khơng gian, vật thể này có
thể di chuyển, cho nên, tất cả các kinh nghiệm về phân giới, trước sau, phải, trái, rồi
sự vận động lên xuống v.v... đều là ng̀n gớc của sự phóng chiếu và có thể dùng
làm kinh nghiệm để tương tác. Loại thứ hai là tương tác với môi trường vật chất
chung quanh gọi là nghiệm thân tự nhiên là loại tương tác mà chủ thể tri nhận và
mơi trường tri nhận có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau; đây là lúc mà chức
năng phóng chiếu của hiện thực, với tư cách là miền nguồn, thể hiện rõ vai trò của
nó. Loại tương tác thứ ba là nghiệm thân xã hợi hay còn được gọi là nghiệm thân
văn hóa. Kinh nghiệm nghiệm thân của chúng ta ngồi việc có thể thụ đắc từ chính
chủ thể phát ngơn cũng có thể được hấp thụ từ kinh nghiệm của cộng đồng diễn
ngôn, được truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác với các ràng buộc gắn liền với
tri thức nền, với những chia sẻ của nền văn hóa chung.
1.2.3. Kết cấu cớ định dưới góc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận (Idiomatic
structures under the cognitive perspective)
1.2.3.1. Khái niệm về kết cấu cố định
Langlotz (2006; tr. 5) đưa ra định nghĩa về thành ngữ (idioms) hoặc những kết
cấu có tính thành ngữ (idiomatic constructions) như sau:

Thành ngữ (idioms) là một kết cấu có tính tổ chức bao gờm hai hoặc
nhiều mục từ và được cấu trúc thành một cụm từ hoặc nửa mệnh đề, cái mà có
những đặc tính rất riêng biệt về mặt cấu trúc. Một thành ngữ trước hết sẽ có
chức năng diễn ngơn, mang tính bóng bẩy và có hình thái khu biệt; ngữ nghĩa
của cấu trúc về ng̀n gớc là khơng mang tính sắp xếp; ngồi ra, thành ngữ có
hình thức cớ định và rất bị hạn chế trong sắp đặt.
Kovecses (2010; tr. 231-232) đưa ra quan điểm rằng “Cái đơn vị ngôn ngữ mà
chúng ta hay gọi là thành ngữ (idioms) là rất đa dạng. Nó là mợt đơn vị ngơn ngữ
trên từ, thường được cấu tạo từ hai thành tố trở lên và ngữ nghĩa của nó khơng thể


22

suy ra được từ ngữ nghĩa của các thành tố ở bên trong nó. Thành ngữ có thể bao
gờm các biến thể khác nhau như là ẩn dụ, hoán dụ, cụm từ thành ngữ, thành ngữ cú
pháp, cấu trúc so sánh hay đặc ngữ v.v...
Croft và Cruse (2004; tr. 230) khi phân tích về thành ngữ đã đưa ra định nghĩa
về thành ngữ (idioms) như sau: “Thành ngữ (idioms) là những đơn vị ngơn ngữ lớn
hơn từ và có tính khu biệt hóa.” Hai ơng khi phân tích cơng trình nghiên cứu của
Nunberg, Sag và Wasow (1994) về thành ngữ đã đưa ra mô tả của Nunberg, Sag và
Wasow như sau: điểm đặc trưng của thành ngữ là tính rập khn theo quy ước, có
nghĩa là, ý nghĩa hoặc sự sử dụng của thành ngữ không thể đoán biết được nếu chỉ
dựa trên tri thức của các quy ước độc lập, cái mà sẽ quy định việc sử dụng các từ
thành phần khi chúng xuất hiện đơn lẻ và không phụ tḥc vào thành phần khác.
Các đặc tính điển hình khác của thành ngữ bao gồm tính hạn chế trong cú pháp,
ln biểu đạt các ý nghĩa bóng bẩy, có tính cách ngơn, mang tính khơng chính thức
và có tính tác đợng.
Evans và Green thì dùng thuật ngữ “đặc ngữ” (idiomatic expressions) khi nói
về các kết cấu có tính thành ngữ này. Evans và Green (2006; tr.643) lập luận rằng,
đặc ngữ (idiomatic expressions) là các biểu thức ngôn ngữ mà người nói khơng thể

tạo ra chỉ đơn giản bằng cách biết ngữ pháp và từ vựng của ngơn ngữ đó. Đây là lý
do tại sao mà các đặc ngữ được mơ tả như là mợt đơn vị ngơn ngữ có sẵn. Thay vào
đó, người nói phải nghiên cứu tồn thể biểu thức chứ không phải chỉ từng mục từ
vựng riêng lẽ.
Chúng tôi thiết nghĩ rằng, dựa trên quan điểm của các nhà nghiên cứu
NNHTN trên đây và dựa vào quan điểm của luận án về định nghĩa khái niệm của
kết cấu cớ định, chúng ta có thể thấy rằng, trong tiếng Anh, nợi hàm của kết cấu cớ
định có tính bao quát hơn nhiều so với các thuật ngữ có liên quan khác, bao gờm
thành ngữ và kết cấu có tính thành ngữ. Trong rất nhiều các cơng trình nghiên cứu
của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới hiện nay, mặc dù “idioms” là thuật ngữ được
sử dụng thông dụng nhất, nhưng các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa có mợt định nghĩa
thớng nhất hồn tồn về thành ngữ, đặc biệt là trong mối liên quan với các đơn vị
ngôn ngữ tương đồng khác (như phần trên luận án đã trình bày, Langlotz dùng thuật
ngữ “kết cấu có tính thành ngữ”; Kovecses cùng Croft và Cruse đều dùng thuật ngữ
“thành ngữ”; Evans và Green thì dùng thuật ngữ “đặc ngữ”; còn Geeraerts trong
Dirven & Pörings (2003; tr.435) dùng thuật ngữ “tổ hợp” (composite expressions).
Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, cách gọi tương đương trong tiếng Việt là “thành


23

ngữ” sẽ không phải là tuyệt đối; nếu gọi như vậy thì nó chỉ phản ánh mợt phần của
tri thức, mà chưa thể bao quát hết tất cả nội hàm của thuật ngữ.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu của luận án, đặc biệt là để có sự liên hệ một
cách chính xác giữa hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, trên cơ sở đó, tìm ra sự
tương đờng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ, hai nền văn hóa, mợt u cầu đặt ra cho
luận án là cần có mợt định nghĩa tương đới hồn chỉnh về kết cấu cố định theo quan
điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Chúng tôi, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và dựa
trên quan điểm của các nhà nghiên cứu NNHTN ở trên đây, đặc biệt là quan điểm
của Evans và Green, đưa ra một quan điểm như sau về khái niệm của kết cấu cố

định trong ngôn ngữ học tri nhận:
“Kết cấu cố định là một đơn vị ngôn ngữ cho sẵn, có tính tổ chức cao và chặt
chẽ bao gồm hai hoặc nhiều mục từ và được cấu trúc thành một cụm từ hoặc mệnh
đề, có những đặc tính riêng biệt về mặt cấu trúc. Ngữ nghĩa của kết cấu cớ định
mang tính bóng bẩy, về nguồn gớc là khơng mang tính sắp xếp. Ngoài ra, kết cấu cớ
định có hình thức ổn định và có trật tự rất bị hạn chế trong sắp đặt”.
1.2.3.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của kết cấu cố định
Langlotz (2006; tr. 4) cho rằng, ngữ nghĩa của các kết cấu cố định không chỉ
được tạo ra từ ngữ nghĩa của các thành tố riêng lẻ mà còn là nét nghĩa toàn diện của
cả cấu trúc. Mối quan hệ giữa ngữ nghĩa tổng quát của cả kết cấu với ngữ nghĩa của
từng thành tố cộng lại được phản ánh qua mơ hình bóng bẩy hóa ngữ nghĩa gồm hai
giai đoạn: đầu tiên là sự tổng hợp các ngữ nghĩa riêng lẻ của từng thành tố cợng lại
và tiếp theo đó là quá trình mở rợng ngữ nghĩa của cả cấu trúc dựa trên các công cụ
biểu trưng hoá bao gồm ADYN và HDYN.
Còn theo Geeraerts trong Dirven và Pörings (2003; tr.435-436), ngữ nghĩa của
kết cấu cớ định có tính thành ngữ được hình thành qua hai giai đoạn: giai đoạn một
là giai đoạn mà nghĩa đen được tạo thành, nói cách khác, ngữ nghĩa của kết cấu
được hình thành dựa trên sự kết hợp nghĩa của từng thành tớ trong kết cấu đó. Ở
giai đoạn tiếp theo, nghĩa đen này sẽ được kích hoạt trong mới liên hợi giữa ngữ
nghĩa của tồn bợ cấu trúc với ngữ nghĩa của từng thành phần của kết cấu, trong đó
có vai trò quan trọng của các cơ chế tri nhận bao gồm ADYN, HDYN, tri nhận
nghiệm thân và mơ hình văn hóa. Geeraerts, Dirven và Pưrings (2003; tr.438), đề
xuất mơ hình lăng trụ (xem hình 1.1) để mơ tả các mới quan hệ và quá trình tạo
nghĩa của một kết cấu cố định. Nội hàm của thuật ngữ này được giải thích như sau.
Thứ nhất, phạm vi các mối quan hệ ngang và quan hệ dọc của kết cấu cớ định có


24

tính hai chiều. Trong quan hệ theo chiều ngang, đầu tiên sẽ là sự liên hệ giữa ngữ

nghĩa gốc (nghĩa đen) với ngữ nghĩa phát sinh (nghĩa bóng) của tồn bợ kết cấu; sau
đó sẽ là mới liên hệ giữa ngữ nghĩa gốc của từng thành tố trong kết cấu với nghĩa
bóng của chúng vừa phát sinh. Trong quan hệ theo chiều dọc, đầu tiên sẽ có sự liên
hệ về ngữ nghĩa giữa từng thành tố trong kết cấu; sau đó sẽ là mới liên hệ ngữ nghĩa
của tồn bợ kết cấu và tất nhiên là trên cả hai mặt, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

4
1
5
2

6

3

Hình 1.1. Mơ hình lăng trụ về mới quan hệ và quá trình tạo nghĩa
của kết cấu cớ định (dẫn trong Dirven và Pưrings (2003; tr.438))
1. Toàn bộ kết cấu theo nghĩa đen; 2. Yếu tố thứ nhất trong kết cấu theo nghĩa
đen; 3. Yếu tố thứ hai trong kết cấu theo nghĩa đen; 4. Toàn bộ kết cấu theo nghĩa
phái sinh; 5. Yếu tố thứ nhất trong kết cấu theo nghĩa phái sinh; 6. Yếu tố thứ hai
trong kết cấu theo nghĩa phái sinh
1.2.3.3. Các mơ hình ý niệm qút định cấu trúc ngữ nghĩa của kết cấu cố định
Kovecses (2010; tr. 233) cho rằng, hầu hết các thành ngữ đều là sản phẩm của
hệ thống ý niệm của chúng ta và chúng không đơn giản chỉ là một vấn đề thuộc từ
vựng học. Một thành ngữ không đơn thuần chỉ là một biểu thức có mới quan hệ ý
nghĩa đặc biệt với ngữ nghĩa của các bợ phận cấu thành của nó mà là nó phải được
sinh ra từ tri thức tổng quát của chúng ta về thế giới, cái mà được nghiệm thân trong
hệ thớng ý niệm của chúng ta; nói cách khác, thành ngữ (hoặc ít nhất phần lớn trong
số chúng) về mặt bản chất là mang tính ý niệm. Nếu vậy, chúng ta có thể dựa vào tri
thức này để hiểu được ngữ nghĩa của thành ngữ. Vì lý do đó, chúng ta cần nhận

thức được rằng, ngữ nghĩa của thành ngữ cần được kích hoạt chứ không phải là tùy
tiện; tri thức tổng quát của chúng ta về thế giới sẽ kích hoạt cho ý nghĩa phổ quát
của thành ngữ. Kovecses cũng nhấn mạnh thêm rằng, trong hầu hết các thành ngữ,
từ vựng có thể được kích hoạt là nhờ vào những cơ chế tri nhận bao gồm phép ẩn
dụ, hoán dụ và tri thức có tính quy ước cái mà có vai trò quyết định của yếu tớ văn hóa.


25

 Ẩn dụ ý niệm (Conceptual metaphor)
Kovecses (2010; tr. 234) đưa ra quan điểm cho rằng, ẩn dụ ý niệm (ADYN) sẽ
phát huy hiệu quả cho sự kết nối giữa hai miền tri thức nguồn và đích; chúng được
xem như là nguồn ý niệm để thúc đẩy cho việc kích hoạt từng thành tớ trong kết cấu
cớ định. Nhờ có mối liên hệ mà chúng thực hiện trong hệ thống ý niệm, ADYN cho
phép chúng ta sử dụng các ý niệm của miền nguồn để ánh xạ đến một ý niệm khác
trong miền đích. Nói cách khác, ngữ nghĩa của kết cấu cố định sẽ phụ thuộc vào và
không thể tách rời khỏi hệ thống ADYN, cái mà về mặt bản chất là hệ thống các
ánh xạ từ miền nguồn lên miền đích xảy ra trong nội bộ của kết cấu đó.
Barcelona (2003; tr.9) đưa ra mợt định nghĩa như sau về ADYN: “ADYN là sự
ánh xạ của một miền lên trên một miền khác, cả hai đều phải theo quy ước và có
chủ thức và được xem như là những miền tách biệt, không bao gồm miền tổng thể
chung (the same superordinate domain). Khi chúng ta nói rằng ADYN là sự ánh xạ
giữa hai miền riêng biệt, điều đó có nghĩa là hai miền này phải được xem xét riêng
biệt mợt cách có chủ thức.
Theo Lakoff và Johnson (2003), ADYN được chia ra làm ba loại: ADYN cấu
trúc, ADYN bản thể và ADYN định hướng. Luận án trình bày sơ lược về ba loại
ADYN đó như sau:
Ẩn dụ ý niệm cấu trúc
Lakoff và Johnson (2003; tr.7-13) cho rằng, ADYN cấu trúc cung cấp cho hệ
thống tri nhận của chúng ta hàng loạt những ánh xạ được tổ chức theo hệ thống từ

miền nguồn lên miền đích, cái mà trên cơ sở đó chúng ta có thể tri nhận được các
miền đích khác nhau, đặc biệt là những miền đích trừu tượng. Ẩn dụ ý niệm cấu
trúc cũng có cơ sở từ những trải nghiệm nghiệm thân của con người đối với thế giới
khách quan. Lakoff và Johnson cũng nhấn mạnh rằng trong một ánh xạ ADYN
không phải tất cả những thành tố cấu thành của miền nguồn đều được ánh xạ hết lên
miền đích. Bản chất của một ADYN là hiểu một đối tượng này trên cơ sở đặc điểm
của một đối tượng khác; tuy nhiên, để gia tăng sự tập trung và tính khu biệt cho các
ý niệm thì chỉ có mợt sớ các đặc điểm của miền nguồn được lựa chọn để ánh xạ lên
miền đích chứ không phải là tất cả; các đặc điểm phụ trợ hoặc khơng có tính tiêu
biểu ở miền ng̀n sẽ được dấu đi và không được ánh xạ lên miền đích. Mợt điểm
đáng chú ý nữa là, ADYN có tính hệ thống và do vậy các ánh xạ ý niệm cũng mang
tính hệ thống. Các tiểu phạm trù trong miền nguồn được lựa chọn ánh xạ lên miền


×